1. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
  2. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    1. THỜI THƠ ẤU
    - A ha! Aha! Đã lên tới bốn tuổi rồi mà không ngồi vững trên
    lưng ngựa! Mi sẽ không bao giờ trở nên một người hùng! Rồi đây
    cha mi sẽ nói sao?
    Vừa nói xong, ông Tzu thẳng tay quất vào mông con ngựa
    một ngọn roi da, đầu ngọn roi cũng đét luôn cả vào người kỵ mã
    bất đắc dĩ, và nhổ luôn một bãi nước bọt xuống đất một cách khinh
    bỉ.
    Những nóc nhọn và mái bầu bịt vàng của điện potala chói
    sáng dưới ánh mặt trời nóng gắt. Gần bên chúng tôi, hồ sen trong
    vắt của ngôi Đền Rắn dợn sóng lăn tăn. Đằng xa, trên đường mòn
    gồ ghề đá sạn, những khách lữ hành vừa rời khỏi thủ đô Lhassa cố
    gắng thúc giục những con Yak đi mau hơn, với những tiếng kêu
    inh ỏi. Từ những đồng cỏ xanh ở kế cận, vọng đến tai tôi những
    tiếng kèn khổng lồ do những sư sãi nhạc công thực tập thổi kèn ở
    một nơi vắng vẻ.
    Nhưng tôi không có thời giờ để ngắm nhìn những cảnh vật
    vẫn từng diễn ra hằng ngày mà tôi đã quen mắt nhàm tai. Công
    việc của tôi trong hiện tại, ôi, một công việc khó nhọc thay là ngồi
    vững trên lưng con lừa nhỏ bất kham của tôi. Nhưng con lừa
    Nakkim lại có những ý nghĩ khác. Nó muốn tách khỏi người kỵ mã
    tí hon của nó, để có tự do ăn cỏ, nằm lăn trên đất và chơi một
    mình.
    Ông Tzu là một ông thầy rất khó chịu. Suốt đời, ông luôn
    luôn nghiêm khắc và khó tính; trong lúc hiện tại, trong vai trò võ
    sư quyền thuật và huấn luyện viên kỵ mã cho một đứa trẻ lên bốn
    tuổi, ông thường tỏ ra bất mãn và nổi nóng hơn là kiên nhẫn. Xuất
    xứ từ vùng Kham, ở miền Đông xứ Tây Tạng, ông được chọn lựa
    cùng với vài người khác nhờ bởi vóc vạc cao lớn và lực lưỡng. Nhiều
    người có tác cao hơn hai thước và được tuyển dụng làm những sư
    sãi cảnh binh trong các tu viện. Họ mặc áo dài và độn vai rất cao
    để cho có vẻ to lớn, lấy lọ bôi mặt để cho có vẻ hung tợn, và sử
    dụng những cây gậy to và dài để trừng phạt những kẻ bất hảo.
    Như vậy ông Tzu là một vị sư sãi cảnh binh, kiêm chức võ sư
    dạy quyền thuật và môn cưỡi ngựa cho một thiếu nhi con nhà quý
    tộc!
    Không thể đi đứng được lâu vì bị tật ở chân, ông ta chỉ di
    chuyển bằng cách đi ngựa. Năm 1904, quân Anh dưới quyền chỉ
    huy của đại tá Younghusband, đã xâm lăng xứ Tây Tạng và gây
    nên nhiều sự tàn phá, thiệt hại. Chắc hẳn là họ nghĩ rằng phương
    tiện tốt nhất để thu phục được tình thân hữu của Tây Tạng là bắn
    phá nhà cửa, làng mạc và giết hại dân tộc của xứ ấy. Trong cuộc
    phòng thủ diệt địch, ông Tzu đã bị đạn bắn vẹt mất một phần
    xương háng bên trái khi ông chiến đấu ngoài mặt trận.
    Cha tôi là một trong những viên chức có quyền thế nhất
    trong Chính phủ. Người thuộc dòng quý tộc và có thế lực rất mạnh
    trong việc quốc chính. Cha tôi cao gần tới hai thước, và có một sức
    mạnh phi thường. Hồi còn thanh niên người đã có lần ra sức giơ
    hẳn một con lừa khỏi mặt đất; người là một trong những người
    Tây Tạng có thể chiến thắng những thổ dân vùng Kham trong
    những cuộc so tài về môn đô vật.
    Xứ Tây Tạng đã trải qua một thời kỳ loạn ly. Năm 1904 khi
    quân đội Anh xâm lăng lãnh thổ Tây Tạng, vị Quốc vương xứ này
    là đức Đạt Lai Lạt Ma sang tị nạn bên xứ Mông Cổ, giao quyền
    nhiếp chính lại cho cha tôi và cùng với những viên chức trong nội
    các trong khi ngài vắng mặt. Năm 1909, ngài trở về nước sau một
    thời gian sống tại Bắc Kinh. Năm 1910, quân Trung Hoa, được
    khích lệ tinh thần bởi cuộc xâm lăng thành công trước đây của
    quân đội Anh, bèn đem quân tấn công thủ đô Lhassa. Một lần nữa
    đức Đạt Lai Lạt Ma lại lưu vong tị nạn nhưng lần này ngài sang
    Ấn Độ. Năm 1911, trong cuộc cách mạng Trung Hoa, quân Tàu bị
    đánh bật ra thủ đô Lhassa, sau khi đã gây nhiều cảnh giết chóc
    tang thương đối với dân chúng Tây Tạng. Năm 1912, đức Đạt Lai
    Lạt Ma trở vể thủ đô Tây Tạng. Trong khi ngài vắng mặt, suốt
    thời kỳ vô cùng khó khăn ở quốc nội, cha tôi đã cùng với các quan
    chức đồng liêu trong nội có đảm đương trọng trách của Chánh
    Phủ. Mẹ tôi thường nói rằng trách nhiệm nặng nề đó đã làm cho
    cha tôi giảm thọ rất nhiều. Một điều chắc chắn là người không có
    thời giờ săn sóc con cái và người không hề có dịp biểu lộ tình phụ
    tử đậm đà đối với chúng tôi.
    Dường như tôi có cái khả năng đặc biệt là hay làm cho cha
    tôi nóng giận nên ông Tzu, bản tính vốn đã khắc nghiệt, lại được
    cha tôi giao phó trách nhiệm là bắt buộc tôi phải vâng lời tuyệt
    đối, bằng lời êm dịu hay "Bằng roi vọt nếu cần."
    Ông Tzu lại coi việc cưỡi ngựa dở của tôi như là một sự sỉ
    nhục cho vai trò huấn luyện viên của ông ta. Ở Tây Tạng, trẻ con
    trong các gia đình quý tộc tập cưỡi ngựa trước khi tập đi! Làm một
    người kỵ mã giỏi là một điều tối cần thiết trong một xứ núi non
    không có phương tiện giao thông, một xứ mà mọi sự di chuyển đều
    là bằng cách đi bộ hay cưỡi ngựa. Con nhà quý phái tập cưỡi ngựa
    hằng giờ hằng phút mỗi ngày. Khi họ đã tập luyện tinh nhục đến
    mức tuyệt luân, họ có thể đứng vững trên yên ngựa đang phi nước
    đại, và bắn cung hay bắn súng vào các mục tiêu di động.
    Đôi khi từng đoàn kỵ mã đã tập luyện thuần phục phi nước
    đại trong những cánh đồng, và trong khi sãi ngựa như bay họ đổi
    ngựa với nhau bằng cách nhảy từ yên ngựa này sang yên ngựa
    khác. Trong khi đó, năm lên bốn tuổi, tôi lại thấy khó khăn mà
    ngồi vững trên một yên ngựa.
    Xứ Tây Tạng là một nước sùng thượng thần quyền. Sự "Tiến
    bộ" của thế giới bên ngoài không làm cho dân tộc xứ ấy ham thích.
    Người Tây Tạng chỉ muốn tự do thiền định suy tư và vượt qua
    những giới hạn của xác thể. Từ lâu, những nhà hiền triết của xứ
    này vẫn từng biết rằng những tài nguyên phong phú của xứ Tây
    Tạng khêu gợi lòng tham của các nước Tây phương và họ biết rằng
    khi nào người ngoại bang đến xứ này là sẽ không có hòa bình.
    Nhà tôi ở tại khu Lingkhor, một khu vực sang trọng của thủ
    đô Lhassa, ở bên đường lộ bao quanh đường phố, và ở dưới bóng
    mát của điện Potala. Chung quanh Lhassa có ba đường vòng đồng
    tâm, con đường ở vòng ngoài, cũng gọi là đường Ling khor làcon
    đường quen thuộc của khách hành hương.
    Cũng như tất cả các ngôi nhà khác ở Lhassa, vào lúc tôi mới
    sinh, nhà tôi chỉ có hai tầng ở phía day mặt ra đường lộ. Mọi người
    đều bị tuyệt đối cấm nhặt không được cất nhà nhiều tầng và vượt
    quá chiều cao đó, vì không ai được phép từ trên cao nhìn xuống
    đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng vì lệnh cấm này thật ra chỉ áp dụng
    mỗi năm có một lần vào dịp rước lễ hằng năm, nên nhiều người
    dân Tây Tạng cất trên nóc bằng của nhà họ thêm một tầng nữa
    bằng cây ván có thể tháo gỡ được dễ dàng, mà họ có thể sử dụng
    mỗi năm trong mười một tháng.
    Nhà tôi ở là một ngôi kiến trúc cổ bằng đá, hình vuông, xây
    trên một khu đất rộng và bao bọc xung quanh một cái sân giữa.
    Năm 1910, trong cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa, nhà tôi
    bị tàn phá hết một phần, nhất là những vách tường phía trong. Về
    sau, cha tôi đã cho xây cất lại bốn tầng lầu. Vì những tầng lầu này
    không day ra ngoài đường cái, tức con đường Ling khor, nên chúng
    tôi không thể từ trên cao nhìn xuống đức Đạt Lai Lạt Ma trong
    cuộc rước lễ hằng năm, thành thử không ai phàn nàn hay phản
    đối.
    Cánh cửa lớn trổ ra cái sân giữa rất kiên cố và trở nên xám
    đen với thời gian. Quân Tàu không chọc thủng nổi cánh cửa dày và
    chắc nịch này nên chúng đã triệt hạ một góc tường để lọt vào nhà.
    Từ một văn phòng đặt ở ngay phía trên cái cửa này, người
    quản gia để ý quan sát những kẻ ra vào. Người quản gia này có
    quyền thâu dụng hoặc sa thải những kẻ nô bộc, và chăm lo chu
    đáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà. Khi những tiếng kèn trong những
    tu viện đón chào bóng hoàng hôn, đánh dấu một ngày sắp tàn, thì
    những kẻ hành khất của thủ đô Lhassa tề tựu đến trước cánh cửa
    sổ của vị quản gia để nhận lãnh những phần ăn của họ trong chiều
    hôm đó. Theo thủ tục đó, tất cả những nhà danh giá quý tộc bố thí
    cho kẻ nghèo ở trong vùng của họ ở. Những kẻ tù phạm bị xiềng
    xích cũng thường đến xin ăn, vì khám đường rất hiếm và họ đi rảo
    khắp các nẻo đường để xin của bố thí.
    Ở Tây Tạng, những kẻ tu phạm không bị khinh khi hay đối
    xử tàn tệ như những kẻ hạ cấp. Người ra biết rằng phần nhiều
    trong thành phần của họ có lẽ ở vào tình trạng của những người tù
    phạm kia nếu họ bị bắt quả tang, bởi đó những kẻ phạm pháp ít
    may mắn hơn được đối xử một cách tương đối dễ chịu.
    Có hai vị sư sãi trú ngụ trong các phòng ở phía tay mặt gian
    phòng của vị quản gia; đó là các vị tư tế có phận sự cầu nguyện
    Trời Phật gia hộ cho gia đình chúng tôi. Những gia đình quý tộc
    bậc trung hay bậc thấp hơn chỉ có một vị tư tế trong nhà; cấp đẳng
    xã hội của gia đình tôi bắt buộc phải có hai vị. Các vị tư tế này
    không được hỏi ý kiến trước mỗi biến cố hay quyết định quan
    trọng, và họ có bổn phận cầu nguyện các đấng Thiêng liêng che
    chở và ban ân huệ cho gia đình chúng tôi. Ba năm một lần, họ lại
    trở về tu viện của họ, và những sư sãi khác đến thay thế.
    Mỗi chái ở hai bên hông nhà là một đền thờ nhỏ trong đó
    những ngọn đèn thắp bằng bơ cháy sáng ngày cũng như đêm trên
    một bàn thờ bằng gỗ chạm. Trên bàn thờ, bảy chén nước Thánh
    được lau chùi sạch bóng và được thay nước mới nhiều lần trong
    ngày.
    Các vị tư tế được ăn uống đầy đủ, họ dùng các thức ăn như
    người trong gia đình, để cho những lời cầu nguyện của họ được sốt
    sắng hơn và để cho thần thánh biết rằng họ được biệt đãi.
    Ở bên trái gian phòng vị quản gia, là phòng của vị cố vấn
    luật pháp, vị này có phận sự xem xét cách giữ gìn nhà cửa của gia
    đình tôi cho đúng theo nghi thức của nhà quyền quí. Người Tây
    Tạng rất tôn trọng luật lệ, và để làm gương cho dân chúng, cha tôi
    phải xử thế như một công dân gương mẫu.
    Anh tôi, Paljor, chị tôi, Yasodhara và tôi cùng ở tại phần mới
    xây cất của ngôi nhà. Paljor không sống được lâu vì không có đủ
    sức khỏe để chấp nhận cuộc sống khắc khổ, dành cho mọi đứa trẻ
    con nhà quý tộc. Anh tôi qua đời trước khi lên bảy tuổi. Khi ấy
    Yaso lên sáu và tôi mới lên bốn. Tôi vẫn còn hình dung anh tôi, chỉ
    còn là một cái xác không hồn, ngày mà những Âm Công đến lượm
    xác anh tôi để làm lễ "điểu táng" tức là chặt từng mảnh quăng cho
    kên kên ăn theo phong tục bổn xứ.
    Khi tôi trở thành người con trai kế nghiệp của gia đình, thì
    sự giáo dục của tôi được săn sóc chu đáo. Năm tôi lên bốn tuổi, tôi
    hãy còn là một kỵ mã quá dở! Cha tôi vốn dĩ đã là một người rất
    nghiêm khắc, nay với tư cách là một chức sắc của giáo hội, bèn đặt
    tôi vào một thứ kỷ luật sắt để làm gương cho sự giáo dục của
    những đứa trẻ khác.
    Ở xứ Tây Tạng, một đứa trẻ thuộc giai cấp càng cao thì sự
    giáo dục của nó lại càng nghiêm khắc. Và nhà quý tộc đã bắt đầu
    chủ trương một kỷ luật ít khắc khổ hơn cho sự giáo dục thiếu nhi,
    nhưng cha tôi không đồng ý, viện lẽ rằng những đứa trẻ nghèo hèn
    không hy vọng có một đời sống tiện nghi sung sướng hơn trong
    tương lai, cần phải được đối xử một cách dịu dàng tử tế khi chúng
    còn nhỏ. Trái lại, những đứa trẻ con nhà quý tộc, được thụ hưởng
    mọi thứ tiện nghi sung sướng khi đến tuổi trưởng thành, nên cần
    phải được giáo dục trong sự khắc khổ tối đa khi chúng tôi còn nhỏ,
    để nhờ sự kinh nghiệm trong đau khổ mà chúng mới biết thương
    người về sau này. Đó cũng là quan điểm chính thức của chính phủ
    Tây Tạng. Chính sách đó rất tai hại đối với những đứa trẻ có thể
    chất yếu đuối, nhưng còn những đứa nào vượt qua được mà không
    chết thì sẽ có thể đương đầu với bất cứ một nghịch cảnh nào!
    Võ sư Tzu chiếm một gian nhà ở từng dưới gần chỗ cửa vào.
    Sau khi đã có dịp quan sát đủ mọi hạng người trong nhiều năm với
    tư cách là một sư sãi cảnh binh, ông ta không thể sống ẩn dật lánh
    đời, vì cuộc sống đó không thích hợp với nếp sống quen thuộc của
    ông ta. Gần bên phòng của ông ta ở, là những chuồng ngựa, trong
    đó cha tôi nuôi hai chục con ngựa, cùng những loài vật kéo xe
    khác.
    Những người giữ ngựa không ưa ông Tzu vì tính quá sốt
    sắng của ông ta và thói quen hay xen vào công việc của họ.
    Khi cha tôi cưỡi ngựa đi đâu, thì luôn luôn có sáu người kỵ
    mã võ trang đi theo hộ vệ. Những người cận vệ này đều mặc đồng
    phục và ông Tzu luôn luôn kiểm soát chặt chẽ để giữ cho y phục
    của họ lúc nào cũng được chỉnh tề.
    Vì một lý do mà tôi không biết rõ, sáu người kỵ mã này có
    thói quen ngồi trên lưng ngựa sắp thành hàng giờ day lưng vào
    tường của một lẫm lúa, và phóng ngựa chạy theo khi thấy cha tôi
    vừa xuất hiện. Tôi nhận thấy rằng nếu tôi nghiêng mình ra ngoài
    cửa sổ của lẫm lúa, thì một trong những người kỵ mã lọt vào tầm
    tay của tôi. Một ngày nọ, nhân lúc không có việc gì làm, tôi bèn
    rón rén đến gần và xỏ một sợi dây gai vào cái đai da nịt lưng của y
    trong khi y đang kiểm điểm đồ tư trang trước khi lên đường. Kế đó
    tôi cột chặt cả hai đầu dây và máng một đầu vào một cái móc sắt ở
    bên trong lẫm lúa. Việc ấy hoàn toàn diễn ra trong âm thầm
    không ai để ý, giữa lúc mọi người đang mắc bận rộn rối rít. Khi
    cha tôi vừa xuất hiện, đoàn kỵ mã phóng ngựa chạy theo, trừ ra
    người thứ sáu mắc phải sợi dây nên bị té ngựa và kêu la ỏm tỏi.
    Cái đai nịt lưng của y sút ra và trong cơn náo loạn, tôi lén
    rút lại sợi dây gai và biến mất mà không ai hay biết. Ngày hôm
    sau, tôi lấy làm khoái trá mà nói với nạn nhân sự đùa nghịch của
    tôi: "Thế nào, Nê Túc, tôi tưởng chỉ có một mình tôi là cưỡi ngựa
    dở, còn anh cũng vậy sao?"
    Chương trình học của chúng tôi gồm có Hán văn, chữ Tây
    Tạng, toán học và khắc bản gỗ. Về việc ấn loát ở Tây Tạng, người
    ta thường dùng những bản gỗ có khắc chữ, nên việc khắc bản gỗ
    được coi như một bộ môn rất hữu ích.
    Lớp học của chúng tôi là một gian phòng rất rộng có thể chứa
    độ sáu chục đứa trẻ. Chúng tôi ngồi xếp bằng trên sàn gạch, trước
    một cái bàn hay một cái ghế dài, chiều cao độ năm tấc tây và ngồi
    xoay lưng về phía thầy học để cho chúng tôi không thể biết rằng
    thầy có nhìn mình hay không. Thầy bắt chúng tôi học một cách rất
    kham khổ và không để chúng tôi nghỉ ngơi một giây phút nào.
    Có một phần trong chương trình học mà tôi không bao giờ
    quên: đó là lập lại những Điều Răn tôn giáo. Chúng tôi phải đọc
    những Điều Răn này khi vào lớp và lập lại một lần nữa trước khi
    rời khỏi lớp vào giờ tan học. Đó là:
    Hãy lấy ân báo ân, lấy đức báo đức
    Đừng ăn hiếp những kẻ hiền lành
    Hãy siêng đọc các kinh điển và giáo lý
    Hãy giúp đỡ kẻ đồng loại
    Luật pháp khắc khổ đối với kẻ giàu sang
    Để dạy họ sự thông cảm và sự công bằng
    Luật pháp khoan hồng đối với kẻ nghèo hèn để an ủi họ
    Hãy trả dứt nghiệp quả nợ nần càng sớm càng hay
    Để cho chúng tôi không thể nào quên, những Điều Răn đó
    được viết trên những tấm bản đóng trên bốn vách tường của lớp
    học.
    Tuy nhiên, cuộc đời hằng ngày của chúng tôi không phải
    hoàn toàn dành cho sự học và sự sống khắc khổ. Chúng tôi cũng
    lao mình vào những cuộc chơi điền kinh, thể dục một cách hăng
    say ngoài giờ học. Những môn thể dục này được đặt ra để tạo cho
    chúng tôi một thể xác cường tráng có thể chịu đựng khí hậu vô
    cùng gắt gao của xứ Tây Tạng. Ở xứ này, vào lúc giữa trưa mùa hè
    nhiệt độ lên rất cao và ban đêm có thể xuống thấp dưới không độ.
    Vào mùa đông, thời tiết còn lạnh hơn thế rất nhiều.
    Bắn cung, một môn thể dục rất tốt để làm nở nang bắp thịt
    và để tập nhắm một cách chính xác, là bộ môn mà chúng tôi rất
    thích. Cung nỏ của chúng tôi dùng đều làm bằng gỗ mun nhập
    cảng từ Ấn Độ; người ta chế tạo những cái ná bằng gỗ bổn xứ. Là
    Phật tử chân chính, chúng tôi không bao giờ bắn loài thú vật. Để
    tập bắn cung chúng tôi dùng những cái bia di động, mà những kẻ
    gia nô núp ở chỗ ẩn khuất cầm dây kéo lên hoặc hạ xuống bất thần
    mà không cho chúng tôi hay. Phần nhiều những bạn hữu của tôi
    có thể bắn trúng đích trong khi họ sãi ngựa như bay. Về phần tôi,
    trái lại, tôi không thể ngồi vững trên lưng ngựa được lâu như thế!
    Một trò chơi tiêu khiển khác là đi cà khêu. Chúng tôi dùng
    hai cây cà khêu, giống như hai cây nạng gỗ nhưng rất dài, có bàn
    đạp để xỏ hai chân vào đó, và sau khi đã ngụy trang làm những
    người khổng lồ, chúng tôi thường xáp chiến với nhau trong những
    cuộc đấu sức dị kỳ, kẻ nào thua là kẻ bị té ngã trước nhất.
    Còn những môn thể dục khác nữa là nhảy sào và đá cầu.
    Nhưng ở Tây Tạng nhất là ở vùng ngoại ô thủ đô Lhassa, cuộc chơi
    thịnh hành nhất là môn thả diều, mà người ta có thể gọi là môn
    thể dục của dân tộc. Chúng tôi chỉ có thể chơi diều vào những mùa
    nhất định. Nhiều năm về trước, người ta nhận thấy rằng thả diều
    trên những vùng núi cao đã gây nên những trận mưa lũ, khi đó
    người ta nghĩ rằng có lẽ các vị thần làm mưa đã nổi giận, nên dân
    chúng chỉ được phép chơi diều vào mùa thu, tức là mùa tạnh ráo ở
    Tây Tạng. Có những ngày nhất định, người ta giữ im lặng không
    kêu to ở các miền núi, vì tiếng vang của họ gây nên một sự chuyển
    động quá mau của những đám mây mù ẩm thấp từ bên Ấn Độ bay
    qua, do đó mà có những trận mưa lũ bất ngờ.
    Ngày đầu mùa thu, một con diều đầu tiên được phóng lên từ
    nóc điện Potala. Trong vài phút, những con diều khác đủ mọi hình
    thức, lớn nhỏ đủ cỡ và đủ các màu sắc, liền xuất hiện trên nền trời
    Lhassa, trên đó chúng nó bay lượn nhảy nhót theo chiều gió thổi
    mạnh.
    Tôi rất say mê cuộc chơi này và luôn luôn sắp đặt cách nào
    để con diều của tôi bay lên trong số những con đầu tiên. Mọi đứa
    trẻ con đều tự tay chúng nó chế tạo những con diều của mình,
    thường là với một cái sườn bằng tre được bao bọc ở phía ngoài bằng
    một thứ hàng tơ rất đẹp. Chúng tôi làm diều bằng những vật liệu
    thứ tốt hảo hạng vì danh dự của gia đình cũng có liên hệ trong
    cuộc chơi này. Cái sườn bằng gỗ giống như cái hộp được chế tạo
    xong, chúng tôi mới gắn vào đó cái đầu, hai cánh và cái đuôi một
    con rồng có một hình dáng dữ tợn.
    Cuộc tranh đấu bằng diều diễn ra một cách vô cùng sôi nổi
    trong khi đó, chúng tôi cố gắng hạ những con diều của các địch
    thủ. Để thực hiện điều đó, chúng tôi gắn những miểng chai trên
    diều của chúng tôi và ngâm sợi dây diều trong một thứ keo trộn
    với bột thủy tinh nghiền nát; sau đó, chúng tôi chỉ cần phóng diều
    lên để cắt đứt sợi dây của các địch thủ và bắt lấy con diều của họ.
    Đôi khi, lúc trời tối chúng tôi lén thả diều lên trời sau khi đã
    cột chặt những cái đèn nhỏ thắp bằng bơ vào bên trong cái sườn gỗ
    và ở chỗ đầu rồng. Đôi mắt rồng liền phóng ra những tia lửa đỏ và
    mình rồng lóng lánh muôn màu nghìn sắc liền nổi bật trên không
    trung giữa nền trời u ám của đêm khuya. Chúng tôi đặc biệt thích
    cuộc chơi này khi có những đoàn thương buôn lớn chở hàng trên
    lưng những con Yak từ vùng Lhodzong đến thủ đô Lhassa. Với
    tuổi ngây thơ chúng tôi nghĩ rằng người thương buôn "Dốt nát" ở
    các vùng quê hẻo lánh chắc chưa bao giờ nghe nói đến những phát
    minh diễm ảo tân kì như những con diều của chúng tôi. Vậy nên
    chúng tôi quyết định gây cho họ một cơn sợ sệt kinh hoàng một
    phen nên thân.
    Một trong những phát minh khác nữa của chúng tôi là gắn
    trong mình con diều ba loại vỏ ốc khác nhau, và đặt cách nào cho
    gió thổi vào làm các vỏ ốc phát ra một tiếng hú kinh hồn. Khi thả
    diều lên trời, con rồng lửa uốn khúc muôn màu phát ra những
    tiếng rú rùng rợn trong đêm khuya, và chúng tôi hy vọng rằng nó
    sẽ gây cho các tay thương buôn đến từ các tỉnh lẻ xa xôi một cơn sợ
    sệt mà họ sẽ nhớ đến suốt đời không quên.
    Tây Tạng không phải là xứ có thể dung nạp những người có
    thể chất yếu đuối. Thủ đô Lhassa ở vào một vùng cao nguyên bốn
    ngàn thước cao hơn mặt biển, có một thời tiết rất chênh lệch giữa
    cực nóng và cực lạnh. Những vùng cao hơn lại có một khí hậu gắt
    gao hơn nữa. Những người có thể chất yếu đuối có thể làm liên lụy
    đến sự sống của kẻ khác. Chính vì bởi lẽ đó, chứ không phải do sự
    tàn ác, mà sự giáo dục thiếu nhi thật là vô cùng khắc khổ như đã
    kể trên.
    Ở những vùng sơn cước, người ta đem ngâm những đứa trẻ
    sơ sinh dưới suối nước lạnh và xem chúng có đủ sức chịu đựng dẻo
    dai hay không, để có quyền sống như mọi người. Tôi thường thấy
    những người đi diễu hành đến một ngọn suối, ở một vùng núi non
    chiều cao trên sáu ngàn thước. Đến bờ suối, đoàn người dừng lại,
    một bà lão bồng đứa trẻ sơ sinh trên tay, rồi cả gia đình gồm cha,
    mẹ và thân quyến đứa trẻ ngồi vây chung quanh bà. Khi người ta
    lột hết áo quần đứa trẻ, bà lão bèn ngâm thân mình đứa bé sơ sinh
    dưới nước suối, chỉ còn thấy cái đầu nhô lên khỏi mặt nước. Dưới
    nước suối lạnh buốt, thân mình đứa trẻ trở nên đỏ au, rồi xanh
    rờn, những tiếng kêu của nó đã im bặt, nó không còn kêu la phản
    đối nữa. Nó có vẻ chết lịm, nhưng bà lão đã từng kinh nghiệm
    nhiều về việc này bèn rút nó lên khỏi mặt nước, lau chùi khô ráo
    và mặc quần áo lại cho đứa bé. Nó sống lại chăng? Đó là các thần
    linh đã quyết định như thế. Nếu nó chết, thì đó lại càng hay vì nó
    khỏi phải chịu những sự khổ đau về sau này của cuộc đời trần thế!
    Người ta không thể làm gì khác hơn dưới một khí hậu gắt gao như
    ở Tây Tạng. Không nên có những kẻ bệnh hoạn, yếu đuối ở một xứ
    mà mọi phương tiện cứu trợ y tế đều thiếu thốn: Thà để vài đứa bé
    sơ sinh chết còn hay hơn.
    Khi anh tôi qua đời, thì tôi cần phải xúc tiến việc một cách
    ráo riết hơn. Thật vậy, vào năm lên bảy tuổi, tôi đã phải bắt đầu
    chuẩn bị tương lai. Tôi sẽ đi theo con đường nào và chọn lựa
    nghành hoạt động nào? Điều đó sẽ do các nhà chiêm tinh quyết
    định. Ở Tây Tạng, bất cứ việc gì lớn nhỏ, từ việc mua một con Yak
    đến việc chọn một nghề nghiệp, đều do sự quyết đoán của các nhà
    chiêm tinh. Trước ngày sinh nhật năm tôi lên bảy, mẹ tôi mở một
    cuộc tiếp tân khổng lồ, trong dịp đó những quan khách gồm các
    nhà quý tộc và các chức viên cao cấp trong chính phủ được mời
    tham dự để nghe những lời tiên tri của các nhà chiêm tinh.
    Mẹ tôi là một mệnh phụ đảm đang, với một vóc vạc phương
    phi, một gương mặt tròn và tóc đen huyền. Những phụ nữ Tây
    Tạng bới đầu theo một kiểu rất mỹ thuật và cài trên mái tóc một
    thứ lược bằng gỗ. Những lược gỗ này thường sơn mài màu đỏ
    thắm, có cẩn những hột đá quí, cẩm thạch hoặc san hô, là những
    mỹ phẩm làm rất khéo léo. Cài trên một đầu tóc đen huyền có sức
    dầu bóng loáng, những lược sơn mài đó tạo nến một vẻ đẹp rất
    thanh lịch.
    Những áo dài Tây Tạng có những màu sắc rất vui mắt mà
    nổi bật nhất là màu đỏ, màu lục và màu vàng. Thường ngày các bà
    nội trợ đeo phía trước ngực một mảnh vải trơn với một cái vệt
    ngang khác màu, nhưng màu sắc được chọn cho tiệp với nhau một
    cách mỹ thuật. Họ đeo những chiếc bông tai mà kích thước lớn nhỏ
    tùy nơi giai cấp của họ trong xã hội. Mẹ tôi, xuất thân từ một gia
    đình quyền quí, đeo những chiếc bông tai dài trên muời lăm phân
    tây.
    Người Tây Tạng chủ trương một sự bình đẳng tuyệt đối giữa
    nam và nữ. Nhưng về vấn đề coi sóc nội trợ gia đình, mẹ tôi không
    phải chỉ bằng lòng với sự bình đẳng. Với một ý chí độc tài và một
    quyền hành tuyệt đối, mẹ tôi ngự trị trong gia đình như một nhà
    vua, mẹ tôi biết mẹ tôi muốn gì và khi muốn gì mẹ tôi phải được
    cái đó.
    Trong sự nhộn nhịp xôn xao nhân dịp chuẩn bị cuộc tiếp tân,
    mẹ tôi mới thật sự là có đất dụng võ. Nào là tổ chức, phải ra lệnh,
    soạn thảo kế hoạch để "Ăn đứt" những kẻ láng giềng. Mẹ tôi tỏ ra
    rất thông thạo vì trong nhiều chuyến du hành theo cha tôi sang
    Ấn Độ, Bắc Kinh và Thượng Hải, mẹ tôi đã thu thập được hằng
    khối những sáng kiến nước ngoài.
    Khi ngày tiếp tân đã định, những sư sãi như thư kí mới viết
    thiệp mời trên một loại giấy dày, làm bằng tay, chỉ được dùng
    trong những dịp giao tế tối quan trọng. Mỗi thiệp mời đo độ ba
    mươi phân bề ngang trên sáu mươi phân bề dài và có đóng triện
    son của người gia trưởng. Mẹ tôi cũng đóng triện son riêng của
    mình vào đó vì người thuộc về dòng dõi quý phái. Ngoài ra lại còn
    một cái triện chung cho cả gia đình, tức là có tất cả ba cái triện son
    đóng trên thiệp mời, làm cho nó trở nên một bản văn kiện thật là
    nghiêm trọng. Nghĩ rằng tôi là nguyên nhân cho tất cả những lễ
    nghi trịnh trọng đó làm cho tôi rùng mình. Tôi không biết rằng
    tầm quan trọng của tôi thật ra chỉ là phụ thuộc so với một tập
    quán xã hội. Nếu người ta nói cho tôi biết rằng cuộc tiếp tân long
    trọng này sẽ đem nhiều vinh dự cho cha mẹ tôi, thì tôi sẽ không
    hiểu gì cả. Bởi vậy, tôi vẫn nơm nớp lo sợ.
    Những sứ giả đem thơ được đặc biệt thu dụng trong dịp này
    để đem các thiệp mời đến các quan khách. Mỗi người đều cưỡi một
    con tuấn mã và cầm nơi tay một cái gậy ngắn có khe hở ở một đầu
    để xếp cái thiệp mời vào đó, ở ngoài bao có in những phù hiệu
    chánh thức của gia đình chúng tôi.
    Khi các sứ giả đã sẵn sàng lên đường thì trong sân nhà
    chúng tôi diễn ra một cảnh tượng náo động khôn tả. Các gia nô
    kêu gọi nhau đến khan cả cổ họng, ngựa hí vang tai, những con
    chó ngao đen lớn sủa ầm lên như điên. Sau một chầu rượu bia cuối
    cùng, những chàng kỵ mã đặt mạnh những ly cốc xuống bàn, trong
    khi đó những cánh cửa cổng nặng nề đã mở ra với những tiếng
    động ầm ĩ và đoàn kỵ mã vừa phóng ngựa phi nước đại vừa hét
    vang tai nghe thật rùng rợn.
    Nếu họ mang những bức thơ tín viết tay thì đồng thời các sứ
    giả cũng chuyển đạt luôn một thông điệp truyền khẩu, mà nội
    dung có thể hoàn toàn khác hẳn. Thời xưa, những tay côn đồ,
    cường đạo thường phục kích các sứ giả đem thơ ở giữa đường rồi
    ngụy trang và dùng những bức thông điệp đó để tấn công một ngôi
    nhà không phòng thủ hay một đoàn thương buôn chẳng hạn. Từ
    đó, người ta thường cố ý viết những thơ tín giả để gài bẫy và dụ
    bọn cướp đến những chỗ có phục binh và tiêu diệt chúng. Thủ tục
    cổ truyền về việc gởi đi một lượt hai thông điệp, một viết tay và
    một truyền khẩu, là một cái di sản của thời quá khứ. Dầu cho ở
    thời đại này, người ta cũng có khi gởi đi hai thông điệp song đôi
    như thế; trong trường hợp đó thì chỉ có thông điệp truyền khẩu
    mới có giá trị.
    Trong nhà tôi thật là náo nhiệt tưng bừng! Những vách và
    trần nhà được phết lên một lớp sơn mới, những sàn gỗ được đánh
    bóng trơn tru đến nỗi đi phải coi chừng kẻo trượt ngã. Những bàn
    thờ được lau chùi và sơn phết lại sạch bóng. Một số lớn những
    ngọn đèn mới thắp bằng bơ được đem ra sử dụng; có những ngọn
    đèn bằng vàng và những ngọn đèn khác bằng bạc, nhưng cả thảy
    đều lau chùi bóng láng đến nỗi không thể phân biệt được nữa. Mẹ
    tôi và người quản gia không ngớt chạy tới chạy lui trong nhà, chỉ
    trích, sửa đổi chỗ này, dọn dẹp sắp đặt chỗ kia và ra lệnh cho
    những kẻ gia nô làm việc không hở tay. Cha mẹ tôi có trên năm
    chục người nô bộc giúp việc nhà và có một số khác được thâu dụng
    thêm trong việc tiếp tân. Không một người nào là nhàn rỗi và tất
    cả đều làm việc một cách hăng hái. Sân nhà cũng được quét dọn,
    lau chùi cho đến khi những tảng đá chiếu sáng ngời như mới vừa
    đem ở động đá về. Để làm cho sân nhà có vẻ lộng lẫy, những chỗ
    trống ở giữa các phiến đá cũng được tô thêm một lớp màu. Khi mọi
    việc đều xong xuôi, mẹ tôi tụ tập tất cả gia nhân và ra lệnh cho họ
    hãy mặc đồng phục tươm tất, chỉnh tề.
    Trong nhà bếp, có sự hoạt động ráo riết ngày đêm để chuẩn
    bị đầy đủ các đồ cao lương mỹ vị đãi khách. Xứ Tây Tạng là một
    cái tủ lạnh thiên nhiên, đồ vật thực một khi đã nấu nướng xong, có
    thể để dành rất lâu mà không hư hoại, vì thời tiết lạnh và khô ráo.
    Dẫu cho khi tiết trời nóng bức, bầu không khí khô ráo cũng giữ cho
    các thức ăn không hư. Nhờ đó, thịt có thể để dành suốt năm mà
    vẫn còn tươi và lúa mì có thể để dành suốt nhiều thế kỷ.
    Vì người Phật tử giữ giới bất sát sinh, nên người ta chỉ ăn
    thịt những con thú vì rủi ro bị té chết trong khe núi, hoặc chết bởi
    các tai nạn khác.

    Nhà bếp của gia đình tôi có trữ sẵn nhiều loại thịt này. Ở
    Tây Tạng cũng có những người làm nghề đồ tể, bán thịt nhưng
    những gia đình Phật tử chính thống không giao tiếp với hạng
    người này, vì họ thuộc về một giai cấp hạ tiện, "Bất khả tiếp xúc".
    Mẹ tôi quyết định tiếp tân theo một lối vừa khác thường vừa
    linh đình trọng thể, và đãi khách một món đặc biệt là món mứt
    hoa rhododendron. Vài tuần lễ trước, những kẻ gia nô nhà tôi đã
    cưỡi ngựa đến tận triền núi Tuyết Sơn là nơi có những loại hoa đẹp
    nhất. Ở Tây Tạng, hoa rhododendron mọc rất lớn và có rất nhiều
    loại thuộc đủ các màu sắc và hương thơm. Người ta chọn những
    hoa chưa nở hẳn và đem về rửa sạch một cách rất cẩn thận. Thật
    vậy, nếu một cái hoa hơi nát một chút là làm cho mứt bị hỏng. Kế
    đó, mỗi hoa được để ngâm trong một cái bồn thủy tinh lớn chứa
    đầy nước và mật ong, rồi đậy thật chặt để cho kín gió. Mỗi ngày và
    liên tiếp trong nhiều tuần, bồn hoa được đem phơi nắng và xoay
    trở từng kỳ hạn để cho tất cả các phần của hoa đều được hứng ánh
    nắng cần thiết. Hoa trong bồn nở lớn từ từ và thấm nhuần chất
    nước pha mật ong. Có người thích đem phơi gió vài ngày trước khi
    ăn để cho hoa được khô và hơi giòn, mà vẫn không mất hương vị
    hay sắc tươi của nó. Họ cũng rắc đường lên các cánh hoa để cho nó
    có vẻ đượm tuyết giống như thiên nhiên. Tất cả những phí tổn để
    làm món mứt hoa này làm cho cha tôi nhăn nhó, cằn nhằn. Người
    nói: "Với cái giá tiền để mua những hoa đẹp này, chúng ta có thể
    mua sáu con Yak mẹ cùng với một bầy Yak con." Mẹ tôi đáp với
    một giọng đầy nữ tính:
    - "Ông đừng ngớ ngẩn. Cuộc tiếp tân của chúng ta nhất định
    phải thành công, và dầu sao chăng nữa, những phí tổn này là
    phần việc nội trợ của tôi".
    Món vi cá nhập cảng từ Trung Hoa là một món mỹ vị khác,
    mà người ta dùng để nấu canh. Có người nói rằng món canh vi cá
    là món tuyệt đỉnh của nghệ thuật làm bếp.
    Riêng tôi, tôi nhận thấy món ấy rất dở, và thật là một cực
    hình khi tôi bắt buộc phải ăn món vi cá. Cá mập được chở đến xứ
    Tây Tạng trong một trạng thái mà người ta không còn nhận ra nó
    được nữa! Ta có thể nói một cách ôn hòa là nó hơi kém tươi", điều
    này có người lại cho rằng làm cho vi cá càng trở nên ngon hơn.
    Món măng tre non, cũng nhập cảng từ Trung Hoa, là món ăn
    rất ngon: đó là món tôi thích nhất. Có nhiều cách để nấu măng,
    nhưng tôi thích nhất là ăn sống với một chút muối. Tôi luôn luôn
    chọn những búp măng vàng và xanh để ăn riêng, và bởi có nhiều
    khúc măng để trong bếp bị ngắt đứt đầu trước khi đem lên soong
    chảo. Người đầu bếp có vẻ nghi ngờ tôi, nhưng y không có bằng cớ.
    Thật đáng tiếc, vì chính y cũng thích ăn búp măng sống!
    Ở Tây Tạng, nấu bếp là công việc của đàn ông; phụ nữ cũng
    làm bếp nhưng họ rất vụng về và không chịu cải tiến. Đàn ông có
    sáng kiến hơn và chịu khó hơn, bởi vậy họ nấu ăn rất thiện nghệ.
    Riêng về môn quét dọn và ngồi lê đôi mách, thì phụ nữ chiếm giải
    quán quân, và lẽ tất nhiên họ cũng rất giỏi về vài môn khác nữa.
    Nhưng nhất định là không, nếu nói về việc làm món tsampa.
    Món tsampa là món ăn căn bản của người Tây Tạng. Nhiều
    người Tây Tạng quanh năm chầy tháng chỉ sống bằng món tsampa
    và trà đến suốt đời. Món tsampa làm bằng lúa mạch nha sấy khô
    cho đến khi nó trở thành giòn và có một màu vàng sậm. Những hột
    lúa mạch nha khi đó mới được giã, và tán thành bột, bột này lại
    được nướng lên lần nữa và đặt trong một cái chén, rồi người ta đổ
    vô đó trà nóng trộn với bơ con Yak, một loại bò lông dài. Kế đó
    người ta trộn cho đều để cho nó đông đặc lại thành một thứ bánh
    và cho thêm muối, chất hàn the và bơ con Yak tùy sở thích từng
    người. Thứ bánh đó gọi là tsampa, có thể cuốn tròn lại và cắt
    thành từng khoanh, rồi dọn ra để ăn. Món tsampa là món ăn
    thông thường của hạng người bình dân, nó có đủ chất bổ béo để
    cho người dân Tây Tạng có thể sống dưới mọi khí hậu và trong mọi
    hoàn cảnh.
    Một nhóm gia nô làm món tsampa, một nhóm khác làm bơ
    theo một phương pháp đặc biệt của dân bổn xứ. Những cái bao lớn
    bằng da trừu, bề mặt có lông trộn vào trong, bề trái lộn ngược ra
    ngoài, được dùng làm đồ dụng cụ đánh sữa. Người ta đổ trong các
    bao da đó đầy sữa con Yak hay sữa dê. Để tránh khỏi bị hao hớt,
    phần trên các bao da đó được túm và xếp lại rồi may lại thật chắc.
    Kế đó, những bao da đựng sữa mới được nhồi thật mạnh cho đến
    khi sữa trở thành chất bơ. Để đánh sữa bằng phương pháp này,
    người ta dùng một chỗ có nhô lên những tảng đá bề cao chừng ba
    mươi phân. Sau khi đã đổ đầy sữa vô bao, người ta mới buông
    những bao đó cho rơi xuống các mô đá, việc này gọi là "đánh sữa".
    Chừng mười kẻ gia nô làm công việc này trong nhiều giờ liên tiếp.
    Họ vừa hít một hơi thở vào vừa giơ các bao da lên cao, và buông
    các bao da cho rơi xuống những mô đá với một tiếng động êm dịu
    "zunk". Đôi khi một bao da đã quá cũ hoặc do bởi người đánh sữa
    quá vụng về, thình lình nổ bung ra. Tôi còn nhớ một gia nhân nhà
    tôi rất khỏe mạnh lực lưỡng, y thường hay khoe khoang sức vóc
    của mình. Y làm việc nhanh gấp đôi kẻ khác, và sự cố gắng làm
    gân cổ y nổi vồng lên. Một ngày nọ, có người nói với y: "Anh Timon,
    chắc anh già rồi, vì bây giờ anh làm việc không nhanh bằng khi
    trước."
    Hét lên một tiếng giận dữ, Timon bèn nắm lấy phía trên một
    bao da, giơ lên cao với hai cánh tay khỏe mạnh để buông cho nó rơi
    xuống. Nhưng sức mạnh của y đã phản ngược lại y: Y còn nắm cái
    miệng bao da thì phần dưới đã lở xuống và rớt xuống những mô
    đá. Một cây cột bơ hãy còn hơi lỏng vọt ra và văng trúng ngay vào
    giữa mặt Timon, y "Lãnh đủ" tất cả vào miệng, vào mắt, vào mũi,
    vào tai, vào tóc. Năm chục đến sáu chục lít bơ chảy tuôn xuống dọc
    theo thân mình y và bao phủ y bằng một chất nhờn màu vàng.
    Nghe tiếng động, mẹ tôi hối hả chạy vào. Đó là lần đầu tiên
    trong đời mà tôi thấy mẹ tôi đứng sững nhìn trong im lặng. Có lẽ
    mẹ tôi tức giận vì thấy những bấy nhiêu bơ bị hủy hoại chăng?
    Hay mẹ tôi đang lo ngại cho thằng ngốc đang bị ngẹt thở? Dù rằng
    thế nào, mẹ tôi bèn nắm lấy cái bao da rách bụng và đập một cái
    lên đầu y. Chàng Timon vô phước bèn trượt ngã xuống đất nằm
    sóng sượt trên một cái ao... bơ!
    Những gia nô vụng về như Timon có thể làm hủy hoại mất
    nhiều bơ. Chỉ hơi cẩu thả một chút trong khi buông tay cho cái bao
    rơi xuống là những sợi lông liền tách rời ra khỏi da và lẫn lộn với
    chất sữa. Lượm lấy hai hay hai chục sợi lông trong chất bơ đã làm
    xong, là một điều rất thông thường, nhưng nếu lại thấy có cả chùm
    lông trong đó thì ấy là một điều rất dở. Chất bơ bị hư hoại được cất
    riêng một nơi để dùng đốt đèn, hoặc để bố thí cho những kẻ ăn
    mày, họ sẽ nấu lại và lọc sạch bằng một miếng giẻ cũ để dùng ăn
    lần.
    Những thơ trả lời cho thiệp mời của chúng tôi không bao lâu
    đã đến. Những người kỵ mã phóng nước đại đến nơi, tay vung lên
    những cây gậy nhỏ có chẻ một đầu có đựng những thơ tín. Khi đó
    người quản gia mới bước ra để nghinh đón sứ giả của các nhà quý
    tộc. Sau khi rút bức thông điệp từ trong gậy ra, người sứ giả cũng
    thốt lên một thông điệp truyền khẩu, thậm chí không kịp lấy lại
    hơi thở. Kế đó, y sụm xuống trên hai đầu gối và để rơi mình xuống
    đất trong một giàn cảnh rất khéo léo, dường nhưng để tỏ cho mọi
    người thấy y đã xả thân không quản công lao khó nhọc để làm tròn
    bổn phận và để đến nhà gia đình tôi kịp giờ!
    Trong những dịp đó, những gia nô nhà tôi thường vây chung
    quanh y và nói: "Tội nghiệp thằng nhỏ!" Y đến thật là mau! Thật
    là một kỳ công hãn hữu! Chắc hẳn là y chạy mau đến muốn đứng
    tim. Thật là cao quý thay, một tinh thần phục vụ hăng say như
    thế!"
    Một ngày nọ tôi, đã ngứa miệng xen vào câu chuyện và nói:
    "Ấy không! Y không có chạy mau đến muốn đứng tim! Tôi vừa
    thấy y ngồi nghỉ mệt ở đầu làng gần đây. Chắc y nghỉ lấy sức để
    chạy một đoạn đường cuối cùng!" Sự kín đáo bắt buộc tôi phải bỏ
    qua không nói đến cái cảnh tượng vụng về lúng túng tiếp theo đó.
    Sau cùng, ngày đại nhật đã đến, cái ngày mà tôi vẫn e ngại
    biết bao, vì người ta quyết định cuộc đời tương lai của tôi mà
    không cần hỏi ý kiến của tôi. Những tia nắng đầu tiên của mặt trời
    bình minh vừa ló dạng từ đằng sau các ngọn núi xa ở tận chân
    trời, thì một người gia nô bước vào phòng tôi: "Cậu chưa ngủ dậy ư,
    cậu Lâm Bá? Hay là cậu giả vờ ngủ? Đã bảy giờ rồi, và chúng tôi
    có nhiều việc phải làm. Thôi, cậu hãy thức dậy đi!". Tôi bỏ mền ra
    và ngồi dậy. Ngày đó là ngày mà con đường tương lai sẽ rộng mở
    trước mắt tôi.
    Ở Tây Tạng, trẻ con được gọi bằng tên của nó do cha mẹ đặt
    cho khi còn sống trong gia đình. Nhưng khi một đứa trẻ bước vào
    tu viện, nó nhận được một tên khác, đó là pháp danh của nó. Đó là
    trường hợp của tôi chăng? Phải đợi những giờ sắp tới đây mới biết
    được. Tôi đã lên bảy tuổi và muốn trở nên một người chèo đò để
    thả thuyền lênh đênh trên sông TsangPo, cách đó độ sáu chục cây
    số. Nhưng hãy khoan, để còn xem lại. Tôi có thật sự muốn điều đó
    chăng? Dầu sao, những người chèo đò đều thuộc giai cấp dưới, vì
    những đò của họ đều làm bằng da con Yak đóng trên những cái
    khuôn bằng gỗ. Tôi, một anh lái đò? Tôi, một người thuộc gia cấp
    hạ tiện? Không. Không phải vậy. Tôi muốn trở nên một nhà
    chuyên nghiệp về môn thả diều. Ừ, phải đấy, thả diều trên không
    trung, nhảy tự do như không khí, còn hơn là ngồi trong một chiếc
    đò căng bằng da thú, làm hạ nhân cách và trôi theo dòng nước
    xoáy mạnh nguy hiểm. Một chuyên viên thả diều, đó là điều mà tôi
    muốn làm, và tôi sẽ chế tạo những con diều khổng lồ với những cái
    đầu to lớn và đôi mắt sáng rực như lửa. Nhưng hôm nay, những
    giáo sĩ chiêm tinh sẽ có quyền quyết định. Có lẽ tôi đã chờ đợi quá
    lâu: Nay thì đã quá trễ để nhảy qua cửa sổ và chạy trốn. Cha tôi
    chắc sẽ cho người chạy theo bắt tôi trở lại. Dầu sao, tôi là con nhà
    thế gia vọng tộc và tôi phải tuân theo truyền thống. Biết đâu các
    nhà chiêm tinh chẳng tiên tri rằng tôi sinh ra đời để làm một
    chuyên viên thả diều? Tôi chỉ có thể đợi chờ và hy vọng.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  3. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    2. LỜI TIÊN TRI
    - Vân Kỳ, anh bứng hết tóc của tôi! Dừng tay lại, không thì
    đầu tôi sẽ sói như một ông sãi.
