1. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    1. NHỮNG TÀI LIỆU VÔ GIÁ

    Năm 2004, Bảo tàng Anh quốc công bố tấm bản đồ sao cổ hoàn chỉnh nhất thế giới, tìm thấy ở Đôn Hoàng, Trung Quốc năm 1907, được làm vào đời Đường, khoảng năm 600(1). Tấm bản đồ là một cuộn giấy rộng 25cm, dài 2,1m vẽ và chú thích tên chi tiết bằng tiếng Hán 1345 ngôi sao, phân thành 257 chòm. Cho đến tận thời Phục Hưng ở châu Âu, trước khi có kính thiên văn, chưa bao giờ có một bản đồ sao chính xác và chi tiết đến thế. Trong đó có nhiều ngôi sao gần như không thể thấy được bằng mắt thường.

    [​IMG]
    Một phần bản đồ sao Đôn Hoàng (đời Đường, thế kỷ VII)



    Đây là sự kiện thú vị với những nhà khảo cổ, nhưng thực ra không lạ đối với các nhà thiên văn học, bởi từ thời thượng cổ, những người phương Đông, mà cụ thể là người Trung Hoa đã hình thành và phát triển khoa học thiên văn với trình độ rất cao mà những thành tựu đã được ghi nhận cho đến ngày nay.

    Với đặc trưng nền nông nghiệp lúa nước, có thể nói mọi người nông dân đồng bằng Hoàng Hà đều đã là những người quan sát tự nguyện để phục vụ việc canh tác. Khi các hình thức nhà nước được thiết lập, vì mê tín và muốn củng cố địa vị “con trời”, nên một trong những việc đầu tiên của các vị Thiên tử là tập hợp những người có kiến thức thiên văn phù trợ cho mình trong việc mong muốn tìm hiểu ý trời. Ngay từ khoảng năm 2000 trước Công nguyên (TCN), các đài quan sát thiên tượng đã được dựng ở kinh đô các quốc gia sơ khai. Lúc Tần Thủy Hoàng lên ngôi (221 TCN), đã ra lệnh đốt sách Nho giáo và các tư tưởng. Tuy sách thiên văn thuộc về bói toán, nằm ngòai danh sách phải hủy, nhưng cũng rất nhiều quyển đã chịu chung số phận, nên những gì còn lại về thời trước đời Tần chỉ rất rời rạc và hạn chế. Sau đó chính Tần Thủy Hoàng cũng trọng dụng ngay 300 người làm nghề xem sao. Dù lúc đầu chỉ là xem sao, tính lịch và bói toán, nhưng dần dần với thiên hướng ghi chép lại mọi sự vật hiện tượng diễn ra, các chiêm tinh gia đã chuyển thành nhà thiên văn học, đứng đầu là các quan Thái sử, đảm nhiệm chép sử, xem thiên tượng, làm lịch, tính ngày, xem địa lý và cả khí tượng.

    Các ý kiến về quan sát thiên văn sớm nhất ở Trung Hoa không thống nhất. Có người đẩy về tận năm 6000 TCN, mà dấu tích còn lại trên một vài vách đá, hoặc một số bài thơ truyền miệng. Đa số cho rằng nó vào khoảng thế kỷ 24 TCN, với dấu tích là các giáp cốt văn (ghi trên xương thú, mai rùa). Các ghi chép bắt đầu rõ ràng vào khoảng đời nhà Thương - 1500 TCN. Thời điểm này có có ý kiến là do có sự giao lưu với văn hóa Babylon, tuy nhiên trong khi nền văn hóa Babylon gần như không còn để lại dấu tích nào về thiên văn, thì người Trung Hoa lại gìn giữ những ghi chép liên tục cho đến tận ngày nay.

    Trước sự hốn độn, không thống nhất, không đối xứng của các vì sao, người Trung Hoa gọi bầu trời nói chung là Hỗn Thiên. Từ Thiên Văn mà ta dùng ngày nay, mang nghĩa “Hình tượng trên bầu trời”.

    [​IMG]
    Bản dập Thiên Văn đồ - 1247

    Trước khi có phát hiện về bản đồ sao Đôn Hoàng, bản đồ sao hoàn chỉnh sớm nhất của loài người được ghi nhận là bản đồ sao đời Bắc Tống, vẽ vào thời Nguyên Phong (1078 - 85), được khắc lên bia đá năm 1247, đặt trong khu đền Khổng Tử, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Trên tấm bia Thiên Văn đồ đó chia rõ phương vị, cung độ, gồm 1434 vì sao được chia thành các chòm, có đủ Hoàng đạo, Thiên xích đạo, Ngân hà. Bên dưới là bài văn bia 209 chữ chép rõ về các kiến thức thiên văn.

    Cho đến triều Thanh, người Trung Hoa đã quan sát và ghi lại khoảng 3000 ngôi sao có cấp độ sáng từ 6 trở lên, phân thành 283 chòm sao. Khác với các chòm sao của Hy Lạp đặt tên theo các vị thần hoặc anh hùng thần thoại, các chòm sao ở phương Đông mang tên tất cả những gì thuộc về cuộc sống; từ tên các chức tước trong triều đình, tên các vùng đất, các nghề nghiệp, cho đến con vật như trâu bò, đồ vật như cái cày, cái đấu. Họ không giải thích các hiện tượng, mà chỉ đơn giản là quan sát và ghi nhận chúng, coi đó là khách quan của “Trời”.

    Trong khoảng thời gian từ 12 tháng 12 năm 146 TCN cho đến 3 tháng 2 năm 1761 các quan sát thiên văn liên tục của Trung Hoa đã ghi lại thời gian, đặc điểm 173 hiện tượng rất đặc biệt trên bầu trời, gồm 66 lần Nhật thực, 83 hiện tượng bùng nổ của các ngôi sao, 24 hiện tượng khác. Tất cả các quan sát đó đã được thiên văn học hiện đại kiểm chứng, và không có trường hợp nào sai lệch.

    Hiện tượng Nhật thực lần đầu tiên được ghi lại là vào năm 2136 TCN:

    “Năm thứ 5 đời Trọng Khang nhà Hạ, mùa thu, hạ tuần tháng 9, ngày Canh Tuất, có hiện tượng Nhật thực” (2)

    Khi có Nhật thực, người Trung Hoa tin rằng đó là do mặt trời bị ăn mất (thực - ăn), nên làm lễ cầu nguyện, cúng bái, dùng âm thanh để “xua đuổi quái vật ăn mặt trời”. Hiện tượng Nguyệt thực thường xảy ra hơn, nên cũng ít được chú ý hơn. Lần ghi chép về nguyệt thực đầu tiên là năm 1065 TCN. Sau đó họ ghi lại khoảng 1000 lần nguyệt thực nữa cho đến cuối triều Thanh.

    Một tài liệu đời Tây Hán (TK 2 TCN) tìm được năm 1973 ghi rõ chu kỳ của Sao Kim là 584,4 ngày, Sao Mộc là 377 ngày, Sao Thổ là 594,4 ngày, chỉ sai lệch so với kết quả tính toán hiện đại chưa đến 0,3 ngày. Đời Hán Cao Tổ, hiện tượng 5 hành tinh của Hệ mặt trời ở vị trí thẳng hàng đã được gọi là “Chuỗi ngọc 5 sao”. Vào khoảng năm 484 TCN, các tính toán cũng xác định độ dài chính xác của một năm là 365,25 ngày, là cơ sở cho việc đặt hệ thống Âm-dương lịch khá hoàn chỉnh. Hệ thống lịch này được điều chỉnh một số lần, càng về sau càng chính xác.

    [​IMG]
    Tuệ tinh (Sao chổi) được quan sát sớm nhất thế giới, từ năm 613 TCN. Trong một lăng mộ cổ từ thế kỷ 5 TCN được khai quật năm 1973 có cuộn lụa vẽ lại 29 ngôi sao chổi, thành quả quan sát hơn 300 năm. Trong đó có ngôi có 2 đuôi, ngôi có đuôi thẳng và dài, có ngôi lại có đuôi móc câu. Họ cũng nhận xét là hầu hết các sao chổi có đuôi bay ngược chiều mặt trời, và cho rằng đó là Thiên khí từ mặt trời thổi ra.

    Ngôi sao chổi Halley xuất hiện năm 240 TCN (năm thứ 7 đời Tần Thủy Hoàng) đã quay lại vào năm 164 TCN, rồi lại được nhìn thấy vào những năm sau đó, đã giúp các nhà thiên văn Trung Hoa tìm ra chu kỳ 76 năm của nó. Thực ra quan sát thấy sao chổi đầu tiên năm 613 TCN (ghi trong Kinh Xuân thu) chính là Halley, nhưng bị gián đoạn. Quĩ đạo của hơn 40 sao chổi đã từng xuất hiện cũng được ghi lại cẩn thận trong các bản đồ cổ, đặc biệt năm 600, một sao chổi được ghi lại là “sáng như mặt trăng”. Trong toàn bộ thời phong kiến, từ thời Ân đến 1911, có 360 văn bản ghi lại sự xuất hiện của sao chổi, trong đó sao chổi Halley là 31 lần.

    Một quan sát đặc biệt quan trọng của người Trung Hoa đó là sao Khách – những vì sao sáng rực lên trong một thời gian ngắn rồi tối đi, giống như người khách qua đường. Ngày nay ta gọi đó là các Siêu tân tinh. Quan sát đầu tiên trên thế giới của họ được ghi lại là năm 14 TCN.

    [​IMG]
    Crab Nebula ngày nay

    Hiện tượng nổi tiếng nhất là vào đời nhà Tống. Ngày 4 tháng 6 năm 1054, một ngôi sao bống rực sáng trên bầu trời phía đông, thậm chí thấy rõ trong ánh sáng ban ngày suốt 23 ngày khiến người Trung Hoa kinh hoàng. Các quan khâm thiên quan sát suốt ngày đêm không nghỉ, cho đến khi nó tối hẳn vào cuối tháng 4 năm 1056, sau 643 ngày bùng nổ. Vị trí của nó ở gần Hoàng đạo và sao Tất (Zeta Taurius), ngày nay Siêu tân tinh đó được biết đến dưới cái tên Crab Nebula, và đến năm 1968 vẫn còn tiếp tục phun vật chất vào vũ trụ.

    Năm 2001, các nhà thiên văn NASA đã có bằng chứng về một sao pulsar trong chòm Sagittaurius, tại đúng vị trí mà năm 386 người Trung Quốc đã ghi nhận là có hiện tượng bùng nổ của một siêu tân tinh rất lớn. Đây là ngôi sao pulsar thứ hai được tính chính xác tuổi là 1615 năm cho đến thời điểm được phát hiện.

    Ngoài ra, Trung Hoa cũng là nơi đầu tiên phát hiện về Vết mặt trời và ghi chép mưa thiên thạch. Quan sát đầu tiên là vào thế kỷ 4 TCN, tiếp theo là vào năm 165 TCN, vết đen được ghi lại là có hình chữ Vương, và cho đến năm 1638, họ ghi lại 112 lần hiện tượng này. Khi đó họ đoán là có ngôi sao nào đó xuất hiện trên mặt trời. Những quan sát tương tự ở châu Âu đến năm 807 mới có. Hiện tượng quầng lửa trên mặt trời cũng được quan sát thấy, họ mô tả mặt trời căng phồng lên, những đốm lửa bùng lên.

    Tuy vậy, trong các văn bản cổ, cũng có những sai lệch. Đặc biệt là có khoảng 10 chỗ phi lý đến đáng ngờ. Cuối cùng các nhà khoa học cũng tìm ra được nguyên nhân. Đó là sự sai lệch có chủ ý của các quan thiên văn. Khi biết vua chúa thường tin vào các điềm báo của bầu trời, họ đã cố tình sửa các quan sát của mình để trục lợi. Chẳng hạn, đời Hán Thành đế, quan khâm thiên được đút lót đã thay sao Thương vào vị trí Hỏa Tinh, và tuyên bố sắp có kẻ mưu sát vua, khiến ông vua mê tín đã xuống tay hạ sát mấy vị đại thần. Tương tự như vậy, sao Thiên Lang – vốn được coi là nơi thể hiện điềm báo – thường được gán cho các màu sắc đặc biệt để báo trước tai họa hay phúc lành, dù rằng ngôi sao sáng nhất bầu trời này không bao giờ thay đổi màu sắc. Những sai lệch này có nguyên nhân chính trị và mê tín hơn là do quan sát.

    [​IMG]
    Hỗn Thiên Nhất thống Tinh tượng Toàn đồ - 1500

    Việc sử dụng Thiên tượng như là điềm báo trước rất phổ biến, đặc biệt cho triều đình phong kiến, nên nó được lợi dụng không ít lần. Các hiện tượng sao Chổi, Nhật thực, sao Khách đều gây xáo trộn nhất định. Nhưng cũng vì thế mà nó được ghi chép lại rất tỉ mỉ, để lại cho đời sau những tài liệu vô giá.

    Cùng với các quan sát tỉ mỉ, các hệ thống công trình cũng được triều đình cho xây dựng. Đầu công nguyên, nhà Hán đã xây dựng một loạt đài thiên văn dọc theo Trường thành để đo thời gian và chuyển động của các thiên thể. Theo một số học giả thì hệ thống các đài định vị này còn mở rộng khắp đất Trung quốc, xuống tận miền nam đến Việt Nam, thậm chí cột đồng Mã Viện cũng chỉ là cột định vị của hệ thống này (Trần Đai Sĩ, 2001). Thậm chí có tài liệu viết rằng vào khoảng năm 721-725, dưới thời Đường, một hệ thống cột định vị (gnomon) được dựng theo hướng Bắc - Nam, cận nam từ tận miền Trung Việt Nam, cực bắc lên đến sát Trường Thành. Cột đồng lớn nhất được dựng năm 1276 đời Tống, cao đến 12 m.

    Do nhận ra chu kỳ quay tròn của bầu trời, người Trung Hoa cũng chia vòng tròn thiên cầu thành các độ, tuy nhiên độ này ứng với các ngày trong năm, nên một vòng tròn có 365 và ¼ độ. Vào đầu công nguyên họ cũng tính ra độ dài của 1 cung kinh độ là khoảng 155 km, đến đời Đường (TK 7) họ tính lại là 123.7 km (thực tế khoảng 111 km)

    Cũng như nhiều kiến thức khoa học, Thiên văn học cũng chịu sự tác động qua lại của các nền văn minh khác. Sự tác động sớm nhất là thiên văn Babylon, thông qua con đường tơ lụa (khoảng thế kỷ 1, 2 TCN), sau đó chịu ảnh hưởng rất mạnh của Ấn Độ, thông qua Phật giáo (đầu CN). Đến cuối TK 13 thì tư tưởng thiên văn Hồi giáo truyền vào cùng với sự bành trướng của đế quốc Nguyên Mông, và thế kỷ 16 là thiên văn phương Tây, theo chân các nhà truyền giáo. Những công trình thiên văn cổ của Trung Quốc tại Bắc Kinh còn lại ngày nay được xây dựng trong triều Minh và Thanh. Đến triều Thanh thì lịch pháp đã dựa rất nhiều vào kiến thức phương Tây, và các đài thiên văn đều có bàn tay của giáo sĩ nước ngoài.
    Những công trình cổ còn lại

    Công trình cổ sớm nhất còn lại hiện nay là đài thiên văn ở Nam Kinh, được thiết kế và xây dựng vào những năm 1231-1314 đời Tống. Cùng thời đó nhà Tống còn cho xây thêm 4 đài thiên văn nữa rải rác khắp đất nước. Thiên Văn đồ cũng được vẽ và khắc vào giai đoạn này. Sau này một số thiết bị quan trắc được dựng tại đài Nam Kinh theo bản vẽ cổ.

    [​IMG]
    Đài thiên văn Nam Kinh

    Năm 1442, triều đình nhà Minh cho xây tại Bắc Kinh đài thiên văn bằng đá cao 14 m, trên đó có các thiết bị bằng đồng dành cho quan sát thiên tượng, gồm các vòng tròn dựng trên giá gồm những con rồng, một cột đồng đo bóng mặt trời để tính thời gian, và một thiên cầu. Trong những năm sau đó, các thiết bị dùng để vẽ lại vị trí các thiên thể được thêm vào.

    [​IMG]
    Toàn cảnh đài thiên văn Bắc Kinh



    [​IMG]
    Các thiết bị trên đài thiên văn Bắc Kinh, gồm 1 thiên cầu, 2 khung thiên nghi, 3 khung đo góc, 1 cột đo bóng. Hai thiết bị từ đời Minh 1439, sáu thiết bị còn lại đời Thanh 1763.


    Đến triều nhà Thanh (1673), những thiết bị dùng để đo góc giữa các vì sao làm bằng đồng chạm khắc cầu kỳ được dựng thêm lên. Khung hỗn thiên gồm thiên xích đạo, hoàng đạo, và một thiên cầu đường kính hơn 1 m chạm nổi các chòm sao, dùng để mô tả chuyển động của các hành tinh, tính toán thời gian.

    Những thiết bị này đều có giá đỡ là những con rồng, con vật huyền thoại thống lĩnh bầu trời. Công trình này có sự góp sức rất lớn của nhà truyền giáo Ferdinand Verbiest. Ngày nay đây là điểm tham quan hấp dẫn khách du lịch.

    Cùng với các phát minh quan trọng như La bàn, thuốc nổ, giấy và nghề in, những thành tựu nghiên cứu về thiên văn vũ trụ, lịch pháp, dù với mục đích nào, cũng đã để lại cho hậu thế những kho tri thức vô giá. Những kiến thức đó là chung cho nhân loại chứ không riêng quốc gia, dân tộc nào.

    ­­­­­

    (1) Theo tin Vnexpress: http://www.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/05/3B9D2329/

    (2) Tư liệu trên là do đời sau ghi lại, một số nhà nghiên cứu cho rằng không đáng tin cậy, và cho rằng lần ghi Nhật thực đầu tiên mãi đến năm 1300 TCN mới được thực hiện. Thông thường người Trung Hoa thường coi những ghi chép trên xương, mai rùa là văn bản chính thức, trong khi đó giới học giả phương Tây không phải lúc nào cũng đồng ý. Chẳng hạn có giáp cốt văn năm 1400 TCN ghi “Ngày thứ 7 trong tháng, có sao mới xuất hiện gần sao Tâm”, nhưng không được công nhận là ghi chép về Siêu tân tinh.

    (trích từ http://thienvanvietnam.com)
     
    Last edited by a moderator: 9 Tháng mười một 2006
  2. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Thiên văn học phương đông

    2. NHỮNG NHÀ THIÊN VĂN CỔ ĐẠI

    “Mỗi người nông dân đều là một nhà thiên văn nghiệp dư” – nhận xét đó không hẳn là quá đáng đối với những kiến thức thiên văn của cư dân Hoàng Hà. Tuy nhiên, để đạt đến trình độ mà thế giới phải ghi nhận, không thể không nhắc đến công lao của những nhà thiên văn chuyên nghiệp thực thụ, mà tác phẩm của họ còn đến ngày nay. Dưới đây giới thiệu một số người có nhiều thành quả nhất.

    Thạch Thị (350 TCN)

    Những nhà thiên văn học chuyên sâu đầu tiên được thực sự ghi nhận trong lịch sử Trung Hoa là từ thời Chiến quốc (400 - 200 TCN), trong đó nổi tiếng nhất là Thạch Thân. Trong Sử Ký rằng: Thạch Thân (khoảng 350 TCN) là nhà thiên văn lịch pháp của nước Vệ, đã viết các tác phẩm gồm: Thiên văn (8 chương), Thiên Văn Chiêm (8 quyển), Thạch thị Hỗn Thiên đồ (1 quyển), Thạch thị Kinh bạc Tinh chiêm (thường gọi là Thạch thị Tinh kinh bạc chiêm - 1 quyển). Tập bản đồ vẽ khoảng 800 ngôi sao chia theo 122 chòm, theo truyền thuyết thì 28 chòm đã được Vu Hàm đời nhà Thương phân định.

    Tuy nhiên, theo một số thuyết về sau, Thạch Thị là tên gọi chung cho một nhóm học giả thời đó chứ không phải chỉ 1 người. Thạch thị Tinh kinh bạc chiêm bị thất lạc trong những thế kỷ sau, chỉ còn một số đồ hình các vì sao của nó được sao chép lại trong các thư tịch khác, mà còn giữ đến nay là Khai nguyên Chiêm kinh (thời đại Khai Nguyên nhà Đường – 729). Một bản sao khác của cuốn sách hiện được dòng họ Wakasugi ở Tokyo – Nhật Bản gìn giữ.

    Cách giải thích các hiện tượng của Thạch thị không tránh khỏi những hạn chế, do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, chẳng hạn như đoạn sau: “Khi thiên tử sáng suốt, mặt trăng sẽ đi theo đúng hướng, khi thiên tử không minh, đại thần chiếm quyền, mặt trăng sẽ đi chệch đường”.

    Cùng thời với Thạch Thân là Cam Đức cũng là nhà thiên văn học, đã quan sát rất kỹ về các hiện tượng trên mặt trời, từ vết đen, vết trắng. Ông mô tả vết đen như đồng xu trên mặt trời, và giải thích Nhật thực chính là do vết đen ăn từ một phía ra, chiếm hết mặt trời.



    Tư Mã Thiên (145 – 87 TCN)

    Tư Mã Thiên - sử gia vĩ đại, đồng thời là một nhà thiên văn, địa lý kì tài thời thời Hán Vũ đế - đã dành hẳn một quyển là Thiên Quan thư để ghi chép về thiên văn, tập hợp kiến thức từ tiền nhân cũng như của bản thân ông. Tư Mã Thiên đã liệt kê hơn 1000 ngôi sao, cũng như ghi lại các hiện tượng đặc biệt của bầu trời. Thiên quan thư của ông là tác phẩm hoàn chỉnh sớm nhất còn đến nay, hầu như kết quả thiên văn trước đó đều được hệ thống lại, thêm vào đó là các kiến thức của bản thân ông. Những quan sát đó cho thấy những gì đã xảy ra hơn 2000 năm trước. Có thể ông đã tham khảo các bản của Thạch thị, nhưng những nhận xét đánh giá riêng của ông về Thiên tượng cũng có giá trị rất lớn, chẳng hạn trong việc phân chia màu sắc các sao .

    Kế tục Tư Mã Thiên, thái sử Ban Cố, tác giả bộ Hán Sử, cũng là một nhà thiên văn. Chính ông là người đã tìm ra chu kỳ 76 năm của sao chổi Halley, cũng như viết về quĩ đạo của các hành tinh. Tiếp theo ông, Đổng Trọng Thư cũng để lại dấu ấn của mình qua việc đoán được hiện tượng Nguyệt thực, thông qua việc tính toán từ các văn bản giáp cốt. Cho đến cuối thời Tam Quốc (200), các nhà thiên văn đã hệ thống lại các tài liệu, ghi lại tổng cộng 1464 sao trong 283 chòm.