    - Hãy để yên, Lâm Bá. Cái bím tóc của cậu phải được thắt
    cho ngay và thoa bơ cho láng bóng, nếu không thì bà lớn sẽ trừng
    phạt tôi.
    - Hãy nhẹ tay một chút, Vân Kỳ, anh vặn cổ tôi đau quá!
    - Không sao đâu, tôi phải làm gấp mới được.
    Tôi ngồi dưới đất và một kẻ nô lệ phũ phàng với hai bàn tay
    chuối mắn, vặn cái bím tóc tôi như người ta vặn cái "Maniven"
    quay máy xe hơi! Sau cùng cái bím tóc tôi trở nên cứng đơ như một
    con yak bị rét cóng và sáng ngời như ánh trăng rằm trên mặt hồ.
    Mẹ tôi bận rộn quay cuồng như cơn gió lốc; mẹ di chuyển
    trong nhà mau lẹ dường như người có phép phân thân ở nhiều chỗ
    cùng một lúc. Có những chỉ thị vào giờ chót, những sự chuẩn bị
    cuối cùng, và rất nhiều lời lăng xăng dường như một mệnh phụ
    bốn mươi cái xuân. Cha tôi trốn cảnh náo nhiệt ồn ào đó bằng cách
    bế môn và rút lui vào phòng riêng của mình.
    Mẹ tôi quyết định đưa chúng tôi đến JoKang, ngôi đền lớn ở
    thủ đô Lhassa; đó hẳn là vì mẹ tôi muốn cho cuộc lễ tiếp tân được
    diễn ra trong một bầu không khí tôn giáo. Vào lúc mười giờ sáng,
    một tiếng cồng với ba âm điệu khác nhau điểm giờ tựu họp. Chúng
    tôi tất cả đều cưỡi ngựa, cha tôi, mẹ tôi, Yaso và tôi cùng vài người
    trong thân quyến sửa soạn lên đường. Chúng tôi noi theo con
    đường LingKhor, và đi vòng quanh dưới chân điện Potala, một tòa
    cung điện lâu đài nguy nga tráng lệ của vị Đạt Lai Lạt Ma, độ một
    trăm ba mươi thước bề cao và bốn trăm thước chiều dài. Sau khi đi
    qua làng Shô, và đi ngựa mất nửa giờ trên đồng bằng Kyi Chu,
    chúng tôi đã đến trước cửa đền. Chung quanh đền là những ngôi
    nhà trọ, cửa tiệm và chuồng ngựa đợi khách hàng trong những
    đám người hành hương. Từ ngày được dựng lên trước đây mười ba
    thế kỷ, ngôi đền Jo Kang vẫn luôn luôn tiếp đón khách hành
    hương. Ngôi đền cổ đã biểu lộ những nét tàn phá của thời gian.
    Các viên tảng đá dưới nền đã bày ra những đường nứt nẻ sâu đến
    nhiều phân tây do những bước chân dẫm lên của hàng nghìn tín
    đồ. Những tượng thần bằng vàng của nền tôn giáo Tây Tạng được
    xếp thành hàng dài dọc theo các vách tường. Những màn lưới sắt
    dầy và kiên cố giữ gìn những pho tượng này đối với những tín đồ
    mà lòng tham có thể mạnh hơn là lòng tôn sùng. Những tượng
    thần lớn nhất phần nhiều đều tràn ngập đến quá nửa thân mình
    với hàng đống ngọc quý và châu báo mà những người sùng tín cầu
    xin ân huệ thiêng liêng đã đặt lên đó. Trên những chân đèn bằng
    vàng khối, những ngọn bạch lạp được thấp thường xuyên, tỏa ra
    ánh sáng không bao giờ tắt đã từ mười ba thế kỷ.
    Từ những góc âm u của ngôi đền vọng đến tay chúng tôi
    những tiếng chuông ngân, tiếng cồng và tiếng tù và thổi vang tai.
    Chúng tôi noi theo con đường vòng trước chánh điện theo như
    truyền thống bắt buộc, và sau khi đã lễ bái xong, chúng tôi bước
    lên trên nóc bằng của ngôi đền. Nơi đây chỉ có một số ít người có
    đặc quyền được lên. Cha tôi, với tư cách Bảo Thế của Giáo Hội,
    luôn luôn có mặt ở tại đây mỗi khi đến viếng ngôi đền này.
    Tiện đây, tôi xin nói sơ lược về nền chính trị của xứ Tây
    Tạng. Đứng đầu quốc gia và Giáo Hội là đức Đạt Lai Lạt Ma, tục
    gọi là Phật Sống Tây Tạng. Ngài vừa là vị nguyên thủ quốc gia
    cầm quyền chính trị, vừa là nhà lãnh đạo tôn giáo, vừa là vị Thẩm
    phán tối cao cầm cán cân công lý của dân Tây Tạng. Mọi người dân
    bất cứ sang hèn đều có thể thỉnh cầu đến ngài. Nếu một sự khiếu
    nại hay đơn thỉnh nguyện có lý do chính đáng, hoặc trong trường
    hợp có sự bất công oan ức, vị Đạt Lai Lạt Ma sẽ xét xử để thỏa
    mãn các nguyện vọng và san bằng mọi nỗi bất công. Thật không
    phải là quá đáng mà nói rằng tất cả mọi người, không trừ một ai,
    đều yêu mến và kính trọng ngài. Ngài là vị quốc vương có quyền
    hành tuyệt đối. Ngài sử dụng uy quyền thế lực của ngài vì hạnh
    phúc của dân chúng, chứ không bao giờ vì những mục đích ích kỷ.
    Ngài đã tiên đoán sự xâm lăng của quân Trung Cộng từ nhiều
    năm về trước. Ngài cũng biết rằng nền tự do của xứ Tây Tạng tạm
    thời sẽ trải qua một thời kỳ xuống dốc. Vì bởi những lý do đó mà
    một số ít người trong giới tu sĩ được một sự thụ huấn đặc biệt, để
    cho những kiến thức Huyền Môn mà các nhà đạo sĩ thời xưa đã
    góp nhặt từ nhiều thế kỷ sẽ khỏi phải bị mai một và đắm chìm
    trong quên lãng.
    Dưới quyền lãnh đạo của đức Đạt Lai Lạt Ma có hai Hội
    Đồng: Một là Hội Đồng Tôn Giáo, gồm có bốn vị cao tăng ở cấp
    đẳng Lạt Ma. Những vị này đều chịu trách nhiệm trước đấng
    Thậm Thâm (một danh hiệu khác của đức Đạt Lai Lạt Ma. Người
    ta thường gọi ngài là đức Thái Tuế, đấng Thậm Thâm Le Très
    Profond, đấng Khôn Lường, I’Inappréciable.) về những vấn đề liên
    quan đến các tổ chức tu viện Lạt Ma Giáo (lamaseries) và đạo viên
    trong xứ. Tất cả những vấn đề tâm linh và tôn giáo đều phải qua
    tay các vị ấy phát lạc.
    Kế đó là Hội Đồng Nội Các, gồm có bốn vị Tổng Trưởng trong
    số đó có ba vị thuộc thành phần dân chính và một vị là tu sĩ. Các
    vị này nắm quyền cai trị toàn xứ và đảm trách việc hòa hợp Quốc
    Gia vào Giáo Hội thành một khối duy nhất.
    Hai viên chức chính phủ mà người ta có thể gọi là các vị Thủ
    Tướng, làm "Ủy viên liên lạc" với hai Hội Đồng trên, và đệ trình
    những ý kiến của hai Hội Đồng này lên cho đức Đạt Lai Lạt Ma.
    Hai vị ấy đóng một vai trò quan trọng trong những phiên họp rất
    hiếm của Quốc Hội, gồm năm mươi nghị viện đại diện cho các gia
    đình quý tộc và những tu viện lớn nhất của thủ đô Lhassa. Quốc
    Hội chỉ nhóm trong những trường hợp rất khẩn cấp, như hồi năm
    1904 khi đức Đạt Lai Lạt Ma lưu vong tị nạn sang Mông Cổ trước
    sự xâm lăng của quân đội Anh. Về điểm này, tưởng cần giải thích
    rõ rằng sự lưu vong tị nạn của đức Đạt Lai Lạt Ma không có nghĩa
    là Ngài chạy trốn. Chiến tranh ở xứ Tây Tạng có thể ví như một
    cuộc chơi cờ tướng: Bên nào ông tướng bị bắt thì bên đó thua. Đức
    Đạt Lai Lạt Ma là vị Quốc vương của xứ Tây Tạng. Không có ngài,
    thì mọi sự chiến đấu đều trở nên vô ích: Ngài phải được ẩn trú an
    toàn để bảo vệ sự hợp nhất của xứ sở.
    Số nghị sĩ Quốc Hội có thể lên đến bốn trăm người khi nào
    những thân hào nhân sĩ ở các tỉnh tham dự đông đủ các phiên
    nhóm.
    Với thời gian qua, đức Đạt Lai Lạt Ma càng gia tăng quyền
    hành của ngài và không cần đến sự giúp đỡ ý kiến của những Hội
    Đồng hay của Quốc Hội nữa. Xứ Tây Tạng chưa bao giờ có được
    một sự cai trị anh minh và sáng suốt như thế.
    Từ trên nóc đền nhìn ra xa, là một phong cảnh vô cùng
    ngoạn mục. Nằm về phía đông là vùng đồng bằng Lhassa xanh
    tươi, rải rác có những cụm rừng nhỏ với những lùm nhỏ uốn khúc,
    phản chiếu ánh nắng mặt trời như những con rắn bạc, trước khi
    chảy vào sông Tsang Pô ở cách đó sáu mươi cây số. Ở phía bắc và
    nam, những dãy núi cao dựng lên chơm chởm như thành quách
    bao bọc chung quanh các vùng thung lũng và cao nguyên Tây
    Tạng, làm cho dân tộc xứ này sống biệt lập hoàn toàn với thế giới
    bên ngoài. Nhiều tu viện Lạt Ma Giáo được dựng lên trên các triền
    núi. Ở trên những ngọn núi cao hơn, có những đạo viện nhỏ nhô
    lên một cách nguy hiểm trên những sườn núi cheo leo bên bờ vực
    thẳm. Về phía tây, hai ngọn núi song đôi của điện Potala và tu
    viện Chakpori nhô lên ở đằng xa. Giữa hai ngọn núi này, cánh cửa
    Tây Môn chiếu sáng ngời trong ánh sáng bình minh còn sương mờ
    lạnh lẽo. Màu đỏ sậm của nền trời càng nổi bật lên một cách dị
    thường, tương phản với màu tuyết trắng tinh bao phủ các dãy núi
    nhô lên ở phía chân trời.
    Trên đầu chúng tôi, những đám mây lợt lướt nhẹ trong
    không gian. Trong thành phố, ở gần bên, toà Thị Sảnh day lưng
    vào mặt bắc của ngôi đền. Sở Ngân Khố ở sát bên cạnh, cùng với
    những gian hàng, cửa tiệm và chợ búa mà người ta có thể mua đủ
    mọi thứ, thượng vàng hạ cám. Cách đó không xa, ở về phía đông,
    là một tu viện của nữ giới và vùng cư trú của Âm Công.
    Những khách hành hương đã tấp nập trước cửa đền, một
    trong những nơi thánh địa lớn nhất của Phật Giáo. Chúng tôi
    nghe tiếng nói chuyện không ngớt và những tiếng động ồn ào của
    các tín đồ hành hương đến từ những vùng xa xôi với những đồ lễ
    vật mà họ đem cúng dâng với hy vọng được Ơn Trên ban ân huệ.
    Có người đem theo những con thú mà họ đã mua lại ở lò sát sinh
    với những số tiền nhỏ nhoi khiêm tốn của họ. Cứu sống một sinh
    vật dầu đó là một con thú hay một người, là một nghiệp tốt rất lớn
    về phương diện tâm linh.
    Trong khi chúng tôi nhìn xem những cảnh tượng cổ điển đó,
    chúng tôi nghe những tiếng kinh kệ ngân nga của các sư sãi, có
    những giọng thâm trầm của các vị sư già chen lẫn với những giọng
    thanh, nhẹ của những chú tiểu sơ cơ. Tiếng trống và những tiếng
    kèn cũng trỗi dậy vang tai.
    Những sư sãi không bận rộn công việc, chạy tới lui lăng xăng
    không ngớt. Vài vị mặc áo màu vàng, những vị khác mặc màu tím,
    nhưng phần đông mặc áo tràng màu đỏ lợt của những "Sư sãi
    thường", màu hoàn kim và màu đỏ sậm dành cho các sư sãi trong
    điện Potala. Những chú tiểu sơ cơ và các sư sãi cảnh binh mặc áo
    già sậm cũng qua lại lăng xăng. Hầu hết đều có một điểm chung:
    Áo của họ dầu cũ hay mới, đều là áo cà sa vá từng miếng như của
    Đức Phật ngày xưa.
    Những sư sãi có phận sự trong điện Potala mặc một chiếc áo
    vàng ngắn, không tay, ở bên ngoài áo dài của họ. Màu hoàng kim
    được coi như một màu linh thiêng ở Tây Tạng (nó không bao giờ
    phai, bởi nó là một màu tinh khiết), và đó là màu chính thức của
    đức Đạt Lai Lạt Ma. Những sư sãi hay các vị Lạt Ma cao cấp hầu
    cận bên ngoài, có quyền mặc áo ngắn màu vàng phủ ngoài áo của
    họ.
    Từ trên nóc đền Jokang chúng tôi đi về phía điện Potala thì
    thấy có nhiều vị áo vàng đi qua lại. Chúng tôi ngước mắt nhìn lên
    thì thấy những ngọn cờ tôn giáo phất phơ trước gió và những mái
    bầu của ngôi đền chiếu lóng lánh dưới ánh mặt trời.
    Nền trời đỏ thắm trông tuyệt đẹp với những làn mây nhẹ và
    dài, coi dường như một bức tranh vẽ. Chúng tôi vừa đang ngắm
    cảnh mà cảm thấy say sưa ngây ngất, thì mẹ tôi đã gián đoạn cái
    giây phút huyền diệu đó mà nói:
    - Thôi ta đi kẻo mất thời giờ. Mình phải về xem chừng kẻo
    bọn gia nô nó làm hỏng việc.
    Chúng tôi bèn lên ngựa trở về nhà theo con đường Lingkhor,
    mỗi bước chân ngựa vang trên mặt đường lộ càng đưa tôi đến gần,
    điều mà tôi gọi là một cuộc "thử thách", nhưng mẹ tôi thì coi như
    là ngày Đại Nhật của mình.
    Về đến nhà, mẹ tôi xem qua tất cả mọi việc một lần cuối
    cùng, và chúng tôi liền ăn uống một bữa no bụng để chuẩn bị chờ
    những gì sắp đến. Thật vậy, chúng tôi biết rằng trong những dịp
    như thế, những quan khách được thết đãi ăn uống no say, còn
    những người nhà thì phải lo tiếp đãi mà thôi, chớ không được ăn
    uống gì cả.
    Tiếng nhạc trống vang rền báo hiệu các sư sãi nhạc công đã
    đến, họ liền được đưa vào khu vườn phía sau nhà. Họ có mang
    theo những kèn loa, kèn ống, trống, tù và, và đeo chụp chõa trên
    cổ. Họ vừa bước vào khu vườn, vừa nói chuyện huyên thuyên và
    gọi đem rượu bia uống cho thấm giọng để lấy hứng. Những tiếng
    rít chát chúa và tiếng thổi điếc tai của những kèn loa, chiếm trọn
    mất nửa giờ: Các sư sãi đang "Lên dẩy" và thử lại những nhạc khí
    của họ.
    Vị quan khách đầu tiên đã đến, với một đoàn tùy tùng cưỡi
    ngựa theo hầu và cầm những ngọn cờ hiệu bay phất phơ trước gió,
    gây nên những tiếng động ồn ào ngoài sân. Những cổng sắt mở
    toang và các gia nô nhà tôi đứng sắp hàng hai bên cửa vào để
    nghinh tiếp những người mới đến. Vị quản gia cùng với hai người
    phụ tá đứng kèm hai bên, mỗi người cầm nơi tay hàng tá những
    khăn choàng cổ bằng lụa mà người Tây Tạng dùng để dâng cho
    khách như một cách chào hỏi theo phong tục bổn sứ. Có tất cả tám
    loại khăn choàng để dâng cho các vị khách tùy chức vị hay cấp bậc
    cao thấp, và người ta phải biết dâng cái nào cho thích hợp kẻo
    mang lỗi bất kính. Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ ban cho và thu nhận
    những khăn choàng thượng hảo hạng. Những khăn choàng này
    tên gọi là Khata, và đây là nghi thức để dâng biếu: Nếu người gia
    trưởng có cấp bậc ngang hàng với khách, thì y đứng thụt lại ở phía
    sau, và đưa hai tay thẳng tới trước. Người khách cũng làm y như
    vậy. Kế đó, người gia trưởng vái chào và đặt cái khăn choàng lên
    hai cườm tay của vị quý khách, người này cũng đáp lễ, rồi gỡ hai
    cườm tay ra, cầm lấy khăn choàng trở qua lộn lại nơi tay để tỏ ra
    mình chấp nhận món quà biếu, và giao cái khăn cho một người
    hầu cận.
    Nếu người biếu khăn là người ở đẳng cấp rất thấp, thì y quì
    xuống, le lưỡi ra chào (nghi thức này tương đương với cử chỉ ngả
    nón chào của người phương Tây) và đặt cái khăn choàng dưới chân
    khách, kế đó khách đáp lễ bằng cách đặt cái khăn choàng riêng
    của mình vòng quanh cổ người gia trưởng.
    Ở Tây Tạng, mọi quà biếu đều có kèm theo một cái khăn
    choàng thích nghi, hoặc những thơ khen tặng hay văn bằng tưởng
    lệ cũng vậy. Những khăn choàng của chính phủ màu vàng, còn
    những khăn choàng khác màu trắng. Nếu đức Đạt Lai Lạt Ma
    muốn ban một danh dự lớn lao cho một người nào, ngài đặt nơi cổ
    người ấy một khăn choàng cột bằng một sợi chỉ tơ đỏ có ba vòng.
    Và nếu trong khi đó ngài đưa hai bàn tay ra, lòng bàn tay lật ngửa
    lên trời, thì đó là một cái danh dự rất đặc biệt! Thật vậy, người
    Tây Tạng tin chắc rằng quá khứ và tương lai đều có ghi trên
    những đường chỉ trong lòng bàn tay. Đức Đạt Lai Lạt Ma, bằng
    cách lật ngửa hai bàn tay của Ngài, tỏ lòng ưu ái và thiện cảm
    đậm đà nhất. Về sau, tôi được Ngài ban cho cái danh dự đó hai
    lần.
    Đây nói về người quản gia đứng tiếp đón khách trước cửa với
    hai người phụ tá ở hai bên. Y chào khách và nhận khăn choàng
    của khách rồi đưa qua cho người phụ tá đứng bên tả. Trong khi đó
    người phụ tá đứng bên hữu đưa cho y một khăn choàng thích nghi
    mà y đặt lên cườm tay hay lên cổ của người khách, tùy theo cấp
    bậc tương xứng. Tất cả những khăn choàng này đều được sử dụng
    lại rất nhiều lần.
    Vị quản gia và hai người phụ tá mỗi lúc càng thêm bận rộn,
    vì quan khách đến mỗi lúc càng đông. Dầu cho họ đến từ những
    trang trại láng giềng, từ thành phố Lhassa, hay từ những vùng
    ngoại ô, những đoàn kỵ mã tùy tùng của họ luôn luôn đến bằng
    Lingkhor, rồi đi vào con đường nhỏ thuộc địa phận của gia tộc
    chúng tôi, ở dưới bóng mát của điện Potala. Những bà mệnh phụ
    phu nhân phải đi bằng ngựa trong nhiều giờ, dùng một cái mặt nạ
    bằng da để che mặt cho khỏi bị những ngọn gió lốc có quến đầy cát
    bụi. Trên các mặt nạ ấy thường có phác họa những nét chân dung
    của vị chủ nhân. Khi đến nơi, các bà mới lột mặt nạ ra và đồng
    thời cởi luôn cái áo tơi bằng da con Yak. Những bức chân dung ấy
    luôn luôn làm tôi thích thú: Các bà càng già và xấu, thì những bức
    chân dung vẽ trên mặt nạ lại càng trẻ và đẹp!
    Một sự hoạt động tấp nập diễn ra trong nhà tôi. Những gia
    nô không ngớt đem ra những tấm nệm cho khách ngồi. Ở Tây
    Tạng người ta không ngồi trên ghế, mà ngồi trên tấm nệm độ một
    thước vuông và dày độ hai mươi phân. Ban đêm, người ta ghép
    nhiều tấm nệm lại để làm chỗ ngủ, và chúng tôi thấy nằm ngồi
    trên nệm thoải mái dễ chịu hơn là ngồi trên ghế bành hay nằm
    trên giường.
    Khi khách vừa đến, họ được mời dùng trà pha bơ; và kế đó họ
    được đưa vào phòng ăn. Tại đây, đủ các thức ăn đã dọn sẵn và
    khách có thể ăn uống tùy thích trong khi chờ đợi cuộc tiếp tân thật
    sự bắt đầu. Bốn mươi vị phu nhân thuộc gia đình quyền quý đã
    đến cùng với những vị quý bà tâm phúc của họ. Trong khi mẹ tôi
    đang tiếp đón một nhóm các bà mệnh phụ này, thì một nhóm các
    bà khác đi dạo khắp nơi trong nhà, ngắm nhìn bàn ghế và thưởng
    thức trị giá các đồ vật trang hoàng. Thật chẳng khác nào một cuộc
    "Xâm lăng" vĩ đại: Các bà khách có mặt ở khắp nơi, đủ các hình
    dạng, đủ các màu sắc, đủ mọi hạng tuổi. Có vài bà xuất hiện ở
    những chỗ bất ngờ nhất và không chút do dự, cất tiếng hỏi bọn gia
    nô giá tiền của món đồ này, hay giá trị của món vật khác. Nói tóm
    lại, các bà xử sự như tất cả mọi người đàn bà khác trên thế giới.
    Đó cũng là sự thường tình. Chị Yaso của tôi đủng đỉnh trong một
    bộ lễ phục mới toanh và bới đầu theo kiểu mới nhất, hay ít ra đó là
    chị nghĩ như vậy. Tôi thì cho rằng kiểu tóc của chị thật lố lăng,
    nhưng tôi luôn luôn vẫn có óc chỉ trích những việc làm của nữ giới.
    Dầu sao, có điều chắc chắn là ngày hôm đó tôi thấy các bà có vẻ tự
    do xâm lăng một cách độc đáo.
    Để làm cho cuộc tiếp tân càng sôi nổi đình đám hơn nữa,
    những cô gái kiểu mẫu cũng có mặt trong hàng quan khách. Ở Tây
    Tạng, một vị phu nhân thuộc dòng sang phải có rất nhiều y phục
    sang trọng và đồ nữ trang quý giá. Những bộ y phục này cần phải
    được triển lãm vào những dịp giao tế công cộng, nhưng vì người ta
    không thể làm như vậy nếu không thay đổi y phục thường xuyên,
    nên những cô gái được huấn luyện đặc biệt, gọi là "Chủng nữ",
    được dùng làm kiểu mẫu. Bởi đó, những cô chủng nữ này khoác
    vào những bộ y phục và đeo đồ nữ trang của mẹ tôi, và vừa ngồi
    len lỏi trong đám quan khách vừa uống hàng tá đếm không hết
    những chén trà pha bơ, trước khi đi thay bộ y phục khác và đeo
    những đồ nữ trang khác. Lẫn lộn trong hàng quan khách, các cô
    ấy cũng giúp đỡ mẹ tôi trong vai trò nữ chủ nhân. Trong một ngày,
    các cô "Chủng nữ" đó có thể thay đổi y phục và nữ trang đến năm
    sáu lần.
    Các quý khách bên nam giới thì chú ý nhiều hơn đến những
    trò chơi tiêu khiển ở trong vườn. Người ta đã cho một đoàn trò xiếc
    đến để giúp vui. Ba người trong đoàn này cầm dựng đứng một cây
    sào cao năm thước, trên chót hết có một người nữa chổng ngược
    đầu và giữ thăng bằng trên đỉnh cây sào. Khi đó, cây sào bị giật ra
    thình lình và người làm trò xiếc nhẹ mình rơi xuống đất trên hai
    chân như một con mèo. Những đứa trẻ con nhìn xem trò xiếc này
    bèn rủ nhau ra một chỗ vắng để bắt chước. Chúng tìm được một
    cây sào cao độ hai, ba thước và cầm dựng đứng lên. Một đứa trẻ
    gan lì nhất trèo lên. Nhưng ơ kìa, khi y thử chổng ngược đầu lên
    cây sào, y mất thăng bằng và rơi xuống như một tảng đá lên đầu
    những đứa khác. Nhưng may thay, những đứa này có một cái sọ
    khá cứng, và ngoài những cục u to bằng những quả trứng vịt ra,
    không ai bị thương nặng.
    Mẹ tôi xuất hiện trong khu vườn, người hướng dẫn một nhóm
    các bà phu nhân muốn xem các trò biểu diễn và nghe nhạc. Điều
    này không khó, vì các sư sãi nhạc công đã có đủ thời giờ để sưởi ấm
    lòng bằng những chầu rượu bia dồi dào thỏa thích.
    Mẹ tôi ăn mặc một cách long trọng đặc biệt: Áo kỵ mã
    "Bolero" ngắn màu vàng tím, trên một cái "Jupe" bằng nỉ màu đỏ
    sậm dài đến gót chân. Những đôi ủng rất cao bằng nỉ trắng tinh
    với những gót đỏ thắm và những sợi dây ủng rất đẹp làm nổi bật
    màu y phục một cách rất mỹ thuật. Bên trong chiếc áo kỵ mã, mẹ
    tôi mặc một áo lót bằng lụa đỏ. Phủ bên ngoài là một cái khăn
    choàng bằng lụa thêu vắt ngang trước ngực từ vai bên mặt qua
    hông bên trái và cột lại ở bên hông với một cái khoen bằng vàng
    khối. Cái khăn choàng này thòng xuống đến tận lưng, có màu đỏ
    thắm ở phía trên dây lưng, và chuyển qua màu vàng lợt đến màu
    vàng nghệ rất đậm.
    Mẹ tôi đeo trên cổ ba gói bùa cột bằng một sợi dây vàng, mà
    mẹ tội không lúc nào rời. Ba gói bùa này là những món quà cưới
    của mẹ tội, hai gói là quà tặng của gia đình, và gói thứ ba, một
    danh dự đặc biệt, là quà tặng của đức Đạt Lai Lạt Ma. Mẹ tôi cũng
    đeo đồ nữ trang rất quý giá, vì ở Tây Tạng những đồ nữ trang của
    một vị phu nhân nhiều hay ít tùy ở cấp đẳng của họ trong xã hội.
    Bởi đó, một người chồng phải tặng đồ vàng ngọc cho vợ mỗi khi
    được thăng quan tiến chức.
    Phải mất nhiều ngày để làm đầu tóc của mẹ tôi, với tất cả
    một trăm lẻ tám lọn tóc. Số một trăm lẻ tám là một số linh thiêng,
    và những phụ nữ có nhiều tóc để có thể kết thành bấy nhiêu lọn
    rất được hâm mộ. Đầu tóc của mẹ tôi chia làm hai phần có một
    đường chẻ ở giữa, được kết lại bởi một cái mão bằng cây đặt trên
    đỉnh đầu như một cái nón. Mão này sơn màu đỏ thắm, có nhận
    kim cương chiếu lóng lánh, cẩn vàng và ngọc thạch. Mẹ tôi đeo
    một đôi hoa tai bằng san hô rất lớn và nặng đến nỗi để cho trái tai
    khỏi bị quá căng và có thể đứt ra, người phải giữ nó lại bằng một
    sợi chỉ đỏ quấn chung quanh vành tai, và đầu sợi chỉ thòng xuống
    gần đụng tới dây lưng. Tôi ngắm nhìn mẹ tôi mà phải nhìn nhận
    rằng mẹ tôi rất đẹp. Tuy nhiên, với đôi bông tai nặng như thế, mẹ
    tôi làm sao quay đầu lại phía sau?
    Những quan khách đi bách bộ dạo chơi, vừa ngắm cảnh trong
    các khu vườn vừa trằm trồ khen ngợi. Những vị khách ngồi riêng
    từng nhóm để trao đổi những câu chuyện vặt. Nhất là các bà thì
    không để lở mất một phút nào mà không nói chuyện của người
    láng giềng...
    Nhưng thật sự, tất cả đều đợi chờ đến phần chính của buổi
    tiếp tân, kỳ dư các mục khác trong chương trình chỉ là một sự
    chuẩn bị tinh thần để đưa họ đến cái giờ phút quan trọng khi các
    nhà đạo sĩ chiêm tinh nói tiên tri về bước đường tương lai của tôi.
    Cuộc đời tôi sau này sẽ tùy thuộc nơi quyết định của họ.
    Ngày đã sắp tàn, khi ánh tà dương kéo dài những bóng đen
    của mọi vật và cây cỏ trên mặt đất, các quan khách đều tỏ ra uể
    oải đối với các trò giúp vui và tiêu khiển. Bửa tiệc no say đặt họ
    trong một trạng thái thụ cảm. Những kẻ gia nô mệt mỏi vẫn còn
    đem thêm thức ăn lên bàn khi những dĩa chén đã cạn, nhưng sau
    cùng mọi người đã ăn uống no đủ với giờ khắc trôi qua. Những
    người làm trò xiếc giúp vui cũng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, hết
    người nọ đến người kia, họ lần lần rút lui, đi vào nhà bếp nghỉ ngơi
    và gọi thêm một chầu rượu bia cuối cùng.
    Các nhạc công vẫn còn sắc diện tươi tắn, thổi kèn loa, đánh
    chụp chõa và đánh trống một cách đầy hứng khởi. Trên những tàn
    cây to, loài chim sợ hãi vì tiếng động ồn ào đã rời khỏi những tổ
    quen thuộc của chúng.
    Không phải chỉ có chim là biết sợ sệt. Những con mèo cũng
    đã biến mất dạng và ẩn núp trong những chỗ kín đáo từ khi những
    quan khách đầu tiên cùng các đoàn tùy tùng rầm rộ đến nhà.
    Những con chó ngao đen lớn của nhà tôi cũng êm hơi lắng tiếng,
    giấc ngủ đã khớp mỏ chúng. Chúng đã ăn uống no bụng đến mức
    không còn sức để ăn nữa.
    Trời càng tối dần trong những khu vườn. Mùi hương thơm
    ngát xông lên từ những bình lư hương khói trầm nghi ngút.
    Những khu vườn của cha tôi nổi tiếng khắp sứ Tây Tạng vì những
    kỳ hoa dị thảo và những hòn non bộ vĩ đại nhập cảng từ Trung
    Hoa. Có những cây lê, cây táo, cây mơ lùn thấp, bên cạnh những
    cây cổ thụ cao lớn, trên tàn cây có cắm cờ xí bay phất phơ dưới
    ngọn gió nhẹ ban chiều.
    Sau cùng, vầng hồng đã khuất dạng sau những dãy núi
    Tuyết Sơn xa tít tận chân trời: Một ngày đã chấm dứt. Từ những
    tu viện Lạc Ma giáo vọng đến tiếng kèn điểm giờ khắc trôi qua;
    hằng trăm ngọn đèn bơ đã được thắp sáng khắp nơi, trên các cành
    cây, dưới những mái nhà, và có những ngọn đèn khác thả lướt nhẹ
    trên mặt nước êm đềm của ao sen trong vườn nhà. Chỗ này, có
    ngọn đèn bị kẹt trong các lá sen chẳng khác nào những chiếc tàu
    bị kẹt trên bãi cát, và chỗ kia, vài ngọn đèn trôi lênh đênh phiêu
    bạt về cái cù lao nơi đó những con hạc sẽ trú ngụ lúc ban đêm.
    Một tiếng cồng vừa điểm, mọi người quay đầu nhìn lại: Một
    cuộc diễn hành từ đằng xa sắp sửa đến gần. Trong khu vườn nhà,
    đã dựng sẵn một cái lều rất lớn, màn treo trướng rũ. Cửa lều mở
    rộng, bên trong có đặt một cái sàn gỗ và bốn cái đôn Tây Tạng làm
    chỗ ngồi.
    Đoàn người diễn hành bước đến trước liều, do bốn người gia
    nhân của nhà tôi cầm đuốc dẫn đường. Theo sau họ là bốn người
    nhạc công thổi kèn loa bằng bạc. Kế đó, cha tôi, mẹ tôi, bước lên
    sàn gỗ cùng với hai vị trưởng lão, là những bậc giáo sĩ kiêm chức
    Thiên Giám Quan, đảm nhiệm việc tiên tri các điều họa phước của
    quốc gia.
    Những vị trưởng lão này, xuất xứ từ vùng Nechung, là
    những nhà chiêm tinh giỏi nhất của xứ Tây Tạng. Những lời tiên
    tri của các vị nhiều lần tỏ ra đã chính xác và đúng như các sự việc
    đã xảy ra về sau. Một tuần lễ trước đó, đức Đạt Lai Lạt Ma đã mời
    các vị đến để nhìn xem tương lai của một đứa trẻ lên bảy tuổi. Hai
    vị ấy đã lấy lá số của tôi và nghiên cứu cặn kẽ từng ly từng tí trong
    nhiều ngày những ảnh hưởng của các vì tinh tú.
    Hai vị Lạt Ma đem theo lá số chiêm tinh và những bảng
    đoán số. Hai vị khác tiến đến và đỡ hai vị Thiên Giám Quan già
    bước lên sàn gỗ, trên đó hai vị này ngồi sát cạnh nhau như hai pho
    tượng bằng ngà. Những chiếc áo rộng bằng lụa Trung Hoa màu
    vàng lại càng làm nổi bật tuổi tác cao niên của họ. Họ đội trên đầu
    chiếc mão lớn của các đạo sĩ mà trọng lượng có vẻ quá nặng đối với
    những cái cổ nhăn nheo của họ. Các quan khách đều vây chung
    quanh cái sàn gỗ và ngồi trên những tấm nệm trải dưới đất.
    Những câu chuyện đều ngưng bặt, mọi người đều lắng tai nghe lời
    phán quyết của vị niên trưởng trong hai vị Thiên Giám Quan lão
    thành. Vị niên trưởng bắt đầu nói bằng một giọng nhẹ nhàng:
    - "Lha dre mig cho nang chig". (Quỷ thần và nhân gian cùng
    bị chi phối như nhau bởi những định luật huyền bí trong vũ trụ. Ý
    nói: Người ta có thể tiên đoán việc tương lai.)
    Bằng một giọng trầm, vị Thiên Giám Quan cao niên nói tiên
    tri suốt một tiếng đồng hồ. Kế đó, người nghỉ ngơi trong mười
    phút, và lại nói thêm một giờ nữa, khi đó, người tiếp tục vạch trần
    tương lai của tôi dưới những nét đại cương.
    - "Lạ quá, thật là kỳ diệu!" toàn thể cử tọa bất giác thốt lên
    trong khi họ đang đắm chìm trong một cơn thích thú mê ly.
    Như thế, người ta đã nói cho tôi biết trước tương lai của tôi:
    "Sau một giai đoạn thử thách cam go gian khổ, đương số sẽ là một
    đứa trẻ lên bảy tuổi, sẽ bước chân vào tu viện để được thụ huấn
    như một tu sĩ kiêm y sĩ giải phẫu. Y sẽ gặp nhiều nghịch cảnh
    gian lao, sẽ rời khỏi xứ sở và sống ở ngoại quốc. Y sẽ mất hết tất
    cả, sẽ phải làm lại cuộc đời từ con số không và sau cùng y sẽ thành
    công".
    Cuộc tiên tri đã bế mạc, các quan khách cũng đã giải tán lần
    lần. Những vị khách ở xa còn nán lại nhà tôi một đêm để sáng
    ngày hôm sau lên đường. Những người khác trở về ngay đêm đó
    cùng với gia nhân tùy tùng của họ dưới ánh sáng của những ngọn
    đuốc. Họ tựu hợp ở ngoài sân, giữa những tiếng ngựa khua móng
    sắt trên nền đá và những tiếng người kêu gọi lẫn nhau.
    Một lần nữa, cái cổng sắt nặng nề lại mở toang ầm ĩ để cho
    đoàn người ngựa đi qua. Tiếng chân ngựa khua vang và những
    giọng nói chuyện trò của họ nghe đã thưa dần, và sau cùng chỉ còn
    lại cái im lặng của ban đêm.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  4. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    Trong nhà tôi, vẫn còn sự hoạt động nhộn nhịp ồn ào. Trà bơ
    được rót ra như suối chảy và thức ăn được dọn ra vào giờ chót để
    đãi những quan khách còn ở lại đêm nay. Tất cả các gian phòng
    trong nhà đều bị chiếm đóng; không còn phòng nào cho tôi. Tôi đi
    thẫn thơ, lòng buồn man mác; để giết thời giờ, tôi vừa đi bách bộ
    vừa đá những viên sỏi và tất cả những gì nằm dưới chân tôi,
    nhưng sự bận rộn đó cũng không đủ làm cho tôi giải khuây. Không
    ai chú ý đến tôi: Những quan khách đều đã mỏi mê và được hài
    lòng, còn những gia nô thì mệt nhoài và bực bội. Tôi thầm nghĩ và
    cằn nhằn:
    - Loài ngựa có lẽ dễ thông cảm hơn. Ta sẽ ngủ chung với
    ngựa đêm nay.
    Những chuồng ngựa đều ấm áp, và nằm trên đống rơm rạ
    cũng êm lưng, nhưng giấc ngủ khó đến. Mỗi khi tôi chợp mắt thiếp
    đi, thì một con ngựa lại thúc đẩy tôi, hoặc tôi bị đánh thức một
    cách đột ngột bởi một tiếng động từ trong nhà. Lần lần, mọi vật
    đều đắm chìm trong im lặng. Tôi ngồi nhổm dậy nhìn ra ngoài, thì
    thấy đèn lửa lần lần đã tắt. Trong giây lát, chỉ còn lại ánh trăng
    lạnh lùng phản chiếu sáng ngời trên những ngọn núi đầy tuyết
    phủ. Những con ngựa đã ngủ, có con ngủ đứng, có con nằm nghiên
    qua một bên. Sau cùng tôi cũng đã ngủ thiếp đi. Sáng ngày hôm
    sau, tôi bị đánh thức dậy một cách phủ phàng, có người nói với tôi:
    - Dậy đi Lâm Bá. Tôi còn phải thắng yên ngựa, mà cậu nằm
    choán hết chỗ.
    Thành thử tôi đứng dậy đi về nhà để kiếm thức ăn đỡ dạ.
    Trong nhà, đang có sự náo động ồn ào. Các quan khách sửa soạn
    ra về và mẹ tôi chạy từ nhóm này sang nhóm khác để tiễn đưa
    khách. Cha tôi thì bàn về việc sửa nhà và vườn cho đẹp thêm.
    Người nói cho một ông bạn già biết ý định sẽ nhập cảng kính thủy
    tinh từ Ấn Độ để làm cửa sổ. Ở Tây Tạng không có kính, người ta
    không chế tạo kính trong xứ, và thật là tốn kém mà nhập cảng
    kính từ Ấn Độ. Cửa sổ các nhà ở Tây Tạng có những khuôn gỗ trên
    đó có căn một thứ giấy sáp sáng đục nhưng không trong suốt.
    Những cánh cửa sổ bằng gỗ nặng được gắn ở ngoài, không phải để
    phòng kẻ gian phi, mà để tránh những cơn bão cát. Cơn bão cát
    này, đôi khi có quện theo những viên sỏi nhỏ, có thể làm gãy nát
    những cửa sổ trơn, không có phòng vệ. Nó cũng có thể cắt đứt da
    thịt trên mặt và trên bàn tay với những vết cắt rất sâu; bởi vậy
    thật rất nguy hiểm mà đi du lịch trong những mùa gió lớn. Dân
    chúng thủ đô Lahassa luôn luôn để ý coi chừng ngọn núi của điện
    Potala. Nếu thình lình nó biến mất dưới một đám sương mù đen
    kịt, mọi người sẽ lo kiếm chỗ ẩn núp an toàn để tránh bão. Nhưng
    không phải chỉ có loài người là mới báo động: Loài vật cũng biết
    trước khi sắp có bão và các loài chó, ngựa thường đi trước người ta
    để kiếm chỗ ẩn núp. Loài mèo không bao giờ bị bão làm hại, và
    loài Yak không có gì phải sợ. Sau khi người khách cuối cùng đã rời
    khỏi nhà, cha tôi cho gọi tôi và nói:
    - Con hãy đi chợ mua sắm những thứ cần dùng, Ông Tzu biết
    con phải mua sắm những vật gì.
    Tôi nghĩ đến những đồ dùng cần thiết: Một cái chén đựng
    tsampa bằng gỗ, một cái dĩa bạc và một xâu chuỗi gồm một trăm lẻ
    tám hột bằng gỗ đánh bóng. Số một trăm lẻ tám này là một con số
    linh thiêng, nó cũng chỉ bấy nhiêu những điều giới răn mà một vị
    sư sãi cần phải nhớ.
    Chúng tôi lên đường ra chợ, ông Tzu cưỡi ngựa còn tôi cưỡi
    lừa. Sau khi qua nhiều khúc đường quanh co, chúng tôi đã đến
    khu chợ buôn bán tấp nập. Tôi nhìn quanh dường như đó là
    chuyến đi đầu tiên. Nhưng trong thâm tâm, tôi e ngại rằng đó là
    chuyến đi cuối cùng! Những tay thương buôn vừa đến Lhassa, tràn
    vào các cửa tiệm và tranh luận sôi nổi để định giá hàng. Có người
    đem trà sang đây từ Trung Hoa, những người khác đem tơ lụa từ
    bên Ấn Độ. Chúng tôi vạch đường đi xuyên qua đám rừng người
    đến những cửa tiệm có những đồ vật mà tôi cần dùng. Thỉnh
    thoảng ông Tzu trao đổi lời chào hỏi với một bạn già quen từ hồi
    niên thiếu.
    Tôi cần mua một áo tràng màu đỏ sậm, cỡ lớn, không phải
    chỉ vì lý do tôi sẽ lớn thêm, mà cũng vì một lý do khác rất thực tế.
    Ở xứ này, những người lớn mặc áo rất rộng, nịt sát lưng. Phần
    trên chiếc áo có thể dùng như một cái túi đựng mọi thứ cần dùng.
    Một sư sãi "Trung bình" chẳng hạn, đem theo trong cái túi đó một
    chén ăn tsampa, một cái dĩa, một con dao, vài thứ bùa phép, một
    bao gạo mạch nha đã sấy và thường là một ít tsampa. Nhưng ta
    đừng quên rằng một sư sãi luôn luôn đem theo trong mình tất cả
    những gì y sở hữu trên thế gian này.
    Ông Tzu kiểm soát việc sắm sửa của tôi. Tôi chỉ được mua
    những gì tối cần thiết, tất cả đều là những hạng rất xoàng, tương
    xứng với một "Chú tiểu sơ cơ nghèo": Một đôi dép bằng da con Yak,
    một cái bọc nhỏ để đựng gạo mạch nha sấy, một cái chén bằng gỗ,
    một cái dĩa cũng bằng gỗ (chứ không phải bằng bạc!) và một con
    dao. Thêm vào đó là một xâu chuỗi hạng thường mà tôi phải tự
    mình đánh bóng tất cả một trăm lẻ tám hột; đó là tất cả những gì
    mà tôi được mua sắm. Cha tôi là một nhà quý tộc tỷ phú, có những
    tài sản rộng lớn khắp nơi trong xứ, nhưng trong một thời gian tập
    sự làm một tu sĩ, và ngày nào cha tôi còn sống tôi phải là một chú
    tiểu nghèo mà thôi.
    Tôi còn nhìn một lần cuối, đường xá và dãy nhà hai tầng ở
    hai bên. Tôi cũng nhìn cả những tiệm bán hàng hóa treo lủng lẳng
    những khúc vi cá mập và những yên ngựa ở trước cửa. Một lần
    nữa, tôi lắng tai nghe những lời nói đùa của những người lái buôn
    và những câu trả giá vui vẻ của những khách hàng. Tôi chưa từng
    thấy con đường này có vẻ ấm cúng dễ chịu như thế bao giờ, tôi ước
    ao cái số phận của những người nhìn thấy nó hằng ngày và sẽ tiếp
    tục sống hằng ngày ở tại đây. Những con chó hoang đi rong khắp
    chốn, đưa mũi đánh hơi vật nọ vật kia, và cất tiếng sủa vang;
    những con ngựa đợi chủ ra lệnh cất vó, thỉnh thoảng lại hí lên một
    tràng dài. Những con Yak vừa thốt ra những tiếng kêu khàn
    giọng, vừa len lỏi giữa những đám người bộ hành. Có bao nhiêu sự
    bí ẩn ở đằng sau những cửa sổ bọc giấy sáp kia! Có hằng bao nhiêu
    những hàng hóa lạ lùng đến từ bốn phương trời, đã được chở xuyên
    qua những cánh cửa gỗ chắc nịch kia, và có bao nhiêu giai thoại kỳ
    thú mà những cánh cửa sổ mở kia có thể thuật cho ta nghe nếu
    chúng biết nói. Tôi nhìn tất cả những vật ấy dường như là những
    vật đã quen thuộc từ lâu. Tôi không hề nghĩ rằng có ngày tôi sẽ tái
    ngộ những cảnh vật trên các đường phố này, dầu rằng thỉnh
    thoảng chỉ một đôi lần. Tôi nghĩ đến những gì tôi muốn làm,
    những gì tôi muốn mua. Sự mơ mộng của tôi bỗng nhiên bị gián
    đoạn một cách phũ phàng. Một bàn tay vừa to lớn vừa hăm dọa, hạ
    xuống trước mặt tôi, kéo vành tai tôi và vặn xoay nó một vòng đau
    kinh khủng. Ông Tzu quát to, dường như muốn cho cả thế giới đều
    nghe:
    - Lâm Bá, mi đã biến thành pho tượng đá rồi chăng? Ta tự
    hỏi không biết những thiếu niên đời nay nuôi những gì trong óc
    của chúng. Vào thời buổi của ta, không hề có như vậy.
    Ông Tzu có vẻ bất cần về việc tôi sẽ bị đứt một vành tai nếu
    tôi cứ đứng yên một chỗ, hay tôi muốn giữ nó lại bằng cách đi theo
    ông. Tôi có thể làm gì được ngoài ra việc "Tranh thủ thời gian?"
    Trên đường về, ông Tzu vừa cưỡi ngựa đi trước vừa cằn nhằn và
    chỉ trích rõ rệt "Cái thế hệ hiện kim, gồm toàn những bọn vô ích,
    lười biếng, bất trị, và luôn luôn mơ tưởng chuyên trên mây".
    Nhưng khi vừa đến đường lộ Lingkhor, chúng tôi gặp một cơn gió
    lớn thổi mạnh. Tôi bèn nép mình vào phía sau cái thớt lưng khổng
    lồ của ông Tzu để tránh cơn giông.
    Khi tôi về đến nhà, mẹ tôi liếc mắt nhìn qua những đồ vật
    dụng mà tôi đã mua. Tôi lấy làm thất vọng khi mẹ tôi cho rằng
    những vật ấy cũng khá tốt đối với tôi. Tôi vẫn hy vọng rằng mẹ tôi
    sẽ quở trách ông Tzu, và sẽ cho phép tôi mua những đồ dùng có
    phẩm chất tốt hơn. Một lần nữa, những hy vọng của tôi về cái dĩa
    bằng bạc lại tiêu tan như mây khói, và tôi phải chấp nhận cái dĩa
    bằng gỗ mua ở một tiệm tạp hóa ở Lhassa.
    Trong tuần lễ cuối cùng, người ta không để tôi sống yên lặng
    một mình. Mẹ tôi bắt buộc tôi phải đi theo người để viếng thăm các
    gia đình quý tộc ở Lhassa và để chào từ giã, trước khi tôi lên
    đường xuất gia để bước vào tu viện.
    Mẹ tôi rất thích những dịp xuất hành như thế, những cuộc
    viếng thăm xã giao và nói chuyện hàn huyên, nó gồm một phần
    chương trình hằng ngày của mẹ tôi. Tôi cảm thấy chán ngấy; đối
    với tôi, những cuộc viếng thăm đó là những cực hình vì tôi không
    có năng khiếu để hòa mình một cách vui vẻ với những kẻ phàm
    tục. Tôi chỉ muốn chơi đùa thỏa thích ở ngoài trời trong những
    ngày còn lại, thả diều, nhảy sào hay bắn cung; nhưng thay vì được
    tự do tiêu khiển, tôi bị lôi kéo đi khắp nơi như một con Yak trúng
    giải hạng nhất, và trình diện với những bà nhạt nhẽo vô duyên, họ
    không có việc gì làm khác hơn là ngồi suốt ngày trên nệm nhung
    êm ấm và sai bảo kẻ tôi tớ.
    Không phải chỉ có mẹ tôi mới làm tôi bực mình. Tôi còn phải
    đi theo cha tôi đến tu viện Lạt Ma Giáo Drebung. Tu viện này là
    tu viện lớn nhất thế giới, với tất cả mười ngàn sư sãi, với những
    ngôi đền cao vút, và nhà cửa dinh thự xây bằng đá. Đó là một cộng
    đồng tu viện, một thành phố có tường rào chung quanh, và cũng
    như mọi thành phố, nó có thể sống tự túc. Drebung có nghĩa là
    "Núi Gạo", và thật vậy, nó giống như một đống gạo chất lên thành
    núi nếu nhìn từ đằng xa, với những đài cao và mái bầu chiếu rạng
    ngời duới ánh nắng. Nhưng tôi không còn lòng dạ nào để thưởng
    thức cái đẹp của những công trình kiến trúc thẩm mỹ: Tôi cảm
    thấy se lòng mà phải lãng phí một thời giờ rất quý báu đối với tôi.