    Trương Hoành (78 – 139)

    Đỉnh cao nhân loại về Thiên văn học cổ đại là Trương Hoành, đồng thời cũng là nhà địa lý, toán học, làm việc tại kinh đô Lạc Dương của nhà Hán. Sau nhiều năm dành cho nghiên cứu Text Box: Trương Hoành (Phóng tác)thiên văn, ông đã tìm ra quĩ đạo chính xác của 5 hành tinh trong Hệ mặt trời, ghi lại vị trí các sao được nhìn thấy bằng mắt thường. Những nhận định chính xác của ông về Hệ mặt trời khiến người thời đó không thể hiểu được. Ông cho rằng trái đất phải có hình tròn chứ không phải phẳng dẹt, bầu trời bao bọc bên ngoài, ánh trăng là phản chiếu của mặt trời, Nguyệt thực là do mặt trăng đi vào bóng của trái đất, và hình dáng tròn khuyết của mặt trăng là do góc độ nhìn khác nhau từ mặt đất.

    Trương Hoành viết hơn 20 tác phẩm, trong quyển Hỗn Thiên chú ông viết:
    “Trời tròn giống như quả trứng, mà Đất giống như lòng đỏ, nằm lơ lửng ở chính giữa, bầu trời lớn hơn bao bọc xung quanh”

    Còn trong tác phẩm thiên văn Linh Hiến, ông đã vẽ vị trí các chòm sao và viết:
    “Trong bầu trời từ Bắc đến Nam có 124 chòm sao, gồm 2500 ngôi sao tỏa sáng, trong đó 320 ngôi đã được đặt tên; đó là chưa kể những sao mà những người đi biển nhìn thấy. Kể cả những sao rất bé thì tổng số là 11.520 ngôi”.

    Đặc biệt nhất là ông đã chế tạo một dụng cụ quan trắc thiên văn là Hỗn Thiên Nghi. Theo Hán Sử, Hỗn thiên nghi gồm những vòng đồng có chia khoảng, một Thiên cầu bằng đồng. Đường Hoàng đạo của Thiên cầu lệch với xích đạo một góc 24 độ ( chỉ sai 0,5 độ so với thực tế). Một chiếc ống thẳng để nhìn giúp ông xác định vị trí các sao theo hướng không sai lệch và không bị ánh sáng khác ảnh hưởng. Nhờ đó, các ngôi sao được đo đạc vị trí chính xác, điều mà chưa ai làm được trước đó. Sau đó, ông còn dùng sức nước đẩy quả cầu quay, mô tả chuyển động các sao, hiện tượng tròn khuyết của mặt trăng và Nguyệt thực được giải thích chính xác.

    Một phần ra ngoài đề một chút, là các phát minh của Trương Hoành. Cũng giống như các nhà Thiên Văn học phương Tây thông thường là nhà Vật lý – Toán học, Trương Hoành còn có các phát minh trong nhiều lĩnh vực khác.

    [​IMG]
    Dụng cụ đo Địa chấn của Trương Hoành

    Một sáng chế đáng chú ý của ông là thiết bị đo động đất. Nó gồm một bình đồng, có những cơ cấu nhậy với độ rung ở trong, bên ngoài là 8 con rồng ngậm hờ một quả cầu ở miệng, bên dưới là 8 con cóc quay về 8 hướng. Nếu có chấn động, quả cầu sẽ rơi xuống, và tùy tiếng động to hay nhỏ mà đoán động đất mạnh hay yếu.

    Hậu Hán thư viết lại rằng: năm 138, khi thấy quả cầu ở phía tây rơi xuống, Trương Hoành đã vội yến kiến và trình với vua rằng có động đất ở phía tây Lạc Dương. Vào ngày hôm đó không có gì xảy ra ở kinh đô, khiến ông bị những quan lại khác chỉ trích. Nhưng 2 ngày sau thì có tin báo là có động đất mạnh ở 1000 dặm phía tây Lạc Dương. Sự kiện này gây xôn xao triều đình.

    Ông cũng là người đã nêu ra cách tính tỉ số pi (p) bằng căn bậc 2 của 10, sai số với thực tế là khoảng 0.02. Đáng tiếc là do nhiều nguyên nhân, chỉ còn rất ít trong số các công trình của ông còn lại đến nay.



    Tổ Xung Chi (429 – 501)
    Tổ Xung Chi là nhà toán học và Thiên văn – Lịch pháp thời Nam Bắc triều.
    Ông là người đã tính toán chính xác các ngày Hạ chí, Đông chí hàng năm thông qua việc đo độ dài bóng của một cây gậy cắm thẳng đứng trên mặt đất. Từ đó hình thành cơ sở cho việc tính một loại lịch mới chính xác hơn Âm-dương lịch mà các vị vua đang dùng. Năm 462, ông đưa ra loại lịch mới, tính được độ dài năm giữa hai lần Xuân phân kế tiếp là 365,24281481 ngày (sai lệch 50 giây so với tính toán hiện đại), và độ dài của tháng mặt trăng là 27,21233 ngày (lệch 9 giây). Ông phát hiện thấy sự tiến động của ngày Xuân phân khiến cho năm nhiệt đới ngắn hơn so với năm mặt trời thực 21 phút, cũng như thấy rằng sau 7 chu kỳ 12 năm, Sao Mộc lại dôi ra khoảng 1/20 quỹ đạo của nó.

    Phát hiện đặc biệt quan trọng của ông trong Toán học là cách tính p bằng phân số 355/113, chính xác đến 6 số thập phân, và khá giản tiện. Sau một đo đạc chính xác khác, ông tuyên bố một vòng tròn có đường kính 10 triệu trượng thì có chu vi lớn hơn 31.415.926 và nhỏ hơn 31.415.927 trượng (tức là 3,1412516 < p < 3,1415927). Tên của ông được đặt cho một ngọn núi trên Mặt trăng.

    Trong thời Đường, Nhất Hành là một hòa thượng, cũng được ghi nhận với kết quả tính toán độ dài một cung 1 độ trên kinh tuyến là 351,27 dặm (tương đương 123,7 km) Ông cũng dựng một thiên cầu ở Trường An, mô tả chuyển động các sao, và vẽ đường biểu kiến chuyển động các hành tinh và các ngôi sao rất xa một cách chính xác.


    Tô Tống
    Một nhà lịch pháp và thiên văn đời Tống là Tô Tống đã quan sát mặt trời, mặt trăng và các vì sao, tạo ra một chiếc đồng hồ thiên văn chạy Text Box: Tranh cổ mô tả đồng hồ Tô Tốngbằng nước rất tinh xảo. Trong Tống sử, sau khi đi sứ sang phía Tây và nhận ra sự khác biệt giữa cách tính ngày rằm giữa Trung hoa và một nước khác, ông về kinh năm 1090 và chế tạo chiếc đồng hồ thiên văn ở kinh đô Biện Lương. Chiếc đồng hồ thiên văn này cao gần 10m, ở tầng trên cùng có khung Hỗn thiên nghi và thiên cầu chạy bằng sức nước, dựa trên một hệ thống cơ khí rất phức tạp bên trong, cứ mỗi giờ lại có các tượng đồng gõ chuông, thiên cầu quay theo sự vận động của mặt trời mặt trăng. Theo ghi chép thì có đến hàng chục tượng đồng, vận hành hoàn toàn bằng sức nước.

    Tiếc rằng khi triều đại sau nối tiếp, ông vua mới đã không hiểu được ý nghĩa của phát minh trên, chiếc đồng hồ bị phá dỡ để lấy đồng.

    Ngày nay, ở Đài Loan vẫn còn trưng bày một phiên bản nhỏ hơn của chiếc đồng hồ Tô Tống.


    Nhất Hành (683 – 722)
    Nhất Hành là pháp hiệu của một hòa thượng đời Đường. Tại kinh đô Trường An khi đó ông cùng các đồ đệ đã dựng lên một Thiên cầu lớn được vận hành và chuyển động cùng với các thiên thể ban đêm trên bầu trời. Ông đã vẽ đường chuyển động của các hành tinh so với các vì sao khác một cách chính xác. Cho đến trước công trình của Halley năm 1718, đây là quỹ đạo chính xác nhất mà con người tìm ra

    Còn nhiều nhà Thiên văn – Lịch pháp nữa trong các triều đại sau, mà mỗi người đều để lại dấu ấn nhất định cho nền công việc nghiên cứu Vũ trụ, thiên nhiên. Những đóng góp của họ trong thời gian dài đã đem lại những kết quả lớn, đặc biệt trong việc tính lịch pháp.


    Thạch Thân: Shi Shen

    Thạch thị: Shi shi

    Tư Mã Thiên: Sima Qian

    Trương Hoành: Zhang Heng

    Tổ Xung Chi: Zu Chongzhi

    Tô Tống: Su Song

    (Trích từ http://thienvanvietnam.com)
     
  3. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Thiên văn học phương đông

    3. NGŨ HÀNH VÀ CAN CHI

    Thiên văn thời cổ thường gắn liền với thần thánh. Tuy nhiên người Trung Hoa đã khái quát cao hơn, khi gắn thiên văn với những tư tưởng mang tính triết học, mà Ngũ hành là một minh chứng.

    Tư tưởng cấu tạo vật chất của thế giới từ 5 yếu tố không phải là chỉ của riêng người Trung Hoa. Thần thoại Hy Lạp kể rằng thế giới được sinh ra từ Vực thẳm Khaox (Chaos - Hỗn mang) thể hiện thành 5 nguyên lý: Đất Gaia, Tối tăm Vĩnh cửu Erèbe, Đêm tối Nix, Địa ngục Tartar, và Tình yêu Erox. Triêt gia Aristole cho rằng 5 nguyên tố cơ bản của thế giới là Nước, Lửa, Đất, Không khí, Ánh sáng,... Nhưng có lẽ không bộ 5 yếu tố nào lại có tính triết lý cao như Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ của Trung Hoa. Bộ 5 này được hình thành có lẽ từ 5 ngón tay của con người, cũng tựa như cơ số 10 trong hệ đếm.

    Thuyết này xuất hiện từ đời nhà Tần (200 TCN), được củng cố phát triển trong thời Tây Hán. Lúc đầu 5 yếu tố là cấu tạo cụ thể, với các tính chất cụ thể:

    Kim: kim loại, cứng rắn, lạnh, cương mãnh, bền chắc

    Mộc: gỗ, cây, sống, tăng trưởng, dẻo dai, chịu đựng

    Thủy: nước, mềm mại, nhu thuận, sâu hiểm

    Hỏa: lửa, nóng, sáng, linh hoạt, sáng tạo

    Thổ: đất, đầy đặn, chịu đựng, nguồn của sinh sôi

    Nhưng rồi chúng được Triết lý hóa, trở thành Ngũ hành – 5 nguyên lý cơ bản của vật chất, gắn kết với mọi trạng thái triết lý từ Vật chất đến tinh thần

    Hành Kim: màu Trắng phương Tây mùa thu Mũi Phế (phổi)

    Hành Mộc: màu Xanh phương Đông mùa xuân Mắt Can (gan)

    Hành Thủy: màu Đen phương Bắc mùa đông Tai Thận

    Hành Hỏa: màu Đỏ phương Nam mùa hạ Lưỡi Tâm (tim)

    Hành Thổ: màu Vàng phương Trung ương (không) Miệng Tỳ


    [​IMG]
    Việc gắn phương hướng với các mùa và với Ngũ hành liên quan nhiều đến Thiên Văn. Người Trung hoa nhận thấy vào mùa Xuân thì đuôi của chòm sao Bắc Đẩu chỉ về phía Đông, mùa Thu chỉ về phía Tây, nên tương ứng mùa và phương. Như vậy chòm Bắc Đẩu thất tinh không phải chỉ là xác định phía Bắc, mà còn là sao chỉ phương và mùa trong văn hóa Trung Hoa.


    Hai quy luật tương tác biến dịch quan trọng là tương sinh và tương khắc trở thành nền tư duy cho nhiều học thuyết (tuy nhiên sẽ không xét kỹ ở đây, mà chỉ đi vào khía cạnh Thiên văn)



    Tương Sinh: Mộc sinh Hỏa - Hỏa sinh Thổ - Thổ sinh Kim - Kim sinh Thủy - Thủy sinh Mộc.

    Tương Khắc: Mộc khắc Thổ - Thổ khắc Thủy - Thủy khắc Hỏa - Hỏa khắc Kim - Kim khắc Mộc



    Về sau tư tưởng Ngũ hành được gán cho rất nhiều ý nghĩa, đi rất xa với tư tưởng gốc ban đầu. Cứ bộ 5 nào cũng thành Ngũ hành hết, chẳng hạn lý thuyết: Cái sinh Ta, cái Khắc Ta, Ta, cái Ta sinh, cái Ta khắc,…



    Dựa trên tư tưởng Ngũ hành, năm sắc độ sáng của các ngôi sao được phân chia (từ nguội đến nóng) là Đen – Đỏ - Vàng – Trắng – Xanh.



    Trên thực tế, các ngôi sao có màu sắc gần đúng như cách phân chia này:

    Nhiệt độ bề mặt dưới 2000 độ C, sao màu đỏ tối, chỉ phát bức xạ, gần như không nhìn thấy

    Nhiệt độ bề mặt 2000-5000 độ C, sao màu đỏ

    Nhiệt độ bề mặt 6000-9000 độ C, sao màu vàng

    Nhiệt độ bề mặt 10,000-15,000 độ C, sao màu trắng

    Nhiệt độ cao hơn nữa, hơn 20,000 độ C, màu xanh

    Mặt trời của chúng ta là ngôi sao trung bình màu vàng, nhiệt độ bề mặt khoảng 6500 độ, ứng với màu của hành Thổ



    Trong Thiên Quan thư, Tư Mã Thiên viết:



    “Muốn xem sắc trắng của tinh tú, hãy nhìn sao Thiên Lang; muốn xem sắc đỏ, hãy nhìn sao Tâm, muốn xem sắc vàng, hãy nhìn sao Sâm Tả, xem sắc xanh hãy nhìn sao Sâm Hữu, sắc đen thì nhìn sao Khuê“



    Cách phân chia đó khá đúng về màu sắc:

    Sao Thiên Lang (sao Sirius - chòm Canis Major), là ngôi sao đôi sáng chói nhất bầu trời

    Sao Tâm hay sao Thương (sao Antares – chòm Scorpius) có quang phổ M0, màu đỏ rất rõ

    Sao bên phải sao sao Sâm (sao Rigel - b chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 7 bầu trời, quang phổ B2 màu xanh.

    Sao Khuê (sao d - chòm Andromeda) quang phổ M0 đỏ tối, trong con mắt Tư Mã Thiên là đen.

    [​IMG]
    Sao Antares chòm Scorpius (sao Tâm Tú trong chòm Tâm, khu vực Thần Nông), ngôi sao có ánh sáng đỏ rực không kém gì Sao Hỏa.

    [​IMG]
    Sao Sirius trong Canis Major (sao Thiên Lang), ngôi sao có ánh trắng xanh, sáng nhất bầu trời. Tư Mã Thiên lấy ánh sáng này đại diện cho sắc trắng.


    [​IMG]
    Chòm Orion (tương ứng với Chủy và Sâm). Sao Betelgeuse phía trên bên trái, sau 2000 năm đã chuyển từ sắc vàng sang đỏ. Sao Rigel phía dưới bên phải tượng trưng cho sắc xanh.Chỉ có Sao bên trái sao Sâm (sao Betelgeuse – a chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 10 trên bầu trời, và là một trong thiên thể lớn nhất bầu trời quan sát thấy, mà dưới thời Tư Mã Thiên là màu vàng, thì ngày nay là ngôi sao rất lớn màu đỏ. Nghĩa là sau 2000 năm, ngôi sao đó đã nguội đi. Đó là hiện tượng nguội sao duy nhất mà loài người quan sát được trong lịch sử.



    Và người Trung Hoa dùng Ngũ hành để đặt tên cho các hành tinh mà họ quan sát được, theo thứ tự từ mặt trời ra ngoài là Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thổ tinh. Chính các hành tinh này và chu kì chuyển động của chúng là cơ sở tạo nên hệ đếm Can Chi.




    Thiên Can Địa Chi



    Can Chi chủ yếu dùng trong Lịch pháp, nhưng cũng có cơ sở từ quan sát Thiên Văn. Có lẽ do nằm ở vĩ độ cao, ngày Hạ chí mặt trời không thẳng đứng trên đỉnh đầu, cùng với việc canh tác nông nghiệp ít liên quan đến mặt trời hơn, nên Lịch pháp Trung hoa dựa vào Mặt trăng là chính. Việc dùng Can Chi tính ngày tháng đã xuất hiện vào cuối đời Thương (TK 12 TCN), việc gán tên con vật vào thì phải đến đầu công nguyên mới thực hiện.



    Khi quan sát quĩ đạo các hành tinh, họ lấy Bắc thiên cực làm gốc, rồi dựa theo 8 cung Bát quái (1) để xác định tọa độ. Sau rất nhiều năm quan sát và ghi chép lại, họ đưa ra các nhận xét của mình. Một số nhận xét về chu kỳ (trở về vị trí cũ trên bầu trời) của các Hành tinh như sau:



    Sao Thủy: khoảng ¼ năm

    Sao Kim khoảng 0,6 năm

    Sao Hỏa khoảng 2 năm

    Sao Mộc khoảng 12 năm

    Sao Thổ khoảng 30 năm.



    Các nhà làm lịch đã dùng 3 hành tinh là Hỏa, Mộc, Thổ làm chuẩn, bội số chung nhỏ nhất là 60, hay phải sau khoảng 60 năm, các hành tinh trên mới có được vị trí (tương đối với nhau) gần giống như cũ. Sao Hỏa sau 1 năm lại chuyển sang vị trí đối diện, rồi 1 năm sau lại về vị trí cũ, trở thành sao làm chuẩn cho chu kì 1 năm Âm 1 năm Dương. Sao Mộc có chu kỳ 12 năm được lấy làm chuẩn để tính năm, nên gọi là Tuế Tinh. Sao Thổ lâu nhất, gọi là Thiên Can.



    Sau khi kết hợp cả thuyết Ngũ hành và Âm Dương, thì con số 5 được chia 2, thành 10 Can, ứng với Ngũ hành, mỗi hành 1 Âm 1 Dương, còn 12 năm của Tuế Tinh thành Chi. Can Chi ra đời còn muộn hơn Ngũ hành, và càng muộn hơn thuyết Âm Dương, mãi khoảng đầu công nguyên mới có.



    Can (cán – thân cây) gồm: Giáp – Ất – Bính – Đinh – Mậu – Kỷ - Canh – Tân – Nhâm – Quý

    Chi (cành cây), gồm: Tí – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ – Ngọ - Mùi – Thân – Dậu – Tuất – Hợi



    Trong đó: Giáp + Ất là là hành Mộc, Bính + Đinh là Hỏa, Mậu + Kỷ là Thổ, Canh + Tân là Kim, Nhâm + Quý là Thủy, cứ 1 âm 1 dương đổi nhau.



    Bản thân các từ của Can và Chi đều là quá trình sinh trưởng và phát triển của Cây cối:


    [​IMG]
    12 Chi (Con Giáp) theo vòng từ Tý đến Hợi

    (I). Giáp : nẩy mầm

    (II). Ất : nhú lên mặt đất

    (III). Bính : đón ánh mặt trời

    (IV).Đinh : trưởng thành khỏe mạnh

    (V). Mậu : rậm rạp

    (VI). Kỉ : dấu hiệu hoa trái

    (VII). Canh : thay đổi

    (VIII). Tân : hoa quả mới

    (IX). Nhâm : thai nghén cho mùa sau

    (X). Quý : mầm đang chuyển hóa



    (1). Tý : mầm hút nước

    (2). Sửu : nẩy mầm trong đất

    (3). Dần : đội đất lên

    (4). Mão : rậm tốt

    (5). Thìn : tăng trưởng

    (6). Tỵ : phát triển

    (7). Ngọ : sung mãn hoàn toàn

    (8). Mùi : có quả chín

    (9). Thân : thân thể bắt đầu suy

    (10). Dậu : co lại

    (11).Tuất : khô úa héo tàn

    (12). Hợi : chết đi.



    Như vậy nguyên thủy các chi không phải là các con vật như mọi người vẫn nghĩ.



    Đến khoảng đầu Công nguyên, người Trung Hoa gán các chi với các con vật. Nguồn gốc của việc gán con vật không hoàn toàn rõ ràng. Có thuyết cho rằng nó gắn với truyền thuyết Phật giáo, thứ tự của 12 con vật là những loài đã đến từ biệt khi Phật Thích ca nhập Niết Bàn, và mới gọi là các con giáp, lần lượt là:



    Tí: Thử: Chuột

    Sửu: Ngưu: Trâu

    Dần: Hổ: Cọp

    Mão: Thố: Thỏ*

    Thìn: Long: Rồng

    Tỵ: Xà: Rắn

    Ngọ: Mã: Ngựa

    Mùi: Dương Dê

    Thân: Hầu Khỉ

    Dậu: Kê Gà

    Tuất: Khuyển Chó

    Hợi: Trư Lợn

    *Riêng chi Mão thì ở Việt Nam là mèo chứ không phải thỏ



    Chi Ngọ đứng ở vị trí giữa, trong lịch pháp ứng với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn mang hàm nghĩa là Sung mãn, trọn vẹn. Tại sao lại là 12 con vật này với 12 cung giờ trong ngày, có thuyết gắn với thời điểm loài vật hoạt động mạnh nhất. Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số móng của các con vật, cứ một chắn đi kèm với một lẻ.



    Khi đó Can gọi là Hoa, Chi gọi là Giáp, nên Can Chi còn gọi là Hoa Giáp. Từ điểm bắt đầu là Giáp Tí (I.1) cho đến hết vòng là Quý Hợi (X.12), chỉ có số chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ, nên không thể có Giáp Sửu hay Quý Tuất.



    Trong thiên văn, khu vực của 12 cung còn ứng với 12 nước thời Xuân thu chiến quốc:

    Tí : Tề - Sửu: Ngô Việt - Dần: Yên – Mão: Tống – Thìn: Trịnh – Tỵ: Sở - Ngọ: Chu – Mùi: Tần – Thân: Vệ - Dậu: Triệu – Tuất: Tấn – Hợi



    12 Chi có ý nghĩa rất quan trọng trong tính Lịch pháp (thực chất là Âm-dương lịch) và thời tiết. Trong 1 năm chia ra 12 tháng, có 24 ngày tiết khí, cứ 1 tháng 2 ngày.



    Cùng với Ngũ hành, Can chi hay Hoa Giáp đã tạo thành một tư tưởng khép kín về chu kỳ vận động của Vũ trụ, với chu kỳ 60. Các thước đo thời gian đều được gắn với Can chi. Một ngày chia làm 12 giờ, một năm 12 tháng; 12 năm là một chu kỳ ngắn, 60 năm là một vòng “Lục thập Hoa giáp”, 3600 năm là một chu kỳ lớn của Vũ trụ. Khi viết năm, họ chỉ dùng can chi, nên phải thêm triều đại cai trị tương ứng mới đủ. Không chỉ thế, phương vị trên bầu trời cũng được chia ra 12 cung, khi xác định vị trí ngôi sao thì nói nó nằm trong cung nào.


    Sau khi hoàn chỉnh hệ Can Chi với chu kỳ 60 năm, người Trung Hoa gán cách tính lịch pháp này cho Hoàng Đế - vị vua thái cổ huyền thoại, người đặt ra các quy tắc cho con người, và lấy năm 2636 TCN làm năm đầu của chu kỳ này, gọi là Đại Nguyên niên, cho đến nay đã được 78 chu kỳ, hơn một Chu kỳ lớn (60 chu kỳ nhỏ).