    Cha tôi có việc cần bàn luận với vị Sư Trưởng và các vị phụ tá, nên
    tôi chỉ có thể đi thất thiểu một mình trong tu viện, như một vật vô
    chủ trôi giạt lênh đênh sau cơn bão tố. Khi tôi thấy cách cư xử của
    người lớn đối với vài kẻ thiếu nhi sơ cơ, tôi có những cơn sợ hãi đến
    rùng mình.
    Drebung thật là bảy tu viện sáp nhập làm một, gồm có bảy
    dòng tu, và bảy giáo đường khác nhau. Thật quá lớn lao đồ sộ để có
    thể đặt dưới sự điều khiển của một người; bởi vậy có đến mười bốn
    vị Sư Trưởng, tất cả đều chủ trương một kỷ luật sắt, đảm nhiệm
    lấy công việc cai quản tu viện này.
    Khi cuộc viếng thăm kết thúc, tôi cảm thấy rất sung sướng,
    nhưng tôi còn hài lòng hơn khi được biết tôi sẽ không vào tu viện
    Drebung hay tu viện Sera, ở độ năm cây số phía bắc thủ đô
    Lhassa.
    Tuần lễ cuối cùng đã chấm dứt. Người ta tịch thu những con
    diều của tôi để làm quà cho kẻ khác; những cung tên của tôi bẻ
    gẫy để làm cho tôi hiểu rằng tôi không còn là một đứa trẻ con, và
    bởi vậy tôi không còn cần những món đồ chơi đó nữa. Tôi có cảm
    tưởng rằng quả tim tôi muốn vỡ nát, nhưng dường như không ai
    chú ý đến điều ấy.
    Đêm hôm ấy, cha tôi gọi tôi vào phòng giấy của người; đó là
    một gian phòng trang trí rất mỹ thuật, có bày những pho sách cổ
    rất quý giá. Cha tôi ngồi gần bên bàn thờ tổ tiên và ra lệnh cho tôi
    quì trước mặt người để bắt đầu nghi lễ đọc quyển Gia Phả của
    giòng họ nhà tôi. Lịch sử của gia đình tôi từ bao nhiêu thế kỷ
    trước, được ghi chép trong quyển sách khổng lồ đó, bề dày đến một
    thước rưỡi và bề ngang ba tấc. Trong ấy có ghi tên họ các vị tổ tiên
    sáng lập của giòng họ nhà tôi cùng những công lao hạn mã nhờ đó
    mà các vị ấy được ban quyền tước quý hiển. Trong đó cũng có ghi
    chép những công trạng mà gia đình tôi đã lập nên trong việc phục
    vụ xứ sở và phụng sự vị chúa tể của đất nước tôi, là đức Đạt Lai
    Lạt Ma. Đó là lần thứ nhì mà quyển Gia Phả được lật ra cho tôi, vì
    tôi thấy ngày sinh tháng đẻ của tôi đã có ghi chép sẵn trong đó.
    Các nhà chiêm tinh đã căn cứ vào những chi tiết đó để lập nên lá
    số và phán quyết những lời tiên tri về tương lai của tôi. Tôi phải tự
    mình ký tên vào bản Gia Phả, vì ngày hôm sau sẽ là ngày bắt đầu
    một cuộc đời mới, khi tôi bước chân vào tu viện.
    Kế đó, quyển sách được xếp lại và để vào chỗ cũ. Quyển sách
    ấy rất nặng; cha tôi hơi lảo đảo dưới trọng lượng của nó khi người
    đứng dậy để đặt nó vào một cái hộp thiếp vàng. Người kính cẩn
    đặt cái hộp dưới bàn thờ, trong một cái ô vuông xây bằng đá rất
    sâu. Kế đó, người nấu sáp trong một cái "Soong" nhỏ bằng bạc, trải
    sáp mỏng trên nắp ô và đóng triện của người lên đó để niêm phong
    lại. Kế đó cha tôi mới ngồi nghiêm chỉnh lên tấm nệm ở giữa
    phòng. Người gõ một tiếng vào cái chuông nhỏ đặt gần bên, và một
    người nô bọc đem vào một cái khay trà pha với bơ. Sau một cơn im
    lặng kéo dài, cha tôi mới kể cho tôi nghe bí sử của sứ Tây Tạng,
    một chuyện lịch sử cổ xưa đến bao nhiêu nghìn năm và thậm chí
    được coi như cổ sử dẫu ở vào thời kỳ cuộc đại hồng thủy. Người
    thuật cho tôi nghe rằng đã có một thời kỳ xứ Tây Tạng chỉ là một
    vùng biển cả muôn trùng, điều này đã được chứng thực bởi những
    cuộc khảo cổ dưới lòng đất. Người nói rằng cho đến ngày nay, khi
    người ta đào đất ở chung quanh thủ đô Lhassa, họ có thể tìm thấy
    những bộ xương cá và những loại vỏ sò vỏ ốc rất dị kỳ, cùng những
    đồ khí cụ lạ lùng làm bằng kim khí, mà người ta không biết rõ sự
    công dụng của nó. Những sư sãi thường tìm thấy những đồ khí cụ
    đó khi họ thám hiểm những hang động trong vùng, và họ đem đến
    cho cha tôi. Cha tôi mới đưa cho tôi xem vài món đồ khí cụ đó. Kế
    đó, người nói qua chuyện khác:
    - Theo như luật định, con nhà quý tộc phải được nuôi trong
    sự khắc khổ, còn con nhà nghèo sẽ được hưởng mọi sự dễ dãi,
    khoan dung. Trước khi được nhận vào tu viện, con còn phải trải
    qua một cuộc thử thách rất gian lao.
    Cha tôi cho tôi biết rằng tôi cần phải tỏ ra tuyệt đối dễ dạy
    và nhắm mắt tuân theo mọi lệnh trên sai khiến. Những lời cuối
    cùng của cha tôi không làm cho tôi được yên lòng. Người nói:
    - Con hỡi, chắc con sẽ nghĩ rằng cha là người nghiêm khắc và
    khô khan, lạnh lùng. Cha chỉ nghĩ đến danh dự của giòng họ nhà
    ta. Cha nói thật cho con biết: Nếu con không được thâu nhận vào
    tu viện, con hãy đừng trở về nhà. Chừng đó con sẽ bị đối xử như
    một người xa lạ ở cái nhà này.
    Nói đến đó, cha tôi ra hiệu cho tôi lui ra, mà không nói thêm
    một lời nào. Lúc ban chiều, tôi đã từ giã Yaso, chị tôi. Chị tôi rất
    xúc động: Chúng tôi đã chơi chung với nhau từ thuở nhỏ, nay chị
    đã lên chín, lớn tôi hai tuổi. Tôi không sao gặp được mẹ tôi. Mẹ tôi
    đã đi ngủ sớm và tôi không thể nào từ giã mẹ trước khi lên đường.
    Tôi bèn lui về phòng riêng một mình để nghỉ một đêm cuối cùng.
    Tôi nằm dài trên những chiếc nệm trải dưới đất, nhưng không sao
    ngủ được. Trí óc tôi nghĩ liên miên đến những điều cha vừa nói lúc
    ban chiều. Tôi nghĩ đến tính nghiêm khắc độc đáo của cha tôi, và
    tôi hồi hộp nghĩ đến đêm hôm sau, khi mà lần đầu tiên tôi sẽ ngủ
    xa nhà. Bên hè, vầng trăng vẫn tiếp tục soi bóng. Một con chim ăn
    đêm vừa nhảy vừa đập cánh trên khung cửa sổ. Sau cùng tôi ngủ
    thiếp đi lúc nào không hay. Khi trời chưa sáng, một người gia bộc
    đã đánh thức tôi dậy với một chén tsampa và một chén trà bơ. Ông
    Tzu thình lình bước vào phòng khi tôi đang ăn bữa điểm tâm
    thanh đạm đó, và nói:
    - Con hỡi! Đây là giờ phút mà chúng ta phải ly biệt nhau. Ta
    sẽ có thể trở lại coi sóc bầy ngựa như trước. Con hãy ráng làm tròn
    bổn phận, và hãy nhớ tất cả những gì mà ta đã dạy con.
    Nói đến đây, ông ta quay gót lui ra.
    Thái độ đó rất là cận nhân tình, tuy rằng hồi ấy tôi không
    được vừa ý. Những lời từ giã đầy cảm xúc có lẽ đã làm cho sự lên
    đường của tôi trở nên khó khăn hơn nhiều, đó lại là một chuyến ra
    đi đầu tiên, mà tôi nghĩ rằng không hẹn ngày trở lại. Nếu lúc ấy
    mẹ tôi thức dậy để nói với tôi mấy lời từ giã thì chắc chắn là tôi đã
    cố gắng thuyết phục mẹ tôi hãy giữ tôi ở lại một bên người. Nhiều
    đứa trẻ Tây Tạng sống một cuộc đời rất dịu dàng êm ái, còn tôi
    phải sống một cuộc đời khắc khổ về đủ mọi phương diện. Về sau tôi
    phát hiện ra rằng sở dĩ mẹ tôi không từ giã tôi vào giờ phút chót,
    ấy là do lệnh của cha tôi, để cho tôi tập lấy tính cương nghị và có
    kỷ luật trong những năm đầu tiên. Tôi ăn điểm tâm xong, bèn dồn
    cái chén và cái dĩa vào trong áo, và lấy thêm một cái áo tràng để
    thay đổi. Với cái áo này, tôi làm một cái bọc trong đó tôi gói một
    đôi ủng lót bằng nỉ. Tôi vừa bước ra khỏi phòng thì một người gia
    nô dặn tôi nên đi nhẹ bước để khỏi làm mất giấc ngủ của người
    trong nhà. Tôi bước ra hành lang. Trong khi tôi bước xuống nấc
    thang tam cấp để đi ra đường lộ, thì bóng tối hãy còn dầy đặc trước
    khi ánh bình minh xuất hiện để mở đầu một ngày mới.
    Tôi bước ra khỏi nhà trong tình trạng đó. Tôi đi lủi thủi một
    mình, băn khoăn lo ngại và lòng dạ se sắt.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  5. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    Tôi noi theo con đường đưa đến tu viện Chakpori, tu viện này
    vừa là một đạo viện vừa là một trường y khoa có tiếng là kỷ luật
    rất cao. Tôi đi bộ vượt qua mấy cây số đường trường dưới ánh sáng
    bình minh mỗi lúc càng tỏ rạng. Đến ngoài cổng lớn đưa vào sân
    mặt tiền của tu viện, tôi gặp hai thiếu nhi khác cũng như tôi đến
    xin được thu nhận. Chúng tôi nhìn nhau một cách dè dặt, nhưng
    không ai nói với ai một lời nào. Chúng tôi định bụng là hãy tỏ ra
    lịch sự với nhau nếu chúng tôi sẽ cùng thụ huấn trong một tu viện.
    Chúng tôi gõ cửa một cách e dè trong một lúc nhưng không
    ai trả lời. Một bạn đồng cảnh ngộ của tôi luc ấy cúi xuống lượm
    một viên đá lớn đập vào cửa cổng để làm cho người ta chú ý. Một vị
    sư sãi xuất hiện, tay huơ một cây gậy: Chúng tôi sợ sệt đến nỗi
    tưởng chừng như cây gậy to lớn bội phần. Một sư sãi cất tiếng hỏi:
    - Chúng bây muốn gì, lũ tiểu quỷ? Chúng bây tưởng rằng tao
    không có việc gì làm khác hơn là phải mở cửa cho những lũ tiểu
    yêu như tụi bây sao?
    Tôi đáp:
    - Chúng tôi muốn trở nên tu sĩ.
    - A! Tu sĩ? Tụi bây giống như lũ khỉ thì đúng hơn. Hãy đứng
    đợi tại đây, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ tiếp chúng bay khi nào
    Người có thời giờ.
    Cánh cửa lớn đóng sầm lại rất mạnh, và một bạn đồng đội
    với tôi vô ý đứng gần bên suýt nữa bị té ngã. Chúng tôi ngồi xuống
    đất vì đứng lâu đã mỏi chân. Lác đác có vài người đã vào tu viện.
    Một mùi đồ ăn xào nấu ngon lành từ nhà bếp bay lọt ra ngoài cửa
    sổ và phảng phất trong không khí, làm cho tôi cảm thấy như chịu
    một cực hình vì cơn đói bụng mỗi lúc càng tăng. Ôi! Thức ăn ngon
    lành ấy tuy ở gần kề một bên, nhưng đồng thời cũng lại xa cách với
    chúng tôi biết bao!
    Sau cùng cánh cửa lớn lại mở rộng, và một vị sư sãi tác cao
    và gầy ốm xuất hiện. Ông ta quát to:
    - Lũ tiểu yêu, chúng bay muốn gì đây, hử?
    - Chúng tôi muốn trở thành tu sĩ.
    Ông ta nói lớn:
    - Lạy trời, đời nay sao có chuyện lạ vậy?
    Người tu sĩ ra hiệu cho chúng tôi bước vào bên trong bức
    tường rào của tu viện. Người ấy hỏi chúng tôi là những thứ gì,
    chúng tôi là ai, và thậm chí tại sao chúng tôi sinh ra đời và sinh ra
    để làm gì?
    Thật không khó gì mà hiểu rằng chúng tôi không gây ra nơi
    người ấy một ấn tượng tốt lành nào cả!
    Ông ta nói với thiếu nhi đầu tiên, người này tự xưng là con
    của một người mục đồng:
    - Vô đây mau lên. Nếu ngươi vượt qua được những cuộc thử
    thách, thì ngươi sẽ được thu nhận.
    Kế đó ông ta nói với người thiếu nhi kia:
    - Còn thằng kia? ... sao, mi nói gì? ... cha mi làm nghề đồ tể?
    A! Đó là người hàng thịt, một người phạm giới sát sinh và không
    tuân theo giới luật của phật. Vậy mà mi còn dám tới đây? Cút đi
    mau kẻo ta lại cho mi ăn gậy bây giờ!
    Nói xong ông ta nhảy tới chụp lấy thằng nhỏ, thằng này thấy
    thế nguy bèn quên cả sự mệt nhọc và cố gắng thu thập tinh thần.
    Nhanh như chớp, nó quay đầu trở lại, phóng ra ngoài đường lộ và
    chạy một mạch vắt giò lên cổ, làm cho đường cái dậy bụi lên từng
    đợt nhỏ.
    Chỉ còn lại một mình tôi. Người tu sĩ quay lại nhìn tôi với cặp
    mắt hung tợn và tôi cảm thấy sợ sệt đến nỗi chút nữa tôi đã ngất
    xỉu ngay tại chỗ! Ông ta bèn hươi gậy một cách hâm dọa và quát
    lớn:
    - Còn thằng nhỏ này! Mi là ai? ... A ha! Con một vị hoàng
    thân quốc thích mà muốn trở thành tu sĩ. Nhưng trước hết mi phải
    chứng minh giá trị của mi tới đâu, cùng những gì mi có trong
    bụng. Đây không phải là chỗ của những con nhà quý tộc ương hèn,
    nhu nhược. Mi hãy lui lại bốn chục bước và ngồi yên tại chỗ theo
    tư thế ngồi thiền cho đến khi có lệnh mới. Cấm không được cựa
    quậy thậm chí đến một sợi lông nheo!
    Nói xong, ông ta lui gót đi ngay. Tôi lặng lẽ thu nhặt khăn
    gói và lùi lại bốn chục bước. Tôi ngồi xuống trong tư thế kiết dà
    theo như lời dặn. Tôi ngồi yên như thế suốt ngày không cựa quậy.
    Những cơn gió lốc hất vào mình tôi những bụi bậm của đường xá,
    lần lần cát bụi đóng vào mình tôi. Chất từng đống nhỏ trên hai
    bàn tay lật ngửa của tôi, trên vai tôi và len lỏi vào tóc tai của tôi.
    Khi ánh sáng mặt trời mỗi lúc càng yếu dần, tôi càng cảm
    thấy đói khát hơn, một cơn khát nước như cực hình nó làm khô
    cuống họng tôi: Từ lúc sáng sớm đến giờ tôi chưa ăn uống gì cả.
    Những sư sãi trong tu viện rất đông, họ đi qua lại không ngớt,
    nhưng không ai để ý đến tôi. Vài con chó hoang thỉnh thoảng
    ngừng lại, đưa mỏ vào mình tôi để đánh hơi một cách tò mò, rồi lại
    bỏ đi. Một đám trẻ nhỏ đi ngang qua. Một đứa trong bọn chúng
    không có việc gì làm, chắc hẳn là ngứa tay, bèn ném vào mình tôi
    một viên sỏi trúng nơi màng tang, máu chảy ròng ròng. Nhưng tôi
    vẫn không cựa quậy. Tôi đã quá sợ hãi. Nếu tôi thất bại trong cơn
    thử thách này, cha tôi sẽ không để cho tôi trở về nhà và tôi sẽ
    không biết phải đi đâu. Tôi không còn có thể làm gì hơn là ngồi
    yên, âm thầm chịu khổ sở với các bắp thịt đau đớn như rần và
    những khớp xương tê cứng.
    Mặt trời đã khuất dạng sau những dãy núi, và đêm tối đã
    đến. Các tinh tú chói lập lòe trên nền trời u ám. Hàng nghìn
    những ngọn đèn nhỏ thắp bằng bơ chiếu sáng ở các cửa sổ của
    những tu viện. Một ngọn gió lạnh như băng đã dậy lên: Tôi nghe
    tiếng gió rít lạnh lùng và tiếng lá xào xạc trên những cành liễu
    cùng với những tiếng động làm thành bản nhạc lạ lùng bí hiểm
    của ban đêm.
    Dù việc gì đã xảy ra, tôi vẫn ngồi yên bất động, vì hai lý do
    chính: Một là vì tôi quá sợ hãi, và hai là tứ chi của tôi đã quá tê
    cứng để có thể cử động được. Khi đó, tôi nghe có tiếng dép đi trên
    đất cát: Tôi nhận ra đó là những bước chân của một ông lão đang
    lần mò tìm đường đi trong bóng tối. Một bóng đen xuất hiện trước
    mặt tôi, đó là một vị sư sãi già đã còng lưng và mệt mỏi sau bao
    nhiêu đêm khổ hạnh. Những bàn tay của người đã run, điều này
    không làm cho thản nhiên khi tôi thấy ông ta làm đổ nghiên chén
    trà cầm nơi tay. Trong bàn tay kia, ông ta cầm một bát Tsampa,
    và đưa cho tôi luôn cả hai thứ. Tôi vẫn ngồi yên không cử động.
    Ông ta nói:
    - Con hỡi, hãy cầm lấy, vì con có quyền cử động trong những
    giờ ban đêm.
    Tôi bèn uống chén trà, và sớt món Tsampa vào cái chén riêng
    của tôi. Ông lão lại nói:
    - Bây giờ con hãy ngủ đi nhưng khi trời hừng sáng, con hãy
    ngồi lại trong tư thế cũ, vì đây là một cuộc thử thách chứ không
    phải là một hình phạt vô ích như con có thể nghĩ trong lúc này.
    Chỉ có những kẻ nào vượt qua cuộc thử thách này mới có thể được
    thu nhận vào dòng tu của chúng ta.
    Nói xong, ông lão cầm lấy những chén bát và đi thẳng. Tôi
    bèn đứng dậy, vươn vai, duỗi thẳng tay chân, rồi nằm xuống nghỉ
    lưng; tôi vừa nằm nghiêng một bên vừa ăn chén stampa. Quả thật
    là tôi đã quá kiệt sức. Sau khi ăn no, tôi kê cái gói áo để gối đầu và
    nằm luôn dưới đất. Bảy năm của cuộc đời tôi trên thế gian này
    thật là không được sung sướng chút nào. Cha tôi luôn tỏ ra nghiêm
    khắc trong mọi việc, nghiêm khắc một cách kinh khủng, tuy vậy
    đây là lần đầu tiên mà tôi ngủ xa nhà và suốt ngày hôm đó tôi
    không hề sửa đổi tư thế, hoàn toàn ngồi yên bất động và xác thể bị
    dày vò vì cơn đói khát. Tôi không biết ngày mai sẽ đưa đến cho tôi
    cái số phận như thế nào, và người ta sẽ bắt tôi phải chịu những
    điều gì nữa. Nhưng bây giờ, tôi phải ngủ, ngủ dưới màn trời lạnh
    lẽo, cô đơn, một mình với sự sợ hãi bóng tối, một mình với sự sợ hãi
    những ngày sắp tới.
    Dường như tôi chỉ nhắm mắt được không bao lâu, thì tôi đã
    thức giấc vì tiếng kèn thổi vang tai. Tôi vừa mở mắt thì đã thấy
    ánh bình minh phản chiếu trên nền trời đằng sau những dãy núi.
    Tôi hối hả thức dậy và liền giữ lấy tư thế ngối thiền. Trước mặt tôi,
    cả tu viện điều đã lần lần thức giấc. Lúc đầu nó giống như một
    thành phố bị đắm chìm trong giấc ngủ. Kế đó, mỗi tiếng động nhẹ
    đầu tiên mỗi lúc càng tăng trưởng dần dần và tu viện trở thành ồn
    ào náo nhiệt như một cái tổ ong vò vẻ trong một ngày mùa hạ. Khi
    mặt trời ló dạng, những toán sư sãi đầu cạo sạch bóng đi qua lại
    trong những cửa của tu viện.
    Mặt trời càng lên cao, tôi càng cảm thấy tê buốt các khớp
    xương, nhưng tôi không dám cử động; tôi không dám ngủ thêm, vì
    chỉ một cử động nhẹ là tôi đã thất bại và sau đó tôi biết đi đâu?
    Cha tôi đã nói rõ ràng: Nếu tu viện không bằng lòng thu nhận tôi,
    thì cha tôi cũng sẽ không nhận tôi trở về. Từng nhóm nhỏ các sư
    sãi bước ra khỏi các gian nhà của tu viện để làm công việc hàng
    ngày. Vài thiếu niên đi rảo ngoài sân; đôi khi chúng nó lấy chân
    đá một cái, hất văng cát bụi bay mù mịt và những viên sỏi nhỏ về
    phía tôi ngồi, hoặc chúng đua nhau thốt ra những lời thô bỉ, tục
    tằn, cố ý nhắm vào tôi làm mục tiêu. Thấy tôi không đáp lại,
    chúng chán nản bỏ đi tìm những nạn nhân khác dễ chọc ghẹo hơn.
    Một ngày nữa lại qua mau; lần lần mặt trời lại ngả về tây và
    những ngọn đèn bơ của tu viện lại được thắp sáng. Trong giây lát,
    tôi đã ngồi dưới ánh sao, vì đó là ngày thượng tuần, trăng lên hơi
    muộn.
    Thình lình, tôi cảm thấy lo sợ; hay là người ta đã quên tôi
    rồi? Hay đây là một cuộc thử thách, trong khi đó tôi phải chịu nhịn
    đói? Tôi không hề cử động suốt ngày hôm đó, một ngày kéo dài vô
    tận, và sự đó khát đã làm cho tôi mệt nhừ. Thình lình, một tia hy
    vọng nhen nhúm trong lòng tôi và làm tôi muốn nhảy dựng lên.
    Tôi nghe có tiếng chân đi và một bóng đen tiến về phía tôi. Nhưng
    than ôi, đó là một con chó ngao lớn và đen đang kéo lê một vật gì.
    Không một mảy may chú ý đến tôi, nó vẫn tiếp tục đi thẳng, cũng
    không chút xót thương cho cái tình trạng khó khăn của tôi. Niềm
    hy vọng của tôi bèn sụp đổ. Tôi cảm thấy muốn khóc để chống lại
    sự yếu hèn đó, tôi bèn tự nhắc nhở lấy mình rằng chỉ có đàn bà con
    gái mới dại dột mà sử sự như thế.
    Sau cùng, tôi nghe tiếng bước chân của vị sư già. Lần này,
    ông lão nhìn tôi với đôi mắt dịu hiền và nói:
    - Con hỡi, đây là những đồ ăn thức uống cho con, nhưng sự
    thử thách chủa phải là hết. Còn ngày mai nữa. Con hãy nhớ đừng
    làm một cử động nào, vì có nhiều người đã thất bại vào giờ phút
    chót.
    Nói xong, ông lão từ biệt đi ngay. Trong khi vị sư già nói
    chuyện, tôi uống chén trà bơ và một lần nữa, sớt stampa vào cái
    bát riêng của tôi. Một lần nữa, tôi lại nằm dài dưới đất, thật ra
    cũng không sung sướng gì hơn đêm trước. Vừa nằm tôi vừa suy
    nghĩ về cách đối xử bất công này, tôi không còn muốn làm tu sĩ
    nữa. Người ta không để cho tôi có quyền định đoạt số phận của tôi,
    chẳng khác nào như tôi là một con lừa bị bắt buộc phải trèo qua
    một triền núi, thế thôi. Tôi ngủ thiếp đi trên cái ý nghĩ đó.
    Ngày hôm sau, cuộc thử thách bước qua ngày thứ ba. Khi tôi
    ngồi dậy theo tư thế tọa thuyền, tôi cảm thấy yếu sức hơn mọi
    ngày và đầu óc tôi choáng váng. Tôi thấy tu viện dường như xoay
    tít trong một khối xa mù gồm những tòa đinh ốc, những màu mè
    sặc sỡ, những đốm đỏ với những núi non và những sư sãi quay
    cuồng lẫn lộn với nhau một cách vô cùng hỗn độn. Tôi phải làm
    một cố gắng phi thường để vượt qua được cơn chóng mặt đó. Tôi
    cảm thấy kinh hoàng với ý nghĩ rằng tôi có thể thất bại sau khi đã
    chịu tất cả những sự đau khổ trong những ngày qua. Tôi có cảm
    giác rằng những tảng đá mà tôi ngồi ở trên, lần lần đã trở nên bén
    nhọn cũng như dao cắt, nó làm cho tôi đau nhức ở những bộ phận
    nhạy cảm nhất trong mình tôi.
    Ngôi mặt trời dường như đứng yên một chỗ; ngày ấy kéo dài
    như vô tận. Nhưng sau cùng, ánh nắng bắt đầu dịu bớt, vầng hồng
    đã xuống thấp và ngọn gió chiều đã thổi phất phơ một sợi lông
    chim do một con chim én bay qua đã bỏ rớt lại. Lại một lần nữa,
    những ánh đèn bơ đã lần lượt nối tiếp nhau thấp thoáng qua
    khung cửa sổ. Tôi thầm nghĩ.
    - "Tôi mong sao được chết trong đêm nay, tôi không còn chịu
    đựng được nữa."
    Ngay lúc ấy, cái bóng đen cao lớn của vị chưởng môn Đoàn Sơ
    Cơ xuất hiện nơi khung cửa. Ông ta nói:
    - Con hỡi, hãy lại đây!
    Tôi thử đứng dậy, nhưng hai chân tôi đã chai cứng đến nỗi
    tôi phải nằm dài trên mặt đất. Người lại nói:
    - Nếu con muốn nằm nghỉ, con có thể ở lại đây một đêm nữa.
    Ta không thể chờ đợi lâu hơn.
    Tôi bèn hối hả thu lượm khăn gói và tiến lại gần vị Chưởng
    Môn với một bước đi khập khễnh. Ông ta nói:
    - Vào đây. Con hãy dự cuộc lễ tối và sáng mai con hãy đến
    gặp ta.
    Bên trong tu viện, không khí rất ấm áp và mùi hương trầm
    làm cho tôi cảm thấy khỏe mạnh. Vì quá đói, giác quan nhạy cảm
    của tôi cho tôi biết rằng cách đó không xa chắc có thức ăn no lòng,
    tôi bèn đi theo một nhóm sư sãi hướng về phía tay mặt. À, có đồ ăn
    đây rồi: Tsampa và trà bơ! Tôi ráng chen lên hàng đầu dường như
    tôi đã quen làm như vậy suốt đời tôi!
    Các sư sãi toan nắm chớp tôi khi tôi bò bốn cẳng luồng qua
    chân họ để đi tới trước nhưng vô ích; tôi đang muốn ăn, và không
    có gì có thể ngăn cản tôi được nữa. Sau khi đã ăn uống no lòng, tôi
    theo chân các sư sãi vào trong nội điện để dự cuộc lễ. Tôi đã quá
    mệt mỏi để có thể hiểu biết những gì xảy ra, nhưng không ai để ý
    đến tôi. Sau cuộc lễ, khi các sư sãi sắp hàng một đi ra ngoài, tôi
    mới lẻn ra phía sau một cây cột lớn, nằm dài xuống mặt sàn bằng
    đá, gối đầu trên cái bọc vải đựng quần áo của tôi và ngủ một giấc
    ngon lành.
    Tôi đang mơ màng giấc điệp thì những tiếng động chung
    quanh đánh thức tôi dậy một cách phũ phàng. Có những giọng nói
    thốt lên:
    - À, một con ma mới. Một đứa con nhà giàu. Ta hãy đánh cho
    nó một trận!
    Một chú tiểu Sơ Cơ phất lên trên không cái áo dài thay đổi
    mà y đã rút ra trong bọc quần áo gói đầu của tôi, một tên khác
    đoạt lấy đôi giầy ủng của tôi. Một nắm Tsampa mềm và ướt từ đâu
    ném tới trúng vào giữa mặt tôi. Những cú đấm đá tới tấp như mưa
    nhắm vào tôi từ tứ phía, nhưng tôi không tự vệ. Đó có thể là một
    cuộc thử thách để xem tôi có tuân theo hay chăng, lời răn thứ mười
    sáu nói rằng: "Ngươi hãy chịu đựng sự đau khổ và tai họa một
    cách kiên nhẫn và an phận."
    Bỗng nghe có tiếng quát lớn: "Có chuyện gì xảy ra ở đây?" kế
    đó là những tiếng thì thầm sợ hãy:
    - À! Vị chưởng Môn đã đến! Chúng ta đã bị bắt quả tang!
    Tôi đang lo gỡ miếng Tsampa ra khỏi mắt tôi, thì vị chưởng
    Môn nhóm Sơ Cơ liền quay về phía tôi, nắm lấy cái bím tóc tôi và
    kéo tôi đứng dậy.
    - Đồ gà mái ướt! Đồ nhu nhược! Mi mà muốn trở thành một
    nhà lãnh đạo tương lai? Hãy lãnh lấy mấy quả đấm này!
    Kế đó, tôi bị đòn dưới một trận mưa quả đấm tàn bạo.
    - "Đồ vô dụng, đồ hèn, thậm chí mi cũng không biết tự vệ..."
    Những cú đấm đá vẫn tiếp tục dường như không bao giờ
    ngừng.
    Tôi bèn nhớ lại lời nói của võ sư Tzu lúc ông từ giã tôi:
    - "Con hãy làm bổn phận, và hãy nhớ tất cả những gì ta đã
    dạy con."
    Tôi bèn giữ thế thủ và lừa dịp đưa tay đẩy nhẹ một cái theo
    một thế võ Tây Tạng mà võ sư Tzu đã dạy tôi. Vị Chưởng Môn,
    trong lúc bất thần không kịp đỡ, vừa thốt lên một tiếng rên siết vì
    đau đớn, vừa bay bổng lên khỏi đầu tôi, rơi xuống sàn gạch trong
    tư thế nằm sắp rồi chúi tới trước trên cái sống mũi, làm sống mũi
    bị lột da, và ngừng lại khi đầu ông ta va vào một cái cột lớn với
    một tiếng động kinh hồn!
    Tôi thầm nghĩ: "Thôi rồi! Phen này mình chắt chết. Âu cũng
    đành vậy để chấm dứt tất cả mọi nỗi lo âu." Thế giới dường nhu
    ngừng lại. Những thiếu niên Sơ Cơ đều nín thở. Một tiếng hét lớn,
    trong chớp mắt vị Chưởng Môn cao lớn và xương xẩu đã đứng phắt
    dậy. Máu từ trong hai lỗ mũi ông ta tuông ra đỏ lòm. Thật là một
    cảnh tượng quái gở, vì khi đó ông ta cất lên tiếng cười vang trong
    một chuỗi cười dài cởi mở và thật tình! Ông ta nói với tôi:
    - À, vậy mi là một con gà chọi, phải chăng? Gà chọi hay chuột
    ướt? Mi là giống nào? Để còn xem lại mới biết.
    Vị Chưởng Môn bèn quay lại phía một thiếu niên mười bốn
    tuổi, có một thân xác to lớn rồi đưa tay ra hiệu và nói:
    - Nga Quắn, mi là con trâu mộng nặng cân nhất của tu viện
    này. Mi hãy tỏ cho mọi người thấy rằng con nhà lái buôn có giá trị
    hơn con nhà vương giả hay chăng trong một cuộc đấu võ.
    Lần đầu tiên trong đời, tôi thầm tạ ơn ông Tzu, vị võ sư già
    của tôi. Thuở thiếu thời, ông ta từng là một chuyên viên về môn võ
    thuật Tây Tạng, một tay vô địch xuất xứ từ vùng Kham. Theo lời
    ông ta nói, ông ta đã truyền lại cho tôi tất cả các thế võ bí truyền,
    nhờ đó tôi có thể đối địch với cả những người lớn. Tôi đã tiến bộ rất
    nhiều về môn võ thuật này, trong đó sức mạnh và tuổi tác không
    có ích lợi gì cả. Vì cuộc đấu võ này quyết định tương lai của tôi,
    nên sau cùng tôi cảm yên tâm.
    Nga Quắn là một thanh niên lực lưỡng và khỏe mạnh, nhưng
    thiếu lanh lẹ mềm dẻo trong những cử động của y. Hiển nhiên là y
    đã quen những cuộc đánh đấm hung hăng trong đó bạo lực của y
    giúp cho y nắm ưu thế. Y lao mình tới trước để nắm lấy tôi và
    quyết hạ được tôi. Tôi không nao núng, nhờ đã có học võ với ông
    Tzu và trong huấn luyện, đôi khi ông ta cũng tỏ ra bạo tàn. Khi
    Nga Quắn khởi thế công, tôi bước qua một bên để tránh và thuận
    tay tôi vặn một cánh tay của y. Hai chân y bị mất thăng bằng, y
    lảo đảo xoay nửa vòng trước khi té ngã chúi đầu xuống đất. Y nằm
    rên một hồi trên sàn gạch, rồi thình lình y đứng dậy và phóng tới
    tôi. Tôi thụp xuống, ngã mình trên sàn gạch và đưa tay vặn một
    chân của y vào lúc y sắp sửa đè lên mình tôi. Lần này y xoay trọn
    một vòng, lảo đảo trên hai chân và té ngã, vai trán nện xuống đất.
    Nhưng y chưa thật sự đo ván. Y cố gắng đứng lên và đi thật trọng
    từng bước chung quanh tôi, rồi thình lình nhảy qua một bên, y
    chụp một cái đỉnh bằng đồng và có dây xúc xích và quay tít nó lên
    trên không. Một khí giới như vậy thật là chậm chạp, nặng nề và dễ
    tránh. Tôi bước một bước tới trước, luồn mình dưới nách y và đưa
    một ngón tay nhẹ nhàng điểm vào chỗ nhược ở phía dưới của y,
    như võ sư Tzu thường chỉ dạy cho tôi về môn điểm huyệt. Y liền
    ngã lăn xuống đất như một tảng đá hai tay buông sợi dây xúc xích,
    cái đỉnh đồng bị hất văng vào đám trẻ sơ cơ và nhóm sư sãi đang
    đứng chung quanh nhìn xem chuộc đấu võ gây lên một cuộc náo
    động ồn ào.
    Nga Quắn nằm bất tỉnh trong nửa giờ. Sự điểm huyệt đặc
    biệt đó thường làm cho linh hồn rời khỏi thể xác để đi chu du trên
    cõi trung giới hoặc để có những hoạt dộng tương tự.
    Vị Chưởng Môn Đoàn Sơ Cơ tiến đến gần tôi, vỗ vai tôi một
    cái thật mạnh làm tôi suýt nữa cũng lại nằm đo ván, và nói:
    - Con hỡi, quả thật con là người hùng.
    Tôi đánh bạo đáp lại:
    - Như vậy bạch sư tôn, con có xứng đáng được ăn uống chút
    ít gì chăng? Từ mấy ngày nay, con chưa được ăn uống đầy đủ bữa
    nào.
    Vị Chưởng Môn nói:
    - Con hỡi, con hãy ăn uống cho thỏa lòng. Sau đó, con hãy
    bảo một đứa trong nhóm sơ cơ dẫn đường cho con đến gặp ta. Từ
    nay con sẽ làm trưởng đoàn dể dạy võ nghệ cho chúng nó.
    Vị sư già đã đem thêm thức ăn cho tôi hai đêm trước cũng
    vừa đến ngay khi đó. Ông ta nói:
    - Con hỡi, con đã hành động xứng đáng. Nga Quắn đã tỏ ra
    hống hách đối với nhóm sơ cơ. Con hãy thay chân nó ở chức vụ
    đoàn trưởng, nhưng con hãy có lòng từ bi nhân hậu trong mọi
    quyết định. Con đã có một sự giáo dục rất tốt. Con hãy sử dụng tài
    nghệ của con cho đúng chỗ và chớ nên truyền thụ võ nghệ cho
    những kẻ không xứng đáng. Bây giờ con hãy theo ta và ta sẽ cho
    con ăn uống no lòng.
    Khi tôi đến tư thất của người, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ
    tiếp đón tôi một cách rất ưu ái. Người nói:
    - Con hãy an tọa. Ta muốn biết xem về mặt tri thức con có
    xuất sắc như về môn võ nghệ không. Con hãy coi chừng, ta sẽ hỏi
    khó con đấy.
    Kế đó, người mới đưa ra cho tôi nhiều câu hỏi, vừa sát hạch,
    vừa viết tay. Chúng tôi ngồi đối diện nhau trên những chiếc nệm,
    và cuộc trắc nghiệm diễn ra suốt sáu tiếng đồng hồ, trước khi
    người tuyên bố hài lòng về sự giải đáp của tôi. Tôi cảm thấy đã
    mệt mỏi, người bèn đứng dậy và nói:
    - Con hãy theo ta. Ta sẽ đưa con vào trình diện với vị Sư
    Trưởng. Đó là một cái vinh dự đặc biệt, con sẽ hiểu lý do tại sao.
    Tôi đi theo vị Chưởng Môn qua những hành lang rộng lớn,
    những văn phòng, những nội diện, những lớp học... Chúng tôi buớc
    lên một thang lầu, vượt qua những hành lang chằng chịt như mê
    cung, đi ngang những thánh điện thờ vị Thần và kho chứa các loại
    thảo dược. Lại lên một cầu thang nữa, sau cùng chúng tôi bươc lên
    sân thượng, trên nóc bằng của tu viện và đi về phía tịnh thất của
    vị Sư Trưởng. Đến trước cửa, có một tượng Phật bằng vàng, biểu
    tượng của ngành Y học; qua khỏi cửa chúng tôi đã bước vào tu thất
    của Sư Trưởng.
    Vị Chưởng Môn dặn tôi:
    - Con hãy vái chào đảnh lễ và làm theo ta.
    Người liền cuối lạy vị Sư Trưởng sau khi đã chắp tay vái ba
    lần. Tôi làm theo, trong lòng hồi hộp. Vị Sư Trưởng điềm nhiên
    nhìn chúng tôi, và nói:
    - Các con hãy an tọa.
    Chúng tôi ngồi trên những chiếc nệm, hai chân xếp bằng. Vị
    Sư Trưởng im lặng nhìn tôi một lúc rất lâu. Kế đó người nói:
    - Hỡi Lâm Bá, ta biết tất cả những gì về con, tất cả những gì
    đã được tiên tri từ trước. Cuộc thử thách mà con đã phải chịu, thật
    là gian lao. Con sẽ hiểu lý do tại sao trong một vài năm nữa.
    Nhưng còn bây giờ, con hãy biết rằng trong một ngàn sư sãi, chỉ có
    một hai người là có khả năng học hỏi những việc cao xa, và có thể
    đạt tới một trình độ tiến hóa cao. Kỳ dư chỉ làm những bổn phận
    thông thường hằng ngày. Họ là những người làm việc bằng tay
    chân, và lần chuỗi tụng niệm mà thôi, chứ không cần học hỏi gì cả.
    Ở đây không thiếu những người đó. Chúng ta chỉ thiếu những
    người giữ gìn cái kho tàng kiến thức Huyền Môn khi xứ này bị nạn
    ngoại xâm. Con sẽ được thụ huấn đặc biệt, một sự huấn luyện ráo
    riết để trong vài năm ngắn ngủi con sẽ có nhiều kiến thức hơn là
    một vị Lạt Ma có thể thu thập được suốt cả một đời. Con đường
    Đạo sẽ gay go, hiểm trở và thường là dẫy đầy gian khổ. Thật vậy,
    tu luyện để có được nhãn quang thần thông đòi hỏi nhiều công phu
    rất khó nhọc, và xuất hồn đi chu du trên cõi trung giới đòi hỏi
    hành giả phải có một bộ thần kinh hệ vững chắc không gì lay
    chuyển và một ý chí cứng rắn như sắt đá.
    Tôi chăm chú nghe với tất cả tâm hồn, không mất một chữ
    nào. Những điều đó đối với tôi dường như quá khó khăn. Tôi không
    có một nghị lực cứng cỏi đến bực đó! Vị Sư Trưởng nói tiếp:
    - Ở đây con sẽ học y khoa và khoa chiêm tinh. Chúng ta sẽ
    giúp đỡ con về mọi mặt. Con cũng sẽ học các pháp môn bí truyền.
    Con đường của con đã được vạch sẵn, hỡi Lâm Bá. Tuy con mới có
    bảy tuổi, ta nói với con như nói với một người lớn, vì vậy con đã
    được giáo dục như một người trưởng thành.
    Nói xong, Sư Trưởng khẽ nghiêng đầu, vị Chưởng Môn đoàn
    Sơ Cơ bèn đứng dậy và cúi rập mình chào rất lâu. Tôi làm y theo vị
    Chưởng Môn và chúng tôi cùng lui ra. Khi về đến tư thất, vị
    Chưởng Môn mới phá tan sự im lặng:
    - Con hỡi, con sẽ phải làm việc nhiều. Nhưng chúng ta sẽ
    giúp đỡ con hết lòng. Bây giờ, con hãy theo ta, để ta chỉ chỗ cho con
    đi cắt tóc.
    Ở Tây Tạng, khi một đứa thiếu sinh bước vào tu viện, người
    ta bắt y cạo hết tóc, chỉ trừ một cái chỏm nhỏ ở đỉnh đầu, cái chỏm
    này cũng sẽ được cạo luôn vào ngày mà y nhận được một pháp
    danh mới và bỏ cái tên cũ.
    Vị Chưởng Môn đưa tôi đi qua một dãy hành lang đến một
    gian phòng nhỏ, dùng làm nơi hớt tóc, tại đây người ta bảo tôi ngồi
    xuống đất. Vị Chưởng Môn nói:
    - Tâm Chu, ngươi hãy cạo sạch tóc cho người thiếu nhi này.
    Ngươi cũng cạo luôn cái chỏm vì y sẽ nhận pháp danh luôn ngày
    hôm nay.
    Tâm Chu bước tới, với bàn tay mặt y nắm lấy cái bím tóc của
    tôi, giơ hẳn lên, và nói:
    - À, à, cậu nhỏ này. Bím tóc đẹp thật, thoa bơ láng bóng và
    giữ gìn cẩn thận. Cắt nó đi thật là sướng tay xiết bao.
    Y bèn lấy một cây kéo rất lớn, giống như loại kéo mà những
    người nô bộc nhà tôi dùng để xén cây làm vườn, và gọi to:
    - Tư Tỷ, lại đây cầm dùm một đầu.
    Tư Tỷ, người phụ tá của y, chạy đến và kéo cái bím tóc của
    tôi mạnh đến nỗi tôi gần bị giơ hẳn lên khỏi mặt đất. Miệng há
    hốc, Tâm Chu bắt tay vào việc với cây kéo cùn. Sau nhiều cơn bực
    mình và cằn nhằn, cái bín đã cắt xong. Nhưng đó chỉ là mới đầu.
    Người phụ tá đem tới một thau nước nóng bỏng đến nỗi, khi y dội
    nước lên đầu tôi, tôi đau điếng nhảy nhổm một cái. Người thợ cạo
    hỏi:
    - Có gì không ổn, hử, cậu nhỏ? Phỏng nước sôi chăng?
    - Phải đấy, nước nóng quá.
    - Đừng sợ, không việc gì, nước nóng như vậy, cạo tóc dễ hơn!
    Y vừa đáp vừa lấy con dao ba cạnh, hình tam giác, mà ở nhà
    tôi người ta thường dùng để cạo sàn gỗ mỗi khi rửa nhà. Sau cùng,
    sau một thời gian dài dường như vô tận, đầu tôi đã được cạo sạch.
    Vị Chưởng Môn bèn gọi tôi vào phòng riêng và đặt cho tôi
    một pháp danh mới. Đó là một tên Tây Tạng rất dài, nhưng trong
    quyển sách này, tôi vẫn dùng cái tên cũ cho tiện.
    Kế đó, tôi được đưa vào một lớp học. Tôi cảm thấy đầu tôi trơ
    trẽn như một quả trứng mới đẻ. Vì tôi đã được hấp thụ một nền
    giáo dục tốt trong gia đình, người ta cho rằng tôi có những kiến
    thức cao hơn mữ trung bình, nên họ xếp tôi vào lớp học của những
    thiếu niên sơ cơ mười bẩy tuổi. Tôi cảm thấy như một người tí hon
    sống giữa những người khổng lồ. Những thiếu niên này đã thấy tôi
    đánh ngã Nga Quắn, nên không ai muốn quấy rầy tôi, trừ ra một
    đứa lớn xác và ngu xuẩn. Y tiến đến gần từ phía sau lưng tôi và
    đặt hai bàn tay to lớn và dơ bẩn lên đầu tôi, hãy còn rát và ê ẩm vì
    mới cạo trọc. Tôi đứng phắt dậy và với một đầu ngón tay, tôi điểm
    nhẹ vào phía dưới cùi chỏ của y, làm cho y lùi lại thét lên vì đau
    đớn. Sau vụ ấy, các đứa trẻ khác bèn để tôi yên. Vị Chưởng Môn
    vừa quay lưng khi đứa trẻ đặt hai tay lên đầu tôi, sau đó mới được
    biết những gì đã xảy ra. Nhưng kết qủa của vụ xung đột làm cho
    Vị Chưởng Môn bất giác cười lớn đến nỗi Người vui lòng để cho
    chúng tôi về sớm.
    Lúc ấy đã gần tám giờ rưỡi, chúng tôi còn được tự do trong ba
    khắc đồng hồ trước khi cuộc dự lễ tối đúng chín giờ một khắc.
    Nhưng tôi đã quá vội mừng. Một vị Lạt Ma ra hiệu cho tôi bước lại
    gần vào lúc tôi vừa ra khỏi lớp học. Tôi bước đến gần, người nói:
    "Hãy theo ta".
    Tôi vâng lời đi theo và tự hỏi không biết chuyện gì đang chờ
    đợi tôi đây. Vị Lạt Ma bước vào một phòng âm nhạc, tại đây có độ
    hai chục thiếu nhi mới, cũng như tôi. Ba nhạc công sắp sửa chơi
    nhạc, một người đánh trống, một người thổi tù và, và người thứ ba
    thổi kèn bằng bạc. Vị Lạt Ma nói:
    - Tất cả mọi người cùng hát, để ta có thể sắp đặt giọng hát
    từng nhóm trong cuộc hợp ca.
    Các nhạc công đánh một bản nhạc rất quen thuộc mà ai cũng
    hát được. Chúng tôi vừa cất tiếng hát... thì cặp chân mày của vị
    Nhạc Sư đã nhướng lên rất cao! Sự ngạc nhiên hiện trên gương
    mặt người, kế đó sắc diện người lộ vẻ đau đớn khôn tả. Người đưa
    hai tay lên tỏ dấu phản đối và kêu to:
    - "Ngưng lại! Ngưng lại tất cả! Các em xé cả lỗ tai của đấng
    Thánh Thần! Hát lại từ đầu và coi chừng!"
    Chúng tôi hát lại lần nữa, nhưng lần này, người cũng chận
    chúng tôi lại. Lần này, người bước đến trước mặt tôi và nói:
    - Thằng ngốc, mi định chế nhạo ta chăng? Lần này khi trỗi
    nhạc mi sẽ hát một mình vì mi không muốn hòa giọng với những
    đứa khác. Một lần nữa, các nhạc công lại trỗi nhạc, và một lần nữa
    tôi lại hát. Nhưng không được lâu. Vị Nhạc Sư hoàn toàn thất
    vọng và giận dữ khoa chân múa tay trước mặt tôi và nói:
    - Lâm Bá, âm nhạc không phải là một trong những tài năng
    của mi. Trong năm chục năm trời từ ngày ta đến đây, ta chưa bao
    giờ nghe một giọng hát vụng về như thế. Vụng về ư? Được vậy còn
    đỡ. Giọng mi hoàn toàn sai, vô phương cứu vãn. Này thằng nhỏ, mi
    sẽ không được hát nữa. Trong giờ âm nhạc, mi sẽ học một môn
    khác. Khi dự lễ trong nội điện, mi phải câm miệng lại, không thì
    mi làm hỏng tất cả. Bây giờ, mi hãy cút đi, thứ lỗ tai trâu!
    Thế là, tôi lánh đi chỗ khác chơi.
    Tôi đi dạo chơi cho đến khi những tiếng kèn điểm giờ hành lễ
    cuối cùng trong ngày. Chỉ mới ngày hôm qua tôi bước chân vào tu
    viện, nhưng tôi có cảm tưởng rằng dường như tôi đã có mặt nơi đây
    từ thuở xa xăm nào! Tôi cảm thấy rằng tôi đi như người mê ngủ và
    tôi bắt đầu cảm thấy đói. Có lẽ như vậy còn hay hơn, vì nếu lúc ấy
    tôi no bụng thì chắc là tôi đã ngủ gật. Có người nắm lấy tay áo tôi
    và giơ hẳn tôi lên trên không. Một vị Lạt Ma cao lớn, vẻ mặt hiền
    hòa, đặt tôi ngồi trên hai vai rộng của người, và nói:
    - Con hỡi, coi chừng con đến trễ giờ dự cuộc lễ tối và con sẽ bị
    quở. Nếu con đến trễ, con sẽ không được ăn, và chừng đó bụng con
    sẽ rỗng không như một cái trống!
    Khi vị Lạt Ma bước vào nội điện, người vẫn còn khiêng tôi
    trên vai. Người ngồi ngay phía sau những tấm nệm dành riêng cho
    đám sơ cơ và cẩn thận đặt tôi ngồi xuống trước mặt người. Người
    nói:
    - Con hãy coi đây, và lập lại những gì ta nói. Nhưng khi ta
    cất tiếng hát thánh ca, thì con hãy im lặng chớ mở miệng đó nhé, a
    ha!