    (1) Thuyết Âm Dương Bát quái là thuyết chủ đạo cổ nhất, trước Ngũ hành và Can Chi đến hàng nghìn năm, là thuyết chủ đạo quan trọng nhất, sẽ được trình bày ở phần sau. Cung Bát quái chia làm 8 cung, mỗi cung 45 độ.

    (trích từ http://thienvanvietnam.com)
     
  4. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Thiên văn học phương đông

    4. CỬU DIỆU

    Trên bầu trời, bầu trời hầu hết là những vì sao luôn đứng yên tương đối với nhau – gọi là Định tinh hay Hằng tinh (sao - viết thường- star), và một số thiên thể chuyển động trong khoảng trời ấy – gọi là hành tinh (Sao – viết hoa - planet), rõ ràng nhất là mặt trăng và mặt trời. Trong Hệ mặt trời, cho đến nay các nhà thiên văn đã phát hiện có 9 hành tinh bao gồm cả trái đất. Tuy nhiên, bằng mắt thường chỉ có thể thấy 5 hành tinh mà thôi. Người Trung Hoa cũng đã nghiên cứu riêng những thiên thể chuyển động, và gọi chúng là Cửu Diệu.

    Cửu Diệu bao gồm: Thái Dương tinh, Thái Âm tinh, Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh, La Hầu tinh, Kế Đô tinh; trong đó 7 thiên thể đầu tỏa sáng, được gọi là Thất Chính.


    I. Thái Dương (Nhật Tinh - Sun)

    Mặt trời, vầng Chân hỏa Thái dương ngày ngày soi sáng cũng gọi là Thái Dương Tinh. Theo quẻ của Dịch thì Thái Dương là một trong Tứ tượng, ứng vào hỏa nhiệt cực thịnh. Từ Nhật là mặt trời còn có nghĩa là Ngày. Quỹ đạo của Thái Dương trên bầu trời mà ta nhìn thấy gọi là Hoàng đạo. Lịch dựa trên mặt trời do đó gọi là Dương lịch.



    Thái Dương còn được gọi là vầng Kim Ô – con quạ vàng. Theo truyện cổ, xưa ở giữa Đông Hải có cây Phù Tang (1), trên có bầy 10 con quạ vàng, mỗi ngày 1 con bay từ phương Đông sang phương Tây, soi sáng thế giới. Ngày kia Đông hải bão tố, cây Phù tang bị đổ, bầy quạ bay đậu khắp trời gây nên thảm cảnh. Hậu Nghệ là thần tiễn đã bắn rơi 9 con, chỉ để lại một, chính là vầng Thái Dương ngày nay.



    Thái Dương tượng trưng cho sức mạnh, nam giới, luôn tràn đầy, cương mãnh, cho nóng, sáng, cực thịnh. Trên Thái Dương có cung Quang Minh, Tinh chủ là Thái Dương Tinh quân Thiên vương Đế quân, một trong những vị thần tối cao trên trời.





    II. Thái Âm (Nguyệt Tinh – Moon)

    Mặt trăng, tòa Quảng Hàn Thái Âm soi sáng ban đêm là Thái Âm Tinh, cũng là một trong tứ tượng. Trên Thái Âm có cung Quảng Hàn, Tinh chủ là Thái Âm Tinh quân Thiên vương, là một người đàn bà (tuy vậy vẫn có trường hợp là đàn ông). Lịch dựa trên mặt trăng do đó gọi là Âm lịch


    Mặt trăng còn gọi là Ngọc Thố - con thỏ ngọc, do những bóng đen trên đó trông giống con thỏ. Xưa kia, Hậu Nghệ sau khi bắn rơi mặt trời, đã lên làm vua và lấy Hằng Nga. Sau ông tìm được thuốc trường sinh, nhưng Hằng Nga đã lén uống hết, nên biến thành Tiên bay lên cung Quảng Hàn. Thái Âm tượng trưng cho nhu thuận, nữ giới, lúc tròn lúc khuyết, biết tiến thoái.



    Ngày trăng non gọi là Sóc, nghĩa là mới, khởi đầu; ngày trăng tròn gọi là Vọng, nghĩa là nhìn. Hai ngày này là thời điểm quan trọng trong lịch mặt trăng. Đường mô tả quỹ đạo Mặt trăng trên bầu trời đêm gọi là Bạch đạo.



    III. Thủy Tinh (Mercury)

    Sao Thuỷ gần Mặt trời nhất, có sắc xanh tối nhưng rất khó nhìn thấy đặc biệt trong điều kiện thành phố hiện nay. Sao Thuỷ được gọi là Thuỷ Diệu, trông coi bởi Thuỷ Đức tinh quân và cho rằng Thuỷ hội tụ bởi 5 khí. Trong truyện cổ tích, Thủy đức Tinh quân là Cung Công, người đã đập đầu vào núi Bất Chu làm sụt vòm trời, khíên Nữ Oa phải đội đá vá lại. Vì Thủy ứng với phương Bắc nên gọi đầy đủ là Bắc thần Ngũ khí Thủy Diệu.




    IV. Kim Tinh (Venus)

    Sao Kim là hành tinh sáng nhất bầu trời vào lúc sáng sớm và trước khi trời tối. Sao Kim mang sắc Trắng được gọi là Thái Bạch. Sắc trắng của Kim ứng với phương Tây, phương của quẻ Đoài trong Bát quái, nên gọi là Tây Đoài Thất khí Thái Bạch, còn gọi là Hàm Trì Kim tinh, trông coi bởi Thái Bạch Kim Tinh là ông già họ Lý. Sao Kim còn được gọi bằng hai tên khác là Khởi Minh tinh (Sao báo trời sáng) và Trường Canh tinh (Sao báo đêm dài tới - vì vậy Thái Bạch Kim Tinh còn được gọi là Lý Trường Canh). Thái Bạch kim tinh được coi là sứ giả của trời, vì luôn xuất hiện sớm nhất, trước tất cả các tinh tú cũng như trước cả Mặt trời.


    V. Hỏa Tinh (Mars)

    Sao Hoả mang màu đỏ, là hành tinh mà thiên văn hiện đại quan tâm nhiều nhất. Màu đỏ là của phương Nam, phương của quẻ Ly là lửa trong Bát quái, và được coi là hội tụ từ ba khí, nên có tên gọi là Nam Ly Tam khí Vân Hán. Lửa Tam muội thì không gì dập nổi. Sao Hỏa chuyển động với chu kỳ chỉ gần 2 năm, chênh lệch so với trái đất không nhiều, gây nên hiện tượng là khi nhìn từ trái đất, nó lúc thì đi sang đông, lúc lại sang tây chứ không theo một chiều nhất định. Vì sự đổi thay đổi huyễn hoặc không thống nhất và khó hiểu đó, nên còn được gọi là sao Huỳnh Hoặc.


    Tinh chủ của Hỏa Tinh là Nam phương Tam khí Hỏa đức tinh quân chính thần, trong truyện cổ tích là Chúc Dung, người đã từng đánh bại Cung Công, lại cũng có thuyết gán La Tuyên.


    Trong việc xem tượng trời đoán vận mệnh, Sao Hỏa thường gắn liền với tai ương, vận hạn, có lẽ do màu đỏ của nó trên màu trời đen. Trong lịch sử Trung Hoa, việc “Sao Hỏa lâm vào địa phận sao Tâm” để mô tả điềm tai họa, đặc biệt cho vua, bởi sao Tâm tú cũng có màu đỏ. Sự kiện thời Hán Thành đế (đã viết) tin vào điềm báo Sao Hỏa lâm vào Tâm tú đã lấy đi mạng sống của một số người.



    VI. Mộc Tinh (Jupiter)

    Sao Mộc, to nhất hệ Mặt trời, mang màu xanh, ứng với phương Đông, phương Chấn theo Hậu thiên Bát quái, nên được gọi là Đông Chấn Cửu khí Mộc Đức, vì được cho rằng Mộc do 9 khí hợp lại mà thành. Sao Mộc được dùng làm chuẩn cho việc tính lịch, thông qua chu kỳ quay xấp xỉ 12 năm , vì thế còn được gọi là Tuế Tinh hay Sao Thái Tuế.

    Trong tiếng Hán, Nhật có nghĩa là ngày, Nguyệt có nghĩa tháng, còn Tinh có nghĩa là năm.


    VII. Thổ Tinh (Saturn)

    Sao Thổ có màu hơi vàng, được gọi là Trung Ương Nhất khí Thổ Tú. Trên thực tế, Sao Thổ cách trái đất khá xa, nên việc quan sát nó rất khó khăn. Cũng theo quan niệm ngũ hành, Thổ thuộc về trung ương, mang tính bền vững, nền tảng. Chu kỳ của Sao Thổ lại rất dài, vì thế nó được coi là chỉ được tạo nên từ 1 khí, không nhiều biến đổi. Thổ Tinh cũng còn gọi là Thiên Can tinh, với ngụ ý nắm giữ quy luật vận động của bầu trời.


    VIII & IX. La Hầu Tinh & Kế Đô Tinh

    Text Box: “Sao La Hầu” đang che lấp mặt trời - theo quan niệm cổ.Đây là hai thiên thể không có thực. Trước kia, khi thấy mặt trời, mặt trăng bị che lấp tối đen, người Trung Hoa cho rằng do một giống quái vật khổng lồ ăn mất, tạo ra Nhật thực và Nguyệt thực (quái vật gấu ăn mặt trời, quái vật chó sói ăn trăng – có lẽ do hiện tượng chó sói tru đêm trăng tròn, mà nguyệt thực chỉ xảy ra vào đêm trăng tròn).


    Thế kỷ I, Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Hoa, cùng với Phạn lịch, trong đó hai thiên thể che lấp mặt trời, mặt trăng được gọi là Rahu và Kethu. Người Trung Hoa phiên âm là La Hầu và Kế Đô. Hai “Sao” này tối đen, rất lớn và chỉ che lấp mặt trời mặt trăng chứ không che bất cứ thiên thể nào khác. Dù giả thuyết của Trương Hoành (78 – 139) về trái đất hình tròn và bóng của trái đất che lấp mặt trăng đã tíến đến chân lý, nhưng đã không được chấp nhận ngay khi đó.

    Các tên tiếng Phạn tương ứng: Sao Thủy - Bhuda ; Sao Kim - Sukra ; Sao Hỏa - Angaraka ; Sao Mộc - Brhaspati ; Sao Thổ - Sanaiscara (hay Sani).


    Các tầng trời

    Người Trung Hoa nhận thấy rằng các hành tinh chuyển động giữa các thiên thể khác, nhưng không “va chạm” gì với nhau, nên cho rằng chúng ở trên các vòng cầu khác nhau, từ thấp đến cao tức là các tầng trời. Có 9 tầng trời – Cửu trùng thiên:


    Tên tầng trời -------- Mô tả --------- Chu kỳ
    1. Thái Âm -------- Chứa Mặt trăng -------- 1 tháng

    2. Thìn Tinh -------- Chứa Thủy Tinh -------- 3 tháng

    3. Thái Bạch -------- Chứa Kim Tinh -------- 7 tháng

    4. Thái Dương -------- Chứa Mặt trời -------- 1 năm

    5. Huỳnh Hoặc -------- Chứa Hỏa Tinh -------- 2 năm

    6. Tuế Tinh -------- Chứa Mộc Tinh -------- 12 năm

    7. Điền Tinh -------- Chứa Thổ Tinh -------- 30 năm

    8. Liệt Túc -------- Chứa các định -------- x
    -------- -------- tinh không chuyển --------
    -------- -------- động (các vì sao) --------

    9. Tông Động -------- Vỏ ngoài cùng của -------- x
    -------- -------- của Trời, bao bọc --------
    -------- -------- tất thẩy


    Về La Hầu, Kế Đô, một khi đã che được Mặt trăng và Mặt trời, thì phải nằm thấp hơn nữa. Thế nhưng chúng lại không che bất kỳ một thiên thể nào khác, vì vậy người Trung Hoa cho đó là thiên thể kì lạ, là khắc tinh của riêng Mặt trời, mặt trăng. Và vì vậy La Hầu và Kế Đô vẫn có một vị trí nhất định trong hệ thống thiên thể, đặc biệt trong việc xem bói Tử vi.

    (1). Phù là nổi, Tang là cây dâu, Nhật Bản – ở phía đông, hay bị động đất nên cũng gọi là xứ Phù Tang


    (trích từ http://thienvanvietnam.com)
     
    Last edited by a moderator: 9 Tháng mười một 2006
  5. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Thiên văn học phương đông

    5. TAM VIÊN



    Ngoại trừ Thất Chính – Cửu Diệu và Tuệ tinh, các ngôi sao khác đều đứng yên tương đối trên bầu trời, và hằng đêm cả “tầng trời Liệt Túc” đó đều từ từ xoay quanh một điểm cố định, mỗi ngày lại dịch đi một chút, và sau một năm thì quay trọn một vòng. Điểm đó gọi là Thiên Cực, và vì ở phía Bắc nên gọi là Bắc Thiên Cực. Thiên Cực, do đó được gọi là Trung Thiên – trung tâm của bầu trời.



    Ngày nay, dưới mặt đất cũng có thể hình dung tương tự rằng nếu đi về hướng Bắc đến tận Bắc Cực, thì không còn các phương nữa, mọi hướng đều là phương Nam. Do đó Bắc Cực cũng là trung tâm phương vị trên mặt đất.



    Các vua Trung Hoa cho mình là ở giữa mặt Đất, nên tự nhận miền đất mình đang cai trị là Thiên hạ, Trung quốc, Trung nguyên, còn mình là Thiên tử. Khi đó Kinh đô là Trung tâm mặt đất, ứng với Bắc Thiên Cực là trung tâm bầu trời. Giữa hai điểm đó là Trục trời đất. Tư tưởng coi mình ở Trung tâm trái đất không xa lạ gì với các nền Văn minh khác. Trong suốt mười mấy thế kỷ, người phương Tây vẫn cho rằng thành thánh Jerusalem là trung tâm thế giới, 3 châu Âu, Á, Phi xòe ra như 3 cái lá; người Hồi giáo cũng coi Mecca là tâm thế giới. Trước đó, người Hy Lạp cho núi Olymper là nơi Thiên đình ở, cũng như người Ấn Độ cho núi Meru (Tu Di) huyền thoại là Trục Vũ trụ, xuyên xuống bên ở bờ sông Hằng.



    Trong khi người Hy Lạp quan tâm đến các chòm sao nằm trong Hoàng đới thì người Trung Hoa lại quan tâm nhiều hơn đến Thiên Cực. Dưới mặt đất chia ra Cửu châu(1) Ngũ phục, thì trên trời cũng chia làm Cửu trùng các khu vực tinh tú. Chỉ có điều Trời thì quay quanh Thiên Cực còn Đất thì cố định. Một điều lưu ý nữa là phương vị trên trời ngược với dưới mặt đất, tức phía Đông ở bên trái, Tây bên phải, Nam ở trên còn Bắc ở dưới.

    [​IMG]

    Đồ hình Thiên tượng: Ở giữa là Tam viên, xung quanh là 28 Tinh túNgũ phục là 5 vùng tính từ Trung tâm (kinh đô) ra với khoảng cách 500 dặm: Điện phục là vòng trong cùng nơi vua ở, Hầu phục là vòng tiếp theo, cho các quan và chư hầu, Tuy phục cho dân cư và quân sự, Yêu phục và Hoang phục là các vùng ngoài. Tương tự, trên bầu trời cũng được chia thành các khu vực. Ba khu vực ở giữa là Tam Viên, gồm Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị, tiếp đó là vòng của Nhị thập bát Tú, các chỗ trống còn lại là Thiên Cương Địa sát.



    Viên nghĩa là bức tường vây, Tử Vi, Thái Vi và Thiên Thị đều có các chòm sao vây lại. Tú là tòa nhà lớn. Như vậy nói đến Tú là chỉ nói đến 28 chòm mà thôi.



    Các chòm sao trong tiếng Hán gọi là Tiểu tinh quan hoặc Tinh tọa. Nhưng có một số ngôi sao đứng riêng mà không được xếp vào chòm nào cả.



    I. Tử Vi



    Tử Vi là khu vực trung ương có hình tròn, vây quanh Thiên Cực, cách một góc khoảng 40 độ, là tượng trưng cho Thiên Cung. Tử là màu tía, màu của huyền bí, kỳ diệu, Vi là cây hoa, Viên là khu tường vây. Đây là nơi ở của Thiên Hoàng Thượng đế, hoặc Trung thiên Bắc Cực Tử Vi đại đế (ông Bắc đẩu), chuyên về Sinh mạng con người. Có lẽ vì thế mà cung cấm các vị Hoàng đế đều gọi là Tử cấm thành, dù nó không có màu tím.



    Trong Tử Vi viên có trên 160 sao, chia thành gần 30 chòm và một số sao độc lập. Hình ảnh của cả một Hoàng cung hiện ra, với đủ các thành tố: Hoàng tộc (Đế, Thái tử, Hậu cung), người hầu hạ (Ngự nữ, Thượng tể), quan lại (Thượng thư, Tam công, Tướng quốc(2)), lực lượng bảo vệ (Thượng vệ, thiếu vệ), các cơ quan phục vụ Triều đình (Đại lý - Tòa án, Nội trù - bếp, Nhà lao, nhà Khách, giường…).

    [​IMG]
    Cung Tử vi trong bản đồ Đôn Hoàng. Vị trí màu đỏ là Bắc Cực. Bản đồ có thể không có một số ngôi sao mà danh sách 1744 liệt kê hoặc không trùng khớp



    Dưới đây là danh sách các chòm sao và sao riêng trong vòng Tử Vi, theo thư tịch đời Thanh, 1744, con số trong ngoặc là số sao của chòm. Bốn chòm quan trọng nhất thì các ngôi sao đều có tên riêng, các chòm khác thì sao chỉ đánh số thứ tự (nhất, nhị, tam…) Một số ngôi tuy ở gần các chòm nhưng không thuộc về chòm đó, được đánh thứ tự riêng.


    Các Tiểu quan tinh trong Cung Tử Vi



    1. Bắc Cực (5 sao Thuộc chòm Ursa Minor – Tiểu Hùng)

    i. Thái tử sao g

    ii. Đế sao z

    iii. Thứ tử sao e

    iv. Hậu cung sao d - Yildun

    v. Thiên cực sao a - Polaris

    2. Tứ phụ (4 sao)

    3. Câu Trần (6 sao)

    a. Thiên Hoàng Đại đế

    4. Thiên Trụ (5 sao)

    5. Ngự Nữ (4 sao)

    b. Nữ sử

    c. Trụ sử

    6. Thượng Thư (5 sao)

    7. Thiên Sàng (6 sao)

    8. Đại Lý (2 sao)

    9. Âm Đức (2 sao)

    10. Lục Giáp (6 sao)

    11. Ngũ Đế Nội Tọa (5 sao)

    12. Hoa Cái (7 sao)

    13. Cống (9 sao)

    14. Tử Vi Tả viên (8 sao), gồm

    i. Tả Xu

    ii. Thượng tể

    iii. Thiếu tể

    iv. Thượng bật

    v. Thiếu bật

    vi. Thượng vệ

    vii. Thiếu vệ

    viii. Thiếu thừa



    15. Tử Vi Hữu viên (7 sao)

    i. Hữu xu

    ii. Thiếu úy

    iii. Thượng phụ

    iv. Thiếu phụ

    v. Thượng vệ

    vi. Thiếu vệ

    vii. Thượng thừa

    d. Thiên Ất

    e. Thái Ất



    16. Nội Trù (2 sao)

    17. Bắc Đẩu (7 sao - thuộc chòm Ursa Major – Đại Hùng)

    i. Thiên xu sao a - Dubh

    ii. Thiên toàn sao b -Merak

    iii.Thiên cơ sao g - Phecda

    iv. Thiên quyền sao d - Megrez

    v. Ngọc hoành sao e - Alioth

    vi. Khai dương sao z - Mizar

    vii. Dao quang sao h - Alkaid

    f. Phụ tinh: cạnh Khai Dương - Alcor

    18. Thiên Thương (3 sao)

    h. Huyền qua

    19. Tam Công (3 sao)

    k. Tướng quốc

    20. Thiên Lý (4 sao)

    m. Thái Dương thủ

    n. Thái tôn

    21. Thiên Lao (6 sao)

    22. Thế (4 sao)

    23. Văn Xương (6 sao)

    24. Nội Cấp (6 sao)

    25. Tam Sư (3 sao)

    26. Bát Cốc (8 sao)

    27. Phó Xá (9 sao)

    28. Thiên Trù (6 sao)

    29. Thiên bồi (5 sao)



    (Về vị trí chính xác của các vì sao trong vòng Tử Vi, có thể xem phụ lục)


    [​IMG]
    Cung Tử Vi theo danh sách 1744. Ở giữa là Bắc Cực, phía dưới bên phải là Bắc Đẩu

    Nhìn tổng thể Cung Tử Vi, có thể thấy đó giống như một khu vực Thiên cung của Thượng đế. Hai bên trái phải là hai bức tường vòng Tả hữu Tử Vi viên, do các vị thiên quan tối cao như Tể, Phụ, những thiên thần Vệ, Thừa, Úy. Cửa phía trước được bảo vệ bởi Bắc Đẩu Thất tinh, phía sau là khu để báu vật. Giữa Tòa cung đó là Thiên Cực có 4 ngôi sao canh gác, liền trước là ngôi bản mệnh Hoàng gia: Vua ở giữa hai con là Thái tử và Thứ tử, tiếp đến là Hậu cung. Thiên Hoàng Thượng đế ngự ở giữa các lớp màn trướng, trước có Ngự nữ, Nữ sử đứng hầu, phía sau là 6 vị thần tướng bảo vệ, một bên là chỗ của Ngũ Đế (3), bên kia là 5 vị Thượng thư chầu. Trong cung đó có Âm đức, có Thiên lý tượng trưng có Uy đức và Quy luật của trời.



    Bên ngoài hai bức tường là các khu hỗ trợ: nơi xử án (Thiên lý), nơi học tập (Văn Xương), nhà bếp (Thiên trù), kho lương thực (Bát cốc), nhà giam (Thiên lao), nhà khách (Phó xá), phù trợ (Thiên bồi),…, sát ngoài vòng cung là nơi các Đại thần và Tướng quốc chầu, bên kia là Thái thủ và Thái tôn canh giữ.



    Chòm Bắc Đẩu Thất tinh (17) là nơi rất quan trọng với con người, án ngữ đường vào Thiên Cung. Không nên dùng chữ Đại Hùng tinh cho Bắc đẩu, bởi chòm Đại hùng (Great Bear - Ursa Major) không chỉ có 7 ngôi mà còn nhiều ngôi nữa. Trong 7 ngôi của Bắc Đẩu, thì sao Thiên quyền ở chính giữa là đại diện cho Bản mệnh con người. Vì thế khi cúng sao xin mệnh thì ngọn đèn ở vị trí sao Thiên quyền tượng trưng cho mạng sống. Ngôi sao sát cạnh sao Khai Dương không thuộc Bắc Đẩu, nên gọi là Phụ tinh.