    Tôi thầm biết ơn vị Lạt Ma đã có lòng ưu ái đối với tôi. Từ
    trước đến giờ, ít có người đã tỏ ra tốt bụng đối với tôi. Sự giáo dục
    mà tôi đã hấp thụ được trong quá khứ chỉ là đặt trên một nền tảng
    quát tháo, thịnh nộ hay đánh đập.
    Tôi đã ngủ thiếp đi trong một lúc. Khi đó tôi giật mình thức
    dậy, tôi nhận thấy rằng cuộc lễ tối đã chấm dứt tự bao giờ. Vị Lạt
    Ma đã cõng tôi đến phòng ăn khi tôi còn đang mê ngủ, và đặt tôi
    ngồi xuống trước bàn, trên đó người đã đặt sẵn trà bơ, Tsampa và
    rau đậu nấu chín. Người nói:
    - Con hãy ăn no, rồi đi ngủ! Ta sẽ chỉ cho con biết buồng ngủ
    của con. Đêm nay, con có quyền ngủ thẳng giấc đến năm giờ sáng.
    Con hãy đến gặp ta khi con thức dậy.
    Đó là những lời cuối cùng mà tôi nghe trước khi tôi thức giấc
    vao lúc năm giờ sáng. Một thiếu niên sơ cơ đã tỏ ra có thiện cảm
    với tôi từ đêm trước, đến đánh thức tôi dậy một cách rất khó khăn
    giữa lúc tôi còn mê man giấc điệp. Khi thức tỉnh tôi mới thấy rằng
    tôi đã nằm trên tấm nệm giữa một phòng lớn. Người thiếu niên
    nói:
    - Vị Lạt Ma Minh Gia Đại Đức đã dặn tôi đến đánh thức sư
    huynh đúng năm giờ sáng.
    Tôi ngồi dậy và xếp ba tấm nệm chồng chất lên nhau sát
    vách tường theo gương những đứa trẻ khác. Tất cả những trẻ sơ cơ
    đã ra ngoài; người bạn trẻ của tôi bèn nói:
    - Chúng ta hãy ăn điểm tâm; rồi sau đó tôi sẽ đưa sư huynh
    đến gặp Minh Gia Đại Đức.
    Khi đó, tôi bắt đầu cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn, không
    phải tôi thích tu viện hay tôi muốn ở lại đó, mà tôi nghĩ rằng vì
    không thể làm sao hơn, nên tốt nhất là tôi nên êm thuận và hòa
    mình với hoàn cảnh. Đến giờ ăn điểm tâm, vị sư xướng ngôn đọc
    bằng một giọng trầm một đoạn kinh rút trong một trăm mười hai
    quyển của bộ kinh Kangyur của Phật Giáo Tây Tạng. Vị sư hẳn đã
    nhìn thấy tôi đãng trí và lo ra, vì thình lình người gọi giật tôi lại:
    - Này, thằng nhỏ, ta vừa mới nói những gì? Hãy trả lời mau!
    Nhanh như chớp và không suy nghĩ một giây đồng hồ tôi đáp
    ngay:
    - Bạch sư ông, ngài vừa nói rằng: Thằng nhỏ này đãng trí
    không nghe ta đọc kinh, ta phải bắt nó tại trận!
    Câu trả lời ấy làm cả cử tọa đều bất giác cười ầm lên, và nhờ
    đó tôi khỏi bị đòn vì tội vô kỷ luật. Vị sư cũng mỉm cười, đó là một
    việc hiếm có và giải thích rằng người muốn tôi lập lại đoạn kinh
    người vừa đọc, nhưng thôi, "Lần này thì như vậy cũng được".
    Mỗi bữa ăn, vị sư xướng ngôn đều ngồi trước một bàn nhỏ và
    đọc những đoạn kinh phật. Các sư sãi không được phép nói chuyện
    trong giờ ăn, hoặc nghĩ đến những chuyện riêng tư, mà phải lắng
    tai nghe đọc kinh. Họ phải tiêu thụ thánh giáo cùng một lượt với
    thức ăn. Chúng tôi tất cả đều ngồi trên những chiếc nệm đặt dưới
    đất và ăn trên những chiếc bàn nhỏ cao độ năm tấc Tây. Không ai
    được gây tiếng động hoặc để cùi chỏ lên bàn, vì đó là những điều bị
    tuyệt đối cấm nhặt.
    Tại tu viện Chakporl, người ta áp dụng kỷ luật sắt. Danh từ
    Chakporl có nghĩa là "Thiết Sơn" hay núi sắt. Trong phần lớn các
    tu viện, kỷ luật thường lỏng lẻo và thời khắc biểu không được áp
    dụng chặt chẽ. Các sư sãi có thể làm việc hoặc nghỉ ngơi tùy ý. Có
    thể chỉ có một người trong hàng ngàn sư sãi thật tình muốn tiến
    bộ tâm linh, và chính người đó mới trở nên một vị Lạt Ma, vì danh
    từ Lạt Ma có nghĩa là "Thượng nhân", và không áp dụng cho bất
    cứ người nào. Trong tu viện của chúng tôi kỷ luật rất chặt chẽ và
    thậm chí còn gắt gao là khác. Chúng tôi phải trở thành những
    người lãnh đạo của giai cấp tu sĩ. Đối với chúng tôi, thì trật tự và
    giáo dục là tuyệt đối cần thiết. Chúng tôi không được phép mặt áo
    trắng là màu áo thông thường của cấp sơ cơ: Áo của chúng tôi mặt
    phải là màu đỏ sậm như áo của các vị sư sãi. Chúng tôi cũng có
    những kẻ nô bộc để sai khiến nhưng đó là những sãi lao công, nô
    bộc, có phận sự quét dọn, lao chùi và côi sóc phần sinh hoạt thực tế
    của tu viện. Chúng tôi thay phiên nhau làm công việc hèn mọn
    này, để cho những ý nghỉ tự phụ, kêu căng không có chỗ mà chen
    vào đầu óc của mình. Chúng tôi phải luôn luôn nhớ câu sáo ngữ
    Phật Giáo: "Hãy tự mình nêu gương tốt cho kẻ khác. Hãy làm điều
    thiện và tránh mọi điều ác. Đó chính là giáo lý của Phật vậy".
    Vị Sư Trưởng của tu viện, tức vị Lạt Ma Champa La, cũng
    nghiêm khắc như cha tôi và đòi hỏi một sự vâng lời tuyệt đối. Một
    trong những lời dạy mà người thường hay nhắc đến là: "đọc và viết
    là những then chốt của mọi đức tính".
    Bởi đó, trên lãnh vực này, chúng tôi có rất nhiều việc phải
    làm.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  6. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    Tại tu viện Chakpori, một "Ngày" của chúng tôi bắt đầu từ
    lúc nửa đêm. Khi tiếng kèn điểm giờ tý canh ba vang dội âm thanh
    đến những hành lang u tối, chúng tôi còn đang ngái ngủ, đã phải
    thức dậy xếp lại nệm chiếu và dò dẫm tìm cái áo tràng trong bóng
    tôi. Mặt áo xong, chúng tôi vừa bước ra đi vừa dồn mọi đồ vật dụng
    vô áo tràng. Chúng tôi bước xuống than lầu và nện gót giầy trên
    cầu thang với những tiếng động ồn ào, vì vào giờ này, chúng tôi
    thường bực bội không vui. Trong phần giáo lý của chúng tôi có câu:
    "Thà nghỉ ngơi với một tâm hồn an tỉnh hơn là ngồi tham thiền
    tụng niệm mà ôm cơn tức giận trong lòng". Tôi thường có một ý
    nghỉ bất kín: Nếu vậy tại sao người ta không để cho chúng tôi nghỉ
    ngơi trong sự yên tỉnh? Sự thức giấc vào lúc nửa đêm này làm cho
    tôi tức giận!
    Nhưng không ai đã đưa cho tôi một lời giải đáp thỏa đáng,
    thành thử tôi phải đi cùng với mọi người vào nhà Nguyện Đường
    để dự cuộc lễ cầu nguyện ban đêm. Tại đây, vô số những ngọn đèn
    thắp bằng bơ chiếu ánh sáng rung rinh xuyên qua những luồng
    khói hương nghi ngút bay lượng trong không khí. Dưới ánh sáng
    lập lè này, và giữa những bóng người qua lại, những pho tượng
    khổng lồ của các vị Thần dường như cũng cử động và hình như
    cũng nghiên mình đáp lại những tiếng thánh ca của các sư sãi.
    Hàng năm các sư sãi và thiếu niên Sơ Cơ ngồi xếp bằng trên
    những tấm nệm xếp thành những hàng dài trong nhà Nguyện
    Đường. Họ ngồi day mặt đối diện với một hàng và xoay lưng vào
    một hàng. Họ cất tiếng hát những bản thánh ca du dương dùng
    những tiết điệu đặt biệt, vì người Đông Phương đã từng hiểu biết
    về những quyền năng của âm thanh. Cũng như một âm thanh
    được phát ra đúng cách, có thể làm bể một cái ly thì một bản nhạc
    dùng nhiều thanh điệu ghép lại theo một tiết điệu nhất định cũng
    có quyền năng siêu hình, thần bí. Trong buổi lễ, cũng có đọc kinh
    Kangyur. Thật là một cảnh tượng huy hoàng mà thấy hàng trăm
    sư sãi mặt áo tràng màu đỏ sẫm, với mảnh lụa yểm tâm màu vàng
    che trước ngực, vừa nghiêng mình vừa hát hòa tấu những bài
    thánh ca, kèm theo tiếng ngân của những cái chuông nhỏ và tiếng
    trống. Những đám khói hương trầm và đèn nhang nghi ngút luồng
    qua chân các pho tượng thần khổng lồ và người ta có cảm giác
    rằng giữa cái ánh sáng âm u đó, những pho tượng ấy cũng nhìn
    chúng tôi dường như để chứng kiến cuộc lễ uy nghiêm.
    Buổi lễ kéo dài gần một giờ, sau đó chúng tôi trở về phòng để
    ngủ lại cho đến bốn giờ sáng. Một cuộc lễ sớm bắt đầu vào lúc bốn
    giờ một khắc. Đến năm giờ, chúng tôi ăn điểm tâm với Tsampa và
    trà pha bơ. Dẫu cho trong khi ăn, chúng tôi cũng còn phải lắng
    nghe giọng nói đọc âm chán phèo của vị sư xướng ngôn, trong khi
    đó, vị sư giám thị ngồi kế bên dò xét chúng tôi với cặp mắt cú vọ.
    Trong dịp này người ta đưa ra cho chúng tôi tất cả mọi thông tri
    và huấn lệnh. Thí vụ như trong trường hợp có việc cần phải đi ra
    thành phố Lhassa, thì trong giờ ăn điểm tâm người ta nêu tên
    những sư sãi có phận sự lãnh công việc đó. Những vị này mới được
    phép rời khỏi tu viện trong một khoảng thời gian nhất định và
    được phép vắng mặt trong một vài buổi lễ trong ngày.
    Đến sáu giờ, chúng tôi vào lớp học, sẵn sàng học buổi học đầu
    tiên. Lời răn thứ nhì của Phật Giáo Tây Tạng dạy rằng: "Người sẽ
    làm tròn bổn phận tôn giáo và người sẽ học hỏi kinh thánh". Trong
    sự ngây thơ của tuổi lên bảy, tôi không hiểu tại sao người ta phải
    tuân theo Lời Răn này trong khi lời răn thứ năm: "Ngươi phải
    kính trọng những bậc trưởng thượng và những người thuộc dòng
    quý tộc". Lại không được tuyệt đối tuân theo? Thật vậy, kinh
    nghiệm của tôi cho tôi thấy rằng có một cái gì hổ thẹn mà sinh
    trưởng làm con nhà "Quý phái". Tôi thật sự đã là nạn nhân của sự
    "Quý phái" đó. Hồi đó tôi không hiểu rằng giai cấp của một người
    không phải là điều quan trọng mà chỉ có đức hạnh mới là đáng kể.
    Đến chín giờ, chúng tôi ngưng học trong bốn mươi phút để dự
    một cuộc lễ khác. Sự gián đoạn này đôi khi cũng dễ chịu nhưng
    chúng tôi phải trở về lớp học vào mười giờ kém mười lăm phút. Khi
    đó, một môn học khác lại bắt đầu và kéo dài cho đến một giờ trưa.
    Chúng tôi vẫn chưa được phép ăn uống gì và phải dự một cuộc lễ
    trưa độ nửa giờ trước khi dùng bữa ăn trưa gồm có Tsampa và trà
    pha bơ. Kế đó là một giờ làm công việc nhà để giúp cho chúng tôi
    vận động cơ thể và để dạy chúng tôi đức tính khiêm tốn. Những
    công việc dơ bẩn nhất và khó chịu nhất được giao phó cho tôi,
    dường như nhiều lần hơn là tới phiên tôi phải làm.
    Đến ba giờ chiều chúng tôi tụ hợp lại để nghỉ ngơi một tiếng
    đồng hồ. Trong giờ đó, sự nghỉ ngơi bị bắt buộc; cấm không được
    nói chuyện hay cử động; chúng tôi phải giữ im lặng hoàn toàn.
    Chúng tôi không thích sự sắp đặt đó chút nào, vì một giờ thì ít quá
    để ngủ trưa và dài quá để ngồi yên không làm gì! Sau giờ nghỉ
    trưa đó, đúng bốn giờ, chúng tôi trở lại lớp học. Đến đây mới bắt
    đầu giai đoạn gian lao nhất trong ngày, nó kéo dài suốt năm tiếng
    đồng hồ, không một chút nào nghỉ ngơi, trong năm tiếng đồng hồ
    đó chúng tôi không được phép rời khỏi lớp học vì bất cứ một lý do
    nào, nếu trái lệnh, chúng tôi sẽ bị trừng phạt rất nặng nề. Các vị
    thầy học sử dụng những gậy gộc to lớn một cách tự do và có vài vị
    tỏ ra rất sốt sắng trong việc trừng phạt những kẻ vi phạm. Chỉ có
    những học trò nào không thể chịu đựng được nữa hoặc những kẻ
    thật ngu xuẩn mới xin phép vắng mặt "đi ra ngoài" vì khi họ trở về
    lớp, sự trừng phạt là điều không thể tránh khỏi.
    Đến chín giờ tối, chúng tôi mới được "Giải thoát" để dùng bữa
    ăn cuối cùng trong ngày, cũng chỉ gồm có bấy nhiêu món là trà bơ
    và Tsampa. Đôi khi, nhưng cũng rất hiếm, chúng tôi được ăn rau,
    thường là những khoanh củ cải trắng hay đậu Hòa Lan. Những
    thứ rau đậu này chỉ ăn sống, nhưng cũng ăn được đối với những
    thiếu niên sinh bụng đói. Có một lần, năm tôi lên tám tuổi, người
    ta cho chúng tôi ăn búp măng Tây trộn dấm. Tôi rất thích ăn
    măng tây, vì tôi thường được ăn món ấy hồi còn ở nhà. Vì ăn còn
    thèm, tôi đã dại dột đề nghị với một bạn trẻ ngồi gần bên để đổi cái
    áo tràng thứ hai của tôi lấy phần ăn của nó. Vị sư giám thị bắt gặp
    quả tang chuyện này, bèn gọi tôi ra đứng giữa phòng ăn để công
    khai thú tội trước mặt mọi người. Để trừng phạt tội tham ăn của
    tôi, tôi phải chịu nhịn đói, nhịn khát trong hai mươi bốn giờ. Còn
    cái áo tràng của tôi thì bị tịch thu, họ viện lẽ rằng nó không có ích
    lợi gì cho tôi, vì tôi đã muốn đổi nó lấy một vật không cần thiết
    lắm!
    Đến chín giờ rưỡi, chúng tôi trở về phòng. Ai cũng muốn về
    mau để đi ngủ! Lúc đầu, tôi nghĩ rằng những giờ học dài quá mức
    đó có thể làm hại sức khỏe tôi, và có lẽ tôi sẽ lăn ra chết bất cứ lúc
    nào hoặc tôi sẽ ngủ luôn để không bao giờ thức dậy nữa. Cùng với
    những ma mới khác, chúng tôi thường rút lui vào một góc hẻo lánh
    để ngủ gà một giấc. Nhưng lần lần, tôi đã quen rất mau với cái
    thời khắc biểu khắc nghiệt đó, và sau cùng, những chuỗi ngày dài
    vô tận đó không còn làm cho tôi khó chịu nữa.
    Lúc ấy đã gần sáu giờ khi người thiếu niên dẫn đường đưa
    tôi đến trước cửa tư thất của Minh Gia Đại Đức. Tuy tôi không gõ
    cửa, người cũng lên tiếng trước gọi tôi vào. Phòng khách của Đại
    Đức rất trang nhã với những bức tranh tuyệt đẹp, vài bức tranh
    được vẽ ngay trên tường và những bức họa khác được vẽ trên
    những tấm màn trướng bằng lụa. Trên những bàn nhỏ có sắp
    những pho tượng các vị thần hay thần nữ bằng vàng hoặc bằng
    cẩm thạch. Trên tường cũng có gắng một bánh xe luân hồi rất lớn,
    biểu tượng của định luật Tuần Hoàn trong vũ trụ, ngồi theo tư thế
    liên hoa trên một tấm nệm, trước một cái bàn đầy những sách vỡ,
    vị Lạt Ma đang nghiên cứu kinh điển khi tôi bước vào. Người nói:
    - Lâm Bá, con hãy ngồi đây gần bên ta, chúng ta sẽ nói
    chuyện nhiều. Nhưng trước hết, đối với một thiếu niên đang ở tuổi
    sắp lớn, ta cần hỏi con một câu: Con có được ăn uống đầy đủ hay
    không?
    - Bạch Ngài, có.
    - Sư Trưởng có nói rằng chúng ta có thể làm việc chung với
    nhau. Chúng ta đã tìm thấy được tiền kiếp của con: Con đã tiến bộ
    khá lắm. Bây giờ chúng ta muốn phát triển lại vài khả năng và sở
    đắc mà con đã thu thập được trong kiếp sống vừa qua. Chúng ta
    muốn rằng trong khoảng vài năm, con sẽ thu hoạch được nhiều
    kiến thức hơn là một vị Lạt Ma có thể thu thập được suốt cả một
    đời.
    Nói đến đây, Đại Đức bèn ngừng lại và chăm chú nhìn tôi
    một lúc rất lâu, với đôi mắt sáng dường như soi thấu mọi vật.
    Người lại nói:
    - Mọi người phải được tự do chọn lựa con đường của mình.
    Tương lai của con sẽ rất gian lao khổ cực trong bốn mươi năm nếu
    con chọn con đường tốt, nó sẽ đưa đến những phần thưởng lớn lao
    trong kiếp sau. Trái lại, trên con đường dở, con sẽ được giàu sang
    với đầy đủ mọi sự tiện nghi sung sướng của cõi trần nhưng con sẽ
    không có được sự tiến bộ tâm linh. Vậy con hãy tự mình quyết
    định lấy.
    Nói xong, người nhìn tôi chờ đợi. Tôi đáp:
    - Bạch Ngài, cha con có nói rằng nếu con thất bại và rời khỏi
    tu viện, con không nên trở về nhà. Làm sao con có thể sống cuộc
    đời sung sướng tiện nghi nếu con không có nhà để trở về? Và ai sẽ
    chỉ dẫn cho con theo con đường tốt nếu con chọn đường đó?
    Đại Đức mỉm cười và nói:
    - Con đã quên rồi chăng? Chúng ta đã tìm thấy lại được kiếp
    trước của con. Nếu con chọn con đường dở, tức con đường dễ dãi
    tiện nghi, con sẽ được quy định ngôi thứ trong một tu viện như
    một vị Hóa Thân. Và trong vài năm, con sẽ được đưa lên chức vị
    Sư Trưởng. Cha con chắc sẽ không cho đó là một sự thất bại chứ?
    Tôi bèn hỏi tiếp:
    - Bạch Đại Đức, theo ý ngài đó có phải là một sự thất bại
    không?
    Người đáp:
    - Phải. Với tất cả những gì mà ta biết, thì đối với ta, đó là
    một sự thất bại.
    - Bạch Đại Đức, ai sẽ hướng dẫn cho con?
    - Ta sẽ là người hướng dẫn con, nếu con chọn con đường tốt,
    nhưng con hãy tự mình quyết định lấy, không ai có quyền ép buộc
    con hết cả.
    Tôi ngước mắt lên nhìn Đại Đức và tôi cảm thấy tôi yêu mến
    người đối diện với tôi lúc ấy: Một người cao lớn, với đôi mắt đen
    huyền, cái nhìn trong sáng, một gương mặt cởi mở và một vầng
    trán cao rộng. Phải, tôi cảm thấy tràn đầy thiện cảm đối với người!
    Tuy tôi mới lên bảy, cuộc đời tôi trước kia thật là vất vả khổ cực và
    tôi đã từng gặp gỡ nhiều nhân vật: Thật sự tôi có thể xét đoán tính
    chất của một người. Tôi nói:
    - Bạch sư phụ, con sẽ chọn con đường tốt và ước mong được
    làm đệ tử của Ngài.
    Tôi nói thêm với một giọng băn khoăn:
    - Nhưng chắc là con sẽ không thích làm việc nhiều!
    Đại Đức cất tiếng cười lớn, một giọng cười cởi mở, nó sưởi ấm
    lòng tôi và nói:
    - Lâm Bá, ở đời không ai là người thích làm việc nhiều,
    nhưng ít có người thành thật nhìn nhận điều ấy.
    Đại Đức nhìn vào các giấy tờ trên bàn và nói:
    - Một phép luyện bí mật sẽ cần thiết để giúp cho con mở được
    năng khiếu Thần Nhãn. Sau đó, chúng ta sẽ sử dụng khoa thôi
    miên để hối thúc sự học hỏi của con cho mau có kết quả. Chúng ta
    sẽ giúp cho con tiến rất xa trên các lãnh vực y khoa và Huyền
    Môn.
    Tôi cảm thấy e ngại trước một chương trình bề bộn như thế:
    Nó hứa hẹn một sự làm việc ráo riết không ngừng và khó nhọc
    dường nào! Nhất là sau khi tôi đã trải qua bao nhiêu sự học vấn
    khắc khổ trong bảy năm qua, không hề có dư thời giờ cho các môn
    giải trí... và chơi diều!
    Vị Lạt Ma dường như đọc được tư tưởng của tôi. Người nói:
    - Thực vậy, con hỡi. Sau này con sẽ có thời gian để chơi diều
    nhưng đó sẽ là những con diều thật lớn và có thể chở người ngồi
    bên trong. Còn hiện giờ, ta cần thiết lập một thời khắc biểu hợp lý
    đến mức tối đa.
    Sư phụ tôi lại cúi xuống mớ giấy tờ trên bàn:
    - Xem nào, từ chín giờ sáng đến một giờ trưa, có được chăng?
    Phải đấy, ta hãy bắt đầu như vậy. Con hãy đến đây mỗi buổi sáng
    đúng chín giờ thay vì dự buổi lễ sáng và ta sẽ thảo luận về những
    vấn đề quan trọng. Buổi học đầu tiên sẽ là sáng mai. Con có muốn
    nhắn gì với cha mẹ con không? Ta sẽ đến viếng song thân của con
    ngày hôm nay. Con hãy đưa cho ta mớ tóc củ của con hôm trước!
    Điều đó làm tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Khi một thiếu niên
    được nhận vào tu viện, người ta xuống tóc cho y và gởi cái bím tóc
    dài vừa cắt xong cho cha mẹ y qua sự trung gian của một thiếu
    niên Sơ Cơ để chứng minh rằng con của họ đã được thâu nhận.
    Trong trường hợp này thì chính Minh Gia Đại Đức đích thân đem
    cái bím tóc của tôi về nhà! Điều này có nghĩa là từ nay Đại Đức sẽ
    hoàn toàn đảm trách cuộc đời tôi và tôi đã trở nên đứa "Con tâm
    linh" của người.
    Minh Gia Đại Đức là một nhân vật rất quan trọng, một
    người có một trí thông minh hiếm có và được nổi tiếng khắp nơi ở
    xứ Tây Tạng. Tôi tin chắc rằng dưới sự dìu dắt của một vị sư như
    Ngài, tôi không thể nào thất bại.
    Sáng ngày hôm ấy, khi trở về lớp học, tôi làm một người học
    trò rất lãng trí. Tôi để tư tưởng vẫn vơ đâu đâu, và bởi đó vị gia sư
    lại có dịp thỏa mãn cái khuynh hướng sử dụng gậy gộc một cách
    thẳng tay!
    Tôi nhận thấy các giáo sư đã tỏ ra nghiêm khắc một cách quá
    đáng. Nhưng để tự an ủi, tôi nghĩ rằng dầu sao tôi đến đây là để
    học. Đó là lý do vì sao tôi đầu thai trở lại, tuy rằng hồi đó tôi
    không được biết rõ tôi cần phải học lại những gì.
    Ở Tây Tạng, người ta tin tưởng rất mạnh nơi sự luân hồi. Họ
    tin rằng một người đã đạt tới một trình độ tâm kinh nào đó, có thể
    chọn lựa sống trên một cõi giới khác, hoặc trở lại thế gian để học
    hỏi thêm hay để giúp đỡ kẻ khác. Có khi một nhà hiền giả đã hỏi
    phải thực hiện một sứ mạng nhất định trong đời mình nhưng lại
    qua đời trước khi hoàn thành sứ mạng. Trong trường hơp đó, người
    ta tin rằng nhà hiền giả có thể tái sinh trở lại thế gian để hoàn tất
    công việc đã bỏ dở trong kiếp trước, dưới điều kiện là công việc ấy
    sẽ hữu ích cho nhân loại.
    Không mấy ai có thể nhờ người khác truy ra những tiền kiếp
    của mình, việc ấy đòi hỏi một vài ấn chứng, tổn phí nhiều tiền bạc
    và mất nhiều thì giờ. Những người nào cũng như trường hợp của
    tôi có những ấn chứng đó được gọi là những vị "Hóa Thân" (người
    đã tiến hóa cao, tình nguyện đào thai trở lại cõi trần ngay sau khi
    chết, để thực hiện một sứ mạng tâm linh cao cả). Những vị này hồi
    còn trẻ được dạy dỗ theo một kỷ luật vô cùng khắc khổ, giống như
    trường hợp của tôi, nhưng về sau đến lúc trưởng thành họ được sự
    kính trọng của tất cả mọi người. Về phần tôi, người ta sẽ dành cho
    tôi một sự huấn luyện đặc biệt nhằm tăng cường những kiến thức
    của tôi về khoa Huyền Môn. Để làm gì? Hồi đó, tôi chưa được biết
    rõ lý do.
    Những cú roi giáng xuống như mưa làm tôi giật mình, và
    đưa tôi trở về thực tế.
    - Thằng ngốc! Đồ gàn! Những ý nghỉ đen tối nào đã lọt vào
    trong cái sọ dày đặt của mi? May cho mi vì đã đến giờ dự lễ nếu
    không, chắc là mi còn bị ăn đòn!
    Kèm theo lời mắng mỏ ấy, vị giáo sư thịnh nộ đá vào đít tôi
    một đá nên thân và bước nhanh ra khỏi lớp học. Một bạn đồng
    môn của tôi nói:
    - Bạn đừng quên rằng trưa nay là tới phiên chúng ta phải
    làm công tác dưới bếp, tôi hy vọng chúng ta có thể vô bao đầy món
    Tsampa.
    Công tác làm bếp rất cực nhọc, vì những vị sư giám thị đối xử
    với chúng tôi như những kẻ nô lệ. Không có vấn đề nghỉ ngơi sau
    hai giờ công tác nặng nhọc đó. Làm bếp xong, chúng tôi phải trở lại
    lớp học ngay. Đôi khi người ta giữ chúng tôi ở lại bếp quá lâu nên
    chúng tôi đến lớp học trễ giờ. Khi chúng tôi đến nơi thì vị giáo sư
    nổi trận lôi đình phân phát cho chúng tôi một loạt những cú roi,
    gậy như mưa tấc, không để cho chúng tôi có chút mảy may cơ hội
    để biện hộ cho sự trễ giờ đó!
    Công tác đầu tiên của tôi trong nhà bếp suýt nữa cũng là
    công tác cuối cùng. Theo những hành lang lót đá, chúng tôi đi đến
    nhà bếp... không chút hứng khởi trong lòng. Một sư sãi nét mặt rất
    cáu kỉnh đứng đợi chúng tôi ở ngoài cửa. Khi vừa thấy chúng tôi
    đến, y kêu to:
    - Mau lên, thật là một lũ lười biếng và vô dụng. Mười đứa
    đầu tiên hãy vô nấu các nồi "Xúp de"!
    Tôi lọt nhằm số mười, tôi bèn đi cùng với những thiếu sinh
    khác xuống bếp do một cầu thang nhỏ. Dưới nhà bếp nóng kinh
    khủng. Trước mặt chúng tôi, những bếp lò phát ra những tia lửa
    đỏ. Nhiên liệu đốt lò là phân con Yak phơi khô và ép thành từng
    bánh tròn, được chất lên từng đống lớn gần bên các chảo đun. Vị
    sư sãi chỉ huy việc nấu bếp quát lớn:
    - Hãy vác xuổng lên và xúc phân khô đổ vô lò!
    Tôi chỉ là một đứa trẻ mới lên bảy tuổi lẫn lộn trong đám
    thiếu sinh mà đứa trẻ nhất cũng không dưới tuổi mười bảy. Tôi chỉ
    vừa đủ sức giơ cái xuổng lên toan xúc phân cho vào lò thì tôi vô ý
    thế nào làm lật cái chảo nước đang sôi lên hai bàn chân của vị sư
    sãi. Y thét lên trong cơn thịnh nộ, nắm lấy cổ họng tôi xoay một
    vòng... và loạng choạng té ngã. Tôi nhảy ra phía sau, nhưng tôi
    cảm thấy đau nhói kinh khủng và ngửi thấy mùi da thịt cháy
    khét. Tôi đã té ngã trên một cây sắt đầu nướng đỏ từ trong bếp lò
    văng ra. Thét lên vì đau đớn, tôi ngã lăn giữa những tro than cháy
    âm ỉ. Phần trên đùi bên trái của tôi, gần chỗ xương háng bị cháy
    đến tận xương, chỗ da thịt bị phỏng ấy đã để lại cho tôi một vết
    thẹo trắng, mà hiện nay còn làm cho tôi khó chịu. Chính vết sẹo ấy
    về sau đã làm cho người Nhật nhìn ra được tôi.
    Một cơn náo loạn đã diễn ra sau đó. Những sư sãi khác từ
    khắp nơi vội vàng chạy đến. Người ta mau mau đỡ tôi đứng dậy
    giữa đám tro tàn. Tôi bị những vết phỏng khắp thân mình nhưng
    nặng nhất là vết thương ở bắp đùi. Người ta mau cõng tôi lên
    những tầng lầu trên, ở đó, một vị Lạt Ma y sĩ cố gắng chữa trị vết
    phỏng để cố cứu lấy cái chân tôi. Thỏi sắt nướng đó là một vật dơ
    bẩn và để dính lại trong vết thương những mạt cưa sắt rỉ sét. Vị y
    sĩ phải moi trong vết thương để lấy ra những miếng sắt vụn này,
    cho đến khi vết phỏng được rửa sạch trơn. Kế đó, y sĩ rịt thuốc lên
    vết thương và băng bó cẩn thận. Còn những vết phỏng nhẹ ở khắp
    thân mình thì y sĩ thoa lên một chất thuốc nước làm bằng chất
    dược thảo nó làm cho tôi bớt đau rất nhiều.
    Sự đau đớn, nhức nhối vẫn âm ỉ và tôi tưởng chắc là sẽ
    không còn sử dụng chân trái của tôi được nữa. Khi đã băng bó
    xong, vị Lạt Ma y sĩ gọi một sư sãi khiêng tôi vào một gian phòng
    bên cạnh và đặt tôi nằm trên nệm. Một vị sư già bước vào ngồi
    dưới đất ở bên cạnh giường tôi và bắt đầu đọc kinh cầu nguyện.
    Tôi thầm nghĩ: "Thật là tốt đẹp thay mà cầu nguyện ơn trên che
    chở cho tôi sau khi tôi vừa bị một tai nạn!" Sau cái kinh nghiệm
    bản thân về sự đau đớn cực hình này, tôi quyết định sẽ sống một
    cuộc đời đức hạnh. Tôi nhớ đến một bức tranh vẽ cảnh địa ngục,
    trong đó một quỷ sứ hành hình một nạn nhân bằng cách lấy dùi
    sắt nhọn nướng đỏ đốt thân hình y ở gần chỗ mà tôi bị phỏng.
    Có lẽ người ta sẽ nghĩ rằng trái với đều mà họ vẫn tưởng các
    sư sãi là những kẻ ác ôn. Nhưng sư sãi là gì? Ở xứ Tây Tạng, danh
    từ đó áp dụng cho mọi người phái nam sống trong một tu viện Lạt
    Ma Giáo, dẫu cho họ không phải là người tu. Hầu như bất cứ người
    nào cũng có thể trở nên sư sãi. Một trẻ thiếu nhi thường được gởi
    vào một tu viện để trở nên "Sư sãi" mà nó không cần được hỏi ý
    kiến. Đôi khi, đó là một người trưởng thành đã chán công việc đi
    chăn cừu và muốn có một mái nhà ấm cúng để đụt sương tuyết khi
    tiết trời lạnh lẽo sụt xuống đến bốn mươi độ dưới số không. Khi đó,
    y xin làm sư sãi trong tu viện. Không phải vì lý tưởng tôn giáo mà
    vì y muốn tự đảm bảo lấy ít nhiều tiện nghi vật chất. Các tu viện
    dùng những "Sư sãi" đó như những người lao công để làm những
    công tác xây cất, cày bừa hay quét dọn. Ở những nơi khác thì
    những người đó được gọi là nô bộc hay bằng một danh từ tương tự.
    Phần nhiều những người đó đã sống một cuộc đời rất khổ nhọc:
    Sống ở những vùng cao nguyên từ ba ngàn đến bảy ngàn thước bề
    cao, không phải là một cuộc đời dễ chịu. Đối với người Tây Tạng,
    thì một "Sư sãi" chỉ có nghĩa là một người như mọi người thường.
    Họ dùng danh từ Trappa để chỉ những người tu sĩ.
    Những vị Lạt Ma (Lama) là những bậc cao tăng, thuộc một
    cấp đẳng cao. Đó là những bậc đạo sư, hay tôn sư. Thí dụ như Lạt
    Ma Minh Gia Đại Đức sẽ là vị tôn sư của tôi, và tôi sẽ là đệ tử của
    người. Kế đó, ở cấp đẳng cao hơn nữa là những vị sư trưởng.
    Không phải tất cả những vị này đều đảm trách việc trông coi một
    tu viện; nhiều vị nắm giữ những chức vụ cao trong chính phủ hoặc
    đi ta bà từ tu viện này đến tu viện khác. Có đôi khi một vị Lạt Ma
    lại ở cấp đẳng cao hơn vị sư trưởng; mọi sự đều tùy nơi những hoạt
    động của người.
    Những người được coi như là những vị "Hóa Thân" (người ta
    đã chứng minh rằng đó là trường hợp của tôi) có thể được chỉ định
    làm chức sư trưởng vào năm mười bốn tuổi, sau khi đã vượt qua
    một cuộc thi rất khó khăn. Những vị này thường là nghiêm khắc
    nhưng không hung dữ và không bao giờ bất công.
    Một thí dụ khác về sư sãi là trường hợp các sư sãi cảnh binh.
    Nhiệm vụ duy nhất của họ là duy trì trật tự, họ không có phận sự
    gì trong việc tế tự, lễ bái ở các đề chùa, họ chỉ cần có mặt để xem
    mọi việc có xảy ra đúng theo quy tắc luật lệ không. Họ thường rất
    hung tợn cũng như phần nhiều các sư sãi nô bọc như đã nói ở trên
    (nhưng không vì thế mà họ làm giảm uy tín của các tu viện).
    Người ta không thể lên án một vị giám mục vì ông ta có một tên
    làm vườn thô lỗ! Cũng như người ta không trông mong người làm
    vườn ấy sẽ trở nên một ông thánh chỉ vì y làm tôi tớ cho một vị
    giám mục!
    Trở lại vấn đề tôi bị phỏng lửa khi đi làm công tác dưới bếp.
    Hiệu lực của chất thuốc vừa tan dần, tôi hồi tỉnh lại và cảm thấy
    như mình bị lột da. Trong cơn mê sảng tôi tưởng tượng dường như
    một ngọn đuốc đang cháy được đặt vào một cái lỗ trống trong bắp
    đùi bên trái của tôi.
    Thời giờ trôi qua. Tôi lắng nghe những tiếng động trong tu
    viện: Vài loại âm thanh đã quen thuộc đối với tôi, nhưng có nhiều
    loại khác mà tôi không nhận ra là những tiếng động gì. Toàn thân
    tôi bị rung chuyển vì những cơn đau điếng dữ dội. Tôi nằm sấp
    trên bụng nhưng những vết phỏng cũng lan rộng đến phía trước
    của thân mình tôi. Tôi nghe một tiếng động nhẹ: Có người đến ngồi
    gần bên tôi. Một giọng đầy thiện cảm và nhân từ của Minh Gia
    Đại Đức nói thì thầm bên tai tôi:
    - Con hỡi, chắc là con bị đau lắm. Thôi hãy ngủ đi.
    Vài ngón tay nhẹ nhàng lướt trên lưng tôi dọc theo xương
    sống, nhẹ lướt thêm nữa và thêm nữa. Thế rồi... tôi mê man ngủ
    thiếp đi.
    Một vầng mặt trời êm ấm chiếu rạng ngời trước mặt tôi. Tôi
    thức dậy và chớp mắt liên hồi. Tư tưởng đầu tiên đến với tôi khi tôi
    vừa chợt tỉnh là hình như có người đá tôi vài đá vì tôi đã ngủ quá
    lâu. Tôi định nhảy xuống giường để hối hả đi dự buổi lễ sáng
    nhưng tôi bèn té ngửa ra sau, khắp mình mẩy đau nhức như rần.
    Thì ra đó là cơn mê sảng... Chân trái tôi đau quá.
    Một giọng dịu hiền ưu ái nói với tôi:
    - Lâm Bá, con hãy nằm yên. Hôm nay con có thể nghỉ.
    Tôi quay đầu nhìn lại lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy
    rằng tôi đang nằm trong phòng của Minh Gia Đại Đức, còn Sư Phụ
    thì ngồi gần bên tôi. Người nhận thấy sự ngạc nhiên của tôi và
    mỉm cười:
    - Tại sao con ngạc nhiên? Phải chăng là một việc thường tình
    mà hai người bạn ở gần bên nhau khi một người bị đau ốm?
    Tôi đáp bằng một giọng rã rời mệt mỏi:
    - Nhưng sư phụ là một vị Lạt Ma cao cả, còn con chỉ là một
    đứa trẻ nhỏ.
    - Lâm Bá, chúng ta đã cùng nhau đi một đoạn đường rất dài
    trong những kiếp trước. Hiện giờ con chưa nhớ lại được điều đó
    nhưng ta nhớ rõ, vì chúng ta đã sống rất gần bên nhau trong
    những kiếp vừa qua. Còn bây giờ con cần phải nghỉ ngơi để lấy lại
    sức. Chúng ta sẽ điều trị bắp chân con cho mau lành, con đừng lo
    gì cả!
    Tôi liên tưởng đến cái bánh xe luân hồi sinh tử và nghĩ đến
    những điều răn trong kinh thánh của xứ tôi: "Người tâm hồn
    quảng đại sẽ được sống một cuộc đời giàu sang không bao giờ dứt,
    còn kẻ hèn tiển ít róng sẽ không bao giờ được sự ưu ái, từ tâm.
    Người có quyền thế hãy sống một cách quảng đại với những kẻ
    khác đến nhờ vả mình. Y hãy nhìn xa để thấy con đường dài của
    sự luân hồi sinh tử. Sự giàu sang luân chuyển như những bánh xe,
    nay nó thuộc về người này, mai nó thuộc về người khác. Kẻ hành
    khất ở kiếp này có thể trở nên một vị vương hầu ở kiếp sau, còn vị
    vương giả ngày nay có thể trở nên kẻ ăn mày trong một tương lai
    xa gần".
    Khi đó tôi hiểu một cách chắc chắn không còn nghi ngờ gì
    nữa, mặc dầu trong cơn đau đớn thể xác và mặc dầu tuổi tôi còn
    nhỏ, rằng Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi là một tâm đức và tôi có
    thể tin tưởng lời giáo huấn của người. Rõ ràng là sư phụ tôi biết rõ
    rất nhiều điều về tôi, nhiều hơn rất xa những gì mà tôi có thể biết
    được. Tôi rất nóng lòng muốn làm việc chung với người và tôi
    quyết định rằng tôi sẽ là một người đệ tử gương mẫu. Tôi cảm thấy
    một cách rõ rệt rằng giữa chúng tôi có một sự đồng thanh đồng khí
    rất chặt chẽ và tôi lấy làm cảm kích sự xoay vần của định mệnh nó
    đã đặt tôi dưới sự hướng dẫn dìu dắt của người.
    Tôi quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Những tấm nệm của tôi
    đang nằm được đặt trên một cái bàn để cho tôi có thể nhìn thấy
    bên ngoài. Cảnh vật rất là hùng tráng. Đằng xa, ở bên ngoài
    những nóc nhà chen chúc nhau phía dưới cửa sổ của tôi, thành phố
    Lhassa vươn mình dưới ánh nắng mặt trời, với những ngôi nhà
    nhỏ sơn màu lợt xinh xắn. Trong thung lũng, con sông Kỳ Giang
    uốn khúc giữa những cánh đồng xanh tươi nhất thế giới. Những
    dãy núi xa tít chân trời ửng màu đỏ sậm với những đỉnh núi đội
    tuuết trắng phau. Trên những ngọn núi gần hơn, những vết màu
    vàng lóng lánh chen chút nhau trên sườn núi, đó là nóc của những
    tu viện. Bên tay trái, điện Potala nhô lên cao như một ngọn núi
    biệt lập.
    Về phía tay mặt, một cụm rừng nhỏ trong đó rải rác những
    đền chùa và trường học. Đó là địa phạn của vị Thiên Giám Quan,
    một nhân vật quan trọng mà vai trò duy nhất trong đời là tạo nên
    một nhịp cầu giao cảm giữa cõi trần gian vật chất và cõi giới vô
    hình, và tiên tri điều họa phúc của quốc gia. Dưới mắt tôi, trên sân
    mặt tiền, những sư sãi thuộc các cấp đi qua lại không ngớt. Vài vị
    trong số đó, những người sư sãi lao công, mặc áo màu nâu sậm.
    Một nhóm thiếu sinh của tu viện ở xa mặc áo trắng. Những sư sãi
    cao cấp cũng có mặt ở đó, đều mặt áo màu đỏ sậm, với mảnh yểm
    tâm bằng lụa vàng, chỉ rằng họ thuộc thành phần viên chức tối cao
    của chính phủ. Một vài vị cưỡi ngựa hay cưỡi lừa. Những người
    thường dân thì cưỡi ngựa đủ màu còn các sư sãi bắt buộc phải cưỡi
    trắng. Tất cả những cảnh tượng đó là cho tôi quên cả hiện tại.
    Điều làm cho tôi quan tâm hơn hết là làm sao cho chóng bình phục
    để có thể sử dụng hai chân của mình.
    Ba ngày sau, người ta cho rằng tốt hơn tôi nên ngồi dậyvà
    thử đi đứng xem sao. Chân trái tôi còn cứng đơ và làm cho tôi rất
    đau đớn. Chỗ vết phỏng đã sưng lên và có mủ vì những mảnh sắt
    vụn rĩ sét mà người ta khong thể gắp ra được. Vì tôi không thẻ đi
    đứng một mình, người ta làm cho tôi một cây nạng gỗ để tôi dùng
    mà đi một chân, tôi đi nhún nhẩy cũng như con chim bị thương.
    Toàn thân tôi vẫn còn những vết phỏng và những chỗ phồng da
    nhung chân trái tôi làm cho tôi đau đớn nhiều hơn các chỗ
    khác.Tôi không thể ngồi được mà phải nằm nghiêng bên mặt hoặc
    nằm sấp tôi không thể dự các buổi lễ cầu nguyện hay đi đến lớp
    học nên Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ tôi dạy tôi học tại tư thất từ
    sáng đến chiều. Người tuyên bố hài lòng về những kiến thức mà
    tôi thu thập được trong thời "Niên thiếu" của tôi, người nói:
    - Nhưng, nhiều điều trong những kiến thức đó chỉ là những
    kỷ niệm mà con đã mang theo từ những kiếp trước.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  7. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    Hai tuần lễ trôi qua những vết phỏng của tôi đã gần khỏi.
    Cái chân tôi còn làm cho tôi hơi đau nhưng càng ngày càng bớt
    dần. Tôi yêu cầu được áp dụng thời khắc biểu như thường lệ vì tôi
    thấy cần phải cử động đôi chút. Tôi được phép ngồi tùy ý hoặc nằm
    sấp trên bụng. Người Tây Tạng ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa,
    nhưng tôi không thể ngồi như vậy vì chân tôi còn đau.
    Ngày đầu tiên tôi trở lại lớp học để gặp lại các bạn cũ, thì có
    công tác làm bếp vào buổi trưa. Tay cầm một tấm bảng đá tôi có
    phận sự kiểm điểm những bao lúa mạch nha sấy. Lúa mạch nha
    được trải lên những tảng đá hâm nóng đến bốc khói: Cái nồi "Xúp
    de" mà tôi đã làm lật đỗ đến bị phỏng, được đặt ở phía dưới. Khi đã
    trải đều lúa mạch nha trên những tảng đá, người ta mới đóng cửa
    và nhóm thiếu sinh chúng tôi đi qua hành lang đến một văn
    phòng, tại đây người ta xay giã lúa mạch nha đã sấy xong. Cối xay
    là một cối đá hình ống loa lật ngược, vành tròn đường kính độ một
    thước sáu tấc. Lòng cối xay có chạm khắc những đường lồi lõm để
    giữ lúa. Một tảng đá vĩ đại cũng hình ống loa, nhưng đặc ruột đặt
    vào lòng cối để nghiền nát lúa. Tảng đá này được nâng bằng một
    cái đòn tay bằng gỗ mà thời gian đã làm cho trơn bóng, ở hai đầu
    cái đòn tay này có gắn chặt các đòn tay nhỏ hơn giống như những
    cây căm của một bánh xe không có vành. Lúa mạch nha sấy được
    đổ vào cối đá, rồi các sư sãi và những trẻ thiếu nhi mới nắm lấy
    những cây căm bánh xe để vận chuyển khối tảng đá nặng đến
    hàng mấy tấn. Khi tảng đá đã xoay vòng thì công việc không còn
    nặng nhọc lắmvà chúng tôi cùng cất tiếng hát hợp xướng. Ít nhất
    tại đây tôi có thể hát mà không bị bắt tại trận! Nhưng làm vận
    chuyển tảng đá này là cả một công trình khó nhọc. Tất cả mọi
    người đều phụ giúp một tay trợ lực. Kế đó phải để ý coi chừng nó
    luân chuyển luôn luôn không lúc nào ngừng. Những số lượng mạch
    nha sấy được đổ thêm vào cối và lúa sấy xong thoát ra ngoài ở
    phần dưới cối. Chính thứ lúa xay này được trải một phần nữa lên
    nhưng tảng đá nóng để sấy lại là chất liệu căn bản để là món
    Tsampa. Mỗi người chúng tôi đều đem theo trong mình một ít
    Tsampa đủ ăn trong một tuần hay nói đúng hơn là một số lúa
    mạch nha đã xay nát và sấy lại. Đến bữa ăn, chúng tôi lấy ra một
    phần nhỏ đựng sẵn trong cái bọc da và đổ vào những cái chén
    riêng của mình. Sau khi đổ thêm trà pha bơ chúng tôi dùng ngón
    tay trộn đều và nhồi cho đến khi nó trở thành một thứ bánh, rồi
    mới ăn.
    Qua ngày hôm sau, công tác làm bếp gồm có việc nấu trà bơ.
    Ở gian phòng khách của nhà bếp có đặt một cái chảo đụn khổng lồ
    với dung lượng sáu trăm bảy mươi lăm lít. Chảo đụn này đã được
    lau chùi bằng cát và trở nên sạch bóng như còn mới.
    Từ sáng sớm, chảo đụn này đã được chứa nước đến phân nửa
    và nấu sôi lên sùng sục. Chúng tôi có phận sự đi lấy những bánh
    trà đã phơi khô và đập tan ra thành từng mảnh vụn. Trà này được
    ép cứng lại thành từng bánh lớn hình vuông như viên gạch, mỗi
    bánh cân nặng từ bảy đến tám kg, được chở từ Trung Hoa hay Ấn
    Độ đến Lhassa bằng đường bộ xuyên qua các truyền núi. Những
    mảnh vụn vừa đập ra được ném vào chảo nước đang sôi. Một sư sãi
    thêm vào đó một tảng muối cục thật lớn, một sư sãi khác bỏ thêm
    vô một muối hóa chất (bicarbonnate de soude). Khi tất cả đều sôi
    sục người ta mới đổ thêm vào từng mảng bơ làm bằng sữa của con
    Yak, và để lửa cháy trong lò suốt nhiều giờ. Trà trộn với bơ này có
    một giá trị dinh dưỡng rất tốt và dùng thêm với món Tsampa nó có
    đầy đủ chất bổ dưỡng để cho người Tây Tạng sống được quanh
    năm. Công việc khó nhọc nhất là giữ cho lửa cháy trong. Thay vì
    dùng phân củi người ta dùng phân con Yak phơi khô làm chất
    nhiên liệu để đốt lửa. Chất nhiên liệu này luôn luôn được dự trữ
    quanh năm thành một lượng dùng không bao giờ cạn. Phân bò đốt
    cháy tỏa ra một mùi vị rất chát và nồng nặc.
    Chúng tôi bị bắt buộc phải làm những công tác này không
    phải là vì thiếu nhân công mà là vì muốn xóa bỏ tối đa mọi sự
    phân biệt giai cấp. Chúng tôi nghĩ rằng con người chỉ có một kẻ
    thù ấy là sự chia rẽ, cách biệt. Làm việc bên cạnh một người, nói
    chuyện cởi mở với y hãy, có dịp thông cảm với y rồi thì y sẽ không
    là một kẻ thù của ta nữa. Ở Tây Tạng mỗi năm một lần, những vị
    quan to hay chức sắc có quyền thế từ bỏ quyền hành của mình
    trong một ngày, và bất cứ một thuộc hạ nào của họ cũng có quyền
    nói lên những gì y cảm nghĩ trong lòng nếu một vị Sư Trưởng tỏ ra
    lạm quyền hống hách, người ta sẽ nói lên một cách công khai và
    nếu sự phiền trách đó là đúng thì người khiếu nại sẽ không bị một
    sự trừng phạt nào. Phương pháp đó tỏ ra rất hiệu quả nên sự lạm
    dụng quyền hành cũng rất ít khi xảy ra. Nó đảm bảo một sự công
    bình xã hội, để cho những người thuộc viên ở cấp dưới có cơ hội
    phát biểu những cảm nghĩ của họ đối với những kẻ có quyền thế.