    [​IMG]
    Vị trí Sao Bắc Cực, Bắc Thiên Cực, và chòm Bắc Đẩu thất tinh.



    Trên thực tế, ngay các nhà thiên văn cổ đại cũng không hoàn toàn thống nhất với nhau về các chòm sao. Bản đồ Đôn Hoàng từ rất sớm nên có khác bản đồ sau này; chẳng hạn chòm Thiên Hoàng là 4 ngôi, trong khi bản đồ sau Thiên Hoàng là 1 ngôi nằm giữa chòm Câu Trần; không có Ngự Nữ, hoặc Tả Đàn chỉ có 7 ngôi….



    II. Thái Vi



    Vì Mặt trăng chuyển động theo quỹ đạo tròn (gọi là Bạch đạo) nhưng không có tâm là Thiên Cực, nên khi xác định 28 Tinh tú nằm giữa Bạch đạo và Hoàng đạo thì tạo thành hai khoảng trống phía đông và phía nam của vòng Tử Vi. Khu phía đông tạo thành một vòng là Thái Vi. Nếu Tử Vi là Cung của Huyền ảo, linh thiêng, thì Thái Vi viên với chữ Thái mang nghĩa Cao quý. Trong khu vực này các sao ứng với các quan lại trong triều đình, là bộ máy hành chính của nhà nước phong kiến.



    Thái Vi 75 sao, 16 chòm và một số sao độc lập, một vài sao nằm về phía dưới của Hoàng đạo.



    1. Ngũ Đế Tọa (5 sao)

    a. Thái Tử

    b. Tòng quan

    c. Hạnh thần

    2. Ngũ Chư hầu (5 sao)

    3. Cửu Khanh (3 sao)

    4. Tam Công (3 sao)

    5. Nội Bình (4 sao)

    6. Thái Vi Tả viên (5 sao)

    i. Tả chấp pháp

    ii. Đông thượng tướng quốc

    iii. Đông thứ tướng quốc

    iv. Đông thứ tướng quân

    v. Đông thượng tướng quân

    7. Thái Vi Hữu Viên (5 sao)

    i. Hữu chấp pháp

    ii. Tây thượng tướng quân

    iii. Tây thứ tướng quân

    iv. Tây thứ tướng quốc

    v. Tây thượng tướng quốc

    d. Lang tướng

    8. Lang Vị (15 sao)

    9. Thường Trần (7 sao)

    Tam Đài: gồm

    10. Hạ Đài (2 sao)

    11. Trung Đài (2 sao)

    12. Thượng Đài (2 sao)

    e. Hổ Bôn

    13. Thiếu Vi (4 sao)

    14. Trường Viên (4 sao)

    15. Linh Đài (3 sao)

    16. Minh Đường (3 sao)

    f. Yết Giả.

    [​IMG]
    Cung Thái Vi theo danh sách 1744. 1. Ngũ đế 13. Thiếu vi 2. Ngũ chư hầu 14. Trường viên 3. Tam công 15. Linh đài 4. Cửu khanh 16. Minh đường 5. Nội bình a. Thái tử 6. Tả viên b. Tòng quan 7. Hữu viên c. Hạnh thần 8. Lang vị d. Lang tướng 9. Thường trần e. Hổ bôn 10. 11.12. Tam đài f. Yết giả Hai ngôi sao phía trên là Thái Dương thủ và Thái tôn thuộc Tử Vi viên.



    Nhìn tổng thể, Thái Vi giống như nơi làm việc của Triều đình. Khi Ngũ đế từ Nội tọa trong Tử Vi ra làm việc thì ngồi ở giữa, bên cạnh là các vua chư hầu. Thái tử ở đằng sau, có Hạnh thần và Tòng quan hầu hai bên. Tả Hữu Thái vi viên, bắt đầu từ Chấp pháp cho đến Tướng quốc, tướng quân, thượng thừa là vòng ngăn cách trong và ngoài. Các quan Tam công, Cửu khanh ở vị trí phía trước, bên cạnh Nội bình. Đằng sau thì một bên là Lang tướng và quân sĩ, một bên là Tam đài với quân Hổ bôn. Bên ngoài là các công trình: Minh đường, Tường dài, gác cao, có Yết giả là quan coi việc thông báo, sứ giả.





    III. Thiên Thị


    Nếu Thái Vi nằm đông thì Thiên thị khu vực phía nam của Tử Vi, nơi chư hầu ở. Vì vậy ở Thiên Thị có các vì sao mang tên các nước thời Chiến Quốc. Cung này có 83 sao, chia làm16 chòm và 2 sao độc lập, gồm:



    a. Đế Tọa

    b. Hầu

    1. Hoạn Giả (4 sao)

    2. Đẩu (5 sao)

    3. Hộc (4 sao)

    4. Liệt Xứ (2 sao)

    5. Xa Tứ (6 sao)

    6. Tông Chính (2 sao)

    7. Tông Nhân (4 sao)

    8. Tông (2 sao)

    9. Bạch Độ (2 sao)

    10. Đồ Tứ (2 sao)

    11. Tả Viên (11 sao)

    i. Vệ

    ii. Triệu

    iii. Cửu Hà

    iv. Trung sơn

    v. Tề

    vi. Ngô việt

    vii. Từ

    viii. Đông hải

    ix. Yên

    x. Nam hải

    xi. Tống

    12. Hữu Viên (11 sao)

    i. Hà trung

    ii. Hà gian

    iii. Tấn

    iv. Trịnh

    v. Chu

    vi. Tần

    vii. Thục

    viii. Ba

    ix. Lương

    x. Sở

    xi. Hàn

    13. Thiên Kỷ (9 sao)

    14. Nữ Sàng (3 sao)

    15. Quan Tác (9 sao)

    16. Thất Công (7 sao)


    [​IMG]
    Cung Thiên thị a. Đế tọa b. Hầu 11. Tả Viên (trái) 12. Hữu viên (phải) i. Vệ i. Hà trung ii. Triệu ii. Hà gian iii. Cửu hà iii. Tấn iv. Trung sơn iv. Trịnh v. Tề v. Chu vi. Ngô việt vi. Tần vii. Từ vii. Thục viii. Đông hải viii. Ba ix. Yên ix. Lương x. Nam hải x. Sở xi. Tống xi. Hàn Ngôi trên cùng bên trái thuộc chòm Thiên Bồi của Tử Vi viên.



    Đây là khu vực xa hơn Triều đình, gồm chợ và các nước chư hầu. Chính giữa vẫn là khu vực cho Vua (khi xuống thăm dân), bên cạnh là chỗ cho chư hầu, phía trước có các cơ quan như Tông, Tông Chính, Tông nhân, là nơi kiểm soát các hoạt động về hành chính, con người, đề ra các quy tắc. Trong Thiên thị có chợ bán kim hoàn, bán bánh, vải lụa, có đấu có hộc để đong đếm, rồi ra đến bến sông, đến núi. Các nước chính của thời Xuân Thu Chiến quốc đều có tên trong vùng này, xa nhất là đến biển Đông hải, Nam hải



    Chính việc “quy hoạch” bầu trời theo các chức danh quan lại, cũng như các vùng đất, đã nảy sinh truyền thống xem tượng trời để đoán vận mệnh quốc gia, địa phương, đoán “Thánh nhân ra đời” “ứng vào địa phận…” như trong truyền thuyết dã sử, thậm chí chính sử.



    Trên bản đồ tổng quát, Tam Viên là ba khu vực trên bầu trời phía gần Bắc Cực, nằm giữa Nhị thập bát tú, lệch về hướng Nam và Đông. Trục trái đất lệch với mặt phẳng Thiên xích đạo một góc 23,5 độ, cũng như mặt phẳng Thiên xích đạo lại lệch so với mặt phẳng quỹ đạo mặt trăng, gây nên việc quan sát phải có những điều chỉnh theo, và tượng trời cũng không có tính đối xứng hoàn toàn.

    [​IMG]
    Vị trí Tam Viên trên bầu trời phương Bắc, ở giữa là Thiên Cực, xung quanh là Nhị thập bát tú .

    Đặc biệt là việc chia hướng trên bầu trời, khái niệm về Đông Tây Nam Bắc nếu như lấy Thiên Cực Bắc làm gốc tọa độ, tương ứng với bốn mùa, là cơ sở cho Thiên văn và Vũ trụ quan của người Trung Hoa.















    (1) 9 Châu cổ đại là Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung

    (2) Trong tiếng Hán, có 2 chứ cùng đọc là Tướng, viết khác nhau, với 2 nghĩa tướng quốc (chính trị - hành chính, có người đọc là Tương) và tướng quân (quân sự). Ở đây để không nhầm lẫn, dù tên sao chỉ có 1 chữ, nhưng tôi phải chuyển sang là Tướng quốc hoặc Tướng quân để phân biệt.

    (3) Ngũ Đế, cũng có nhiều thuyết về Ngũ đế: [1]. Phục Hi, Thần Nông, Hoàng đế, Nghiêu, Thuấn – lúc này Ngũ đế có Tam hoàng, ngôi vị không thua kém Thiên Hoàng Thượng đế. [2] Thái Hiệu, Hoàng đế, Thần Nông, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc [3] Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc,… Ở đây có thể coi Ngũ đế là tượng trưng cho Vua nói chung.

    (…) Thượng thư là đứng đầu các bộ. Triều đình dưới đất có 6 bộ là Lễ, Binh, Hình, Lại, Công, Hộ, thì trên Thiên đình có bộ Ôn, Đẩu, Hỏa, Vũ, Lôi …

    (…) Tam Công: Thái sư, Thái phó, Thái bảo, có vai trò cố vấn cho vua. Cửu khanh: 9 chức quan từ thời Chu: Chủng tế, Tư đồ, Tăng bá, Tư mã, Tư không, Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, coi hết các công việc trong triều.





    Thiên Cực Polaris

    Bắc Cực North Polaris

    Tam Viên: Three Enclosures

    Tử Vi: Purple Forbidden Enclosure

    Thái Vi: Supreme Palace Enclosure

    Thiên Thị: Heavenly Market Enclosure.

    (trích từ http://thienvanvietnam.com)
     
  6. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Thiên văn học phương đông

    6. NHỊ THẬP BÁT TÚ

    Tam Viên nằm ở khu vực giữa của bầu trời – Bắc Thiên Cực. Khu vực dải nằm giữa con đường mà mặt trăng đi qua ban đêm và mặt trời đi qua ban ngày được phân chia theo 28 chòm – 28 Tòa nhà của sao, tức Nhị thập bát Tú. Trong mỗi chòm có một Ngôi sao là chủ tinh, là ngôi nằm gần nhất Bạch đạo, dù ngôi sao đó có thể không phải là sáng nhất.

    Có tài liệu nói rằng ghi chép về Nhị thập bát tú đã được tìm thấy có từ thời Chiến quốc, 400 TCN ở Hồ Bắc, và khẳng định nó có sớm nhất là vào thế kỷ 5 TCN, trong Sử Ký cũng viết về các chòm. Nhưng việc phân chia thành các cung theo Ngũ hành thì phải đến đời Tần mới có, và việc gán tên các con vật thì còn muộn hơn, có thể là chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, giống như gán các con giáp vào các chi vậy. Điều đáng lưu ý là trong kinh điển Ấn Độ cổ cũng đề cập đến các chòm sao quanh Bạch đạo, và cũng nêu con số 27 hoặc 28. Tuy các chòm không trùng nhau, nhưng trong mối quan hệ giao lưu văn hóa thông qua Phật giáo, chúng cũng được gọi chung là Nhị thập bát Tú.