    Chúng tôi phải làm việc nhiều trong lớp học và ngồi xếp
    hàng dưới đất. Khi giảng bài và viết trên bảng đen thì vị giáo sư
    đứng trước mặt học trò. Nhưng khi chúng tôi làm bài thì ông giáo
    sư đi rảo đằng sau lưng chúng tôi, thành thử chúng tôi phải làm
    việc cẩn thận vì chúng tôi không biết ông ta đang rình đứa nào!
    Ông ta không lúc nào rời cây gậy, một cây gậy mập như cây dùi cui
    mà ông ta không ngần ngại "sử dụng" trên bất cứ bộ phận nào trên
    thân thể chúng tôi: Vai, đầu, lưng, không kể đến những bộ phận
    "cổ điển". Ông ta không cần phân biệt đó là chỗ nào, miễn là
    những cú gậy gộc đó đánh thật đau.
    Chúng tôi học rất nhiều về môn toán pháp, môn này là một
    kỷ luật cần thiết để đoán khoa chiêm tinh. Khoa chiêm tinh Tây
    Tạng thật vậy không có gì là ngẫu nhiên tình cờ, nó được thiết lập
    trên những nguyên tắc khoa học. Tôi phải học nhiều về khoa
    chiêm tinh vì môn này là tối cần thiết trong việc hành nghề y
    khoa. Một y sỹ nên điều trị bệnh nhân theo từng hạng người, sự
    phân hạn này là do khoa chiêm tinh quy định. Điều trị theo
    nguyên tắc đó là tốt hơn cho đơn kê thuốc một lý do mơ hồ là thuốc
    ấy đã chữa khỏi bệnh cho một người khác. Bên cạnh những bản đồ
    chiêm tinh rất lớn treo trên tường, còn có những bản đồ khác vẽ
    hình những thảo dược. Những bản đồ này được thay đổi luôn luôn
    mỗi tuần và chúng tôi phải biết rõ tất cả mọi loại cỏ thuốc. Sau
    này, những cuộc xuất hành sẽ được tổ chức để đi hái thuốc, nhưng
    chúng tôi chỉ được tham dự những cuộc ngao du đó khi nào chúng
    tôi đã có những kiến thức sâu rộng, để người ta có thể tin tưởng
    rằng chúng tôi sẽ không hái lầm những loại cỏ xấu. Những chuyến
    đi hái thuốc đem đến cho chúng tôi những ngao du rất thoải mái
    dễ chịu tạm quên được cuộc đời phẳng lặng buồn chán của tu viện.
    Có những chuyến đi kéo dài đến ba tháng; đó là những cuộc xuất
    hành lên vùng thượng du, một vùng bao bọc xung quanh bởi
    những dãy núi có tuyết phủ quanh năm, bề cao từ sáu ngàn đến
    tám ngàn thước trên mực nước biển, nơi đó những vùng băng tuyết
    xen lẫn với những thung lũng xanh tươi với khí hậu ôn hòa nhờ bởi
    những suối nước nóng. Trong vùng này người ta có một kinh
    nguyện độc nhất trên đời. Người ta chỉ cần đi một quãng đường dài
    năm mươi thước để trải qua một khí hậu lạnh đến bốn mươi độ
    dưới không, đến một khí hậu nóng bốn mươi lăm độ trong bóng
    mát. Vùng này của xứ sở Tây Tạng không ai được biết, chỉ trừ một
    thiểu số các sư sãi.
    Tu viện của chúng tôi được nổi bởi kỷ luật khắc khổ và nột
    nền giáo dục chặt chẽ. Một số lớn các sư sãi từ các tu viện khác
    đến đây từ giã chúng tôi để đi đời sống dễ chịu hơn. Chúng tôi coi
    họ như những kẻ thất bại với chúng tôi là những người thuộc
    thành phần ưu tú. Nhiều tu viện không có buổi lễ khuya; các sư
    sãi đi ngủ sớm vào lúc tối và thức dậy trời đã sáng. Chúng tôi
    khinh thường họ như những kẻ yếu hèn, thấp kém vì tuy rằng
    chúng tôi bất mãn với quy tắc quá khắc khổ của tu viện, chúng tôi
    lại không bằng lòng cho quy tắc đó bị sửa đổi, nếu nó đưa chúng
    tôi tới hậu quả là hạ thấp chúng tôi xuống trình độ kém hèn của
    kẻ khác.
    Kế đó là phải loại trừ những kẻ yếu. Chỉ có những người rất
    khỏe mạnh mới trở về sau những cuộc xuất hành lên vùng thượng
    du lạnh như băng tuyết; ngoại trừ những sư sãi ở tu viện
    Chakpori, không có ai dám đi lên đó. Các vị đạo sư, vốn đầy minh
    triết quyết định loại bỏ nhưng người không thể chịu đựng được
    cuộc sống kham khổ, trước khi họ có dịp làm liên lụy đến kẻ khác.
    Trong năm học đầu tiên chúng tôi hầu như không có lúc nào nghỉ
    ngơi, giải trí hay có dịp vui chơi thỏa thích. Mỗi giây phút của
    chúng tôi đều dành cho sự học và làm việc.
    Một điều mà tôi còn biết ơn các vị sư, là các Ngài đã dạy
    chúng tôi phương pháp sử dụng trí nhớ. Phần nhiều người Tây
    Tạng có trí nhớ tốt, nhưng riêng phần chúng tôi là sinh viên y
    khoa, học để trở thành các tu sỹ kiêm y sỹ, thì chúng tôi cần biết
    tên và đặc tính của nhiều loại dược thảo cùng cách biến chế và sử
    dụng các loại cỏ thuốc. Chúng tôi cũng cần hiểu biết tường tận
    khoa chiêm tinh và thuộc làu tất cả các kinh điển Phật Pháp.
    Một phương pháp tập luyện trí nhớ đã được thực nghiệm trải
    qua nhiều thế kỷ. Chúng tôi ngồi trong một gian phòng có những
    tủ lớn chứa đựng hằng muôn nghìn hộc tủ. Mỗi hộc tủ có dán nhãn
    hiệu bên ngoài, có in chữ khá lớn dễ đọc từ chỗ chúng tôi ngồi. Mỗi
    đề tài học tập mà chúng tôi đã thụ huấn được sắp hạng trong mỗi
    hộc tủ thích nghi. Chúng tôi phải hình dung rõ ràng trong trí mỗi
    đề tài vào vị trí nhất định của mỗi học tủ. Với ít nhiều công phu
    tập luyện, người ta có thể đi vào gian phòng bằng tư tưởng một
    cách rất dễ dàng mở đúng phóc các hộc tủ mình muốn và lấy ra các
    tài liệu mình tìm kiếm cùng với những đề tài liên quan.
    Các vị giáo sư đặc biệt nhấn mạnh với chúng tôi hiểu sự cần
    thiết có một trí nhớ được tập luyện thuần thục. Họ vấn nạn chúng
    tôi một cách ráo riết với mục đích duy nhất là thử thách trí nhớ
    của chúng tôi. Những câu hỏi đó không có một sự mạch lạc hay
    liên lạc vì với nhau, để cho không có một dòng tư tưởng liên tục
    nào giúp chúng tôi trả lời được dễ dàng. Những câu hỏi đó thường
    liên quan đến những đoạn bí hiểm trong cách kinh điển tôn giáo,
    chen lẫn với những câu hỏi đứt đoạn về các loại dược thảo. Kẻ nào
    quên sẽ bị trừng phạt nặng nề: Không có trí nhớ là một tội ác
    không thể dung thứ, phải bị trừng trị nghiêm khắc. Chúng tôi lại
    không có nhiều thời giờ để suy nghĩ mà phải trả lời ngay tức khắc.
    Chẳng hạn như giáo sư hỏi học trò:
    - Con hãy nói lại hàng thứ năm, trang mười tám trong quyển
    thứ bảy của bộ kinh Kangyur. Hãy mở hộc tủ... xem hàng chữ đó
    là gì?
    Trừ phi người ta có thể trả lời ngay trong mười giây đồng hồ,
    tốt hơn là nên giữ im lặng, vì sự trừng phạt còn khốc liệt hơn nếu
    trả lời sai, dẫu cho sự sai lầm nhỏ nhặt đến đâu. Dầu sao, đó cũng
    là một phương pháp rất tốt và rất hữu hiệu để tập luyện trí nhớ.
    Chúng tôi không thể có thường xuyên những sách vở tham khảo ở
    bên cạnh mình, vì sách của chúng tôi gồm những tờ giấy đóng lại
    trong những cái bìa bằng gỗ, thường đo đến một thước chiều dài và
    bốn tấc tây chiều ngang, là những vật quá kềnh càng. Về sau, tôi
    nhận thấy rằng thật là một điều tối ưu quan trọng mà có một trí
    nhớ tốt.
    Trong năm đầu, chúng tôi bị ngăn cấm không đuợc rời khỏi
    tu viện. Những người nào vi phạm sẽ bị đóng cửa không cho vào
    khi họ trở về. Luật lệ này chỉ được áp dụng ở tu viện Chakpori là
    nơi mà kỷ luật gắt gao đến nỗi người ta sợ rằng nếu để cho chúng
    tôi ra ngoài, thì chúng tôi sẽ không trở lại lần nữa. Riêng về phần
    tôi, tôi nhìn nhận rằng có lẽ tôi cũng trốn biệt luôn không trở lại,
    nếu tôi có chỗ nào khác để dung thân! Tuy nhiên, sau một năm,
    chúng tôi đã quen với đời sống ở tu viện.
    Trong năm đầu tiên đó, chúng tôi không được phép chơi các
    môn giải trí; người ta bắt buộc chúng tôi làm việc không ngừng,
    điều này giúp cho họ loại trừ những đứa trẻ thể chất yếu đuối,
    không chịu nổi sự căng thẳng thần kinh tột độ. Sau những tháng
    học khó khăn đó, chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi hầu như đã
    quên mất cả sự chơi bời tiêu khiển. Những môn thể dục điền kinh
    có mục đích tăng cường sức chịu đựng dẻo dai của chúng tôi, và có
    một sự công dụng thực tế cho chúng tôi sau này.
    Khi tôi gần lên tám tuổi. Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi, cho
    tôi biết rằng theo sự giải đoán của các nhà chiêm tinh, thì sau
    ngày sinh nhật của tôi, sẽ là ngày thuận lợi để cho tôi bắt đầu
    luyện thần nhãn. Tôi không cảm thấy lo ngại gì cả, vì tôi biết rằng
    sư phụ tôi sẽ có mặt tại chỗ và tôi hoàn toàn đặt tin tưởng nơi
    người. Như sư phụ tôi đã nhắc nhở nhiều lần cho tôi biết, khi tôi
    mở được thần nhãn, tôi sẽ có thể nhìn thấy rõ chân tướng của mọi
    người mọi vật. Theo khoa Huyền Môn, thể xác con người chỉ là một
    lớp vỏ bên ngoài do cái linh hồn, hay "Chân Ngã", điều khiển mọi
    tác động trong giấc ngủ và sau khi chết. Con người sinh ra trong
    một thể xác yếu đuối bất toàn để học hỏi kinh nghiệm và tiến bộ ở
    cõi trần. Khi y ngủ, con người trở về một cõi giới khác, linh hồn
    thoát ra ngoài thể xác vật chất và phảng phất trên cõi ấy tuy rằng
    nó còn dính liền với thể xác bởi một "Sợi dây bạc" (Cordon
    magnétique: Sợi dây từ khí, làm bằng chất dỉ thái, mắt phàm
    không nhìn thấy được. Nó long lanh như màu bạc, nối liền thể xác
    với linh hồn, có thể kéo dài đến vô tận khi linh hồn phiêu diêu trên
    cõi trung giới trong giấc ngủ). Sợi dây bạc này chỉ đứt đoạn vào lúc
    chết. Những giấc mộng là những kinh nghiệm sống trên cõi trên
    trong khi ngủ. Khi linh hồn trở về nhập vào thể xác, sự giật mình
    thức giấc làm méo mó xiêu vẹo ký ức của giấc mộng, trừ phi người
    ta đã trải qua một sự huấn luyện đặc biệt, bởi đó "Giấc mộng" có
    thể trở nên dị kỳ đối với người thức giấc. Nhưng vấn đề này sẽ
    được giải thích đầy đủ hơn ở một chương sau khi tôi tường thuật
    lại những kinh nghiệm cá nhân của tôi trên địa hạt này.
    Cái hào quang bao bọc xung quanh thể xác, mà bất cứ ai
    cũng có thể tập luyện để nhìn thấy với một vài điều kiện, chỉ là
    phản ảnh của nguồn sinh lực ở bên trong con người. Chính cái hào
    quang đó, cùng với nhiều điều khác nữa, là những sự vật vô hình
    huyền bí mà việc mở thần nhãn sẽ giúp cho tôi nhìn thấy rõ.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  8. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    TÔI MỞ THẦN NHÃN
    Ngày sinh nhật của tôi đã đến. Ngày đó tôi được tự do không
    phải đi đến lớp học hay đi dự lễ. Vào lúc sáng sớm, Minh Gia Đại
    Đức có nói với tôi:
    - Lâm Bá, hôm nay con hãy vui chơi thỏa thích. Chúng ta sẽ
    đến tìm con chiều nay.
    Kể từ chiều hôm đó tôi bế môn nhập thất trong một gian
    phòng nhỏ, và không được bước ra khỏi phòng trong suốt ba tuần
    lễ. Trong thời gian đó không ai được bước ra khỏi phòng để kiếm
    tôi trừ ba vị Lạt Ma cao cấp trong đó có Minh Gia Đại Đức, sư phụ
    tôi. Ba vị Lạt Ma mỗi ngày đều đến vào đúng giờ để chỉ dẫn cho tôi
    một phép luyện bí truyền để mở thần nhãn. Trong khi đó, người ta
    cho tôi ăn uống rất ít, chỉ vừa đủ duy trì sự sống. Sau ba tuần lễ
    khổ luyện dưới sự chỉ dẫn của sư phụ, tôi đã đạt tới sự thành công.
    Sư phụ tôi bèn nói:
    - Lâm Bá, từ nay con đã thật sự trở thành một cao đồ trong
    môn phái của chúng ta. Kể từ nay cho đến suốt đời con, con sẽ
    nhìn thấy rõ chân tướng của mọi người chứ không phải là chỉ nhìn
    thấy cái bề ngoài của họ mà thôi.
    Lần đầu tiên trong đời tôi, thật là một kinh nghiệm lạ lùng
    mà nhận thấy rằng ba vị Lạt Ma đều được bao phủ chung quanh
    mình bằng một ánh hào quang vàng chói như ánh lửa. Về sau, tôi
    mới hiểu rằng đó là nhờ ba vị đã có một đời sống tinh khiết và
    không phải ai cũng có được một hào quang tốt đẹp như thế, mà
    trái lại phần đông người đời có một cái hào quang với một hình
    dạng và màu sắc khác hẳn.
    Khi tôi đã phát triển được cái nhãn quang thần thông đó, tôi
    phát hiện được những rung động khác nữa xuất phát từ trung tâm
    hào quang của con người. Kế đó, tôi có thể đoán biết tình trạng sức
    khỏe của một người bằng cách nhìn xem màu sắc và hình dáng cái
    hào quang của y. Cũng y như thế, bằng cách nhìn xem sự thay đổi
    màu sắc trong hào quang của một người, tôi có thể biết rằng người
    ấy nói thật hay nói dối. Thần nhãn của tôi, tuy vậy không phải chỉ
    dùng để quan sát thân thể của một người mà thôi. Người ta còn
    cho tôi một bầu thủy tinh mà tôi thường dùng để quan sát bằng
    thần nhãn và bây giờ tôi vẫn còn giữ. Những bầu thủy tinh này
    không phải là những vật nhiệm màu gì cả mà chỉ là những khí cụ
    mà thôi. Cũng như một ống kính hiển vi hay viễn vọng kính, do
    những định luật tự nhiên cho phép ta nhìn thấu những sự vật mà
    lúc bình thường ta không nhìn thấy được, thì một bầu thủy tinh
    cũng vậy. Nó có tác dụng như một trung tâm để sử dụng con mắt
    thần, nó giúp cho người ta có thể đột nhật vào cõi giới tiềm thức
    của mọi vật và nhìn thấy những sự vật diễn biến trong quá khứ
    hay tương lai xuất hiện trong đó. Mọi loại thủy tinh không phải
    đều thích hợp với tất cả mọi người. Có người thu hoạch được kết
    quả tốt hơn với loại thủy tinh khoán thạch, có người lại thích hợp
    với một bầu pha lê. Những người khác nữa dùng một bồn nước
    lạnh bằng ve chai hoặc một đĩa tròn màu đen huyền. Nhưng dầu
    người ta sử dụng một kỹ thuật nào, thì các nguyên tắc vẫn là một.
    Sau khi tôi đã hoàn tất việc luyện thần nhãn một cách an
    toàn, các vị Lạt Ma quyết định rằng tôi có thể rời khỏi gian phòng
    mà tôi đã nhập thất và trở về với cuộc sống bình thường, nhưng tôi
    sẽ dành phân nửa thời giờ của tôi bên cạnh Minh Gia Đại Đức để
    cho sư phụ tôi sẽ tăng cường sự học đạo của tôi bằng một vài
    phương pháp. Còn phân nữa thời gian kia sẽ dành cho những buổi
    học và buổi lễ cầu nguyện, không phải vì cái giá trị giáo dục của
    những buổi ấy mà là để cho tôi có một sự hiểu biết quân bình về
    mọi sự. Ít lâu sau đó, khoa thôi miên cũng sẽ được sử dụng để dạy
    đạo cho tôi. Nhưng còn bây giời thì tôi chỉ nghĩ đến vấn đề... ăn!
    Tôi đã phải ăn uống rất khắc khổ trong gần ba tuần và nay tôi
    phải ăn trả đũa để bù lại. Tôi bèn hối hả từ biệt các vị Lạt Ma với
    ý nghĩ duy nhất trong đầu tôi. Nhưng ra ngoài hành lang, tôi nhìn
    thấy một bóng người bao phủ trong một đám khói xanh, với những
    vết lớn màu đỏ chói như lửa cùng khắp thân mình. Tôi bèn kêu lên
    một tiếng thất thanh và hối hả thối lui về phòng. Các vị Lạt Ma
    nhìn tôi một cách ngạc nhiên; tôi có vẻ gần như ngất xỉu vì sợ hãi
    và nói:
    - Một người đang cháy như bó đuốc ở ngoài hành lang.
    Minh Gia Đại Đức chạy phóng ra ngoài. Khi sư phụ trở lại
    phòng. Người vừa mỉm cười vừa nói:
    - Lâm Bá, đó chỉ là một người lao công đang nóng giận, hào
    quang của y giống như một đám khói xanh, vì trình độ tiến hóa
    của y còn thấp. Những vết lửa màu đỏ là những tư tưởng nóng
    giận. Con có thể đi ra một cách an toàn để tới phòng ăn vì chắc con
    đã đói lắm!
    Thật là một kinh nghiệm vô cùng lý thú khi tôi gặp lại
    những bạn học cũ mà trước kia tôi vẫn tưởng rằng tôi biết quá rõ,
    nhưng sự thật thì tôi chưa biết gì về họ cả. Nay tôi chỉ cần nhìn họ
    để đọc những tư tưởng thầm kín, tình thương chân thành, sự ganh
    tị hay sự thờ ơ lãnh đạm của họ đối với tôi.
    Không phải chỉ nhìn những màu sắc trên hào quang của mỗi
    người mà biết tất cả, người ta còn phải tập giải đoán ý nghĩa của
    những màu sắc đó nữa. Để thực tập vấn đề này, sư phụ tôi và tôi
    cùng ngồi ở một chỗ vắng vẻ, từ nơi đó chúng tôi có thể quan sát
    những người đi đường bước vào cổng đền.
    Minh Gia Đại Đức nói với tôi:
    - Lâm Bá, con hãy nhìn người kia đang đi tới... con có nhìn
    thấy chăng một đường chỉ màu đang rung động ở phía trên quả
    tim của y? Màu ấy và sự rung động ấy là triệu chứng của bệnh đau
    phổi!
    Sư phụ lại bình phẩm về một người lái buôn:
    - Con hãy nhìn những lằn ngang đang cử động và những
    đốm, vết đang chớp lập lòe trên hào quang của y... người lái buôn
    này đang nghĩ rằng y có thể lừa bịp những sư sãi ngu ngốc kia, và
    y nhớ rằng y đã có lần thành công như vậy. Chỉ vì tiền bạc, người
    ta không lùi bước trước một hành vi ti tiện nào!
    Hoặc về một người khác nữa:
    - Lâm Bá, con hãy nhìn vị sư già kia. Đây là một vị sư sãi
    chân tu, nhưng y lại hiểu kinh điển một cách quá chật hẹp, gò bó
    sát nghĩa từng chữ từng câu. Con có nhận thấy chăng màu vàng
    trên hào quang của y đã phai lợt? Đó là vì y chưa đủ tiến hóa đúng
    mức để có thể suy luận lấy một mình.
    Và như thế, chúng tôi tiếp tục quan sát để thực tập hằng
    ngày. Nhưng chính trong khi tiếp xúc với những người đau ốm,
    bệnh tật về thể xác cũng như tinh thần, mà tôi mới nhận thấy
    năng khiếu Thần Nhãn là vô cùng hữu ích.
    Một buổi chiều, Sư phụ nói với tôi:
    - Sau này, ta sẽ dạy con nhắm Con Mắt Thần tùy ý muốn, vì
    thật là một điều khổ sở là phải luôn luôn nhìn thấy trước mắt
    những cảnh tượng buồn thảm, bất toàn của người đời. Nhưng bây
    giờ, con hãy sử dụng năng khiếu đó thường xuyên, cũng như con
    sử dụng đôi mắt phàm. Thầy sẽ chỉ cho con cách mở hay nhắm
    Con Mắt Thần một cách dễ dàng cũng như hai con mắt kia.
    Những truyện thần thoại của xứ Tây Tạng quả quyết rằng
    trong quá khứ đã có một thời kỳ mà nhân loại, nam hay nữ, đều có
    thể sử dụng Con Mắt Thần. Đó là thời kỳ mà đấng Thần linh đến
    quả địa cầu và sống lẫn lộn với người trần gian, khi con người hãy
    còn chất phác, hồn nhiên và tâm hồn trong sạch.
    Nhưng về sau, loài người đã mở mang trí khôn, bèn sinh ra
    kêu căng ngạo mạn và xúc phạm đến Thánh Thần. Để trừng phạt
    tội xúc phạm này, nhãn quang thần thông của họ bị thu hồi. Kể từ
    đó, trải qua nhiều thế kỷ, một thiểu số người vừa lúc mới sinh ra
    đã có năng khiếu Thần Nhãn. Những người nào có năng khiếu ấy
    một cách tự nhiên, có thể tăng cường quyền năng của họ lên gấp
    ngàn lần nhờ bởi một phép luyện bí mật, cũng như trường hợp của
    tôi. Lẽ tất nhiên, một quyền năng đặc biệt như thế phải được sử
    dụng một cách cẩn mật và vô cùng thận trọng.
    Một ngày nọ, vị Sư Trưởng cho gọi tôi vào gặp ngài và nói:
    - Con hỡi, nay con đã sở hữu một quyền năng mà phần đông
    nhân loại không có. Con chỉ nên sử dụng nó để làm việc thiện, chớ
    hề dùng nó cho mục đích ích kỷ. Quyền năng ấy được ban cho con
    để giúp đỡ kẻ khác, chứ không phải để mưu lợi cho riêng mình.
    Nhờ Thần Nhãn, có nhiều điều sẽ được tiết lộ cho con, nhưng dầu
    cho con học hỏi được điều gì, con cũng không được tiết lộ cho người
    khác biết, nếu những lời nói của con có thể làm cho họ đau khổ
    hay làm thay đổi chiều hướng cuộc đời của họ. Vì, con hỡi, mỗi
    người phải tự ý chọn lựa con đường của mình. Dầu cho con nói với
    họ điều gì, họ cũng vẫn đi theo con đường của họ. Con hãy giúp đỡ
    những kẻ bệnh tật và những người đau khổ, nhưng con đừng nói gì
    có thể làm đổi hướng cuộc đời của một người.
    Vị Sư Trưởng, một người có văn hóa rất cao, cũng là vị y sĩ
    thân tín của đức Đat Lai Lạt Ma. Trước khi chia tay từ biệt, vị Sư
    Trưởng cho tôi biết rằng không bao lâu nữa tôi sẽ được gọi vào để
    yết kiến đức Đạt Lai Lạt Ma, vì ngày có ý muốn gặp tôi. Trong dịp
    đó, Minh Gia Đại Đức và tôi sẽ là khách của điện Potala trong vài
    tuần.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  9. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    Một buổi sáng thứ hai, Minh Gia Đại Đức cho tôi biết rằng
    cuộc viếng thăm điện Potala của chúng tôi đã được định vào cuối
    tuần. Người nói:
    - Chúng ta phải tập dượt cho quen với các nghi lễ. Buổi trình
    diện của con phải diễn ra một cách thật hoàn toàn.
    Gần lớp học của chúng tôi, có một ngôi đền nhỏ bỏ hoang,
    trong đó có một pho tượng của đức Đạt Lai Lạt Ma, kích thước lớn
    bằng một người thật. Sư phụ tôi nói:
    - Lâm Bá, con hãy nhìn ta đây. Ta sẽ chỉ dẫn cho con những
    gì cần phải làm. Con bước vào, hai mắt nhìn xuống đất, như thế
    này. Con đi tới chỗ này và quỳ xuống trước mặt đức Đạt Lai Lạt
    Ma khi còn cách xa Ngài độ chừng một thước rưỡi. Con hãy le lưỡi
    (phong tục chào hỏi của người Tây Tạng) ra để chào Ngài và cúi
    đầu xuống, một lần, hai lần và ba lần. Vẫn quỳ gối và cúi đầu, con
    đặt chiếc khăn lên, nhưng vẫn cúi đầu để cho Ngài có thể đặt một
    khăn choàng của Ngài lên cổ của con. Con đếm từ một cho đến
    mười, để khỏi phạm lỗi vì vội vàng hấp tấp, rồi con ngẩng mặt lên
    và đi thụt lùi cho đến chiếc nệm đầu tiên còn bỏ trống chưa ai
    ngồi.
    Tôi theo dõi sự chỉ dẫn của Sư phụ, người tỏ ra rất thông
    thạo vì đã quen thuộc nghi lễ ấy từ lâu. Người lại nói:
    - Bây giờ, một lời khuyên. Trước khi đi thụt lùi lại phía sau,
    với một cái liếc nhìn mau lẹ và kín đáo, con hãy tìm ra vị trí của
    chiếc nệm gần nhất. Không nên để vướng chân vào đó rồi bắt buộc
    phải nhảy nhổm một cái để khỏi phải té gãy cổ! Người ta dễ bị vấp
    ngã trong một lúc hồi hộp kích động như thế. Bây giờ dến phiên
    con dượt lại... Con hãy làm lại cho đúng.
    Tôi buớc ra ngoài và Sư phụ tôi vỗ tay ba cái để ra hiệu cho
    tôi bắt đầu. Tôi hăm hở xông tới, nhưng Sư phụ liền chặn tôi lại.
    - Lâm Bá! Đây không phải là một cuộc chạy đua! Hãy đi tới
    một cách chậm rãi thung dung hơn. Con hãy điều chỉnh bước đi
    bằng cách niệm câu thần chú: Om Mani Padme Hum. Như vậy,
    con sẽ bước vào một cách khoan thai như một vị tăng lữ trẻ tuổi,
    thay vì sải như ngựa đua trong vùng đồng bằng Tsang Po!
    Tôi lại bước ra lần nữa, để bắt đầu đi vào một cách "Khoan
    thai" hơn! Đến trước pho tượng, tôi quỳ xuống, tiếp tục tiến tới
    trên hai đầu gối, và le lưỡi ra chào theo kiểu Tây Tạng. Ba lần vái
    chào của tôi chắc hẳn là hoàn toàn gương mẫu, mà tôi có thể lấy
    làm tự hào! Nhưng, rủi thay, tôi lại quên cái khăn choàng cổ!
    Thành thử, tôi phải bước ra ngoài lần thứ ba để tái diễn nghi thức
    này lại từ đầu. Lần này, tôi làm đúng phép và đặt cái khăn choàng
    lên hai bàn chân của pho tượng. Sau đó, tôi đi thụt lùi đến một
    chiếc nệm một cách không khó khăn lắm, và ngồi xuống nệm theo
    tư thế liên hoa.
    Mỗi buổi sáng, tôi phải biểu diễn lần chót trước mặt vị Sư
    Trưởng. Ngài xem xong bèn nói:
    - Cuộc trình diễn của con thật hoàn hảo, đó là một cái vinh
    dự lớn cho Sư phụ con, tức Minh Gia đạo huynh của ta!
    Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lên đường đến điện Potala. Tu
    viện của chúng tôi trực thuộc điện Potala về mặt quản trị hành
    chánh, tuy rằng vị trí của nó biệt lập với các dinh thự chính của
    điện. Nó vừa là một nơi tu viện vừa là trường Y Khoa. Vị Sử
    Trưởng của viện cũng là vị y sĩ tuy thân của đức Đạt Lai Lạt Ma.
    Với chức vụ này, người rất bận rộn vì vấn đề quan trọng không
    phải là chữa bệnh cho vị Quốc Vương, mà giữ gìn cho Ngài được có
    sức khỏe. Bởi vậy, vị Sử Trưởng phải chịu trách nhiệm về mọi sự
    đau yếu dầu chỉ là thoáng qua, của đức Quốc Vương. Tuy vậy,
    người không phải muốn khám sức khỏe của Quốc Vương lúc nào
    tùy ý; người phải đợi đến khi đức Đạt Lai Lạt Ma thật sự nhuốm
    bệnh mới được gọi vào!
    Nhưng sáng ngày hôm ấy, tôi không nghĩ đến những nỗi lo
    âu của vị Sử Trưởng, những mối lo âu của tôi cũng đã quá đủ.
    Dưới chân đồi, chúng tôi hướng về điện Potala, giữa một đám đông
    gồm có những du khách và người mộ đạo đi hành hương. Những
    người này đến từ khắp mọi nơi trong xứ Tây Tạng để chiêm
    ngưỡng cung điện của đức Phật Sống, một danh hiệu thường dùng
    để gọi đức Đạt Lai Lạt Ma. Dẫu cho họ chỉ thấy Ngài trong một cái
    nhìn thoáng qua, họ cũng được hài lòng mà trở về với niềm tin
    tưởng rằng công lao khó nhọc của chuyến đi hành hương xa xôi
    này đã được đền bù tưởng thưởng gấp trăm lần!
    Nhiều người hành hương đã đi bộ trên đương trường suốt
    nhiều tháng để đến yết kiến đức Phật Sống. Trong đám đông có
    lẫn lộn những nông dân, những nhà vương gia quý tộc, những mục
    đồng, lái buôn và những người bệnh nan y, hy vọng tìm thấy phép
    màu ở thủ đô Lhassa để chữa họ khỏi bệnh. Họ đi chật ních các
    đường sá, vì tất cả đều đi vòng quanh điện Potala, một quãng
    đường vòng dài đến chín cây số. Có người bò bốn cẳng, những
    người khác nằm dài sõng sượt dưới đất, lại đứng lên, để rồi lại nằm
    mọp sát đất lần nữa, và lại tiếp tục như vậy cho đến khi giáp vòng
    tòa cung điện của đức Phật Sống. Những người bệnh tật bước đi
    khập khiễng trên những cây nạng gỗ hoặc do bạn bè thân thuộc
    nâng đỡ. Khắp nơi người ta thấy những người bán dạo rao hàng
    giải khát gồm có trà pha bơ và những thức ăn đủ loại. Người ta
    cũng có thể mua những bùa niệt, những linh vật hộ phù đã được
    truyền phép bởi một đấng "Hóa Thân." Những nhà tướng số đạo
    mạo ngồi bên đường xem số cho những người hành hương mê tín.
    Những người viết thuê bán những tờ cấp bằng chứng minh rằng
    thân chủ họ đã đến viếng thủ đô Lhassa và tất cả những nơi thánh
    địa. Chúng tôi đi xuyên qua đám rừng người mà không dừng bước
    vì đầu óc chúng tôi chỉ nghĩ đến cuộc yết kiến đức Phật Sống.
    Tư thất của đức Đạt Lai Lạt Ma tọa lạc trên nóc điện Potala,
    vì theo phong tục bổn xứ, không ai có quyền được ở chỗ cao hơn
    Ngài. Một cầu thang vĩ đại xây bằng đá, bề rộng gần bằng một
    đường lộ đưa đến tư dinh của Ngài. Nhiều vị chức sắc hay quan to
    trong triều đình cưỡi ngựa lên cầu thang này để khỏi phải đi bộ
    nhọc mệt. Chúng tôi gặp nhiều vị cưỡi ngựa như thế trên con
    đường đi lên nóc điện.
    Điện Potala là một tòa cung điện độc lập xây trên một ngọn
    đồi. Đó là cơ quan đầu não để giải quyết tất cả mọi công việc chính
    trị và tôn giáo của xứ Tây Tạng. Đó là trung tâm của quốc gia,
    mục tiêu của tất cả tư tưởng, nguồn gốc của tất cả mọi hy vọng.
    Bên trong vòng thành của cung điện, trong những tòa nhà của
    Ngân Khố Quốc Gia, có dự trữ những khối vàng ròng, vô số những
    bao đựng ngọc ngà châu báu và những bảo vật quý giá của thời đại
    cổ xưa nhất. Những tòa lâu đài dinh thự đã được xây cất đến nay
    không quá ba thế kỷ rưỡi, nhưng được dựng lên trên nền móng của
    một tòa cung điện cũ. Ngày xưa, một pháo đài kiên cố ngự trị trên
    đỉnh núi. Ngọn núi này xưa kia vốn là một hỏa diệm sơn, có chứa
    đựng trong lòng nó một hang động khổng lồ, với những đường hầm
    tỏa ra tứ phía. Một trong những đường hầm này đưa đến một cái
    hồ ngầm ở dưới mặt đất. Chỉ có một số rất ít những người được ưu
    đãi mới được đi đến đó, hoặc được biết về cái hồ này.
    Đây nói về lúc chúng tôi trèo lên cầu thang của điện Potala
    vào một buổi sáng đẹp trời. Sau cùng chúng tôi đã lên tới tột đỉnh
    cầu thang. Khi vừa thấy Sư Phụ tôi, những sư sãi cảnh binh thân
    hình cao lớn lực lưỡng, có phận sự canh gác bên ngoài bèn mở cánh
    cửa lớn thếp vàng. Chúng tôi tiếp tục bước lên đến một điểm cao
    tột trên nóc điện, tại đây có những lăng tẩm của những vị Đạt Lai
    Lạt Ma của quá khứ, tức tiền thân của đức Đạt Lai Lạt Ma hiện
    tại, và thư thất của Ngài. Một bức màn to lớn màu nâu dệt bằng
    lông con yak che khuất lối vào. Bức màn vén lên, chúng tôi bước
    vào một gian phòng lớn, có những con rồng lớn bằng sứ màu xanh
    chầu ở phía ngoài cửa. Những màn che trướng rủ đẹp lộng lẫy,
    trên đó có thêu tranh vẽ các cảnh tượng tôn giáo và những cảnh
    trong chuyện thần thoại cổ xưa bao phủ các vách tường. Trên
    những bàn thấp, có bày những bảo vật và đồ cổ rất quý giá, những
    pho tượng các vị thần và nữ thần trong Thần Thoại Tây Tạng, và
    những đồ vật trang trí khác. Trên một cái kệ, gần một hành lang
    nhỏ hẹp có màn che khuất, được đặt quyển sách ghi danh hiệu các
    nhà thế gia vọng tộc trong xứ. Tôi có ý nghĩ muốn được phép mở ra
    và nhìn thấy danh sách của gia đình nhà tôi để tăng thêm lòng tự
    tín! Ngày hôm ấy, ở một chốn cung điện thâm nghiêm như vậy, tôi
    cảm thấy mình vô cùng nhỏ bé và vô nghĩa. Mới lên tám tuổi, tôi
    đã không còn những ảo tưởng, và tôi tự hỏi không biết những lý do
    nào đã khiến cho vị Nguyên Thủ quốc gia gọi tôi vào gặp Ngài. Tôi
    biết rằng một cuộc hội kiến như vậy có ý kiến đặc biệt, và theo ý
    tôi, nó sẽ mở màn cho một loạt những công phu học hỏi, làm việc
    và thử thách.
    Một vị Lạt Ma mặc áo đỏ, có mảnh lụa yểm tâm vàng phủ
    lên vai và trước ngực, bước đến đàm đạo với Minh Gia đại đức. Sư
    Phụ tôi có vẻ rất quen thuộc đối với mọi người trong điện Potala,
    cũng như ở bất cứ nơi nào mà tôi cùng đi viếng chung với người.
    Tôi nghe vị Lạt Ma ấy nói:
    - Đức Thái Tuế rất thích thú và muốn nói chuyện riêng với y.
    Sư Phụ tôi day lại phía tôi và nói:
    - Đây là lúc con vào trình diện, ta sẽ chỉ cửa cho con bước vô.
    Con hãy lập lại những gì con đã tập dượt suốt tuần lễ vừa rồi.
    Sư Phụ dắt tôi đến một cánh cửa và nói nhỏ bên tai tôi:
    - Con đừng e ngại gì cả... Bây giờ, con hãy vào đi.
    Sau khi vỗ vai tôi một cái để khích lệ tinh thần, Sư Phụ đứng
    nhìn tôi. Tôi bước vào: ở cuối gian phòng rộng vô biên, đức Đạt Lai
    Lạt Ma thứ mười ba, tức vị Phật Sống Tây Tạng đang ngự tại đó.
    Ngồi trên một chiếc nệm bằng lụa màu vàng nghệ, Ngài mặc
    đồ trang phục thông thường của các vị Lạt Ma, ngoài ra cái mũ lón
    màu vàng, có hai cánh thòng xuống tận vai. Ngài vừa cầm một
    quyển sách đặt xuống bàn bên cạnh chỗ ngồi. Đầu cúi xuống, tôi từ
    từ tiến tới. Khi chỉ có cách Ngài độ hai thước, tôi quỳ xuống, le lưỡi
    ra vái chào Ngài ba lần, và tiến tới trên hai đầu gối, tôi dặt trên
    hai bàn chân ngài cái khăn choàng bằng lụa mà Minh Gia Đại Đức
    đã cho tôi. Để đáp lễ, đức Phật Sống nghiêng về phía tôi và đặt
    một khăn choàng mới của ngài trên hai cườm tay tôi, chớ không
    đặt trên cổ tôi theo nghi lễ cổ truyền. Khi đó, tôi cảm thấy trong
    lòng rối loạn, với ý nghĩ là tôi phải đi thụt lùi đến chiếc nệm gần
    nhất, vì tôi nhận thấy những chiếc nệm đều đặt ở rất xa chỗ tôi
    đứng. Đức Đạt Lai Lạt Ma mới bắt đầu nói:
    - Những nệm đó đều quá xa để cho con phải đi thụt lùi. Con
    hãy quay lại nửa vòng và lấy một chiếc đem lại gần đây để chúng
    ta có thể nói chuyện với nhau.
    Tôi tuân lệnh làm y theo và trở lại trước mặt ngài với một
    chiếc nệm. Ngài nói:
    - Con hãy đặt chiếc nệm trước mặt ta và ngồi xuống.
    Khi tôi đã an tọa, Ngài mới nói:
    - Ta đã nghe nói nhiều điều lạ lùng về phần con. Con bẩm
    sinh ra với năng khiếu Thần Nhãn tự nhiên, và năng khiếu ấy đã
    được phát triển do một phép luyện bí mật. Ta có một hồ sơ về tiền
    kiếp của con, cùng với những lời tiên tri của các chiêm tinh gia.
    Cuộc đời của con sẽ khổ nhọc lúc đầu, nhưng nó sẽ được thành
    công mỹ mãn. Con sẽ đi chu du khắp nơi trên thế giới, biết được
    nhiều xứ lạ mà con chưa hề nghe nói đến bao giờ. Con sẽ chứng
    kiến bao nhiêu cảnh chết chóc, tàn phá và một sự bạo tàn khủng
    khiếp vượt ngoài sức tưởng tượng. Con đường của con sẽ rất dài và
    gian khổ, nhưng nó sẽ thành tựu tốt đẹp như đã tiên liệu từ trước.
    Tại sao người nói với tôi những điều này, mà tôi đã thuộc
    lòng từ lâu, không sót một chữ, kể từ năm tôi lên bảy? Tôi cũng
    biết rằng sau khi tốt nghiệp nghành y khoa và giải phẫu ở Tây
    Tạng, tôi sẽ đi tu nghiệp thêm ở Trung Hoa. Nhưng đức Phật Sống
    vẫn tiếp tục nói chuyện. Ngài căn dặn tôi nên giữ gìn, không nên
    biểu lộ quyền năng hay nói về các vấn đề bản thể hoặc linh hồn,
    khi tôi sống ở các nước Tây Phương. Ngài nói:
    - Ta đã từng đi qua Ấn Độ và Trung Hoa. Ở những nước ấy,
    người ta có thể bàn luận về những Chân Lý trừu tượng siêu hình,
    nhưng ta đã gặp nhiều người đến từ các nước Tây Phương. Họ
    không có sự nhận định về các giá trị tâm linh như chúng ta, họ chỉ
    biết có thương mại với bạc vàng. Các nhà bác học của họ nói: "Các
    người hãy chỉ cho chúng tôi thấy sự có thật của linh hồn. Hãy đưa
    nó ra cho chúng tôi xem, để chúng tôi có thể sờ mó, cân lường và
    nhìn thấy phản ứng của nó đối với chất át xít. Hãy chỉ cho chúng
    tôi thấy cơ cấu tế bào của nó, cùng những phản ứng hóa chất của
    nó. Chúng tôi cần một bằng chứng, một bằng chứng cụ thể..." Họ
    sẽ nói với con như vậy, mà không biết rằng với cái thái độ tiêu cực
    và nghi ngờ đó, họ đã tiêu hủy tất cả mọi dịp may để có được cái
    bằng chứng mà họ đòi hỏi... Thôi, chúng ta hãy uống trà chứ...
    Ngài gõ nhẹ một cái vào cái cồng nhỏ bằng đồng, và ra lệnh
    cho một vị Lạt Ma, người này liền trở lại ngay khi đó với trà bơ và
    bánh kẹo nhập cảng từ bến Ấn Độ. Trong khi chúng tôi dùng trà
    bánh, đức Phật Sống nói chuyện với tôi về xứ Ấn Độ và Trung
    Hoa. Ngài cũng nói rằng Ngài muốn tôi phải học ráo riết và ngài
    sẽ chọn những vị đạo sư đặc biệt để huấn luyện cho tôi. Không thể
    tự chủ được sự bồng bột của tuổi trẻ, tôi nói luôn:
    - Bạch Thái Tuế, chắc không ai giỏi hơn Minh Gia Đại Đức,
    Sư phụ của con!
    Đức Đạt Lai Lạt Ma nhìn tôi một lúc, rôi phát tiếng cười lớn.
    Có lẽ chưa có ai đã từng nói với Ngài bằng một giọng như thế,
    đừng nói chi đến một đứa trẻ mới lên tám tuổi. Sự thẳng thắn của
    tôi dường như làm cho Ngài thích thú, Ngài nói:
    - Như vậy, theo ý con, Minh Gia Đại Đức là người giỏi nhất
    trên đời này? Con hãy nói cho ta biết con nghĩ thế nào về Đại Đức.
    Hử, con gà tre con cứng cựa!
    - Vạn bạch Thái Tuế, Ngài đã nói rằng năng khiếu Thần
    Nhãn của con là một quyền năng ít có. Như vậy, con xin bẩm Ngài
    rằng Minh Gia Đại Đức là người tài ba lỗi lạc nhất mà con đã gặp!
    Đức Đạt Lai Lạt Ma vừa cười lớn vừa gõ vào cái cồng đặt bên
    cạnh Ngài. Vị Lạt Ma hầu cận lúc này lại bước vào, Ngài nói:
    - Hãy mời Minh Gia Đại Đức vào.
    Minh Gia Đại Đức bước vào và vái chào đức Phật Sống. Ngài
    phán:
    - Hỡi Minh Gia đạo hữu, ông hãy lấy một chiếc nệm và lại
    ngồi đây. Người đệ tử trẻ của ông vừa nói chuyện với tôi về ông
    đấy. Tôi hoàn toàn tán đồng sự xét đoán của y.
    Sư Phụ ngồi xuống gần bên tôi. Đức Đạt Lai Lạt Ma lại nói:
    - Ông đã đảm trách việc huấn luyện cho Lâm Bá. Vậy ông
    hãy sắp đặt việc học của y thế nào tùy ý. Ông sẽ hỏi tôi những văn
    thư ủy quyền mà ông cần dùng. Thỉnh thoảng, tôi sẽ gặp lại Lâm
    Bá sau này.
    Ngài day về phía tôi và nói:
    - Con đã chọn lựa đúng đấy. Sư Phụ con là một bạn cũ của ta
    lúc thiếu thời và là một bậc danh sư về khoa Huyền Môn.
    Sau khi đã trao đổi vài lời, chúng tôi đứng dậy vái chào từ
    biệt đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhìn sắc diện của người, tôi đoán rằng
    trong thâm tâm, Minh Gia đại đức rất bằng lòng về tôi và về cái
    ấn tượng mà tôi đã gây ra trong buổi yết kiến vị Nguyên Thủ.
    Người nói:
    - Chúng ta sẽ ở lại đây vài ngày, và sẽ viếng thăm vài nơi
    trong cung điện. Ở tầng dưới, có những dãy hành lang và những
    gian phòng kín chưa từng có chân người bước đến kể từ hai thế kỷ
    nay. Ở đó, con sẽ học hỏi được nhiều điều về huyền sử của xứ Tây
    Tạng.
    Một trong những vị Lạt Ma hầu cận đức Phật Sống đến gặp
    chúng tôi và cho biết rằng có hai phòng đã được dành sẵn cho thầy
    trò chúng tôi trên nóc điện Potala. Nói xong, người đưa chúng tôi
    đến nơi. Tôi lấy làm vô cùng hứng khởi mà thấy gian phòng của tôi
    nhìn thẳng xuống thủ đô Lhassa và vùng đồng bằng chung quanh.
    Vị Lạt Ma lại nói:
    - Đức Thái Tuế có ra chỉ thị hãy để cho hai vị quý khách được
    đi lại tự do và mở rộng hết các cửa cho quý vị.
    Sư Phụ khuyên tôi hãy nằm nghỉ giây lát. Cái thẹo do vết
    phỏng ở đùi bên trái hãy còn làm cho tôi đau đớn khó chịu, và tôi
    phải đi khập khễnh. Có lúc người ta đã lo sợ rằng không khéo tôi
    sẽ bị phế tật suốt đời. Tôi bèn nằm nghỉ trong một giờ, cho đến khi
    Sư Phụ trở lại với trà và vài thức ăn. Người nói:
    - Lâm Bá, đây là vài món quà sáng để con dùng tạm đỡ lòng.
    Thức ăn ở đây rất ngon, chúng ta hãy thưởng thức tự nhiên.
    Tôi không cần sự thúc giục nào nữa để tuân lệnh Sư Phụ.
    Khi chúng tôi đã ăn xong, Sư Phụ đưa tôi đến một gian phòng ở
    phía bên kia nóc diện. Tôi thấy làm lạ mà thầy ở các cửa sổ đều có
    lót kính. Tôi chưa từng nhìn thấy cửa kính bao giờ.
    Nhưng chưa phải là hết. Sau khi mở các cửa sổ, Sư Phụ tôi
    còn đưa cho tôi xem một cái ống bằng đồng có bao da, giống một
    cái kèn không có loa. Đó là lần đầu, tôi được thấy một cái ống
    nhòm để nhìn xa. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đem từ Ấn Độ về đây
    nhiều ống nhòm dài ngắn đủ cỡ mà Ngài rất thích dùng để ngắm
    nhìn phong cảnh. Cũng chính ở điện Potala, mà lần đầu tiên trong
    đời, tôi nhìn thấy hình bóng tôi phản chiếu trong một tấm gương,
    nhưng không nhận ra người trong gương, một đứa trẻ nhỏ xanh
    xao, với một cái thẹo lớn ở giữa trán và một cái mũi hơi lồi!
    Có lẽ người ta sẽ nghĩ rằng một xứ không có cửa kính, ống
    nhòm và gương soi như Tây Tạng chắc sẽ là một xứ lạ lùng, nhưng
    thật ra dân tộc xứ này không hề mong ước có những thứ ấy. Họ
    cũng không cần dùng tới các loại xe cộ. Các loại xe dùng để phục
    vụ tốc lực và cái gọi là "Văn minh." Từ lâu họ đã hiểu rằng đời
    sống doanh thương là một cuộc đời quá ư náo động để có thể dành
    thời giờ cho việc tu dưỡng tâm linh. Từ bao nhiêu nghìn năm về
    trước, người Tây Tạng đã từng khám phá những bí quyết của các
    hiện tượng Thần Nhãn, thần giao cách cảm và những hiện tương
    siêu hình khác. Nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng có thể ngồi mình trần
    trên tuyết lạnh và làm tan rã băng tuyết chỉ bằng quyền năng của
    ý chí. Các vị ấy cũng có thể khinh thân nhẹ bổng lên không trung,
    nhưng họ không bao giờ dùng những quyền năng đó để biểu diễn
    trước công chúng. Một vị danh sư Tây Tạng luôn luôn đặt các đệ tử
    trước những cuộc thử thách để biết chắc rằng họ xứng đáng được
    truyền thụ những bí thuật thần thông. Bởi đó, những quyền năng
    siêu nhiên không bao giờ được biểu diễn một cách hời hợt, vô trách
    nhiệm, mà chỉ được truyền dạy trong vòng bí mật cho những đệ tử
    thật xứng đáng. Những quyền năng đó không có gì là nhiệm mầu,
    mà chỉ là kết quả của việc áp dụng một vài định luật thiên nhiên.
    Ở Tây Tạng, có người cần phải sống lẫn lộn với người đời để
    tự trau dồi và tự tu luyện bản thân, có người lại càng từ bỏ cuộc
    đời thế gian để sống ẩn dật trong âm thầm. Những người này tìm
    đến những tu viện hẻo lánh trên non cao núi thẳm, tại đây họ ở
    trong một xà lim hay gian phòng nhỏ hẹp, với những vách tường
    bằng đá đôi khi dầy đến hai thước, để ngăn chận cho mọi tiếng
    đông cho khỏi lọt vào từ bên ngoài. Khi người tu sĩ đã quyết định
    nhập thất ở nơi đó, người ta mới khóa chặt cửa vào, và y sẽ sống
    trơ trọi một nình trong gian phòng bằng đá ấy, không ánh sáng,
    không bàn ghế, không có gì cả. Mỗi ngày một lần, y được cung cấp
    đồ vật thực do một cái lỗ trống kín đáo, xuyên qua đó không hề có
    ánh sáng hay tiếng động nào lọt vào. Tới kỳ nhập thất kéo dài
    trong ba năm ba tháng và ba ngày, trong khi đó y sẽ thiền định về
    ý nghĩa của cuộc đời và bản thân của con người. Thể xác của y
    không được rời khỏi phòng bất cứ vì lý do nào. Một tháng trước khi
    chấm dứt cuộc nhập thất, nóc phòng của y được soi một lỗ nhỏ để
    lọt vào một tia ánh sáng lờ mờ. Kế đó lỗ nhỏ ấy sẽ được nới rộng
    lần lần để cho đôi mắt người tu sĩ tập quen trở lại với ánh sáng
    mặt trời, chứ nếu không, y sẽ bị mù lòa khi y bước ra khỏi phòng.
    Có nhiều trường hợp rất thường xảy ra, là sau vài tuần sống
    trở lại cuộc đời thế tục, các tu sĩ ấy lại quay trở về nơi nhập thất
    của họ và ở luôn ở đó cho đến mãn đời.
    Một cuộc đời như thế không phải là khô khan hay vô ích như
    người ta có thể tưởng. Con người là một linh hồn, có tiềm năng
    sinh hoạt ở một cõi giới khác hơn cõi trần. Một khi đã giải thoát
    khỏi sự trói buộc của thể xác, y có thể đi chu du khắp nơi trong vũ
    trụ càn khôn và giúp đời bằng sức mạnh tư tưởng của mình. Ở Tây
    Tạng, người ta biết rằng tư tưởng là những âm ba rung động của
    tinh lực. Vật chất chỉ là tinh lực đông đặc lại. Một tư tưởng, nếu
    biết điều khiển đúng cách và kết tinh lại, có thể làm di chuyển một
    đồ vật. Nếu biết điều khiển nó theo phương pháp thần giao cách
    cảm, người ta có thể làm cho một người khác ở cách xa cảm nhận
    được ý nghĩ của mình và hành động một cách thích nghi theo ý
    mình muốn. Việc học Đạo của tôi không cần có sự nhập thất dài
    hạn trong một gian phòng u tối. Nó được thực hiện theo một
    phương pháp đặc biệt, nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định,
    theo lệnh dạy khẩn thiết của đức Đạt Lai Lạt Ma. Chương trình
    học Đạo của tôi gồm những vấn đề thuộc về khoa Huyền Môn mà
    tôi không tiện nêu ra trong một quyển sách dành cho đại chúng.
    Tôi chỉ có thể nói rằng tôi được thụ huấn về nhiều vấn đề mà phần
    đông các tu sĩ không thể học cho hết được trong thời gian suốt cả
    một đời người. Cuộc viếng thăm điện Potala của tôi có liên hệ đến
    phần đầu của sự huấn luyện nói trên.
    Những kho vật dụng của điện Potala chứa đầy những pho
    tượng rất quý giá, những kinh sách cổ và những tranh vẽ trên
    tường trình bày những đề tài tôn giáo.
    Trải qua nhiều thế kỷ, những tặng phẩm quý giá từ các nơi
    trên thế giới được gửi đến điện Potala để cống hiến cho các vị Đạt
    Lai Lạt Ma trong quá khứ. Hầu hết những phẩm vật này đều chất
    trong những phòng đặc biệt, tại đây tôi đã trải qua nhiều giờ nhìn
    các đồ phẩm vật ấy một cách thích thú bằng nhãn quang thần
    thông để biết thâm ý của những người tặng quà. Đó là một tài liệu
    xác đáng để biết những tư tưởng thầm kín của người đời. Khi tôi
    xác định những ấn tượng mà một phẩm vật đã gây ra cho tôi, Sư
    Phụ tôi lật một quyển sách và thuật cho tôi nghe lịch sử từ thuở sơ
    khai của nó cho đến bây giờ. Tôi lấy làm hứng khởi mà nghe Sư
    Phụ khen tặng tôi:
    - Khá khen cho con, Lâm Bá, con đã có những tiến bộ hiển
    nhiên, không thể chối cãi.
    Trước khi rời khỏi điện Potala, chúng tôi xuống thám hiểm
    một trong những đường hầm. Người ta cho tôi biết rằng còn những
    con đường hầm khác sẽ được chỉ cho tôi sau này. Mỗi người cầm
    một ngọn đuốc, chúng tôi rón rén cẩn thận bước xuống một cầu
    thang dài vô tận, đưa xuống những ngõ ngách giao thông mà hai
    bên vách đều bằng đá. Tôi được biết rằng những đường hầm này sở
    dĩ có là bởi một cơn địa chấn và núi hỏa diệm sơn gây nên từ nhiều
    ngàn năm nay. Trên vách, tôi nhìn thấy những hình kỷ nà rất lạ
    lùng và những hình vẽ các hoạt cảnh mà tôi không nhận ra là
    hình gì. Tôi nôn nao muốn đến xem cái hồ ở dưới lòng đất, mà tôi
    nghe nói rằng vị trí của nó nằm ở chỗ cuối cùng của một hang
    nghách và cái hồ ấy rộng đến nhiều cây số vuông. Sau cùng, chúng
    tôi đi đến một đường hầm, lúc đầu còn nhỏ hẹp, nhưng nó trở nên
    rộng lớn lần lần, cho đến khi những vòm cao của nó chìm hẳn
    trong bóng tối, ngoài tầm ánh sáng của các ngọn đuốc.
    Đi độ chừng một trăm thước, chúng tôi đã đến bờ hồ, nước
    đọng và đen như mực, đến nỗi người ta có cảm giác rằng đó không
    phải là hồ nuớc mà là một cái lỗ không đáy đen ngòm. Không một
    gợn sóng nhỏ hay một vết nhăn trên mặt hồ, cũng không một tiếng
    động làm gián đoạn cái im lặng chết người. Ánh sáng các ngọn
    đuốc chiếu lóng lánh trên tảng đá đen ngòm ở dưới chân chúng tôi.
    Một cái gì chiếu sáng trên vách đá. Tôi bước lại gần nhìn xem thì
    thấy vách đá có chứa đựng một mạch vàng lớn từ năm đến bảy
    thước bề dài. Ngày xưa, nhiệt độ cao đã làm chảy mạch vàng này,
    vàng đã tan rã ra như chất sáp lỏng của một ngọn đèn bạch lạp,
    rồi sau đó đã trở nên nguội dần và đông đặc lại.
    Minh Gia Đại Đức phá tan sự im lặng:
    - Cái hồ này thông ra đến con sông Tsang Po, cách đây sáu
    mươi cây số. Cách đây đã lâu, một nhóm sư sãi mạo hiểm kết bè,
    đốt đuốc và trèo ra khơi. Họ trèo ra xa đến hàng bao nhiêu cây số
    trên mặt hồ hoàn toàn xa lạ, không định hướng, và sau cùng họ
    đến một chỗ mà mặt hồ nới rộng ra, đến nỗi không còn nhìn thấy
    vòm đá ở trên đầu và vách đá ở hai bên nữa. Họ vẫn tiếp tục trèo
    mà không biết phải theo hướng nào...
    Tôi vừa nghe vừa hình dung cảnh tượng lúc ấy, dường như
    tôi cũng đang ngồi trên bè với các sư sãi. Sư Phụ nói tiếp:
    - Họ đã đi lạc mà không thể nào tìm ra phương hướng được
    nữa. Thình lình, chiếc bè lật nghiêng, đuốc của họ bị một ngọn gió
    thổi tắt, và họ chới với giữa cảnh tối đen như mực. Họ bám víu lấy
    chiếc bè, xoay vòng trên mặt hồ giữa đêm tối, bàng hoàng kinh sợ
    và đã bắt đầu có người nhuốm bệnh. Chiếc bè bị gió cuốn đi mau
    đến nỗi những ngọn sóng nhỏ tràn lên bè và làm cho họ bị ngâm
    nước lạnh thấu xương. Mỗi lúc bè càng trôi mau hơn, dường như có
    một bàn tay vô hình lôi cuốn họ đi vào chỗ chết. Cuộc phiêu lưu đó
    đã kéo dài bao lâu, họ cũng không biết vì họ đã mất cả ý niệm về
    thời gian. Không có một ánh sáng nào chung quanh, bóng tối dày
    đặc và đen kịt dường như chưa hề có bao giờ trên mặt đất. Chiếc
    bè tre bị sóng dập gió vùi, những ngọn gió mạnh như vũ bão thổi
    rít lên từng chập, bè lật nghiêng, họ bị lật nhào và chìm dưới đáy
    nước. Vài người chỉ có đủ thời giờ để hít một hơi thở. Những người
    khác thở không kịp. Những người sống sót trôi dạt bềnh bồng cho
    đến khi họ nhìn thấy một ánh sáng xanh lợt, mờ mờ và mỗi lúc
    càng tỏ rạng. Sau cùng, họ trôi dạt vào bờ dưới ánh nắng mặt trời.
    Hai vị sư sãi đã tấp vào bờ, thân hình đầy những vết máu và
    vết bầm dập, ngất ngư như người hấp hối. Ba người khác đã biệt
    mất tăm hơi, không để lại dấu tích. Suốt nhiều giờ, họ nằm sõng
    sượt trên mặt đất, trước nanh vuốt của Tử Thần, giữa sự sống và
    cái chết. Sau cùng, một người hồi tỉnh lại và mở mắt nhìn quanh.
    Điều mà y nhìn thấy làm cho y xúc động muốn xỉu. Đằng xa, nhô
    lên ngọn đồi của điện Potala, chung quanh có những con yak đang
    ăn cỏ trên những cánh đồng xanh tươi. Ý nghĩ đầu tiên đến với họ
    là: Chắc có lẽ họ đã chết và họ đang ở trên một cõi trời Tây Tạng.
    Ngay khi đó họ nghe có tiếng chân người bước đến gần: đó là một
    kẻ mục đồng đang cúi xuống nhìn họ. Người mục đồng này vừa vớt
    lên mảng tre tàn của chiếc bè tàn mà y nhìn thấy trôi lênh đênh
    trên sông Tsang Po. Khi y được nghe câu chuyện kể lại và biết
    rằng họ là các sư sãi, người mục đồng bèn đi đến điện Potala để
    báo động và tìm những chiếc cáng để khiêng họ về. Kể từ khi đó, ít
    có người mạo hiểm đi trên hồ, nhưng người ta biết rằng có những
    hòn đảo nhỏ ở trong đó, mà một đã được thám hiểm. Điều mà
    người ta tìm thấy trên hòn đảo đó, con sẽ được biết vào lúc nhập
    môn.
    Tôi nghe nói vậy, liền mong ước được thả bè đi trên hồ ngay
    lập tức!
    Sư Phụ nhìn tôi và cười:
    - Thật vậy, đó là một kinh nghiệm lý thú, nhung cần gì phải
    nhọc sức đi đến nơi khi người ta có thể đi thám hiểm nơi đó dễ
    dàng bằng cách "Xuất vía?" Con có thể thực hiện điều đó, Lâm Bá,
    và trong vài năm con có thể cùng ta đi thám hiểm cái hồ ấy rồi góp
    phần hiểu biết của con vào phần kiến thức mà chúng ta đã có về
    vấn đề này. Nhưng bây giờ thì, con hỡi, con còn phải học hỏi rất
    nhiều.
    Ánh lửa trên ngọn đuốc của chúng tôi sắp tắt, và tôi tưởng
    rằng chúng tôi chắc sẽ phải đi mò trong đêm tối như những người
    mù. Lúc sắp trở về, tôi nghĩ rằng chúng tôi đã quá vô tâm đến nỗi
    không đem theo thêm vài ngọn đuốc để thắp nối. Ngay lúc đó,
    Minh Gia Đại Đức thò tay vào một lỗ trống ẩn dấu trên vách đá,
    lấy ra những ngọn đuốc mới rồi thắp nối theo những cây đuốc đã
    tàn. Người nói:
    - Chúng ta có dự trữ sẵn đuốc ở đây, vì thật khó mà tìm thấy
    đường về trong bóng tối. Bây giờ, chúng ta lên đường!
    Chúng tôi đi lần mò một cách vất vả khó nhọc theo những
    đường hầm lên dốc, thỉnh thoảng ngừng lại để thở và nhìn những
    tranh vẽ trên vách. Tôi không hiểu ý nghĩa những hình vẽ này là
    như thế nào. Trái lại, Sư Phụ tôi rõ ràng là đã rất thành thạo về
    những hình ảnh đó và người đi lại trong các đường hầm tối đen
    này một cách quen thuộc như ở nhà. Tôi linh cảm ở chỗ này hẳn là
    có điều gì bí mật và định thối lui lại để tìm cách khám phá ra cái
    cửa bí mật của con đường hầm này, nhưng giọng nói của Sư Phụ
    gián đoạn dòng tư tưởng của tôi:
    - Lâm Bá, con lẩm bẩm như một ông già! Chỉ còn vài nấc
    thang nữa, là chúng ta sẽ thấy lại ánh sáng mặt trời. Khi lên tới
    nóc điện, ta sẽ chỉ cho con thấy chỗ mà các sư sãi ngày xưa đã ngoi
    lên mặt đất sau cuộc thám hiểm của họ.
    Khi chúng tôi lên tới nóc điện Potala, Sư Phụ làm theo lời
    hứa, và tôi đã muốn phóng lên lưng ngựa phi nước đại trên sáu
    chục cây số để nhìn xem chỗ ấy tận mắt. Nhưng Sư Phụ tôi nói
    rằng không có gì khác hơn là cảnh vật mà tôi đã nhìn thấy trong
    ống nhòm. Lối thoát lên mặt đất của cái hố này vốn nằm dưới mực
    nước rất sâu và không có gì để ghi dấu cho biết nó nằm chỗ nào,
    trừ ra một chòm cây được trồng ở phía trên do lệnh truyền của đức
    Đạt Lai Lạt Ma trong kiếp trước của Ngài.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  10. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    TRẠI HOA HƯỜNG
    Qua ngày hôm sau, Thầy trò chúng tôi sửa soạn để trở về tư
    tưởng viện Chakpori. Chúng tôi không vội vàng lắm vì chúng tôi
    cảm thấy được nghỉ ngơi thoải mái tại điện Potala. Trước khi lên
    đường, tôi bước nhanh lên nóc điện để ngắm nhìn phong cảnh một
    lần cuối cùng. Xuyên qua cái ống nhòm nhìn về nóc tư tưởng viện
    Chakpori, tôi thấy một thiếu nhi sơ cơ đang nằm dài trên sân
    thượng để đọc sách, thỉnh thoảng lại ngừng đọc để ném những
    viên sỏi nhỏ lên cái đầu trọc của các sư sãi đang đi qua lại ở sân
    dưới. Trong ống nhòm tôi nhìn thấy nụ cười ranh mãnh của y, khi
    y vội vàng ẩn núp để tránh những cái nhìn ngạc nhiên mà các nạn
    nhân của y phóng lên trời. Nhân dịp này, tôi cảm thấy băn khoăn
    lo sợ vì chắc hẳn là đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nhìn thấy chính tôi
    có nhiều lần đùa nghịch giống y như vậy! Kể từ khi đó, tôi quyết
    định giới hạn những sự nghịch ngợm tinh quái của tôi ở những góc
    nhà của tu viện mà người ta không nhìn thấy được từ trên nóc
    điện Potala.
    Giờ lên đường đã điểm. Chúng tôi từ giã và cám ơn các vị Lạt
    Ma đã giúp cho thời gian lưu trú ngắn ngủi của chúng tôi tại đây
    được thoải mái và dễ chịu. Chúng tôi cũng tỏ lòng ưu ái cảm tạ
    viên Huỳnh Môn Quan của đức Đạt Lai Lạt Ma, là người thủ kho
    lương thực, đã phân phát trà bánh và kẹo mứt ngon có tiếng nhập
    cảng từ bên Ấn Độ cho chúng tôi dùng tự do tùy thích. Viên Huỳnh
    Môn Quan chắc hẳn là có thiện cảm với tôi, vì lúc từ giã, người còn
    đưa tặng cho tôi một món quà ngon mà tôi không ngần ngại đút
    vào miệng nhai liền khi đó. Sau khi ăn uống no đầy đủ lấy sức,
    chúng tôi bắt đầu đi xuống cầu thang lớn để trở về tu viện. Chúng
    tôi vừa xuống được nửa cầu thang, thì nghe những tiếng gọi giật
    lại, những sư sãi đi ngang qua đó ra dấu cho chúng tôi hãy quay
    đầu nhìn lại phía sau. Một sư sãi hộc tốc chạy xuống cầu thang
    vừa thở dốc và chuyển giao một thông điệp cho Minh Gia Đại Đức.
    Sư Phụ tôi nói:
    - Lâm Bá, con hãy đợi ta ở đây, ta đi sẽ không lâu.
    Kế đó, người quay lưng đi trở lên cầu thang. Tôi bèn đi dạo
    chơi thơ thẩn một mình, nhìn xem phong cảnh, và ngắm nhìn ngôi
    nhà cũ của tôi ở đằng xa. Tôi đang miên man nghĩ đến những kỷ
    niệm xưa, thì vừa quay đầu trở lại, tôi suýt nữa thì té ngửa khi tôi
    thấy cha tôi cưỡi ngựa chạy về phía chỗ tôi đứng. Đúng vào lúc mà
    tôi nhìn cha tôi, thì người cũng thấy tôi. Cha tôi hơi nghiêng đầu
    tới trước để xem cho rõ khi người nhận ra tôi. Nhưng cha tôi đi
    ngang qua trước mặt tôi mà không nhìn tôi nữa. Tôi cảm thấy lòng
    buồn vô hạn. Tôi nhìn theo cha tôi đi ra xa. Tôi gọi theo: "Cha!"
    Nhưng người vẫn tiếp tục thong thả cưỡi ngựa đi luôn dường như
    người không nghe tiếng tôi gọi. Tôi rơm rớm nước mắt và run lên
    vì xúc động. Nếu lúc ấy tôi đứng giữa đám đông người, thì tôi đã tự
    chuốc lấy một điều bẽn lẽn, hổ thẹn trước công chúng, và nhất là
    lại ở trên cầu thang của điện Potala! Với một ý chí làm chủ bộ
    thần kinh đa cảm của mình, nó làm chính tôi cũng phải ngạc
    nhiên, tôi ngẩng mặt lên và nhìn về phía thành phố Lhassa.
    Nửa giờ sau, Minh Gia Đại Đức đã trở xuống với hai con
    ngựa và nói với tôi:
    - Lâm Bá, hãy mau lên ngựa, chúng ta phải đi mau đến viện
    Séra, vì một trong các vị sư già mới bị tai nạn.
    Nhận thấy ở mỗi bên yên ngựa đều có treo một bao da, tôi
    đoán rằng đó là những bao đựng đồ của y Sư Phụ trên đường
    Lingkhor, chúng tôi sãi ngựa qua trước nhà của tôi; những người
    hành hương và hành khất đều tránh qua một bên đường. Không
    bao lâu, chúng tôi đến tu viện Séra, tại đây đã có một nhóm sư sãi
    đã đứng đợi chúng tôi. Chúng tôi xuống ngựa, mỗi người cầm một
    bao y cụ trong tay; khi ấy một vị sư đưa chúng tôi vào một phòng
    tại đây có một vị lão tăng đang nằm thoi thóp.
    Vị lão tăng có sắc mặt nhợt nhạt như chì, nguồn sinh lực của
    ông dường như đã sắp tàn. Minh Gia Đại Đức gọi đem nước sôi; nồi
    nước sôi đã sẵn sàng, người bèn bỏ vào đó vài nhúm dược thảo.
    Trong khi tôi quậy nồi nước sôi cho ngấm thuốc, Sư Phụ tôi khám
    bệnh cho vị lão tăng và được biết vị này vừa bị té vỡ sọ từ trên cao
    xuống đất. Một cái xương dẹp trên đầu bị trật khớp đè lên óc, làm
    ông ta bất tỉnh nhân sự.
    Khi nồi nước thuốc đã nguội bớt, chúng tôi dùng một ít để
    rửa trán của người bệnh. Sư Phụ cũng lấy nước thuốc ấy để rửa
    tay và ngâm những đồ y cụ giải phẫu vào nồi thuốc để khử trùng.
    Nhờ công dụng của chất thuốc ấy, vết thương của ông lão không
    còn rỉ máu nhiều. Kế đó, Sư Phụ lấy trong nồi thuốc ra hai cái gắp
    bằng bạc, đầu dẹp và có răng cưa. Người cẩn thận dùng hai cái gắp
    ấy lật miếng da đầu bị rách lên, đỡ lấy cái xương sọ bị trật khớp và
    đặt nó nằm ngay trở lại vị trí cũ. Xong, người nói:
    - Cái xương sẽ tự nó hàn gắn vào khớp trở lại như thường, và
    không còn đè lên óc nữa.
    Người lại rửa vết thương với chất nước thuốc, và đặt lại chỗ
    cũ cái mảng da đầu đã đặt lên lúc nãy. Xong rồi người mới may kín
    vết thương bằng lông bờm ngựa trụng nước sôi, đắp thuốc lên và
    băng lại cẩn thận.
    Sau khi bộ óc ông ta được giải tỏa khỏi miếng xương sọ đè lên
    trên, vị lão tăng đã bắt đầu lấy sức lại và cảm thấy khỏe dần.
    Chúng tôi đặt thêm vài chiếc gối dưới lưng để cho ông ta có thể
    ngồi nhổm dậy một cách thoải mái. Tôi rửa sạch các đồ y cụ, rồi
    lau bằng một miếng giẻ đã khử trùng và sắp lại cẩn thận trong hai
    cái bao da. Khi tôi rửa tay, vị lão tăng mở mắt ra và nở một nụ
    cười yếu ớt khi ông ta nhận ra Minh Gia Đại Đức đang ngồi bên
    cạnh giường. Ông lão nói:
    - Tôi biết chỉ có ông là người duy nhất có thể cứu được tôi, vì
    thế tôi đã gửi một thông điệp bằng tư tưởng đến điện Potala. Sứ
    mạng của tôi ở thế gian chưa hoàn tất, vì vậy nên tôi chưa sẵn
    sàng rời bỏ thể xác.
    Sư Phụ tôi chăm chú nhìn ông lão và đáp:
    - Sư ông sẽ chóng khỏi. Chỉ cần chịu đựng vài ngày khó nhọc
    nữa, một hay hai cơn nhức đầu, rồi sau đó sư ông sẽ bình phục lại
    sức khỏe và làm việc như bình thường. Tuy nhiên, trong khi ngủ,
    phải có một người trực một bên để giữ cho sư ông đừng nằm dài.
    Nội trong ba hay bốn ngày nữa, là sư ông sẽ thoát nạn.
    Tôi bước lại gần cửa sổ. Thật là một điều lý thú mà nhìn xem
    cách sinh hoạt của các sư sãi của một tu viện khác. Sư Phụ bước
    đến gần tôi và nói:
    - Bây giờ, ta sẽ đưa con đi viếng thăm một cộng đồng sư sãi
    sinh hoạt rất khác hẳn với tư tưởng viện của chúng ta.
    Sau khi đã giao người bệnh cho một vị Lạt Ma săn sóc, chúng
    tôi bước ra ngoài hành lang. Tu viện này không được gìn giữ sạch
    sẽ như tư tưởng viện Chakpori. Kỷ luật cũng không được nghiêm
    ngặt lắm: Các sư sãi đi lại tự do tùy ý. So với tư tưởng viện của
    chúng tôi, thì các thánh điện của họ không được săn sóc lau chùi
    tươm tất; mùi nhang khói ở đây cũng nồng nặc hơn. Từng nhóm
    trẻ con chơi ở ngoài sân: ở Chakpori, thì giờ này chúng phải làm
    việc ráo riết. Tu viện này hoàn toàn thiếu trật tự, sạch sẽ và kỷ
    luật mà tôi vẫn thường coi như là những điều luật căn bản. Sư
    Phụ tôi hỏi:
    - Lâm Bá, con có muốn ở lại tu viện này và sống một cuộc đời
    dễ dãi tự do như họ chăng?
    Tôi đáp:
    - Bạch Sư Phụ, chắc chắn là không. Con nghĩ rằng họ chỉ là
    một tập đoàn người man rợ.
    Sư Phụ bật cười:
    - Thế mà ở đây có tất cả bảy người man rợ, và như vậy là hơi
    nhiều! Chỉ cần có một thiểu số người bê bối là đủ làm cho cả một
    tập đoàn phải mang tiếng, con biết không?
    Một sự thật hiển nhiên mà mọi người đều biết rõ, là tu viện
    của chúng tôi có một kỷ luật gắt gao nhất, còn ở hầu hết những tu
    viện khác thì kỷ luật rất là lỏng lẻo. Ở những nơi đó, nếu một sư
    sãi muốn giải đãi, lười biếng, thì y được tự do lười biếng mà không
    ai nói gì. Tu viện Séra, còn biết dưới cái tên riêng là "Trại Hoa
    Hường," ở cách điện Potala năm cây số và là một thành phần của
    nhóm cộng đồng tu viện gọi là "Tam Đỉnh Viện." Trong cộng đồng
    này thì tu viện Drebung với dân số không dưới mười nghìn sư sãi,
    là tư tưởng viện lớn nhất. Kế đó là tu viện Séra với độ chừng bảy
    ngàn năm trăm sư sãi, và sau hết là tu viện Ganden với gần sáu
    nghìn sư sãi. Tất cả ba tu viện này đồ sộ nguy nga như những
    thành phố thật sự, với những đường sá, trường học, đền thờ và tất
    cả những cơ quan, dinh thự quản trị hành chánh cần thiết. Những
    sư sãi cảnh binh xuất xứ từ những vùng Kham đi tuần phòng
    thường xuyên ở các đường phố. Nhưng bây giờ thì chắc là quân
    Trung Công đã thay chân của họ! Tu viện Chakpori tuy nhỏ nhưng
    có thế lực rất lớn. Với tư cách là một Y Viện, nó cũng là Trung
    Tâm Y Khoa của quốc gia, và có một số đại diện quan trọng trong
    Hội Đồng Chánh Phủ.
    Ở tu viện Chakpori, người ta dạy cho chúng tôi môn võ thuật
    Tây Tạng. Không phải tất cả các tu viện đều có dạy môn võ thuật
    này. Trong tu viện của chúng tôi, môn võ thuật ấy được sử dụng để
    tập luyện cho các thiếu sinh biết tự vệ, làm chủ những phản ứng
    tự nhiên của mình, làm tê liệt giác quan của một người vì mục
    đích giải phẫu y khoa, và để có thể di chuyển một cách an toàn
    trong những vùng nguy hiểm nhất. Thật vậy, với tư cách là những
    vị Lạt Ma y sĩ, chúng tôi luôn luôn phải di chuyển đến tận những
    vùng hiểm trở, xa xôi, đầy những sự bất trắc, hiểm nghèo.
    Võ sư Tzu, như đã nói trước đây, là một chuyên viên về môn
    võ thuật tự vệ, có lẽ là vị võ sư giỏi nhất của xứ Tây Tạng. Ông đã
    dạy tôi tất cả những gì ông biết, với một tinh thần trách nhiệm và
    chỉ để lấy làm hài lòng vì đã làm tròn bổn phận của một võ sư.
    Phần nhiều những người đã trưởng thành và thành niên đều biết
    một vài thế võ sơ đẳng để hộ thân, nhưng về phần tôi, tôi đã tập
    luyện những thế võ đó từ khi mới lên bốn tuổi. Chúng tôi nghĩ
    rằng môn võ thuật này chỉ dùng để tự vệ và tự làm chủ lấy mình,
    chứ không nên dùng để biểu diễn trên võ đài như những tay thí võ
    chuyên nghiệp. Ở Tây Tạng, người ta thường nói rằng một người
    giỏi võ và có sức mạnh có thể rất ôn hòa hiền lành, còn những sự
    phô trương khoác lác là đặc tính của kẻ yếu. Với môn điểm huyệt,
    người ta có thể làm tê liệt giác quan của một người, nó có tác dụng
    như việc chụp thuốc mê để làm cho y không còn biết đau đớn khi
    cần phải giải phẫu, nắn lại khớp xương bị trật, hay nhổ răng
    chẳng hạn. Người ta có thể làm cho một người trở nên bất tỉnh
    nhân sự, mà y không hay biết mình đã bị điểm huyệt, và vài giờ
    hay vài phút sau đó, y sẽ thức tỉnh và vẫn sáng suốt như cũ mà
    không bị một ảnh hưởng nào. Có điều lạ, là một người bị điểm
    huyệt lúc y đang nói chuyện, bị bất tỉnh và ngủ mê đi, đến khi
    thức tỉnh dậy y lại tiếp tục câu nói bị đứt đoạn từ lúc đầu. Vì môn
    điểm huyệt này vô cùng lợi hại như vậy, nên môn võ thuật tự vệ và
    điểm huyệt bí truyền của Tây Tạng chỉ được truyền thụ cho những
    môn đồ đã trải qua những cơn thử thách vô cùng gắt gao. Hơn
    nữa, để cho được cẩn mật và an toàn đến mức tuyệt đối, họ còn
    chịu một vài phép dẫn dụ bằng khoa thôi miên, để cho họ không
    thể nào lạm dụng quyền năng về sau này.
    Một tu viện Lạt Ma ở Tây Tạng không phải chỉ là một nơi trú
    ngụ của những người có chí hướng về đương tu hành, đó cũng là
    một thành phố tự trị với những cơ quan quản trị nội bộ và những
    nơi giải trí, tiêu khiển. Ở đó có cả những hí viện để trình diễn
    những màn kịch nghệ tôn giáo và văn hóa truyền thống. Những sư
    sãi nhạc công luôn luôn sẵn sàng biểu diễn tài nghệ để giúp vui và
    để chứng tỏ rằng không một cộng đồng tu viện nào khác có những
    nhạc công tài giỏi như họ. Những sư sãi có tiền của riêng có thể
    mua sắm các thức ăn, quần áo, đồ xa xỉ phẩm và sách vở trong các
    cửa tiệm. Những vị nào muốn tiết kiệm có thể gửi tiền vào những
    tài ngân khố, hoạt động giống như các ngân hàng. Tất cả những
    cộng đồng sinh hoạt trên thế giới đều không khỏi có những kẻ bất
    lương phạm pháp. Trong tu viện Lạt Ma Giáo, những kẻ bất lương
    này bị các sư sãi cảnh binh bắt giữ và đưa ra một tòa án riêng để
    xử tội họ một cách công bình. Nếu xét ra họ phạm pháp, họ sẽ phải
    đền tội trong khám đường của tu viện.
    Trong tu viện, có những trường học để cho mỗi đứa trẻ có thể
    thọ lãnh một nền giáo dục thích nghi với tính chất cùng trí khôn
    của chúng. Người ta giúp đỡ những đứa học trò ưu tú để xây dựng
    cho chúng một tương lai, nhưng ở phần nhiều các tu viện, trừ tu
    viện Chakpori, những học trò lười biếng được tự do chơi bời, ngủ
    nghê hay dùng thời giờ để ngồi không và mơ mộng. Thật vậy,
    người ta nghĩ rằng vì người ta không thể nào ảnh hưởng đến cuộc
    đời của kẻ khác, nên tốt hơn là hãy để cho họ vớt vát lại thời giờ đã
    mất trong một... Kiếp sau! Ở tu viện Chakpori thì không thế, và
    người nào không tiến bộ sẽ bị mời đi nơi khác, đến những chỗ mà
    kỷ luật được dễ dàng lỏng lẻo hơn.
    Trong tu viện của chúng tôi, thường có những khách viếng
    thăm, những người lái buôn hoặc sư sãi, họ được lưu trú trong
    khách sạn của tu viện, và lẽ tất nhiên là cũng phải trả tiền. Không
    phải tất cả các sư sãi đều sống độc thân. Những người nào nghĩ
    rằng tình trạng độc thân không thuận tiện cho đời sống tinh thần
    của họ, được tự do gia nhập vào môn phái "Mũ Đỏ" Dugpas, những
    người trong môn phái này được phép lập gia đình. Nhưng đó chỉ là
    một thiểu số. Trong giới tu hành, cấp lãnh đạo được tuyển chọn
    trong số những tu sĩ đã lập nguyện sống độc thân, thuộc về môn
    phái "Mũ Vàng" Gelugpas. Trong những tu viện "Cộng đồng nam
    nữ, " các sư sãi và ni cô làm việc sát cánh với nhau và gồm thành
    một tập đoàn hoàn toàn có tổ chức, với một bầu không khí thường
    là hòa dịu hơn những tu viện chỉ đặc biệt dành riêng cho phái
    nam.
    Sau khi đã đi quan sát mọi nơi ở Trại Hoa Hường, chúng tôi
    trở lại thăm vị sư sãi già. Trong hai tiếng đồng hồ, bệnh tình của
    ông ta đã thuyên giảm rõ rệt, và ông ta đã có đủ sức để chú ý đến
    cảnh vật chung quanh. Ông ta đã có thể lắng tai chăm chú nghe
    Minh Gia Đại Đức mà ông ta có vẻ rất quý mến. Sư Phụ nói với
    ông lão:
    - Bây giờ chúng tôi phải đi, nhưng tôi sẽ để lại cho sư ông
    một ít dược thảo. Tôi sẽ đưa chỉ thị rõ ràng cho vị sư sãi có bổn
    phận săn sóc sư ông.
    Sư Phụ đưa cho ông lão ba cái bọc nhỏ mà người lấy ra trong
    cái bao da. Ba bọc thuốc nhỏ này sẽ giúp cho ông lão được hoàn
    toàn bình phục và thoát khỏi lưỡi hái của Tử Thần.
    Ra đến sân ngoài, chúng tôi thấy một sư sãi nắm dây cương
    hai con ngựa đã chực sẵn. Chúng tôi lên ngựa và cho ngựa đi từ từ
    chậm bước. Trại Hoa Hường chỉ cách con đường Lingkhor có sáu
    cây số. Tôi không có ý định đi ngang qua nhà cũ của tôi. Sư Phụ
    tôi có lẽ đọc được tư tưởng của tôi, vì người nói:
    - Chúng ta sẽ đi qua đường để ra khu chợ. Chúng ta không có
    gì phải gấp rút. Ngày mai sẽ là một ngày khác mà chúng ta còn
    phải sống.
    Khi ra đến khu chợ búa với những phố phường đông đảo, với
    các cửa hàng của người Tàu buôn bán tấp nập, tôi thầm nghĩ:
    - A! Lần cuối cùng khi tôi đi đến đây, tôi là một người tự do,
    khi ấy tôi chưa phải học để trở thành tu sĩ. Tôi chỉ ước mong thời
    gian qua chỉ là một giấc mộng mà tôi có thể quên hết khi tôi thức
    tỉnh!
    Sau khi đã đi qua đường cái, chúng tôi rẽ về phía tay mặt để
    đến cầu Ngọc Bích. Sư Phụ day qua phía tôi và nói:
    - Như vậy, con vẫn không muốn trở thành tu sĩ phải chăng?
    Đó thật là một cuộc đời đáng sống, con biết không? Đến cuối tuần
    này, những sư sãi sẽ xuất hành như mọi năm để đi hái thuốc trên
    núi. Thầy không để con đi với họ năm nay. Con sẽ ở lại đây, và
    chúng ta sẽ làm việc chung với nhau, để cho con có thể thi đậu kỳ
    thi tuyển các sư sãi ưu tú Trappa vào năm mười hai tuổi. Thầy đã
    dự định đem con theo trong một chuyến xuất hành về sau này lên
    những vùng Thuợng Du, tại đó có mọc những loại dược thảo rất
    hiếm.
    Chúng tôi vừa ra khỏi làng Sho và sắp đến gần Pargo Kaling,
    ở cửa tây thành Lhassa, thì một kẻ hành khất đứng nép vào tường
    và rên rỉ:
    - Thưa bác sĩ Lạt Ma, xin ngài làm phước đừng chữa khỏi
    bệnh cho tôi vì nếu tôi lành mạnh, tôi sẽ không còn phương tiện để
    kiếm ăn!
    Sư Phụ có vẻ buồn man mác khi chúng tôi bước qua cửa
    thành và nói:
    - Ở đâu cũng thấy những kẻ ăn mày. Họ làm cho xứ sở của
    chúng ta mang tiếng xấu ở ngoại quốc. Ở Ấn Độ, ở Trung Hoa, khi
    thầy đến đó với đấng "Khôn Lường," người ta nói chuyện về những
    người ăn mày ở xứ Tây Tạng, nhưng họ không ngờ rằng vài người
    trong số đó lại rất giàu. Dầu sao, có lẽ sau việc thực hiện lời tiên
    tri về Năm Con Cọp Sắt (tức 1950, quân Trung Cộng xâm chiếm
    xứ Tây Tạng), những kẻ ăn mày sẽ bị bắt buộc phải làm việc.
    Chừng đó, Lâm Bá, trong hai thầy trò chúng ta không ai còn ở lại
    xứ nhà để chứng kiến việc ấy. Con sẽ sống ở ngoại quốc, còn thầy
    thì... đã trở về cõi Thượng Giới.
    Tôi cảm thấy lòng buồn vô hạn với ý nghĩ rằng có ngày Sư
    Phụ mến yêu sẽ từ biệt tôi và không còn sống trên mặt đất này
    nữa. Hồi đó, tôi chưa biết rằng cõi đời này chỉ là hư ảo, một loạt
    những thử thách, một trường học lớn để cho ta rèn luyện tâm tính.
    Trên đường về, tôi liên tưởng đến những người đi hái thuốc. Mỗi
    năm, một nhóm sư sãi của tu viện Chakpori lên núi hái thuốc về
    phơi khô và dự trữ trong những bao da không thấm nước. Miền
    núi non xứ Tây Tạng là nơi mà thiên nhiên dành cho con người
    một kho dược thảo phong phú dồi dào bất tận. Tôi thầm nghĩ rằng
    mình có thể vắng mặt trong chuyến xuất hành năm nay, và hãy
    chuẩn bị tinh thần để đi lên miền Thượng Du huyền bí khi nào Sư
    Phụ xét ra cần thiết.
    Các nhà chiêm tinh đã tiên đoán tôi sẽ thi đậu một cách dễ
    dàng, nhưng tôi biết rằng tôi phải học rất nhiều. Thật vậy, sự
    thành công chỉ được hứa hẹn với tôi với điều kiện tất yếu là tôi
    phải tự mình gặt hái lấy nó bằng sự làm việc. Về phương tiện tinh
    thần, trí não, ít nhất tôi cũng đã phát triển bằng một thiếu niên
    muời tám tuổi, vì tôi vẫn luôn luôn chung đụng tiếp xúc với những
    người lớn tuổi hơn tôi và tôi đã phải tự lực tháo vát mọi chuyện
    trong mọi trường hợp.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  11. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    Dưới đây là một vài chi tiết về nền văn minh của xứ Tây
    Tạng, nó có thể khêu gợi sự thích thú của quý độc giả. Nền tôn
    giáo Tây Tạng là một hình thức biến thiên của Phật Giáo, nhưng
    nó không có một danh hiệu rõ ràng để có thể định nghĩa hoặc dịch
    ra. Người Tây Tạng gọi nó là quốc giáo của họ. Danh từ chính xác
    nhất là Lạt Ma Giáo (Lamaisme), mà người Tây phương đã từng
    biết. Tín ngưỡng của người Tây Tạng khác biệt với Phật Giáo ở chỗ
    nó căn cứ trên niềm hy vọng, còn Phật Giáo đối với họ như một tôn
    giáo yếm thế, và hoàn toàn tiêu cực. Dầu sao đi nữa, có một điều
    chắc chắn là người Tây Tạng không tin nơi sự hiện diện của một vị
    Thượng Đế độc tôn, toàn trí và toàn thông, coi sóc và che chở cho
    toàn thể nhân loại.
    Từ bao nhiêu thế kỷ về trước, các dân tộc phương Đông đã
    biết rõ về các mãnh lực huyền bí và những định luật thiên nhiên.
    Thay vì phủ nhận sự hiện hữu của những sức mạnh huyền linh ấy,
    bởi lý do rằng người ta không thể cân lường hay quan sát phản
    ứng của chúng dưới ảnh hưởng các hóa chất trong phòng thí
    nghiệm, những bậc danh sư bên phương Đông đã cố gắng tăng gia
    kiểm soát của họ đối với những mãnh lực thần bí vô hình. Thí dụ
    như họ đã chú ý đến những kết quả thu lượm được do bởi năng
    khiếu Thần Nhãn. Nhiều người cho rằng điều ấy không thể nào có
    được: Họ chẳng khác nào như những người mù từ thuở lọt lòng mẹ,
    nói rằng vốn không có thi giác, bởi vì họ không hề có kinh nghiệm
    về cái giác quan đó! Làm sao họ có thể hiểu được rằng một vật có
    thể được nhìn thấy ở cách xa trong không gian, trong khi không hề
    có một sự tiếp xúc nào giữa vật ấy và đôi mắt của con người?
    Thể xác con người được bao phủ bằng một lớp vỏ như sương
    mù muôn màu nghìn sắc: đó là cái hào quang. Những vị có Thần
    Nhãn nhìn vào hào quang của một người, có thể quan sát các màu
    sắc đó mà suy ra tình trạng sức khỏe, đức hạnh và trình độ tiến
    hóa của người ấy. Cái hào quang ấy là sự phát huy, sự biểu hiện
    của một luồng khí lực từ bên trong, tức Chân Ngã, hay linh hồn
    con người. Đầu người ấy cũng được bao trùm bởi một vòng hào
    quang xuất phát từ cái khí lực đó. Đến lúc chết, thì cái hào quang
    ấy tắt hẳn: Linh hồn đã rời khỏi thể xác và phiêu diêu trên một cõi
    giới khác để bước qua một giai đoạn sinh hoạt mới. Khi đó, nó trở
    thành một cái "Bóng" phất phơ, có lẽ là bởi vì nó còn hoang mang
    bởi sự xúc động mạnh khi nó được giải tỏa ra khỏi cái xác thân vật
    chất. Có thể rằng nó không hoàn toàn ý thức được những gì đã xảy
    ra. Bởi đó, các vị Lạt Ma có bổn phận giúp đỡ những người hấp hối
    và giảng giải cho họ nghe những giai đoạn ở bên cửa tử mà họ sẽ
    trải qua. Chứ nếu không, thì linh hồn của họ sẽ bám víu lấy cõi
    trần do bởi những dục vọng của xác thịt còn chưa được thỏa mãn.
    Vai trò của các vị tăng lữ cắt đứt những sợi dây trói buộc đó.
    Người Tây Tạng thường có những cuộc hành lễ cầu siêu để
    dìu dắt những vong linh người chết. Sự chết không làm cho người
    Tây Tạng sợ sệt, họ nghĩ rằng một vài nghi thức cẩn mật có thể
    giúp đỡ rất nhiều để cho linh hồn bước qua cõi giới bên kia một
    cách dễ dàng. Cần phải vạch một lộ trình nhất định và rõ ràng, và
    điều khiển những tư tưởng của người hấp hối một cách thích nghi.
    Những cuộc lễ cầu siêu này được cử hành trong một ngôi đền dưới
    sự hiện diện của chừng độ ba trăm sư sãi. Một nhóm bốn hay năm
    vị Lạt Ma có thần thông, có thể giao cảm với cõi vô hình, ngồi
    thành vòng tròn ở chính giữa, và đối diện với nhau. Trong khi các
    sư sãi tụng niệm dưới sự điều khiển của một vị Sư Trưởng, các vị
    Lạt Ma cố gắng tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những vong
    linh phiêu dạt, vất vưởng trong cõi vô hình. Những lời cầu nguyện
    bằng tiếng Tây Tạng thật khó mà dịch ra cho đúng nghĩa, nhưng
    tôi cũng xin được dịch đại khái như sau:
    - Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong hồn phất
    phơ vô định ở cõi bên kia cửa tử. Âm dương cách trở, người sống và
    người chết đều sống ở những cõi giới cách biệt nhau. Những gương
    mặt người chết có thể được nhìn thấy ở đâu? Ở đâu người ta có thể
    nghe được giọng nói của họ.
    Cây nhang đầu tiên được đốt lên để kêu gọi những linh hồn
    lạc lõng và chỉ đường cho họ.
    - Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong hồn phất
    phơ lạc lõng không người dìu dắt. Bầu thế giới này là một ảo ảnh.
    Cuộc đời chỉ là một giấc mộng. Hữu sinh hữu diệt, vật gì có lúc
    sinh ra ắt phải có lúc chết. Chỉ có Phật pháp là con đường duy
    nhất đưa đến đời sống trường tồn vĩnh cửu. Cầu cho vong hồn các
    người siêu sinh tịnh độ.
    Cây nhang thứ nhì được đốt lên để kêu gọi những vong hồn
    lạc lõng và để chỉ đường cho họ.
    - Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những bậc vua chúa
    oai quyền hống hách của thế gian, các người đã ngự trị trên những
    dãy giang san của thiên hạ. Triều đại của các người chỉ tồn tại có
    một thời nhưng những tiếng kêu rên siết của dân tộc các ngươi
    không bao giờ dứt. Do lòng tham vọng chinh phục đất đai, các
    ngươi đã làm cho máu chảy thành sông, và những tiếng thở than
    của những kẻ bị trị còn làm rung chuyển cây cối, thấu đến trời
    xanh. Cầu cho vong hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ.
    Một cây nhang thứ ba được đốt lên để kêu gọi vong hồn các
    bậc đế vương, cùng những nhà độc tài của thiên hạ và để chỉ
    đường cho họ.
    Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những kẻ bạc ác bất
    nhân và những kẻ trộm cướp của thế gian, các ngươi đã gây nên
    tội ác đối với kẻ đồng loại và ngay trong lòng các người không có sự
    bằng an. Linh hồn các ngươi vất vưởng không nơi nương tựa và
    công lý không có ngự trong tâm của các ngươi. Cầu cho linh hồn
    các ngươi được siêu sinh tịnh độ...
    Một cây nhang thứ tư được đốt lên để kêu gọi vong hồn
    những kẻ tội lỗi đang phất phơ dật dờ trong cô quạnh.
    - Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những nàng kỹ nữ các
    chốn lầu xanh của thế gian, những người buôn hương bán phấn
    mà tội lỗi của các bọn đàn ông đã làm cho ô uế, nay đang đi lang
    thang vô định trong cõi u minh tăm tối. Cầu cho vong hồn các
    ngươi được siêu sinh tịnh độ.
    Cây nhang thứ năm được đốt lên để kêu gọi vong hồn các
    người đàn bà tội lỗi, sa đọa, để dìu dắt và giải thoát cho họ khỏi
    những sự trói buộc của thế gian...
    Trong bóng tối ban đêm tỏa khói hương nghi ngút, những
    ngọn đèn bơ loe lét làm rung rinh những bóng đen ở phía sau các
    pho tương thếp vàng. Sự căng thẳng càng tăng: Các vị Lạt Ma
    đang tập trung tư tưởng để giao cảm với những vong hồn đã chết
    nhưng chưa được giải thoát khỏi những sợi dây trói buộc với cõi
    giới phàm trần.
    Những sư sãi mặc áo tràng màu đỏ ngồi sắp từng hàng đối
    diện với nhau, cất giọng ngân nga tụng niệm những bài sinh cầu
    siêu cho các vong hồn. Cuộc lễ tiếp diễn với những lời chỉ thị đưa
    ra cho các vong hồn và nhịp độ của những lời cầu siêu tụng niệm
    cũng trở nên thưa dần, cho đến khi mọi tiếng động, mọi âm thanh
    đều dứt hẳn, và tất cả đều đắm chìm trong im lặng.
    Trong lúc thức tỉnh, linh hồn con người dính liền với thể xác
    và không thể tách rời ra ngoài, trừ phi y đã có trải qua một sự tập
    luyện về vấn đề này. Khi chúng ta ngủ, chỉ có thể xác là cần sự
    nghỉ ngơi, còn linh hồn thì thoát ra ngoài và bước vào cõi giới tinh
    thần, cũng như một đứa trẻ trở về nhà vào lúc chiều, sau giờ tan
    học. Linh hồn được nối liền với thể xác bằng "sợi dây bạc" nó có thể
    kéo dài đến vô tận. Sợi dây bạc này vẫn tồn tại luôn luôn khi nào
    thể xác còn sống; đến lúc chết, nó bị gián đoạn để cho linh hồn
    bước vào một cuộc đời mới trên cõi giới tinh thần, cũng như đứa
    hài nhi bị cắt rún để tách rời khỏi mẹ nó. Đối với đứa hài nhi, sự
    sinh ra đời có nghĩa là chấm dứt sự sống được bảo bọc che trở
    trong bụng mẹ. Đối với một linh hồn, sự chết có nghĩa là tái sinh
    trong một cõi tâm linh tự do hơn.
    Khi sợi dây bạc chưa bị cắt đứt, linh hồn được tự do chu du
    khắp nơi trong giấc ngủ của thể xác, hoặc ngay cả trong lúc thức
    tỉnh nếu người ta đã có trải qua một sự luyện tập đặc biệt. Sự chu
    du của linh hồn trong giấc ngủ tạo nên những giấc mộng, nó là
    những ấn tượng được chuyển di do sự trung gian của sợi dây bạc.
    Trong cõi giới tâm linh, vốn không có "Thời gian", vì ý niệm về thời
    gian chỉ có ở cõi phàm trần hạ giới, bởi đó đôi khi những giấc mộng
    dài và phức tạp dường như chỉ diễn ra trong không đầy một giây
    đồng hồ. Một kinh nghiệm mà có lẽ ai cũng đã trải qua, là gặp
    trong giấc mộng một người quen ở cách ta rất xa, có thể ở cách đến
    muôn dặm trùng dương, ở chỗ tận cùng của thế giới, và nói chuyện
    với người ấy. Một thông điệp có thể đã được chuyển giao và khi
    thức giấc, người ta có cái cảm giác rất rõ rệt là: Có một cái gì mà
    mình phải nhớ. Đôi khi, người ta nhớ rằng đã gặp trong mộng một
    người bạn hay một người thân thích trong khi họ ở rất xa, mà
    người ta không ngạc nhiên mà nhận được tin của họ ít lâu sau đó.
    Đối với những người không luyện tập, thì trí nhớ của họ thường bị
    đảo lộn và kết quả là họ chỉ thấy những giấc mông vô lý hay
    những cơn ác mông.