    Quanh Thiên Cực được quy ước chia làm 4 phương Đông Tây Nam Bắc, 28 Tú cũng được chia là 4 cung, mỗi cung 7 chòm, đó là:

    Thanh Long – Rồng xanh - phương Đông - hành Mộc, mùa xuân, gồm:

    Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ.



    Bạch Hổ - Hổ trắng - phương Tây - hành Kim, mùa thu, gồm:

    Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm.



    Chu Tước – Chim đỏ - phương Nam - hành Hỏa, mùa hạ, gồm:

    Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.



    Huyền Vũ – Rùa, rắn đen (1) – phương Bắc, hành Thủy, mùa đông, gồm:

    Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Ngụy – Thất – Bích.



    Nếu xếp theo vòng Đông – Tây – Nam – Bắc thì như vậy.

    Có thể theo Xuân – Hạ – Thu – Đông thì xuôi chiều kim đồng hồ là Thanh Long – Chu Tước – Bạch Hổ - Huyền Vũ.



    Tuy nhiên thường 28 Tinh tú được xếp theo vòng vận động trời đất là Đông – Bắc – Tây – Nam, ngược chiều kim đồng hồ, tức Thanh Long – Huyền Vũ – Bạch Hổ - Chu Tước, vì vậy thứ tự các Tinh tú là : Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ – Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Nguy – Thất – Bích – Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm – Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.



    Việc đặt tên các Tinh tú cũng đặc biệt. Mỗi tên gồm 3 chữ, chữ đầu là tên gọi tắt như trên, không thống nhất. Trong đó có bộ phận cơ thể (sừng, cổ, tim,…), có đồ vật (đấu, giỏ, lưới, xe), có con người (nữ), con vật (trâu), có kiến trúc (phòng, tường, giếng,…,), có cả các khái niệm (gốc, hư,…). Dường như không có quy tắc. Việc này có lẽ phản ánh tư duy phóng khoáng không gò bó cổ đại.



    Chữ thứ 2 là một trong Thất chính lần lượt theo thứ tự: Mộc - Kim - Thổ - Nhật - Nguyệt - Hỏa - Thủy, tinh tú nào có chữ tương ứng sẽ là phù trợ cho Hành tinh ấy. Thuyết Ngũ hành đời Tần đã đem một khuôn khổ quy luật vào đây.



    Chữ cuối cùng là tên 1 con vật, gồm cả vật nuôi, vật hoang, và thần thoại.



    Con số 7 cũng là một cơ số quan trọng đối với người Trung Hoa. Có học giả cho rằng thời cổ đại người Trung Hoa chưa dùng cơ số 10, mà mới dùng cơ số 7, nên để lại một số dấu vết như tục cúng bảy bảy bốn chín ngày. Con số 7 được dùng trong Đạo giáo nhiều hơn.



    Các chòm này có số sao không giống nhau, ít nhất là 2 và nhiều nhất là 22, nằm trong phạm vi những chòm sao khác nhau của Thiên văn phương Tây. Bản dưới đây là tên đầy đủ, số sao, và thống kê đối chiếu với các chòm phương Tây.
    [​IMG]
    [​IMG]

    Trong đồ hình trên bầu trời, Thanh Long phương Đông nằm ở bên trái, Chòm Giác Đông Nam ở góc dưới bên trái, theo đúng Hậu Thiên bát quái là Trời bắt đầu mở ở Đông Nam, vòng dần lên trên vòng dần lên trên tức là theo phương Nam mà xoay vòng (trên bầu trời phương vị ngược với mặt đất).





    Vị trí cụ thể các chòm Nhị thập bát tú trong các bản đồ sau, trong đó ngôi màu trắng là chủ tinh. Đường màu đỏ ở giữa là Thiên xích đạo, đường cong màu xanh là Hoàng đạo.

    [​IMG]
    Chòm Thanh Long – phía Đông, mùa Xuân
    [​IMG]
    Chòm Huyền Vũ – phía Bắc, mùa Đông
    [​IMG]
    Chòm Bạch Hổ - phía Tây, mùa Thu
    [​IMG]
    Chòm Chu Tước – phía Nam, mùa Hạ



    Việc phân chia 28 chòm sao này có từ thời cổ đại, và người Trung Hoa không muốn thay đổi những kiến thức của người đi trước, nên họ chấp nhận nó đến hàng ngàn năm sau. Trên thực tế việc dùng 28 chòm có một cái tiện lợi là xác định đường đi của mặt trăng, nhưng có nhiều bất tiện. Trước hết là các chòm không chiếm những cung bằng nhau; có cung như Tỉnh góc lớn hơn 30 độ, trong khi cung Chủy chưa đến 3 độ. Điều này là do độ lớn các chòm chênh lệch quá nhiều, có chòm chỉ có 2 sao, trong khi chòm khác 22 sao. Độ sáng biểu kiến cũng rất khác nhau, rồi có chòm như Chủy gần như nằm lọt vào giữa chòm Sâm, nên không mang tính khoa học.



    Trong văn hóa Ấn Độ cũng có 27 hoặc 28 chòm sao nằm trong khu vực mặt trời và mặt trăng đi qua, nhưng không trùng với nhị thập bát tú. Các chòm sao của Ấn Độ mang tính khái quát nhiều hơn, tượng trưng cho tất cả các vì sao trên bầu trời. Vì vậy trong kinh Phật giáo cũng nói đến các chòm sao, và khi sang Trung Quốc, được các hòa thượng biên dịch là Nhị thập bát tú luôn, để thống nhất với quan sát, khoa học và truyền thống bản địa.



    Nhị thập bát tú đã đi vào Văn hóa của Trung Quốc và các nước Hán hóa, mang nhiều ý nghĩa Văn hóa. Chẳng hạn chòm sao Khuê tượng trưng cho Văn học, và ở Văn miếu Hà Nội có Khuê Văn Các (gác sao Khuê) tượng trưng cho vẻ đẹp, cao quý của văn học, trong chòm Khuê có 2 ngôi sáng nữa là Đông và Bích (không phải chòm Bích), nên Đông Bích cũng để chỉ văn học. Nhà Đường lập thư viện hoàng cung đặt tên là Đông Bích phủ. Lê Thánh Tông lập ra Tao đàn nhị thập bát tú gồm 28 người cũng mang tên các chòm sao. Hoặc như Mão cũng tượng trưng cho ánh sáng, vì gà báo trời sáng. Trong hình tượng truyền thống Trung hoa, Tinh chủ của các Tú là các vị thần mang đặc tính của các con vật, hay đúng hơn là con vật mang hình người, khi cần họ có thể biến thành các con vật tương ứng dễ dàng. Các Tú trở thành tín ngưỡng dân gian. Nhị thập bát tú không chỉ phát triển trong đời sống văn hóa, mà còn đi vào tôn giáo.



    Hơn thế nữa, nhị thập bát tú đi vào đời sống, đến mức khi nói đến vật cứng rắn thì ví với sừng của Cang Kim Long, nói đến chỗ rộng mà trống thì ví với Hư Nhật Thử. Mỗi tú còn gắn với Ngũ hành, kết hợp tạo nên những phạm trù đặc biệt.



    Trong cuốn sách Y thuật cổ “Hoàng Đế nội kinh”, Nhị thập bát tú ứng với 28 mạch trong cơ thể, trời xoay một vòng qua hết 28 Tú thì cúng tương ứng với mạch vận động 1 chu trình trong cơ thể con người.



    (1) Hình tượng Huyền Vũ có liên quan mật thiết đến một vị thần có vị trí rất cao trong Đạo giáo là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế (Còn các danh xưng khác là Thượng đế Tổ sư, Đãng ma thiên tôn, Hỗn nguyên Giáo chủ, Bắc Cực Huyền linh đại đế) có hai con vật thiêng là Linh Quy, Thần Xà, tượng trưng cho Trường tồn và Trí tuệ. Vì vậy chữ Vũ trong Huyền Vũ ở đây với nghĩa Sức manh là gồm cả Rùa và Rắn, tiếng Anh còn dịch là Warrior.



    Tú hsiu (mansion)

    Thạch Thân: Shi Shen

    Cam Đức: Gande

    Vu Hàm: Wu Xian

    Tư Mã Thiên: Sima Qian

    Sử Ký: Shiji

    Trương Hoành Zhang Heng

    Tổ Xung Chi: Zu Chongzhi, Tsu Ch'ung Chi, Cui Zhongji

    Tô Tống: Susong

    Nhất Hành: Yi Xing

    Hỗn Thiên: Hu tian

    Tam Viên: Three Enclosures

    Tử Vi: Purple Forbidden Enclosure

    Thái Vi: Supreme Palace Enclosure

    Thiên Thị: Heavenly Market Enclosure.

    Nhị thập bát tú: 28 Mansions

    Bắc Đẩu: Big dipper

    Thanh Long: Green Dragon – Azure Dragon

    Bạch Hổ: White Tiger

    Chu Tước: Red Bird, Red Sparrow, Vermilion Bird,

    Huyền Vũ: Black Warrior, Black Tortoise, Murky Tortoise

    Bát Quái: Ba Gua, Eight Trigrams,

    Tiên thiên: Earlier Heaven, Primal Arrangement –

    Hậu thiên: Ater Heaven, Inner World Arrangement

    (trích từ http://thienvanvietnam.com)
     
  7. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Thiên văn học phương đông

    7. THIÊN CƯƠNG ĐỊA SÁT



    Tam Viên 60 chòm hơn 220 sao, Nhị thập bát Tú hơn 160 sao, còn lại hàng ngàn vì sao khác được nhóm thành các chòm và một số sao độc lập. Các chòm này được gọi chung là các chòm Thiên Cương tinh và Địa Sát tinh. Để cho đẹp đẽ con số và phù hợp với cơ số 9 vốn được coi là cơ số hoàn thiện của trời đất, người ta thường nói là 36 Thiên cương và 72 Địa sát. Thực tế số lượng các chòm sao lớn hơn thế, và cũng không phải chỉ đặt tên với chữ Thiên hoặc Địa.



    Chẳng hạn trong cung ứng với Giác có các chòm Bình tinh, Nam môn; trong cung Cang có các chòm sao Trụ, Thiên điền; trong cung Đê có Dương môn,…, rồi các sao Văn nhân, Lão nhân, các chòm Cửu đài, Nhị sư, Bắc khách sư môn,…, khắp trời.



    Tuy nhiên các chòm sao dù có sáng đến đâu nhưng không nằm ở vị trí có ý nghĩa hình học hoặc dùng để phân định vị trí, các cung,…, thì cũng không được dùng nhiều. Chẳng hạn sao Thiên Lang sáng nhất bầu trời, Ngưu Lang và Chức Nữ cũng rất sáng, nhưng không nằm trong khu vực đặc biệt nào, nên cũng không được vẽ trong các bản đồ. Những sao đó có vị trí đặc biệt trong chiêm tinh hơn là trong ghi nhận thiên văn khoa học. Như sao Thiên Lang được ghi lại trong Lịch sử Trung Hoa có rất nhiều lần biến đổi màu sắc, khi thì xanh, khi thì vàng, khi lại đỏ, rồi có sừng, có tia,…, nhưng sự thực là nó không bao giờ đổi màu. Đó chẳng qua là sử sách gán cho nó vai trò điềm báo trước, nên trong những thời kỳ biến động của lịch sử, nó được viết cho phù hợp, cũng giống như việc khi có vua thánh ra đời thì rồng vàng xuất hiện vậy.
    [​IMG]

    Nhị thập bát tú: 28 Mansions

    Bắc Đẩu: Big dipper

    Thanh Long: Green Dragon – Azure Dragon

    Bạch Hổ: White Tiger

    Chu Tước: Red Bird, Red Sparrow, Vermilion Bird,

    Huyền Vũ: Black Warrior, Black Tortoise, Murky Tortoise

    (trích từ http://thienvanvietnam.com)
     

Chia sẻ trang này