    Ở Tây Tạng, người ta thường đi chu du khắp nơi không phải
    bằng thuật khinh thân, mà bằng cách xuất hồn, một kỹ thuật mà
    họ đã hoàn toàn nắm vững. Bằng phương pháp xuất hồn, linh hồn
    rời khỏi thể xác và vẫn dính liền với nó bằng sợi dây bạc, trong khi
    đó người ta tự do di chuyển khắp nơi tùy ý muốn trong cõi vô hình
    với tốc lực của tư tưởng. Khả năng xuất hồn cũng gọi là xuất thần
    hay xuất vía, để đi chu du nơi cõi Trung giới, là một việc rất thông
    thường ở xứ Tây Tạng. Những người mới bắt đầu áp dụng thử
    phương pháp này thường hay bị xúc động mạnh, đó là do sự thiếu
    tập luyện. Có thể rằng mỗi người đã có lần cảm thấy mình lướt
    nhẹ trong giấc ngủ để rồi sau đó, không có lý do gì đáng kể, tự
    nhiên họ giật mình bừng tỉnh dậy một cách đột ngột. Hiện tượng
    đó là do bởi sự xuất thần một cách quá mau chóng, sự chia ly quá
    đột ngột giữa thể xác với thể vía, làm cho sợi dây bạc bị chùn lại và
    thể vía tái nhập vào thể xác một cách quá mãnh liệt. Sau khi bừng
    tỉnh dậy, người ta còn có cái cảm giác khó chịu hơn nữa. Linh hồn
    phất phơ ở phía trên cái thể xác rất xa, cũng ví như một quả bong
    bóng được thả lên trên không ở đầu cuối một sợi dây. Thình lình,
    một nguyên nhân nào đó, chẳng hạn như một tiếng đông mạnh,
    làm cho nó nhập vào thể xác một cách quá mau. Đương sự giật
    mình tỉnh giấc và có cái cảm giác kinh khủng như từ trên cao té
    xuống vực thẳm và vừa tỉnh dậy kịp thời.
    Sự chu du trên cõi Trung giới một cách hoàn toàn làm chủ
    tình hình và hoàn toàn ý thức mọi việc xảy ra, là một khả năng
    của hầu hết tất cả mọi người. Người ta chỉ cần có một sự luyện tập
    thích nghi, nhưng trong những giai đoạn đầu tiên, họ cần phải
    luyện tập ở một nơi vắng vẻ để không sợ bị ai quấy rầy. Cần nói rõ
    là trừ phi có sự chỉ dẫn của một vị đạo sư lão luyện, người ta có thể
    bị hoang mang, kinh ngạc. Trên thực tế, sự tập luyện này không
    nguy hiểm, nhưng không phải là không có sự va chạm hay xúc
    động mạnh, nếu thể vía rời khỏi hay nhập vào thể xác không đúng
    lúc. Những người yếu tim không nên tập luyện phương pháp này,
    bởi vì nếu có người nào đột nhiên bước vào phòng khi họ đang tập,
    thì thể vía hay sợi dây bạc của họ có thể bị náo động và điều đó
    thật vô cùng nguy hiểm. Sự va chạm đó có thể làm cho đương sự
    chết bất đắc kỳ tử và có những hậu quả rất phiền phức: Linh hồn y
    sẽ bị bắt buộc đầu thai trở lại ngay để hoàn tất kiếp sống vừa bị
    gián đoạn ở cõi trần trước khi bước qua giai đoạn tiến hóa kế tiếp...
    Người Tây Tạng tin rằng thuở xưa kia, trước thời kỳ sa đọa
    của con người, nhân loại có thể đi chu du bằng cách xuất hồn, sử
    dụng Thần Nhãn, thực hành khoa thần giao cách cảm và phép
    khinh thân. Sự sa đọa này, theo chúng tôi hiểu, là do con người đã
    lạm dụng những quyền năng thần bí, những phép thuật thần
    thông để thực hiện những mục đích ích kỷ thay vì để giúp ích cho
    sự tiến hóa chung của nhân loại. Vì sự lạm dụng đó, nên ngày nay
    nhân loại đã bị mất hết tất cả những quyền năng quý báu kể trên.
    Người Tây Tạng quả quyết rằng người ta có thể tiên đoán
    những việc có thể xảy ra trong tương lai. Khoa tiên tri là một khoa
    học, và một khoa học chính xác. Họ cũng tin ở khoa Chiêm Tinh.
    Những "Ảnh hưởng của tinh tú" chỉ là những vũ trụ tuyến do
    những bầu tinh tú phản chiếu xuống địa cầu, và chịu sự "Tô mầu"
    hoặc sự thay đổi bởi những bầu tinh tú này. Ai cũng biết rằng với
    một cái máy ảnh và ánh sáng mặt trời, người ta có thể chụp ảnh.
    Vài loại kính lọc ánh sáng, nếu đặt trước ống kính thu ảnh, có thể
    giúp cho người ta có được những tấm ảnh với hàng trăm loại màu
    sắc đặc biệt, cũng y như thế, những vũ trụ tuyến ảnh hưởng đến
    con người bằng nhiều cách khác nhau đến vô cùng tận tùy theo tác
    động của những bầu tinh tú khi phản chiếu vũ trụ tuyến xuống
    quả Địa Cầu.
    Kể từ thế kỷ thứ mười một trở về sau, tất cả những vấn đề
    chính sự quan trọng ở xứ Tây Tạng đều được quyết định bằng
    khoa Chiêm Tinh. Cuộc xâm lăng của quân đội Anh năm 1904 đã
    được tiên tri một cách chính xác. Người ta có ghi chép lời tiên tri
    này bằng chữ Tây Tạng, mà bản dịch như sau:
    "Năm Con Rồng bằng Gỗ (Mộc Long). Trong nửa năm đầu
    Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ được bình yên, sau đó những kẻ xâm lăng
    hiếu chiến sẽ tiến vào lãnh thổ. Quân địch rất đông, nạn binh đao
    gây nhiều tai họa và dân chúng sẽ phải lâm chiến. Đến cuối năm,
    sẽ có sứ giả hòa bình và chiến tranh sẽ chấm dứt."
    Lời tiên tri này bắt đầu có trước năm 1850, nói về tình hình
    năm 1904, tức năm Con Rồng Gỗ. Đại tá Younghusband, tư lệnh
    quân đội Anh, có xem thấy bản văn lời tiên tri này ở thủ đô
    Lhassa.
    Nói về vấn đề tiên tri, có người đã hỏi tôi: "Tại sao tôi không
    tránh khỏi cạm bẫy và thử thách gian lao nó chờ đợi tôi, khi mà
    những điều đó đã được tiết lộ cho tôi biết trước?"
    Tôi chỉ có thể trả lời rằng: "Nếu người ta có thể tránh khỏi
    những tai nạn, đau khổ đã được tiết lộ cho ta biết trước, thì việc ấy
    chứng tỏ những lời tiên tri đó là sai!"
    Những lời tiên tri, đều căn cứ trên sự "có thể xảy ra" của một
    vài sự việc, chứ không có nghĩa là con người phải chịu một cái định
    mệnh khắt khe, bất di dịch mà y không có tự do ý chí để sửa đổi.
    Trái lại, con người có thể sử dụng ý chí của mình một phần nào.
    Thí dụ một người kia muốn đi từ Tân Đề Li đến Hoa Thịnh Đốn, lẽ
    tất nhiên y biết rõ khởi điểm và mục tiêu cuộc hành trình. Nếu y
    chịu khó thăm dò trên bản đồ, y sẽ biết được những điểm then chốt
    mà y sẽ đi ngang qua trên một lộ trình ngắn và tiện lợi nhất. Tuy
    rằng y cũng có thể dùng một lộ trình khác, nhưng điều này không
    phải là sáng suốt khôn ngoan, vì nó sẽ làm mất nhiều thời giờ và
    tổn phí tiền bạc.
    Cũng y như thế, trong trường hợp một chuyến từ Paris đến
    Marseille chẳng hạn, một người tài xế khôn ngoan sẽ thăm dò trên
    bản đồ và noi theo một lộ trình đã vạch sẵn bởi một tổ chức du
    lịch. Như vậy, y sẽ có thể tránh khỏi những con đường gồ ghề lồi
    lõm; hoặc nếu y bắt buộc phải theo những con đường này và không
    thể làm sao hơn, thì y sẽ biết trước để giảm bớt tốc lực và để tránh
    khỏi tai nạn. Khoa tiên tri cũng có tác dụng giống như vậy.
    Tuy nhiên, noi theo những con đường êm ái, dễ dàng, không
    phải luôn luôn là một điều tốt. Là một Phật tử, tôi tin ở định luật
    Luân Hồi và tôi tin rằng người ta sinh ra ở cõi trần là để "Học hỏi
    kinh nghiệm”. Cuộc đời trần gian có thể là đắng cay, đau khổ,
    nhưng những bài học mà chúng ta phải học hỏi, kinh nghiệm chỉ
    có một mục đích duy nhất là trau rèn và thử thách chúng ta để cho
    ta trở nên tinh luyện, khôn ngoan, và minh triết hơn.
    Nhờ những lời tiên tri mà tôi được biết trước cuộc đời tôi, đó
    đã là nhiều lắm. Nhưng vẫn còn nhiều điều bí hiểm, thí dụ như
    những lời tiên tri về xứ Tây Tạng: Tại sao xứ ấy lại bị nạn ngoại
    xâm? Một xứ êm đềm, yên tĩnh, chỉ có sự ước mong duy nhất là
    phát triển trên địa hạt tâm linh, tại sao lại phải chịu nạn ấy? Tại
    sao những nước khác lại thèm muốn chiếm đoạt lãnh thổ đất đai
    của chúng tôi, và đặt dân tộc xứ này dưới cái ách nô lệ? Ước vọng
    duy nhất của người Tây Tạng là được sống trong hòa bình và tự
    do. Tuy vậy, người ta lại trông cậy nơi tôi để đi sang nước Trung
    Hoa, là một nước sẽ xâm lăng xứ Tây Tạng trong tương lai, để
    chữa trị và săn sóc thương bệnh binh trong một cuộc chiến tranh
    còn chưa bắt đầu!
    Dưới đây là một vài biến cố quan trong trong lịch sử xứ Tây
    Tạng trong số những biến cố quan trọng khác đã được tiên tri một
    cách chính xác: Năm 1910, cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa;
    năm 1911, cuộc Cách Mạnh Trung Hoa và Chính phủ Trung Hoa
    Dân Quốc thành lập; cuối năm 1911, quân đội Trung Hoa bị đánh
    bật ra khỏi Tây Tạng; năm 1914, cuộc Thế Chiến Thứ Nhất; 1933,
    đức Đạt Lai Lạt Ma từ trần; năm 1935; đức Đạt Lai Lạt Ma tái
    sinh trở lại; năm 1950; quân Trung Cộng xâm xứ Tây Tạng. Một
    nhà ngoại giao Anh là Sir Charless Bell đã thấy tất cả những lời
    tiên tri này ở Lhassa.
    Tất cả nghị lực trẻ trung của tôi đều hướng về một mục tiêu
    duy nhất: Làm sao thi đậu một cách vẻ vang vào kỳ thi sắp tới. Vì
    ngày lễ sinh nhật mười hai tuổi của tôi đã sắp đến, nên tôi học bớt
    lại từ từ. Tôi đã trải qua những năm học ráo riết về các môn
    Chiêm Tinh, Y Khoa, Giáo Lý, Sinh Ngữ Tây Tạng và Trung Hoa,
    và Toán Pháp.
    Ngày thi đã đến. Đúng sáu giờ sáng, tôi đến phòng thi với độ
    mười lăm thí sinh khác. Mỗi thí sinh được đưa vào một phòng nhỏ
    hẹp, đặt dưới sự canh gác thường xuyên của các sư sãi "Cảnh binh"
    đi tuần ở ngoài hành lang. Mỗi ngày chúng tôi phải làm bài luận
    hoặc giải đáp các câu hỏi về một trong sáu môn học kể trên. Trong
    sáu ngày liên tiếp, chúng tôi bắt đầu làm bài từ sáng sớm cho đến
    chiều, một vị sư sãi đem cho chúng tôi trà pha bơ và tsampa mỗi
    ngày ba lần. Phần thi các bài viết chấm dứt vào chiều ngày thứ
    sáu, kế đó chúng tôi được nghỉ vài ngày. Ba ngày sau, những bài
    viết đã được chấm xong, mỗi thí sinh phải ra trước hội đồng giám
    khảo để trả lời những câu về những điểm yếu kém của họ. Phần
    thi sát hạch chiếm trọn hết một ngày. Ngày hôm sau, tất cả mười
    sáu thí sinh tề tựu lại vũ đường để biểu diễn môn quyền thuật.
    Mỗi thí sinh phải đấu võ với ba thí sinh khác. Những thí sinh yếu
    kém nhất sẽ bị loại rất mau, rồi đến lượt những thiếu niên khác,
    và sau cùng chỉ còn lại một mình tôi thủ đài. Sự thành công này là
    nhờ sự huấn luyện võ nghệ dưới sự chỉ dẫn của võ sư Tzu, mà hồi
    nhỏ tôi vẫn cho là bất công và bạo tàn. Ít nhất tôi đã được chấm
    hạng nhất về môn quyền thuật. Qua ngày hôm sau, chúng tôi được
    nghỉ để lấy lại sức, và ngày kế đó mới là ngày tuyên bố kết quả.
    Tôi và bốn thí sinh khác được chấm đậu: Chúng tôi đã trở nên
    những giáo sĩ kiêm y sĩ. Minh Gia Đại Đức, mà tôi không gặp
    trong suốt mùa thi cử, cho gọi tôi lại. Người lộ vẻ vui mừng trên
    nét mặt, và nói với tôi khi tôi đến trình diện trước mặt người:
    - Lâm Bá, khá khen cho con vì con đã đậu đầu. Vị Sử Trưởng
    đã gởi một phúc trình đặc biệt cho đấng Thậm Thâm. Người muốn
    đề nghị với Ngài phong cho con chức Lạt Ma ngay lập tức, nhưng
    ta đã chống lại việc ấy.
    Thấy tôi hơi có vẻ bất mãn, Sư Phụ tôi nói thêm:
    - Tốt hơn con hãy cố gắng học hỏi thêm và đạt tới quả vị ấy
    bằng khả năng của chính mình. Nếu con lãnh tước vị Lạt Ma ngay
    bây giờ, con sẽ bỏ lãng sự học và sau này con sẽ thấy rằng sự học
    của con có một tầm quan trọng rất lớn. Tuy nhiên, ta cho phép con
    ở căn phòng kế bên, vì con chắc chắn sẽ thi đậu kỳ thi tuyển các vị
    Lạt Ma khi thời giờ sẽ đến.
    Quyết định của Sư Phụ thật rất hữu lý. Dầu sao, tôi chỉ
    mong mỏi được vâng lời người một cách tuyệt đối. Tôi rất cảm động
    mà thấy rằng sự thành công của tôi cũng là sự thành công của
    người và Sư Phụ lấy làm vô cùng hân hạnh mà làm thầy của một
    đứa trẻ đậu đầu trên các môn khảo thí.
    Vài ngày sau đó, một thư tín viên cưỡi ngựa phi nước đại
    đem cho tôi một thông điệp của đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài gởi lời
    khen tặng tôi về việc tôi vừa thi đậu và ra chỉ thị rằng kể từ nay
    tôi được đối xử như một Lạt Ma. Tôi sẽ được mặc áo như các vị Lạt
    Ma mà thụ hưởng mọi quyền hạn và đặc ân dành cho chức vị ấy.
    Ngài cũng đồng ý với Sư Phụ tôi, để cho tôi khảo thí vào năm mười
    sáu tuổi, vì theo lời Ngài viết trong thơ: "Như vậy con sẽ học hỏi
    thêm những đề tài mà có lẽ con sẽ bỏ dở nếu con được tấn phong
    ngay bây giờ, và nhờ đó con sẽ mở mang những kiến thức của con
    cho thêm sâu rông."
    Thế là tôi đã trở nên một vị Lạt Ma. Tôi thuộc về thành phần
    ưu tú, thành phần của những bậc "Thượng Nhân." Những điều
    này cũng có những sự bất lợi: Trước kia, tôi phải giữ ba mươi hai
    giới luật của Dòng Tu Sĩ, điều mà tôi vẫn coi như là một con số
    đáng e ngại. Khi đã trở nên một vị Lạt Ma, tôi phát hiện một cách
    kinh khủng rằng số giới của cấp đẳng này lên tới hai trăm năm
    mươi ba. Và ở tu viện Chakpori, một vị Lạt Ma chân chính phải
    giữ hết tất cả bấy nhiêu giới luật đó, không bỏ sót một giới luật
    nào?
    Còn sự làm việc? Chúng tôi phải làm việc nhiều nhưng
    chúng tôi cũng không thiếu những sự vui về tinh thần và những
    cuộc chơi tiêu khiển. Thật là một niềm hạnh phúc rất lớn mà được
    sống gần những người như Minh Gia Đại Đức, mà tư tưởng duy
    nhất trong đời là gieo sự Bằng An và phụng sự nhân loại. Thật
    cũng là một phần thưởng tinh thần mà được nhìn thấy trước mắt
    cái phong cảnh êm đềm, với một thung lũng xanh tươi, cây cối xầm
    uất; với những con sông rạch màu nước xanh dương uốn khúc
    quanh co theo những dãy núi đồi ngoạn mục; với những ngọn tháp
    vàng chiếu lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời, những tu viện cổ
    kính bám chặt trên các sườn núi cheo leo hiểm trở, và chiêm
    ngưỡng với một lòng tôn kính những mái bầu bằng vàng của điện
    Potala ở gần bên và những nóc nhà sặc sỡ dọc theo bờ sông Jo
    Kang ở xa hơn về phía đông. Tình đồng môn của các vị Lạt Ma
    trong tu viện, lòng ưu ái của các sư sãi, mùi hương trầm quen
    thuộc phưởng phất trong các đền thờ, tất cả những thứ đó là cái
    bối cảnh hằng ngày của cuộc đời tu sĩ, và đó cũng là một cuộc đời
    đáng sống. Còn những khó khăn, chướng ngại thì cũng có rất
    nhiều, nhưng điều đó không quan trọng lắm. Ở trong mọi tập thể
    cộng đồng, luôn luôn vẫn có những phần tử không thông cảm,
    những kẻ đố kỵ ganh ghét. Ở tu viện Chakpori, những kẻ ấy thật
    tình chỉ là một thiểu số.
    Kể từ đó, các vị Lạt Ma và sư sãi trong tu viện đều đối xử với
    tôi một cách lễ độ, cung kính. "Cung Kính" là bởi vì tôi là học trò
    của Minh Gia Đại Đức, một nhân vật trọng yếu được toàn thể mọi
    người đều yêu mến, bởi vì tôi được nhìn nhận như một vị "Hóa
    Thân."
    Đối với quý vị độc giả muốn biết bằng cách nào người Tây
    Tạng có thể nhận ra một vị Hóa Thân, tôi xin trình bày vài điểm
    sơ lược dưới đây:
    Cách cư xử khác thường của một đứa trẻ nhỏ có thể làm cho
    cha mẹ nó nghĩ rằng nó có khả năng cao hơn mức trung bình hay
    những kỷ niệm đặc biệt nào đó mà người ta không thể giải thích
    được một cách hợp lý. Trong trường hợp đó, cha mẹ nó đến trình
    với vị Sư Trưởng của tu viện ở gần nhất, vị này mới chỉ định một
    ủy ban có nhiệm vụ đến xem xét đứa trẻ. Trước hết, ủy ban này
    lấy một lá số Chiêm Tinh hay Tử Vi cho đứa trẻ, sau đó mới xem
    tướng mạo và tìm ấn chứng trên khắp thân hình nó. Thí dụ như
    đứa trẻ có những chỉ tay đặt biệt trên hai bàn tay, hoặc những ấn
    chứng trên bả vai hay chân. Nếu đứa trẻ có những ấn chứng đó,
    người ta tìm cách truy ra tiền kiếp nó. Có thể rằng các vị Lạt Ma
    sẽ nhìn ra được nó, như trong trường hợp của tôi, và khi đó người
    ta mới đặt nó trong một cuộc thử thách xem nó có nhìn ra được
    chăng những đồ vật dụng riêng của nó hồi kiếp trước. Cuộc thử
    thách này được thực hiện khi đứa trẻ mới lên ba tuổi. Người ta
    nghĩ rằng với tuổi đó, còn quá non dại để có thể bị ảnh hưởng bởi
    những gì cha mẹ nó có thể nói cho nó biết. Nếu thử vào lúc nó còn
    trẻ hơn nữa thì lại càng hay. Cha mẹ đứa trẻ không được dự vào
    cuộc thử thách, mà nó phải chọn lựa chín món đồ vật trong số ba
    chục món khác. Chỉ chọn sai hai món cũng bị loại, nếu đứa trẻ
    chọn đúng không sai món nào, thì nó được nhìn nhận như một vị
    Hóa Thân, được nuôi dưỡng và giáo dục một cách đặc biệt. Khi nó
    lên bảy tuổi, người ta nói cho nó biết những lời tiên tri về cuộc đời
    tương lai của nó. Người ta cho rằng với tuổi đó, nó hoàn toàn có thể
    hiểu được ý nghĩa rõ ràng hay ẩn giấu của những lời tiên tri đó.
    Với kinh nghiệm riêng của tôi, tôi có thể quả quyết đúng y như
    vậy.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  12. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    Nhân dịp ngày lễ Logsar, tức ngày lễ đầu năm của Tây Tạng,
    nhà nhà đều quét dọn, lau chùi sạch bóng và trang hoàng lịch sự.
    Ngày rằm tháng riêng, đức Đạt Lai Lạt Ma xuất hành đi lễ bái ở
    ngôi đền Jo Kang. Khi cuộc lễ chấm dứt, ngài bắt đầu đi diễn hành
    một vòng lớn trên con đường Barkhor (tức con đường đi vòng
    quanh ngôi đền Jo Kang và dinh Quốc Hội), đi ngang qua trước
    chợ và đến khu thương mại. Tại đây là nơi cuộc diễn hành kết
    thúc, sự trang nghiêm, trịnh trọng sẽ nhường chỗ cho sự vui đùa,
    hưởng lạc. Khi tan cuộc lễ bái ở các đền thờ, và mọi người đã thi
    hành xong bổn phận đối với các đấng Thần minh, thì giờ phút ăn
    chơi, tiêu khiển đã diểm. Trên những đài từ mười đến mười lăm
    thước bề cao, người ta đặt những mô hình nổi khổng lồ đúc bằng
    bơ có tô màu, để triển lãm những cảnh tượng huyền thoại rút
    trong các kinh thánh. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng chân lại để
    chiêm ngưỡng trước mỗi mỹ phẩm trình bày và ban giải thưởng
    hàng năm cho những tác phẩm khéo nhất. Những giải thưởng này
    sẽ được chuyển giao cho các tu viện đã triển lãm những mỹ phẩm
    ưu tú. Tại tu viện Chakpori, chúng tôi không thích chơi môn giải
    trí này, mà chúng tôi cho là ngây ngô và phiền phức, giống như
    những cuộc đua ngựa không người cưỡi trên vùng đồng bằng
    Lhassa. Cuộc diễn hành những pho tượng khổng lồ của các nhân
    vật Thần Thoại làm cho chúng tôi thích thú hơn. Những pho tượng
    này gồm một cái sườn gỗ nhẹ bọc vải ở ngoài làm cái thân mình,
    bên trong ruột trống rỗng, có gắn một cái đầu rất lớn làm theo một
    kiểu rất tự nhiên. Bên trong đầu pho tượng, ở chỗ ngang cặp mắt,
    có gắn những ngọc đèn bơ; ánh đèn rung rinh lập lòe làm cho cặp
    mắt pho tượng dường như đảo liếc và linh động. Những sư sãi cao
    lớn lực lượng, chân đi trên hai cây cà khêu bề cao ba thước, chui
    vào bên trong các pho tượng, và bắt đầu cuộc diễn hành như
    những người khổng lồ. Đôi khi họ là nạn nhân của những thứ tai
    nạn dị kỳ. Có khi một trong hai cây cà khêu bị sụp ổ gà trên đường
    lộ, trong khi đó, những kẻ bất hạnh này đành phải đánh đu giữ
    thăng bằng trên một chân; có khi cả hai cây cà khêu đều trượt tới
    vì đường trơn trợt. Nhưng khi những ngọn đèn bơ bị rung chuyển
    quá mạnh và lật đổ, ngọn lửa bắt cháy thiêu pho tượng, thì đó mới
    là một thảm kịch thực sự!
    Vài năm về sau, trong một cuộc rước lễ đầu năm, tôi được đề
    cử mang pho tượng đức Phật, bề cao đo tới tám thước tây. Trong
    khi tôi đi cà khêu bên trong tượng Phật, gió thổi vạt áo dài quyện
    vào chân tôi, và những con mọt bay vần vũ chung quanh mình tôi
    vì bộ áo cà sa của tượng Phật vừa mới được lấy từ trong kho ra.
    Khi tôi vừa bước đi vài bước khập khễnh trên hai cây cà khêu, bụi
    trong áo cà sa bay ra làm cho tôi hắt hơi liên hồi không dứt, mà
    mỗi lần hắt hơi đều hăm doạ sự thăng bằng của tôi một cách rất
    nguy hiểm. Mỗi lần hắt hơi làm thân hình tôi rung chuyển, lại làm
    cho tình trạng bất ổn của tôi càng trầm trọng thêm vì những ngọn
    đèn bơ bị lung lay làm đổ tràn những giọt bơ nóng chảy xuống cái
    sọ dừa cạo trọc của tôi, và... Vì cạo trọc nên nó càng "Nhậy cảm"
    hơn. Khi trời nóng bức một cách kinh khủng. Tôi bị ngộp thở muốn
    đứng tim vì hít phải hàng mùi lụa cũ, mốc meo của chiếc áo cà sa
    bị cất giữ trong kho đã lâu ngày, tôi bị vây khốn bởi những đám
    mối mọt bay vần vũ như điên chung quanh tôi, và tôi bị phỏng rát
    da đầu vì bơ nóng của các ngọn đèn; tình của tôi lúc ấy vô cùng bi
    đát! Cái lỗ nhỏ khoét ở giữa thân mình pho tượng để nhìn ra ngoài
    lại không ngang với cặp mắt tôi. Tôi không thể nào điều chỉnh lại
    cái chi tiết quan trọng đó, mà không buông rớt hai cây cà khêu!
    Thành thử, tôi chỉ nhìn thấy cái lưng của nhân vật đi phía trước
    tôi, và xét về cách đi đứng xiêu vẹo và run rẩy của y, thì đủ biết
    rằng kẻ bất hạnh này cũng không thoải mái sung sướng gì hơn tôi
    lúc ấy! Nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma đang nhìn chúng tôi, và chúng
    tôi phải tiếp tục diễn hành trong tìng trạng đó, vừa bị ngộp thở
    vừa bị ngốn hết phân nửa cái sọ dừa! Chắc hẳn là tôi đã sút mất
    vài ký lô trong ngày hôm đó!
    Chiều hôm ấy, một vị quan chức cao cấp khen tặng tôi:
    - Lâm Bá, con đã trình diễn rất khéo. Con có thể trở nên một
    tài tử thiện nghệ!
    Tôi phải giữ kín không thổ lộ cho ông ta biết rằng những cử
    chỉ mà tôi đã làm cho ông ta thích thú, thật ra là hoàn toàn ngoài
    ý muốn của tôi, và kể từ đó, tôi không bao giờ đi diễu hành trong
    pho tượng nữa!
    Năm sáu tháng sau cuộc "Trình diễn" đó, một cơn giông bão
    thình lình nổi dậy, cuốn hết những đám mây bụi cát và đá sỏi. Lúc
    ấy tôi cùng với một thiếu niên sơ cơ đang ngồi trên nóc tu viện và
    sắp đặt lại những viên ngói để sửa chữa chỗ bị dột. Cơn giông làm
    tôi bị hất rơi xuống một nóc nhà khác độ sáu bảy thước thấp hơn,
    và từ đó cơn gió thổi mạnh, cuốn tôi đi mãi, làm cho tôi lại rơi một
    lần nữa xuống đất gần đường Lingkhor từ một bề cao độ chừng
    một trăm thước. Ở phía dưới là một vùng ao đầm, ẩm thấp, tôi rơi
    xuống một vũng nước sâu, nước cao ngập khỏi đầu. Tai nạn này
    làm cho tôi xúc động và mất bình tĩnh. Khi tôi cố gắng ngoi lên
    khỏi vũng lầy lội, tôi cảm thấy đau nhói ở khuỷu tay và ở bả vai
    bên trái. Tôi bò trên hai đầu gối, rồi đứng dậy và lết đi một cách
    khó nhọc trên đường lộ dưới ánh mặt trời nóng gắt. Bị té đau,
    không đủ sáng suốt để suy nghĩ gì nữa, tôi chỉ có một ý nghĩ: Trở
    về tu viện càng sớm càng hay. Như một người mù, tôi bước tới một
    cách chập choạng, mỗi bước đi lại vấp ngã; dọc đường tôi gặp
    những sư sãi vừa chạy tới để xem kết quả tai nạn đã xảy ra cho tôi
    và đứa trẻ kia. Nhưng đứa trẻ này đã chết vì té xuống những chỗ
    có tảng đá gồ ghề.
    Các sư sãi khiêng tôi vào phòng. Sư phụ tôi khám nghiệm
    bệnh tình của tôi và nói:
    - Ồ, tội nghiệp cho những trẻ nhỏ này! Đáng lẽ người ta
    không nên để chúng ra ngoài khi thời tiết như vầy!
    Kế đó, người nhìn tôi vào tận mắt:
    - Lâm Bá, con hỡi! Một cánh tay và một xương đòn gánh bị
    gẫy... Phải nắn xương lại tức khắc. Con sẽ đau đớn, nhưng thầy sẽ
    làm cách nào cho con chỉ đau tối thiểu mà thôi.
    Sư phụ vừa nói, và trước khi tôi ý thức được việc gì xảy ra,
    người đã nắn lại cái xương đòn gánh bị trặc và đặt lại cho đúng
    khớp. Khi Sư Phụ nắn chỗ khuỷu tay bị gẫy, tôi cảm thấy đau hơn,
    nhưng không lâu, vì người đã mau ráp cái xương bị trặc vào đúng
    khớp của nó. Ngày đó, tôi nằm yên một chỗ không cử động, qua
    ngày hôm sau, Sư Phụ đến gặp tôi và nói:
    - Con đã bớt đau và có thể tiếp tục sự học, không nên bê trễ.
    Chúng ta sẽ làm việc chung với nhau ngay trong phòng này. Cũng
    như tất cả mọi người, con cảm thấy e ngại khi phải học những đề
    tài mới... Thầy sẽ giúp con bớt e ngại đó bằng phương pháp thôi
    miên.
    Sư Phụ đóng các cửa sổ, và gian phòng đắm chìm trong bóng
    tối. Chỉ có những ngọn đèn nhỏ cháy leo lét trên bàn thờ. Sư Phụ
    bèn đặt tôi vào trạng thái giấc ngủ thôi miên.
    Tôi đã ngủ thiếp đi trong nhiều giờ. Khi tôi thức tỉnh, tôi
    nhìn thấy xuyên qua cánh cửa sổ mở, cảnh vật ban đêm hiện ra
    chập chờn trong thung lũng. Những ánh lửa của các ngọn đèn bơ
    chiếu lập lòe ở các cửa sổ trong điện Potala và ở chung quanh các
    vách tường rào: Người sư sãi có phận sự túc trực ban đêm đang đi
    canh tuần. Tôi cũng nhìn thấy ở dưới chân đồi, thành phố Lhassa
    đang vươn mình trong sự sinh hoạt ban đêm. Khi đó, Sư Phụ tôi
    bước vào và nói:
    - À, con đã thức tỉnh! Chúng ta nghĩ rằng có lẽ con đã nhận
    thấy cõi Trung giới vui đẹp đến nỗi con muốn kéo dài cuộc ngao du
    trên đó. Thầy chắc rằng bây giờ con đã đói, phải chăng?
    Đến đây, tôi mới sực nghĩ ra là thật tình tôi đang đói bụng.
    Người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn, và trong khi tôi ngồi ăn uống
    lấy sức, Sư Phụ nói với tôi:
    - Trong trường hợp thông thường, thì có lẽ con đã chết vì tai
    nạn vừa qua, nhưng khoa chiêm tinh đã nói rằng cuộc đời con chỉ
    kết thúc trong nhiều năm sau ở một nơi xa lạ, tận bên xứ của
    những người mọi da đỏ (Mỹ Quốc). Trong giờ phút này, các sư sãi
    đang cầu siêu cho linh hồn đứa trẻ thiếu nhi vừa từ giã chúng ta.
    Nó đã chết ngay trong lúc tai nạn.
    Những người bước qua cõi giới bên kia cửa tử làm cho tôi
    mong ước số phận của họ. Kinh nghiệm của tôi đã giúp cho tôi
    nhận định rằng những cuộc ngao du trên cõi Trung giới thật rất là
    thú vị. Nhưng tôi nhớ lại rằng tuy không ai thích cái trường học ở
    thế gian, nhưng người ta vẫn phải sống để học hỏi... Cuộc đời trên
    thế gian là gì, nếu không phải là một trường học? Và đó là một
    trường học rất gian khổ! Tôi thầm nghĩ: "Trong trường học này, tôi
    đã bị gẫy mất hai cái xương, nhưng tôi vẫn phải tiếp tục học nữa!"
    Trong hai tuần lễ, sự học của tôi càng được thúc đẩy ráo riết
    hơn lúc bình thường. Người ta nói rằng đó là để cho tôi quên đi,
    đừng nghĩ đến cái xương gẫy của tôi. Sau hai tuần lễ đó, những
    chỗ trặt xương đã được hàn gắn lại như cũ, nhưng tôi cảm thấy
    khớp xương cứng đơ, và tôi vẫn còn thấy đau. Một buổi sáng, vừa
    bước vào phòng, tôi thấy Minh Gia Đại Đức đang đọc một bức thơ.
    Sư Phụ ngước mắt nhìn tôi và nói:
    - Lâm Bá, chúng ta có một gói dược thảo để gởi tặng cho thân
    mẫu của con. Con sẽ cầm về cho thân mẫu vào sáng ngày mai, và
    con có thể ở lại nhà trọn ngày.
    Tôi đáp:
    - Con chắc rằng cha con không muốn gặp con. Cha con không
    nhìn con ngày nọ, khi người đi ngang qua trước mặt con trên cầu
    thang của điện Potala.
    - Đó là một việc rất thông thường. Cha con biết con vừa có cái
    hân hạnh được đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp kiến. Bởi vậy, người
    không thể nói chuyện với con trong khi vắng mặt Thầy, vì chính
    đấng Khôn Lường đã đích thân phú thác gửi gấm con cho Thầy
    vậy.
    Sư Phụ nhìn tôi với cặp mắt tinh anh và vừa cười vừa nói:
    - Dù sao, cha con sẽ không có ở nhà vào ngày mai. Người đã
    đi Gyangtsé trong vài ngày.
    Qua ngày hôm sau, Sư Phụ chăm chú nhìn tôi từ đầu đến
    chân và nói:
    - Con có vẻ hơi xanh xao, nhưng con ăn mặc sạch sẽ, chỉnh
    tề, và điều đó rất quan trọng đối với một người mẹ. Đây là một
    khăn choàng cổ, con đừng quên rằng con là một vị Lạt Ma, là
    người phải tôn trọng mọi quy tắc. Trước kia, con đi bộ đến đây.
    Bây giờ, con hãy cưỡi một trong những con ngựa bạch quý nhất
    của tu viện để trở về nhà. Con hãy cưỡi con ngựa của thầy, nó
    đang cần phải vận động.
    Sư Phụ đưa cho tôi cái bao da đựng dược thảo, bọc trong một
    cái khăn choàng bằng lụa theo truyền thống để tỏ lòng cung kính.
    Tôi nhìn kỹ cái khăn choàng một cách hoài nghi, vì không nên để
    cho nó bị lấm lem trước khi đưa quà biếu. Sau cùng, tôi quyết định
    cất nó trong túi áo tràng, và chỉ rút nó ra trước khi tới nhà cha mẹ
    tôi.
    Tôi giục ngựa xuống chân đồi và noi theo con đường
    Lingkhor như thường lệ. Sau khi đi độ nửa giờ, trải qua nhiều con
    đường ở ngoại ô thành phố, tôi nhìn thấy ở đằng xa cái cổng lớn
    của nhà tôi. Khi các gia nô nhận ra tôi, họ bèn hối hả mở cổng. Tôi
    cho ngựa đi qua cổng để vào tận sân nhà với một hy vọng thầm kín
    rằng tôi sẽ không bị té rớt xuống yên ngựa. Rất may mắn, một
    người giữ ngựa chạy đến nắm lấy dây cương trong khi tôi nhảy
    xuống đất.
    Người quản gia chạy ra tiếp đón tôi: Chúng tôi bèn trao đổi
    khăn choàng một cách lễ nghi trịnh trọng. Y nói: "Thưa ngài Lạt
    Ma y sĩ và đại gia công tử, xin công tử hãy ban ân huệ cho gia đình
    và toàn thể nhân viên cư ngụ trong nhà này."
    Tôi đáp:
    - Cầu xin Phật Tổ Như Lai ban ân huệ và ban cho ông sức
    khỏe trường cửu.
    - Thưa đại gia công tử, lệnh bà có truyền lệnh cho tôi đưa
    công tử vào.
    Trong khi chúng tôi bước vào, người quản gia đi trước dẫn
    đường (làm như tôi không biết đường đi một mình), tôi rút cái
    khăn choàng ra và phủ ngoài cái bao da một cách cẩn thận. Chúng
    tôi bước lên lầu trên để vào phòng khách của mẹ tôi. Tôi thầm
    nghĩ: "Người ta không bao giờ để cho tôi đến đây khi tôi còn nhỏ."
    Nhưng ý ngĩ đó liền nhường chỗ cho ý muốn mãnh liệt là chạy vắt
    giò lên cổ để thoát thân ngay lập tức khi tôi thấy rằng phòng
    khách của mẹ tôi đầy những khách... đàn bà!
    Trong khi tôi còn đang lúng túng, tiến thoái lưỡng nan, thì
    mẹ tôi đã bước đến gần và tiếp đón tôi trước:
    - Đại đức Lạt Ma, hỡi con, đấng Khôn Lường đã ban danh dự
    cho con rất nhiều. Các bà bạn của mẹ hôm nay đến đây để được
    nghe chính miệng con kể lại cái vinh dự ấy.
    Tôi đáp:
    - Thưa mẫu thân, những quy luật trong dòng tu ngăn cấm
    con không được tiết lộ những gì ngài đã nói với con. Minh Gia Đại
    Đức có truyền cho đem kính dâng mẹ bao dược thảo này cùng với
    một khăn choàng bằng lụa.
    - Hỡi con yêu quí, các bà mệnh phụ này đến từ những vùng
    xa xôi để được nghe chuyện trong cung điện của đấng Thậm Thâm
    và nghe nói chuyện về ngài. Phải chăng ngài vẫn thường xem
    những tạp chí Ấn Độ? Và phải chăng ngài thường sử dụng một thứ
    kính có thể xuyên qua vách tường nhà?
    Tôi đáp:
    - Thưa mẫu thân, con chỉ là một Lạt Ma sĩ nghèo, vừa mới
    xuống núi, và thật là không xứng đáng để nói chuyện về đức
    Chưởng Giáo của dòng tu chúng con. Con chỉ là một kẻ chuyển
    giao thư tín mà thôi.
    Lúc ấy, một thiếu phụ bước đến gần tôi và nói:
    - Đại Đức Lạt Ma không nhận ra tôi sao? Tôi là Yaso đây!
    Quả thật tôi không nhận ra chị tôi, vì chị tôi đã trở nên một
    thiếu nữ dậy thì, nở nang trọn vẹn và... hấp dẫn. Tôi cảm thấy e dè
    sợ hãi. Tất cả là tám hay chín vị phụ nữ có mặt tại đó. Thật là quá
    nhiều đối với tôi. Những người nam phái thì tôi đã biết cách xử
    thế, còn đối với họn còn nữ giới... Họ nhìn tôi với những cặp mắt tò
    mò, dường như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Tôi chỉ còn có một giải
    pháp: Thoát thân. Tôi nói:
    - Thưa mẫu thân, con đã chuyển giao thông điệp và quà tặng
    của Sư Phụ con xong rồi, bây giờ con phải trở về với bổn phận
    hằng ngày. Con hãy còn đau và con có nhiều việc phải làm.
    Nói xong, tôi chào từ giã tất cả các quan khách, và quay lưng
    đi mau với một tốc lực tối đa mà sự lễ nghi cho phép. Vì quản gia
    đã trở lại văn phòng của người, và một người giữ ngựa dắt ngựa
    đến cho tôi. Tôi nói:
    - Anh hãy cẩn thận khi đỡ tôi lên yên, vì tôi mới bị gãy xương
    ở tay và vai, và tôi không thể lên yên ngựa một mình.
    Người giữ cửa mở cổng để tôi đi ra, đúng vào lúc mẹ tôi xuất
    hiện trên bao lơn và nhìn theo sau lưng tôi.
    Khi tôi trở về tu viện, tôi đến gặp Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ
    nhìn tôi vào tận mắt và hỏi:
    - Lâm Bá, con có vẻ ngơ ngác như kẻ mất hồn. Tại sao?
    Tôi đáp:
    - Bạch Sư Phụ, ở nhà, con gặp một toán phụ nữ muốn nghe
    chuyện đấng Thậm Thâm và muốn biết những gì ngài đã nói với
    con. Con đáp rằng trong dòng tu của chúng ta nghiêm cấm con tiết
    lộ cho họ nghe bất cứ chuyện gì. Và con đã chạy thoát thân... Sư
    Phụ hãy tưởng tượng xem, tất cả các bà mệnh phụ ấy đều trố mắt
    nhìn con như cọp rình mồi!
    Sư Phụ tôi phát tiếng cười vang; tôi càng ngạc nhiên về sự
    vui vẻ của Sư Phụ thì người lại càng cười giòn giã hơn nữa. Người
    nói:
    - Đấng Khôn Lường muốn biết con có muốn ở lại tu viện suốt
    đời hay con còn nghĩ đến việc trở về với gia đình.
    Đời sống tu viện đã làm đảo lộn mọi quan niệm của chúng tôi
    về đời sống xã hội; hồi đó tôi cho rằng phụ nữ là những nhân vật lạ
    lùng mà cho đến bây giờ tôi vẫn thấy như vậy. Tôi đáp:
    - Gia đình con là ở đây. Con không muốn trở về nhà. Tất cả
    những bà mệnh phụ ấy với những bộ mặt sơn phết và tóc bôi mỡ
    trơn bóng làm cho con phát ngấy... Và họ nhìn con với một vẻ mặt
    lạ lùng, chẳng khác nào những người đồ tể ở làng Sho trước một
    con trừu trúng giải nhất trong một cuộc triển lãm nông nghiệp! Họ
    thốt ra những tiến kêu chát chúa và những màu sắc trên thể vía
    của họ thật là... Dễ sợ! Bạch Sư Phụ, xin Sư Phụ đừng bảo con trở
    về nhà nữa!
    Nhưng một tuần lễ sau đó, người ta lại nói cho tôi biết rằng
    đức Đạt Lai Lạt Ma rất chú ý đến tôi, và đã quyết định cho tôi trở
    về nhà một hai ngày mỗi khi mẹ tôi tổ chức những cuộc tiếp tân
    trong gia đình.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  13. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    Một buổi sáng, tôi đang lúc rảnh rang, Minh Gia Đại Đức
    đến tìm tôi và nói:
    - Chúng ta hãy đi chơi một vòng. Thầy có một việc để cho con
    làm.
    Tôi rất vui mừng với ý nghĩ được đi dạo chơi với Sư Phụ.
    Chúng tôi xuống dưới chân đồi, và sau khi đi vòng quanh nhiều
    đường phố ở thủ đô Lhassa, chúng tôi đi ngang qua trụ sở của Phái
    Bộ Ngoại Giao Trung Hoa. Sư Phụ tôi vừa đi vừa nói:
    - Một phái đoàn Trung Hoa vừa mới đến, như thầy vừa nói
    chuyện với con. Chúng ta hãy nhìn qua mỗi nhân viên phái đoàn
    để xem họ là người như thế nào.
    Ấn tượng của tôi đầu tiên rõ ràng là không thuận lợi. Ở bên
    trong trụ sở của phái bộ, các nhân viên Trung Hoa đi bách bộ qua
    lại trong các phòng, vẻ mặt tự đắc, hoặc đang lui cui mở các rương
    trắp, và các thùng đồ đạc. Tôi nhận thấy họ có một số khí giới khá
    nhiều, đủ để võ trang một đạo binh nhỏ. Vóc người nhỏ thó của tôi
    cho phép tôi mở một cuộc "Do thám" dễ dàng hơn một người lớn.
    Thật vậy, tôi đã lén bò lại gần một cửa sổ mở, xuyên qua đó tôi có
    thể rình xem họ cho đến khi một người trong bọn họ ngẩng đầu
    lên. Khi người ấy nhìn thấy tôi, y nổi giận thốt lên một câu nguyền
    rủa bằng tiếng...Trung Hoa, có tính cách xúc phạm đến tổ tiên của
    tôi. Y nhìn quanh tìm một vật gì để ném tôi, nhưng tôi rút lui
    trước khi y có thể hạ thủ.
    Trên đường về, tôi nói với Minh Gia Đại Đức:
    - Sư Phụ biết không, họ có những vầng hào quang màu đỏ!
    Và họ có một lối vung dao găm rất dễ sợ!
    Sư Phụ tôi có vẻ trầm tư trên suốt con đường về. Sau buổi ăn
    chiều, người nói với tôi:
    - Thầy đã suy nghĩ nhiều về phái đoàn Trung Hoa, và thầy
    sẽ đề nghị với đấng Khôn Lường (một trong những danh từ sùng
    kính để chỉ đức Đạt Lai Lạt Ma) hãy sử dụng năng khiếu Thần
    Nhãn của con. Trong trường hợp đó, con có thể quan sát họ xuyên
    qua một bức bình phong được chăng?
    Tôi đáp:
    - Nếu Sư Phụ nghĩ rằng con có thể, thì chắc chắn con sẽ làm
    được.
    Tôi không gặp Sư Phụ tôi suốt cả ngày hôm sau; qua ngày kế
    đó, người để tôi làm việc suốt buổi sáng và sau buổi ăn trưa, người
    nói với tôi:
    - Lâm Bá, trưa nay chúng ta sẽ đi chơi một vòng. Đây là một
    cái khăn choàng tốt hảo hạng. Không phải cần có thần thông mới
    biết rằng chúng ta sẽ đi đâu. Con có mười phút để chuẩn bị, rồi
    sau đó hãy đến gặp thầy. Thầy cần phải nói trước với vị Sử
    Trưởng.
    Một lần nữa, chúng tôi lại noi theo con đường cheo leo đi
    xuống chân núi. Một con đường tắt xuyên qua sườn núi phía tây
    nam đưa chúng tôi đến vườn Ngọc Uyển gần bên điện Potala rất
    mau chóng. Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thích khu vườn này, tại đây
    Ngài thường đến thượng ngoạn trong những giờ nhàn rỗi. Trong
    vườn Ngọc Uyển có một cái hồ sen nhân tạo rất đẹp, với hai cù lao,
    trên mỗi cù lao có dựng lên một nơi nhà mát để nghĩ hè. Đức Đạt
    Lai Lạt Ma thường đến những cù lao trên hồ sen này, tại đây Ngài
    tham thiền nhiều giờ mỗi ngày. Bên trong vườn Ngọc Uyển, có
    dinh trại của toán Ngự Lâm Quân gồm độ năm trăm người có
    phận sự bảo vệ an ninh cho Ngài. Đó là nơi tôi cùng với Sư Phụ tôi
    đến viếng lần đầu tiên trong ngày hôm đó.
    Sau khi đã đi qua những khu vườn sầm uất, chúng tôi bước
    qua một cánh cửa rất đẹp đưa vào một khoảnh vườn bên trong.
    Những thứ chim đủ loại lông cánh đủ màu sặc sỡ đang ăn dưới
    đất. Chúng không màng nhìn thầy trò tôi, nên chúng tôi cũng
    không muốn làm quấy rầy chúng. Mặt hồ phẳng lặng chiếu sáng
    như một tấm gương trong. Con đường lót đá đã được quét vôi trắng
    và chúng tôi noi theo để đi tới cái cù lao xa nhất, tại đây đấng
    Khôn Lường đang đắm chìm trong một cơn thiền định thâm sâu.
    Khi chúng tôi bước đến gần, Ngài ngước mắt lên và mỉm cười với
    chúng tôi. Chúng tôi liền quì xuống, đặt cái khăn choàng dưới
    chân Ngài và Ngài mời chúng tôi ngồi xuống trước mặt. Kế đó
    Ngài gõ chuông để ra hiệu cho một vị Lạt Ma hầu cận dâng trà,
    một thủ tục thông thường trước khi bắt đầu mọi câu chuyện.
    Trong khi chờ đợi, Ngài nói chuyện với tôi về những loài thú cầm
    của Ngài nuôi trong vườn Ngọc Uyển và hứa sẽ cho tôi xem sau
    này.
    Vị quan hầu cận dâng trà xong, vừa lui ra thì đức Đạt Lai
    Lạt Ma nhìn tôi và nói:
    - Đạo hữu Minh Gia có nói cho biết rằng con không ưa những
    hào quang của phái đoàn Trung Hoa. Người nói rằng tất cả bọn họ
    đều có mang đầy đủ khí giới. Trong các cuộc thử thách bí mật hay
    công khai trước đây, năng khiếu Thần Nhãn của con đã tỏ ra
    chính xác và không hề lầm lẫn. Vậy con nghĩ sao về những người
    ấy?
    Câu hỏi của Ngài làm cho tôi bối rối. Tôi không thích nói cho
    ai nghe trừ phi với Sư Phụ tôi, những gì tôi nhìn thấy trong hào
    quang của thiên hạ, và những màu sắc ấy có ý nghĩa gì đối với tôi.
    Thật vậy, tôi nghĩ rằng nếu một người không thể nhìn thấy và tự
    diễn đạt lấy ý nghĩa các hào quang ấy cho riêng mình thì điều đó
    có nghĩa là người ấy không có cái định mệnh được biết những gì tôi
    biết. Nhưng làm sao tôi dám nói điều ấy với vị Nguyên Thủ quốc
    gia? Nhất là một vị Nguyên Thủ không có năng khiếu Thần Nhãn?
    Tôi bèn đáp:
    - Vạn bạch Thái Tuế, con rất vụng về trong việc nhìn xem
    hào quang của người khác, và bởi đó con không đủ tư các cách
    xứng đáng để bày tỏ một ý kiến nào hết.
    Tôi không tiến thêm được bao nhiêu, vì đấng Thậm Thâm lại
    nói tiếp:
    - Con thuộc về thành phần những người bẩm sinh ra đã có
    những khả năng thiên phú. Những khả năng đó đã được phát
    triển nhờ sự luyện tập theo các pháp môn bí truyền. Con có bổn
    phận phải nói. Con đã được nuôi nấng dạy dỗ chỉ vì mục đích đó
    mà thôi. Ta nghe đây.
    - Vạn bạch Thái Tuế, những nhân viên trong phái đoàn
    Trung Hoa đều có những ý đồ rất xảo trá quỷ quyệt. Những màu
    sắc trong hào quang của họ biểu lộ một ý địng lường gạt và phản
    bội.
    Tôi không nói nhiều nữa, nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma có vẻ
    hai lòng. Ngài nói:
    - Tốt lắm, con đã lập lại đúng y như những lời con đã nói với
    đạo hữu Minh Gia. Ngày mai, con sẽ đứng núp phía sau tấm bình
    phong này và con sẽ quan sát phái đoàn Trung Hoa khi họ đến
    đây. Chúng ta cần biết rõ ý đồ của họ. Con hãy núp ngay bây giờ
    thử xem có ai nhìn thấy không?
    Tôi bèn tuân lệnh đứng núp sau bình phong, các sư sãi nô
    bộc cũng rời những con sư tử đá chận thêm ở phía ngoài để cho tôi
    được hoàn kín đáo. Người ta thử tập dượt qua một lần cuộc viếng
    thăm này, những vị Lạt Ma đóng vai trò của phái đoàn Trung
    Hoa. Họ cố gắng tìm ra chỗ tôi ẩn núp. Tôi nhìn thấy tư tưởng của
    một người trong bọn:
    - Nếu mình tìm thấy nó, mình sẽ được thăng thưởng;
    Nhưng rốt cuộc y cũng chẳng được gì, vì y nhìn về phía khác.
    Sau cùng, đấng Thậm Thâm tỏ ý hài lòng và gọi tôi. Sau vài phút
    nói chuyện, Ngài dặn chúng tôi hãy trở lại vào ngày hôm sau vì
    phái đoàn Trung Hoa sẽ tìm cách bắt buộc Ngài ký một hiệp ước.
    Với ý nghĩ đó, chúng tôi từ biệt Ngài và trở về tu viện Chakpori.
    Ngày hôm sau vào khoảng mười một giờ, chúng tôi đã có mặt
    tại vườn Ngọc Uyển. Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp đón tôi với một nụ
    cười và nói rằng tôi phải ăn uống trước đã (điều này lúc nào tôi
    cũng sẵn sàng!) trước khi vào núp phía sau tấm bình phong. Theo
    lệnh Ngài, người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn thịnh soạn, với
    những đồ thực phẩm nhập cảng từ bên Ấn Độ, mà tôi chưa được
    biết tên gọi là gì. Điều mà tôi biết, là lần đầu tiên tôi được ăn một
    bữa ăn lạ miệng và hoàn toàn khác hẳn với các món ăn cũ rích là
    trà bơ, tsampa và củ cải; sau khi đã ăn uống no lòng, tôi cảm thấy
    hăng hái hơn để có thể đương đầu với cái viễn cảnh phải ngồi yên
    bất dộng trong một thời gian. Sự ngồi yên bất đông hoàn toàn,
    điều kiện tất yếu của môn thiền định, không có gì là khó khăn đối
    với các vị Lạt Ma. Từ thủa ấu thơ, nói đúng ra là từ năm tôi lên
    bẩy, người ta đã tập cho tôi ngồi yên không cử động trong nhiều
    giờ. Để thực tập, người ta đặt một cái đèn thắp bằng bơ lên đầu tôi
    và tôi phải ngồi trong tư thế liên hoa cho đến khi chất bơ trong
    đèn đã cạn, tức là suốt mười hai giờ. Như vậy, ngồi yên không cử
    động suốt ba hay bốn tiếng đồng hồ không phải là một điều khó.
    Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng ngồi trong tư thế liên hoa đối diện
    với tôi, trên một chiếc ngai độ hai thước cao hơn mặt đất. Ngài
    ngồi yên không cử động; tôi cũng vậy. Thình lình, những tiếng kêu
    và nhiều tiếng chào bằng tiếng Trung Hoa từ đằng xa vọng đến tai
    chúng tôi, sau đó tôi nghe nói rằng y phục của phái đoàn Trung
    Hoa có nhiều chỗ độn lên rất khả nghi, và người ta đã phải lục
    soát trong mình họ để tước khí giới. Sau đó, dưới sự hướng dẫn của
    quân ngự lâm, họ được đưa vào nội cung và chừng tôi nhìn thấy họ
    noi theo con đường lót đá đi đến trước tư dinh. Một vị Lạt Ma cao
    cấp cất tiếng ngân nga: Om! Mani padme Hum, nhưng phái đoàn
    Trung Hoa, thay vì phải lập lại câu châm ngôn ấy như nghi lễ bắt
    buộc, đã đáp lễ bằng tiếng Trung Hoa:
    - A Di Đà Phật!
    Từ chỗ tôi ẩn núp, tôi nhìn thấy hào quang của họ chiếu
    sáng. Tôi quan sát những màu sắc xám lợt thỉnh thoảng lại phóng
    ra những tia màu đỏ bầm, biểu lộ những dòng tư tưởng oán ghét,
    hận thù. Hào quang của họ có những lằn và những vệt ngang màu
    rất xấu xa, chớ không có những màu sắc trong sáng và tinh khiết
    của những tư tưởng thanh cao. Những hào quang màu sắc đục
    ngầu và xấu xí của họ biểu lộ những tâm hồn đầy dục vọng vật
    chất và tội lỗi. Đó chính là những người được diễn tả rất đúng bởi
    câu sáo ngữ "Khẩu Phật, tâm xà." Tôi nhìn đức Đạt Lai Lạt Ma,
    hào quang của Ngài biểu lộ sự buồn rầu, vì Ngài đang nhớ lại cái
    thời kỳ xa xưa khi Ngài lưu vong sang sứ Trung Hoa. Tác phong
    của Ngài làm cho tôi rất cảm mến; xứ Tây Tạng chưa hề có một vị
    Quốc vương xứng đáng hơn Ngài. Ngài có một tính chất cương
    nghị, thậm chí có khi rất nóng nảy, vì có những tia đỏ xẹt ngang
    qua hào quang của Ngài, nhưng lịch sự sẽ nhắc nhở rằng Ngài là
    vị Đạt Lai Lạt Ma cao cả nhất mà Ngài đã từng quên mình trọn
    vẹn trong công việc phụng sự xứ sở. Tôi có một lòng kính yêu thật
    sự đối Ngài và trong lòng tôi Ngài chiếm được một ưu thế ngay sau
    Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ tôi.
    Cuộc hội kiến kéo dài mà không mang lại một kết quả hữu
    ích, vì những người ấy đến đây không phải với tư cách là bạn mà
    là thù. Họ có những ý nghĩ đã định sẵn, cùng những phương pháp
    để thực hiện những ý đồ của họ. Họ muốn chiếm thêm đất đai lãnh
    thổ, điều khiển nền chánh trị của Tây Tạng, và trên hết là... Vàng!
    Vàng đã từng là mục tiêu tham vọng của họ tự muôn đời, vàng có
    đến hằng bao nhiêu trăm tấn ở Tây Tạng, ở xứ này nó được coi
    như một loại kim khí linh thiêng. Theo sự tín ngưỡng của dân bản
    xứ, đào mỏ tìm vàng tức là làm mất đi cái khí thiêng của xứ sở,
    xúc phạm đến Thần Linh, nên không ai có ý định làm việc ấy. Ở
    Tây Tạng có những sông rạch ở đó người ta có thể đãi cát lấy vàng
    do giòng nước cuốn trôi xuống từ trên núi. Trong vùng Chang
    Tang, tôi đã thấy vàng đọng lại như cát ở các bờ suối. Thứ vàng
    này đem nấu tan ra, sẽ dùng làm đồ trang trí các đền thờ, vì loại
    kim khí linh thiêng này tự nhiên là để dùng vào những mục đích
    linh thiêng. Những ngọn đèn thắp bằng bơ cũng làm toàn bằng
    vàng. Nhưng có điều là chất vàng quá mềm nên sau một thời gian
    các đồ dùng đều méo và mất hình thể một cách dễ dàng.
    Diện tích xứ Tây Tạng lớn gấp bảy lần nước Pháp. Nhiều
    vùng rộng lớn vẫn chưa được thám hiểm và tôi được biết rằng ở đó
    người ta tìm ra rất nhiều vàng, bạc và uranium. Người Tây Tạng
    không bao giờ để cho người Tây Phương tìm đến các mỏ khoáng
    chất trong xứ họ, mặc dầu có những vận động ráo riết của những
    người này, vì họ có một câu châm ngôn cổ nói rằng: "Ở đâu có
    người Tây Phương, là ở đó có chiến tranh." Trong quyển sách này,
    khi tôi nói đến những cái kèn vàng, đĩa vàng, và "Thi hài bọc
    vàng", xin độc giả đừng nên quên rằng ở Tây Tạng, vàng không
    phải là một loại kim khí hiếm có mà là loại kim khí linh thiêng.
    Xứ Tây Tạng có thể là một kho tài nguyên phong phú vô tận mở
    rộng cửa cho toàn thể thế giới nếu nhân loại chịu hợp nhất và làm
    việc trong nền hòa bình, thay vì tự tiêu diệt lấy nhau trong cái ảo
    vọng tranh giành thế lực.
    Một buổi sáng, tôi đang ngồi chép một bản kinh bút tự để
    đưa cho thợ khắc chữ, thì Minh Gia Đại Đức đến tìm tôi và nói:
    - Lâm Bá, con hãy gác lại việc ấy. Đấng Khôn Lường có cho
    gọi chúng ta đến vườn Ngọc Uyển để quan sát cái hào quang của
    một người ngoại quốc đến từ thế giới Phương Tây. Con hãy đi mau,
    vì Ngài muốn nói chuyện riêng với chúng ta trước khi tiếp khách.
    Không cần đem theo khăn choàng và không cần nghi lễ chi cả. Con
    chỉ cần sửa soạn đi gấp, thế thôi!
    Tôi nhìn Sư Phụ một giây và đáp:
    - Bạch Sư Phụ, để con vào thay áo, rồi con sẽ sẵn sàng.
    Tôi không mất nhiều thời giờ để sửa soạn y phục chỉnh tề.
    Chúng tôi bước ra khỏi tu viện và trong giây lát chúng tôi đã có
    mặt tại vườn Ngọc Uyển. Nhưng quân canh gác vừa xua tay định
    bảo chúng tôi đi chỗ khác chơi, nhưng khi họ nhìn ra Minh Gia
    Đại Đức, họ liền thay đổi thái độ ngay tức khắc và mau mắn dẫn
    đường đưa chúng tôi vào nội cung, tại đây đức Đạt Lai Lạt Ma đã
    ngồi sẵn chờ đợi chúng tôi. Không có khăn choàng để làm lễ ra
    mắt, tôi cảm thấy tôi có vẻ vụng về lúng túng vì tôi không biết
    dùng hai bàn tay tôi làm gì? Đấng Thậm Thâm vừa mỉm cười nhìn
    chúng tôi và nói:
    - Minh Gia hãy an tọa, và con nữa, Lâm Bá. Quý vị đã không
    mất nhiều thời giờ.
    Chúng tôi ngồi xuống và đợi Ngài mở lời trước. Ngài ngồi
    tĩnh tọa và định tâm trong một lúc, dường như để sắp đặt những
    tư tưởng của Ngài cho có trật tự. Kế đó, Ngài nói:
    - Trước đây đã lâu, quân mọi lông đỏ (người Anh) đã xâm
    chiếm xứ sở chúng ta. Khi đó ta đi qua Mông Cổ, giai đoạn đầu của
    một chuyến viễn du dài hạn. Năm Canh Tuất (1910), quân Trung
    Hoa lại xâm lăng xứ chúng ta, cuộc xâm lăng này là hậu quả trực
    tiếp của cuộc tấn công của quân Anh. Lần này ta lại lên đường qua
    Ấn Độ và chính trong dịp đó ta đã gặp vị sứ thần Anh Quốc mà ta
    sẽ tiếp kiến ngày hôm nay. Ta nói những điều đó là để cho con,
    Lâm Bá, vì Minh Gia đã tháp tùng theo ta trong những dịp xuất
    ngoại đó. Người Anh đã hứa hẹn với ta nhiều điều mà tốt cuộc họ
    không giữ lời hứa. Hôm nay, ta muốn biết xem người sứ giả này có
    thành thật hay không. Lâm Bá, con sẽ không hiểu những lời nói
    của ông ta; như vậy, những lời ấy sẽ không ảnh hưởng gì đến con.
    Con hãy đứng núp sau tấm bình phong này, con có thể quan sát
    mọi sự mà không ai biết. Con hãy nhìn xem hào quang của ông ta
    và đưa ra nhận xét của con như Sư Phụ con đã dạy. Bây giờ, Minh
    Gia đạo hữu hãy chỉ chỗ trú ẩn cho Lâm Bá, vì y đã quen thuộc với
    sự chỉ dẫn của đạo hữu hơn là của ta, và ta tin chắc rằng y coi đạo
    hữu còn cao hơn vị Đạt Lai Lạt Ma nữa kìa!
    Núp phía sau bình phong, tôi không ngớt nhìn chung quanh,
    quan sát các loài chim và các nhánh cây đẩy đưa theo chiều gió.
    Thỉnh thoảng tôi lén nhai vài miếng tsampa mà tôi đã đem theo.
    Thình lình có tiếng động mạnh của cánh cửa vườn trong: Những vị
    Lạt Ma mặc áo vàng trong nhóm các quan hầu cận của đức Đạt
    Lai Lạt Ma bước vào cùng với một người da trắng ăn mặc một cách
    thật lố bịch dị kỳ. Tôi phải khó khăn lắm mới giữ được sự yên tĩnh,
    vì tôi bật cười đến chết mất thôi. Người ấy dáng cao lớn và hơi gầy.
    Ông ta có mái tóc trắng, cặp lông mày thưa, đôi mắt rất sâu, và
    một đôi môi khép chặt, có vẻ đanh thép.
    Nhưng còn bộ y phục của người này! Nó được cắt trong một
    loại hàng màu xanh đậm, phía trước có một hàng nút bằng đồng
    bóng loáng. Bộ y phục này chắc hẳn là công trình của một thợ may
    rất dở, vì cái cổ áo quá lớn đến nỗi người ta phải lật nó ra ngoài,
    ngoài ra lại còn vài miếng vải vuông vá lên hai bên hông. Tôi tự
    hỏi có phải chăng người Tây Phương cũng ăn mặc vá từng miếng
    như áo cà sa của các sư sãi bên phương Đông theo gương đức Phật
    ngày xưa? Xin nói thêm rằng hồi đó, tôi chưa biết gì về cái cổ áo
    lật (rờ ve) và cái túi áo tây!
    Ở Tây Tạng, những người nho nhã không phải là dân lao
    động đều mặc áo rộng, tay rất dài che lấp cả hai bàn tay. Trái lại,
    tay áo của người sứ giả này rất ngắn và chỉ dài đến cườm tay thôi.
    Tôi thầm nghĩ:
    - Tuy vậy, chắc người này không phải là một bác thợ cầy vì
    hai bàn tay của ông ta có vẻ rất mềm mại. Có lẽ là ông ta không
    biết cách ăn mặc, thế thôi...
    Cái áo của ông ta chỉ dài đến nửa thân mình. Tôi thầm nghĩ
    chắc là ông ta nghèo lắm. Quần của ông ta mặc quá chật và rõ
    ràng là quá dài, vì gấu quần lại vén ngược lên. Tôi tự nghĩ:
    - "Trong bộ y phục này, chắc hẳn là ông ta cảm thấy lúng
    túng trước mặt đấng Thậm Thâm." Tôi lại tự hỏi rằng không biết
    có người nào cũng vừa tầm thước với ông, có thể cho ông ta mượn
    đỡ một bộ y phục thích đáng.
    Khi đó, tôi nhìn hai bàn chân ông ấy. Thật là một điều rất lạ
    lùng: Hai bàn chân ông ta bị nhốt trong một vật rất dị kỳ màu đen
    và bóng loáng dường như là được bao phủ bằng một lớp nước đá!
    Những vật này thật là khác hẳn với những đôi ủng bằng nỉ của
    người Tây Tạng chúng tôi thường dùng. Tôi chưa hề thấy bao giờ
    những vật dị kỳ như thế!
    Tôi ghi nhận những màu sắc trên hào quang của ông ta,
    cùng với sự kết luận của tôi. Vị sứ thần đôi khi nói chuyện bằng
    tiếng Tây Tạng, với một giọng khá đúng đối với một ngoại quốc, rồi
    lại thốt ra một tràng âm thanh lạ lùng mà tôi chưa hề nghe bao
    giờ. Về sau, người ta mới nói cho tôi biết rằng đó là tiếng Anh.
    Khi ông ta thò tay vào cái túi vá ở bên hông và lấy ra một
    mảnh vải trắng nhỏ, tôi lấy làm ngạc nhiên. Dưới đôi mắt kinh
    ngạc của tôi, ông ta đưa mảnh vải trắng ấy lên trước mũi và miệng
    phát ra một tiếng động giống như tiếng kèn. Tôi thầm nghĩ:
    - "Chắc hẳn đó là một cách chào đấng Khôn Lường!" (Người
    Tây Tạng không có thói quen dùng khăn tay.) Ông ta "Chào" xong,
    liền cẩn thận đút mảnh vải trắng vào chỗ cũ. Kế đó, ông ta đưa tay
    vào bên trong áo rồi lấy ra nhiều tờ giấy thuộc một loại mà tôi
    chưa hề thấy bao giờ. Thứ giấy bên Tây Tạng hơi dầy, nhám và
    màu vàng, còn loại giấy này trắng mỏng và láng. Tôi tự hỏi:
    - "Làm sao người ta có thể viết trên một tờ giấy như vậy?
    Không có gì trên đó để giữ lại cây viết chì, vì giấy trơn quá!"
    Khi đó, người khách lấy ra một cây viết và viết lên trên giấy
    những hàng chữ nguệch ngoạc không thể tưởng tượng. Tôi cho
    rằng ông ta không biết viết, có lẽ ông ta chỉ làm bộ cho có dáng vậy
    thôi!
    Ông ta chắc chắn là có tật nên bắt buộc phải ngồi trên một
    tấm gỗ đặt trên bốn chân, và để hai chân thòng xuống đất. Xương
    sống ông ta chắc bị tật nên ông ta phải dựa lưng vào hai mảnh gỗ
    đóng chặt vào phía sau chỗ ngồi. Tôi cảm thấy động lòng thương
    hại ông ta: Không những quần áo ông ta chật hẹp và ngắn cũn cỡn
    trông thật buồn cười, ông ta không biết viết và thỉnh thoảng lại
    làm ra vẻ lịch sự bằng cách thổi một tiếng vào một thứ kèn bằng
    vải, mà ông ta lại còn không thể ngồi vững vàng như mọi người,
    mà phải dựa lưng cho đỡ mỏi và để hai chân thòng xuống lủng
    lẳng trong khoảng không! Ông cử động luôn luôn, ngồi chéo chân
    rồi lại bỏ chân xuống. Thình lình, tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc
    mà thấy ông ta đưa chân trái lên, bàn chân chĩa thẳng về phía đức
    Đạt Lai Lạt Ma, một cử chỉ vô cùng hỗn láo và vô lễ đối với người
    Tây Tạng. Nhưng có lẽ ông ta chợt nghĩ ra điều đó, vì ông ta lại đổi
    qua tư thế khác. Đấng Thậm Thâm dành cho ông ta một sự tiếp
    đãi trọng hậu bằng cách cũng ngồi trên một cái ghế gỗ, và cũng để
    hai chân thòng xuống như ông ta. Vị sứ giả này có một cái tên rất
    lạ Charles A. Bell, có nghĩa là "Cái chuông." Những màu sắc trên
    hào quang của ông ta biểu lộ một tìng trạng sức khỏe suy kém: Có
    lẽ khí hậu của sứ này không hợp với thể chất của ông ta. Ông ta
    dường như thật tình muốn giúp đỡ, phụng sự, nhưng theo những
    màu sắc trên hào quang cho thấy thì ông ta hiển nhiên là không
    muốn làm một việc mạo hiểm có thể liên lụy đến thân danh mình,
    nếu ông ta làm mất lòng chính phủ Anh. Ông ta muốn áp dụng
    một chính sách nào đó, nhưng vì chính phủ Anh không chịu nghe
    theo, nên ông ta chỉ còn cách là hy vọng rằng tương lai sẽ chứng
    minh cho sự thiện chí của mình.
    Chúng tôi đã có những tài liệu chính xác về vị sứ thần
    Charles Bell. Chúng tôi đã thu nhập được những dữ kiện cần
    thiết, ngày sinh tháng đẻ, cùng những điểm quan trọng trong đời
    ông ta, nói tóm lại là tất cả những gì có thể giúp cho chúng tôi tiên
    đoán được tương lai của ông ta. Các nhà Chiêm Tinh đã phát hiện
    rằng trong một tiền kiếp, ông ta đã sống ở Tây Tạng và trong kiếp
    đó ông ta đã mong ước được đầu thai qua bên Tây Phương, với hy
    vọng là sẽ góp phần vào công việc tạo nên nhịp cầu thông cảm giữa
    Đông phương và Tây phương. Gần đây, có người cho tôi hay rằng
    chính ông ta nói đến vấn đề ấy trong một tác phẩm của mình.
    Chúng tôi tin chắc rằng nếu ông ta có thể ảnh hưởng đến chính
    phủ Anh như ý ông ta muốn, thì sau này đã không xảy ra cuộc
    xâm lăng của quân Trung Hoa. Tuy nhiên, cuộc xâm lăng này đã
    được tiên tri từ trước, và những lời tiên tri bao giờ cũng được thực
    hiện.
    Chính phủ Anh có vẻ rất ngờ vực: Họ sợ rằng xứ Tây Tạng sẽ
    liên minh với Nga Xô, điều này thật không có lợi cho họ chút nào.
    Anh Quốc từ chối không chịu ký một hiệp ước với Tây Tạng và
    đồng thời cũng không muốn cho xứ này thiết lập những bang giao
    thân hữu với những nước khác. Xứ Sikkim, xứ Bhutan, và các
    nước khác đều có thể ký hiệp ước với Anh Quốc, nhưng Tây Tạng
    thì không. Bởi đó, người Anh bắt đầu tháo mồ hôi hột lo thảo kế
    hoạch để xâm chiếm lãnh thổ xứ Tây Tạng. Sứ giả Charles Bell có
    mặt tại chỗ vẫn biết rằng chính phủ Tây Tạng không hề muốn liên
    kết với bất cứ một quốc gia nào. Họ chỉ muốn sống tự do, độc lập,
    và tránh mọi tiếp xúc với người ngoại quốc, vì những người này
    trong quá khứ chỉ có đem lại cho họ những tai họa tàn phá và đau
    khổ.
    Đấng Khôn Lường tỏ vẻ rất hài lòng khi tôi trình bày những
    điều nhận xét của tôi, sau khi sứ giả Bell đã lui gót. Nhưng Ngài
    chỉ nghĩ đến việc bắt tôi phải làm việc nhiều hơn. Ngài nói:
    - À, phải đấy, chúng ta cần phát triển khả năng của con
    nhiều hơn nữa. Khả năng đó sẽ giúp ích cho con rất nhiều khi con
    sống ở các xứ phương xa. Chúng ta sẽ để cho con thụ huấn bằng
    một phương pháp thôi miên ráo riết hơn, để cho con được thâu
    nhập một số kiến thức tối đa.
    Ngài gõ chuông gọi quan hầu cận và nói:
    - Ta muốn gặp Minh Gia Đại Đức. Hãy mời người vào ngay
    lập tức.
    Vài phút sau, Sư Phụ tôi đã khoan thai bước đến. Tôi tự hỏi
    ai là người có thể hối thúc Sư Phụ tôi đi mau! Nhưng vì đức Đạt
    Lai Lạt Ma coi Sư Phụ tôi như một bạn hữu, nên Ngài không
    muốn hối thúc người.
    Sư Phụ ngồi gần bên tôi, trước mặt đấng Thậm Thâm. Một
    người hầu cận mau mắn dâng trà và vài món thực phẩm của Ấn
    Độ. Khi chúng tôi đã an tọa đức Đạt Lai Lạt Ma cất tiếng nói:
    - Hỡi Minh Gia đạo huynh, đạo huynh đã không lầm, vì Lâm
    Bá rất giỏi. Y có thể tiến bộ hơn nữa, và nhất định phải tiến. Vậy
    Đạo huynh hãy lấy mọi quyết định cần thiết để cho y được một sự
    thụ huấn nhanh chóng và toàn hảo đến mức tối đa. Đạo huynh
    hãy sử dụng mọi tất cả mọi phương tiện có sẵn, vì, như chúng ta
    thường được cho biết trước, những ngày đen tối và tai họa dồn dập
    sẽ đến với sứ sở chúng ta, nên chúng ta cần có một người tài giỏi có
    thể biên soạn những bộ kinh sách Huyền Môn cổ truyền.
    Như thế, hằng ngày tôi càng bận rộn hơn với nhiều công việc.
    Từ đó, tôi thường được gọi gấp vào điện để "Nhận xét" những hào
    quang các vị thượng khách của đức Đạt Lai Lạt Ma.
    Tôi đã trở nên một nhân vật quen thuộc của điện Potala và
    vườn Ngọc Uyển. Ở điện Potala, tôi có thể sử dụng những ống viễn
    vọng kính mà tôi rất thích. Một trong những ống kính này, một
    loại kính lớn để xem thiên văn dựng trên một cái giá có ba chân,
    làm tôi thích thú nhất và tôi đã từng trải qua nhiều giờ để quan
    sát mặt trăng và các bầu tinh tú cho đến khuya.
    Cùng với Minh Gia Đại Đức, tôi thường đến Lhassa để nhìn
    xem nhân vật của thủ đô. Với những năng khiếu thần thông siêu
    đẳng và những kinh nghiệm rộng rãi của Sư Phụ về người và vật,
    người có thể kiểm sát được những nhận xét của tôi.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  14. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    Chính trong thời kỳ này tôi được thụ huấn ráo riết về
    phương pháp xuất hồn hay xuất vía để đichu du trên cõi trung
    giới, trong khi đó linh hồn rời khỏi thể xác và chỉ dính liền với nó
    và sự sống phàm trần bằng một sợi dây bạc. Nhiều người không
    tin rằng sự xuất hồn như thế có thể thực hiện được, nhưng thật ra
    thì tất cả mọi người đều xuất hồn để di chuyển trong cõi vô hình
    bằng cách đó trong giấc ngủ. Có điều khác là ở Phương Tây, người
    ta xuất hồn trong giấc ngủ mà không hay biết, còn các nhà đạo sĩ
    Tây Tạng có thể xuất hồn đi chu du khắp mọi nơi tùy ý muốn, nhờ
    đó họ có thể nhớ tất cả những gì họ đa thấy và làm, cùng những
    nơi nào họ đã đến viếng. Bí thuật này đã mất đi ở phương Tây, bởi
    đó khi họ thức tỉnh, nhiều người tin rằng họ đã trải qua một "Giấc
    mộng."
    Tất cả các xứ đều biết về việc đi chu du bằng thể Vía. Ở Anh
    Quốc, những nhà nữ phù thủy đã từng nổi tiếng là biết "Bay". Ở
    khắp nơi trên thế giới, người ta đã từng biết về những vấn đề này,
    dẫu rằng sự hiểu biết này đã mai một với thời gian và mất đi trong
    ký ức loài người. Người ta đã tập luyện cho tôi có thể xuất hồn đi
    ngao du bằng thể Vía cũng ở trong tầm tay của tất cả mọi người.
    Một bí thuật khác có thể học được một cách dễ dàng là khoa
    thần giao cách cảm, nhưng với điều kiện là không nên biểu diễn nó
    ở những nơi hí trường hoặc những nơi công cộng. Thật là một điều
    đáng mừng mà thấy rằng người ta đã bắt đầu nhìn nhận khoa
    này. Chúng tôi cũng thực hành cả khoa thôi miên. Tôi đã thực
    hành nhiều cuộc giải phẫu quan trọng cho những bệnh nhân được
    đặt trong trường hợp cắt bỏ một chân chẳng hạn. Bịnh nhân
    không cảm thấy gì, không đau đớn chi hết và khi thức tỉnh, tình
    trạng chung của họ còn khả quan hơn là nếu họ bị chụp thuốc mê
    theo phương pháp cổ điển. Hình như bên Anh Quốc hiện nay người
    ta đã bắt đầu áp dụng khoa thôi miên trong một vài trường hợp
    giải phẫu.
    Thuật tàng hình cũng là một môn bí thuật khác nữa trong
    chương trình học Đạo của tôi. Cũng may mà bí thuật này chỉ được
    truyền dạy cho một thiểu số người rất hiếm thuộc về thành phần
    ưu tú. Nguyên tắc của nó rất giản dị, nhưng sự thực hành thì rất
    khó. Ta hãy thử nghĩ đến những gì làm cho ta chú ý: Một âm
    thanh, một vật gì thình lình cử động, hay một màu sắc lòe loẹt.
    Những âm thanh và cử động mau lẹ làm khiêu gợi sự chú ý của
    mọi người, nó làm cho ta phải lưu tâm để nhìn xem đó là vật gì?
    Trái lại một người ngồi yên bất động không bị nhìn thấy dễ dàng
    như vậy, cũng như những người mà ta đã quá quen thuộc. Thí dụ
    như người đem thơ; thường khi người ta đã nhận được thư tín từ
    buổi sáng, nhưng lại nói:
    - Không có người nào, tuyệt đối không có ai đã đến đây.
    Nếu quả đúng như vậy, thì thư tín đã được đem lại bằng
    cách nào? Phải chăng bởi một người vô hình? Hay bởi một người
    mà sự có mặt đã quá quen thuộc đối với ta đến nỗi thật sự ta
    không "nhìn" thấy y, hay không "cảm nhận" được y? (Một cảnh
    binh luôn luôn dễ bị nhìn thấy vì con người thường có một lương
    tâm không được yên ổn). Muốn tàng hình, người ta không nên
    hành động gì và phải chận đứng mọi luồng sóng tư tưởng xuất
    phát ra từ bộ óc. Nếu người ta để cho bộ óc hoạt động, nghĩa là nếu
    người ta suy nghĩ, tư tưởng, thì những người chung quanh ta trở
    nên ý thức được sự có mặt của ta bằng thần giao cách cảm (tức là
    nhìn thấy ta) và ta không tàng hình được.
    Ở Tây Tạng, có những người có thể tàng hình tùy ý muốn,
    bởi vì họ có thể che giấu những luồng sóng tư tưởng của họ. Cũng
    may mà những người ấy chỉ gồm một thiểu số rất ít.
    Thuật khinh thân cũng là một bí thuật khác nữa, và đôi khi
    nó được thực hành như một phép tập luyện kỹ thuật. Đó là phương
    pháp di chuyển bất tiện vì nó đòi hỏi quá nhiều cố gắng. Người
    hành giả chọn cách di chuyển bằng thể Vía, cách này nhẹ nhàng ít
    khó khăn hơn, với điều kiện là phải có thầy giỏi chỉ dẫn. Đó là
    trường hợp của tôi: Nhờ vậy nên tôi có thể xuất hồn đi ngao du các
    cõi tùy ý muốn. Một mặt khác, mặc dầu những cố gắng khổ luyện
    là công phu ráo riết, tôi cũng không thể tàng hình được. Làm thế
    nào để biến mất dạng đúng vào lúc người ta muốn bắt buộc tôi làm
    một việc mà tôi không thích, hẳn là cái đặc ân của thánh thần ban
    cho: Nhưng than ôi! Các ngài vẫn từ chối không ban cho tôi cái ân
    huệ ấy! Tôi cũng không có thiên tư về âm nhạc, như tôi đã nói
    trước đây. Tôi chỉ vừa mở miệng hát là đủ làm cho vị Nhạc Sư nổi
    trận lôi đình, quát tháo ầm ĩ, nhưng cơn giận này còn chưa là bao
    nhiêu so với cơn náo loạn mà tôi gây ra một ngày nọ. Trong khi tập
    đánh chụp chõa, một loại nhạc khí mà tôi cho là bất cứ ai cũng có
    thể chơi được, không biết tôi vụng về ra sao mà vô tình tôi chụp
    ngay cái đầu trọc của một sư sãi ngồi gần bên! Một cơn xúc động
    và phản đối ầm ĩ đã diễn ra ngay sau khi đó. Từ đó, người ta yêu
    cầu tôi một cách thẳng thắn là tôi hãy nên giới hạn những sinh
    hoạt của tôi trong lãnh vực Thần Nhãn và y khoa mà thôi!
    Chúng tôi cũng thực hành rất nhiều về pháp môn Yoga, một
    khoa học rất quan trọng có thể cải tiến con người đến một mức độ
    phi thường. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng pháp môn Yoga không phải để
    dành cho người Tây phương, trừ phi người ta đem vào đó rất nhiều
    sự thay đổi thích hợp với lối sinh hoạt và tính chất của người
    phương Tây. Pháp môn này đã quen thuộc với người Tây Tạng từ
    nhiều thế kỷ; họ đã quen tập luyện những tư thế Yoga kể từ thời
    thơ ấu. Những thân thể, tứ chi, gân xương, bắp thịt của họ đã được
    tập luyện thần thục. Trái lại, người Tây phương thử bắt chước tập
    những tư thế đó, sẽ gặp nhiều sự hiểm nguy nhất là nếu họ đã lớn
    tuổi. Còn nói phép luyện hơi thở, thì đó cũng là một điều rất nguy
    hiểm.
    Tập thở theo phương pháp nhất định: đó là cái bí quyết của
    nhiều hiện tượng lạ lùng. Nhưng, cần lặp lại một lần nữa rằng
    phép luyện khí công có thể có hại, nếu không nói là tối nguy hiểm
    đến tính mạng, trừ phi người hành giả được sự chỉ dẫn của một
    bậc danh sư có nhiều kinh nghiệm. Nhiều du khách đến viếng xứ
    này có viết truyện du ký, nói về những vị Lạt Ma trổ thuật phi
    hành, họ có thể kiểm soát trọng lượng thân thể họ (đây không phải
    là thuật khinh thân) và chạy hết tốc lực trong nhiều giờ, hai chân
    họ ít khi chấm đất. Thuật phi hành đó đòi hỏi một công phu tập
    luyện lâu dài, và nhà phi hành phải tự đặt mình trong một trạng
    thái bán thôi miên. Buổi chiều là giờ tốt nhất để tập luyện vì hành
    giả có thể nhắm hướng sao mà chạy; mặt đất phải bằng phẳng,
    không chướng ngại để khỏi làm gián đoạn trạng thái thôi miên.
    Hành giả chạy như người mộng du (somnamblue). Y "hình dung"
    cái mục tiêu hành trình, mà y giữ luôn luôn tỏ rạng trước con Mắt
    Thần thứ ba của y bằng cách niệm không ngừng một câu thần chú
    đặc biệt. Y có thể chạy suốt nhiều giờ mà không cảm thấy mệt mỏi.
    Phương pháp này chỉ tiện lợi hơn cách xuất vía trên một điểm duy
    nhất. Trong phép xuất vía, thì linh hồn đi ngao du các cõi; nó
    không thể mang theo những đồ vật dụng tùy thân như quần áo,
    giấy tờ, chẳng hạn. Trái lại, nhà phi hành có thể đem theo một số
    hành lý bình thường, nhưng y lại có những sự bất tiện khác.
    Nhờ họ biết cách hô hấp nên các nhà đạo sĩ Tây Tạng có thể
    ngồi trần truồng trên những vùng núi non đầy băng tuyết ở chiều
    cao độ năm hay sáu nghàn thước, trong khi đó họ cảm thấy nóng
    đến nỗi nước đá tan rã và họ tháo mồ hôi ra như tắm.
    Bạn có bao giờ thử nhắc lên một vật nặng, sau khi đã thở hết
    khí trời trong phổi? Bạn hãy thử xem rồi bạn sẽ thấy rằng bạn
    không thể nào làm được. Nhưng nếu bạn hít vào một hơi rất sâu
    và giữ lại hơi thở trong phổi bạn có thể nhắc vật nặng ấy lên dễ
    dàng. Trong trường hợp bạn cảm thấy sợ sệt hay nóng giận, sau
    khi hít một hơi thật là dài vào phổi, bạn hãy giữ lại hơi thở trong
    mười giây đồng hồ. Kế đó, bạn để không khí thoát ra từ từ. Nếu
    bạn lập lại phép thở này ít nhất là ba lần, quả tim bạn sẽ đập
    chậm hơn và bạn sẽ cảm thấy bình tĩnh trở lại. Ai cũng có thể tập
    phép thở này một cách an toàn, vô hại. Chính nhờ tôi biết kiểm
    soát hơi thở mà tôi đã có thể chịu đựng những sự tra tấn của người
    Nhật Bổn và những sự gian khổ trong các trại giam tù binh hồi đệ
    nhị thế chiến. Tôi có thể nói điều ấy do kinh nghiệm bản thân.
    Thời giờ đã đến để cho tôi dự cuộc thi nó sẽ chánh thức đưa
    tôi lên chức vị Lạt Ma. Trước khi dự thi tôi phải đến nhận lãnh ân
    huệ của đức Đạt Lai Lạt Ma. Mỗi năm, đấng Khôn Lường ban ân
    huệ cho tất cả các sư sãi Tây Tạng, Ngài ban riêng cho từng người
    chứ không ban chung cho tất cả như đức Giáo Hoàng ở La Mã.
    Trong đa số trường hợp, ngài ngồi trên ngôi, tay cầm một cái
    cần dài như cáùi đầu cần câu, có buộc một tua vải ở một đầu, và để
    cái tua ấy chấm lên đầu của các sư sãi và tín đồ hành hương. Ngài
    đặt một bàn tay lên trán của những người mà Ngài muốn ban
    danh dự hoặc những vị chức sắc cấp cao. Ban ân huệ với cả hai
    bàn tay để lên trán người nào là một đặc ân hiếm có: Ngài ban cái
    ân huệ đó lần đầu tiên trong đời tôi và nói:
    - Con hỡi, con đã làm việc rất giỏi, con hãy ráng làm giỏi hơn
    nữa trong kỳ thi này để chứng minh sự tin tưởng mà chúng ta đặt
    nơi con.
    Ba ngày trước ngày sinh nhật năm tôi mười sáu tuổi, tôi dự
    thi cùng với mười bốn thí sinh khác. Những gian phòng thi cá
    nhân có vẻ càng nhỏ hơn trước, chắc hẳn là bởi vì tôi đã lớn.
    Mỗi buổi sáng, ban khảo thí đưa cho chúng tôi những đầu đề
    các bài thi để làm trong ngày. Các bài thi sẽ được góp nhặt vào
    buổi chiều. Chúng tôi chỉ được ăn món Tsampa mỗi ngày một lần,
    còn trà pha bơ thì uống tự do tùy thích. Tôi phải ở lại tất cả mười
    ngày trong phòng thi.
    Cuộc thi bắt đầu với những bài vở về môn y khoa thường
    thức, môn tôi phải học mà tôi đã nắm vững các đầu đề và môn
    thần học. Trong suốt năm ngày kéo dài vô tận, tôi không được một
    chút nghỉ ngơi. Qua ngày thứ sáu, một trong những thí sinh bị cơn
    khủng hoảng thần kinh nó làm cho chúng tôi xúc động. Từ một
    phòng thi cá nhân ở bên cạnh phòng tôi, phát ra những tiếng thét
    lớn và rú lên rợn người. Tôi nghe có tiếng chân người dồn dập,
    những giọng nói và tiếng mở cửa. Có tiếng nói êm dịu, vỗ về, an ủi
    của một người; kế đó là những tiếng khóc thổn thức nối tiếp theo
    những tiếng kêu rú. Thế là, cuộc thi đã chấm dứt đối với người thí
    sinh ấy. Đối với tôi, phần thứ nhì của cuộc thi mới bắt đầu. Người
    ta đem đầu đề thi cho tôi trong ngày đó trễ mất một giờ. Siêu hình
    học, Yoga. Tất cả là chín môn phái Yoga. Và tôi được chấm ưu
    điểm trong tất cả các môn!
    Người Tây Phương chỉ biết một cách nông cạn về năm môn
    phái Yoga: Pháp môn Hatha Yoga để tu luyện xác thân;
    Kundalimi Yoga để luyện các năng khiếu thần thông, như Thần
    Nhãn, thần nhỉ, ... Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ sắc
    bén, Râja Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết và
    Samadhi Yoga đưa đến trạng thái giác ngộ tối cao, do đó hành giả
    thấu truyền ý nghĩa và sự thật của những gì chờ đợi y ở bên ngoài
    cuộc đời. Chính sự thực hành môn Samadhi Yoga giúp cho hành
    giả đạt tới chân lý tối thượng vào lúc y từ giã kiếp sống cõi trần;
    nhờ pháp môn này con người có thể thoát ra vòng luân hồi sinh tử,
    trừ phi y quyết định trở lại thế gian với một mục đích nhất định,
    chẳng hạn để giúp đỡ, phụng sự nhân loại.
    Trong năm ngày còn lại, tôi rất bận rộn làm những bài thi
    của tôi. Dầu cho những cuộc thi kéo dài đến mười ngày cùn có lúc
    chấm dứt, và buổi chiều ngày thứ mười khi vị Lạt Ma phụ trách
    đến góp bài, y được tiếp đón với những nụ cười sung sướng thoải
    mái. Lần đầu tiên, người ta dọn cho chúng tôi ăn rau cùng với món
    Stampa là món ăn căn bản của chúng tôi trong suốt mười ngày
    qua. Đêm ấy, tôi ngủ một lúc say sưa ngon lành. Tôi không nghi
    ngờ về kết quả cuộc thi nhưng chỉ e ngại về cách sắp hạng; vì tôi
    được lệnh phải có tên trong những người đỗ đầu. Thi viết xong,
    chúng tôi được nghỉ ngơi trọn một tuần lễ để lấy lại sức. Kế đó là
    trọn hai ngày thi về môn quyền thuật võ nghệ. Ngoài ra các cuộc
    đấu võ, còn có môn "điểm huyệt" là môn bí truyền làm cho người ta
    trở nên không còn cảm giác và vô tri bất động.
    Hai ngày kế đó dành cho phần sát hạch về những điểm yếu
    kém trong các bài thi viết. Mỗi thí sinh đều bị hạch hỏi, chất vấn
    trong suốt hai ngày liền. Sau cùng, sau một tuần lễ nghỉ ngơi nữa,
    kết quả cuộc thi được công bố. Tôi lấy làm vui mừng vô hạn, một
    sự vui mừng mà chúng tôi không ngừng ngại biểu lộ ra ngoài một
    cách ầm ĩ, khi tôi được biết tôi đỗ thủ khoa. Kết quả này làm tôi
    sung sướng vì hai lý do: Trước hết nó chứng minh rằng Minh Gia
    Đại Đức là vị đạo sư giỏi độc đáo hơn tất cả các vị khác, và kế đó là
    đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ hài lòng về cả hai thầy trò chúng tôi.
    Vài ngày sau tôi đang làm việc trong phòng của sư phụ tôi
    thì cánh cửa thình lình mở to và một sứ giả mồ hôi nhễ nhại, bụi
    bậm đầy mình, hộc tốc bước vào vừa le lưỡi thở dốc vừa nói:
    - Bạch ngài lạt ma y sĩ Lâm Bá, có thông điệp của đức thậm
    thâm.
    Y lấy trong áo ra và cầm đưa cho tôi một bức thư đọc trong
    một khăn choàng bằng lụa theo nghi lễ thường thức. Kế đó, y quay
    gót lui ra.
    Tôi đặt cái thơ xuống bàn, nhưng chưa mở ra vội. Thơ ấy gởi
    cho tôi, nhưng nó có thể nói gì trong đó? Chỉ thị bảo tôi phải học
    thêm các môn học thuật khác nữa? Hoặc làm việc nhiều hơn nữa
    chăng?
    Sư phụ tôi mỉm cười về sự băn khoăn do dự của tôi; tôi bèn
    cầm đưa gọn gói cho người, luôn cả thơ và cái khăn choàng. Sư phụ
    mở bì thư ra có hai mảnh giấy xếp. Người xem và nói:
    - Hay lắm, con hãy an tâm. Chúng ta phải đi đến điện Potala
    ngay bây giờ, không trễ một chút. Ta cũng được mời cùng một thể.
    Sư phụ gõ một tiếng còng; một người nô bộc xuất hiện. Sư
    phụ bèn ra lệnh cho y lập tữ thắng yên hai con ngựa bạch sau khi
    đã thay áo và chọn hai cái khăn choàng đẹp nhất, chúng tôi đến
    thông báo cho vị sư trưởng biết rằng đấng Thậm Thâm cho gọi
    chúng tôi đến điện Potala. Người hỏi:
    - Quý vị đi đến điện ngay bây giờ? Lạ thật, mới ngày hôm
    qua đây, đấng Khôn Lường hãy còn ở vườn Ngọc Uyển. Nhưng nếu
    quý vị có thơ mời, thì... chắc hẳn đây là một việc rất long trọng.
    Những sư sãi giữ ngựa đợi chúng tôi ngoài sân với hai con
    ngựa trắng. Chúng tôi lên yên và cho ngựa đi xuống với chân đồi.
    Trong chốc lát chúng tôi đã đến điện Potala. Thật ra từ chỗ tu viện
    của chúng tôi đến điện không xa, lẽ ra tôi không cần phải chịu
    nhọc để ngồi vững trên yên ngựa với một quãng đường ngắn như
    thế! Nhưng có điều tiện lợi duy nhất là chúng tôi có thể cưỡi ngựa
    đi lên cái cầu thang lớn nó đưa chúng tôi đến tận nơi, gần tới nóc
    điện Potala. Khi chúng tôi vừa đặt chân xuống đất, những người
    gia nô đã đợi chúng tôi từ trước, bèn bước đến đỡ lấy cương ngựa
    dắt đi và chúng tôi được đưa thẳng vào tư thất của đấng thậm
    thâm. Tôi bước vào một mình, quỳ xuống đặt cái khăn choàng dưới
    chân Ngài rồi cúi đầu đảnh lễ Ngài như thường lệ. Ngài nói:
    - Con hãy an tọa, hỡi Lâm Bá. Ta rất hài lòng về con và Minh
    Gia Đại Đức, nhờ sư phụ con một phần nào mà con mới được
    thành công trong kỳ thi vừa qua. Chính ta đã đích thân xem các
    bài vở của con.
    Nghe Ngài nói, tôi cảm thấy một cơn rùng mình chạy dọc
    theo tủy xương sống. Tinh thần hài hước của tôi có đôi khi đặt sai
    chỗ; đó là một trong những điểm yếu kém của tôi, theo như lời
    người ta thường nói. Sự hài hước ấy đã biểu lộ trong kỳ thi vừa
    qua vì trong khi giải đáp các đầu đề, tôi đã có viết nhiều câu hơi có
    vẻ xúc phạm! Đức Đạt Lai Lạt Ma chắc hẳn đã đọc được tư tưởng
    của tôi vì Ngài bật cười và nói:
    - Phải đó, tinh thần hài hước của con đã biểu lộ không đúng
    lúc, nhưng...
    Ngài ngừng lại trong một cơn yên lặng kéo dài, trong khi đó
    tôi chờ đợi một sự chẳng lành.
    - Nhưng tất cả những câu giải đáp của con đều làm cho ta
    thích thú.
    Tôi tiếp chuyện suốt hai giờ đồng hồ với Đức Đạt Lai Lạt Ma;
    kế đó ngài cho gọi sư phụ tôi để dặn dò chỉ thị về cách sắp đặt việc
    học của tôi. Tôi phải chịu một cuộc thử thách về sự Chết Giả viếng
    nhiều tu viện khác và thực tập về môn cơ thể học với bọn Âm Công
    chẻ xác người. Những người này thuộc về một giai cấp hạ tiện, và
    công việc của họ có phần đặc biệt đến nổi Đức Đạt Lai LaÊt Ma
    đặc cách cho phép tôi làm việc chung với họ mà vẫn giữ y nguyên
    chức vị Lạt ma của tôi. Ngài ra lệnh cho những Âm Công "Hãy
    dành cho vị lạt ma Lâm Bá mọi sự giúp đỡ và trợ lực cần thiết; tiết
    lộ cho vị lạt ma những bí mật trong các cơ thể cho người có thể biết
    được những nguyên nhân vật chất của những trường hợp chết
    chóc; và dành cho người bất cứ một tử thi nào mà người cần dùng
    đến để học hỏi, khám nghiệm."
    Trước khi nói đến cách giải quyết việc chôn cất tử thi ở xứ
    Tây Tạng, thiết tưởng cũng cần nói qua vài chi tiết phụ thuộc về
    quan niệm của người Tây Tạng đối với sự chết. Thái độ của họ về
    sự chết hoàn toàn khác hẳn với thái độ của người Tây phương. Họ
    quan niệm rằng thể xác con người chỉ là một "lớp vỏ" cái vỏ vật
    chất bên ngoài bao bọc cái linh hồn bất diệt. Một tử thi còn kém
    giá trị hơn một miếng vẻ rách. Trong trường hợp chết tự nhiên
    nghĩa là không phải lo tai nạn bất đắc kỳ tử, thì đây là diễn biến
    của sự chết, theo quan niệm của người Tây Tạng: Cái thể xác mệt
    mỏi, già cỗi, đã trở nên bất tiện cho linh hồn đến mức không còn
    được để giúp cho linh hồn tiến hóa nữa. Đó là lúc cần phải loại bỏ
    cái lớp vỏ bên ngoài và xuất ra khỏi thể xác vật chất. Cái hình
    dáng của linh hồn lúc đó giống y như hình thù của thể xác, và
    những người có Thần Nhãn có thể nhìn thấy được. Đến lúc chết,
    thì sợi dây bạc nối liền linh hồn với thể xác trở nên mỏng teo dần
    và đức đoạn: Linh hồn đã giải thoát và thăng lên cõi khác. Đó tức
    là sự chết, nhưng cũng là sự sinh ra trong một cuộc đời mới vì sợi
    dây bạc ấy cũng giống như cái cuống nhau bị cắt đi để cho đứa hài
    nhi sơ sinh có thể bắt đầu một cuộc sống cá nhân riệng biệt. Cũng
    chính vào lúc đó, cái Ánh Sáng Sinh Lực thoát ra từ trên đỉnh đầu.
    Ánh sáng ấy cũng có thể nhìn thấy được bởi những người có nhãn
    quang siêu đẳng.
    Người Tây Tạng tin rằng phải sau một thời gian ba ngày, cái
    thể xác mới thật sự chết hẳn, nghĩa là mọi hoạt động của cơ thể
    mới hoàn toàn chấm dứt, và linh hồn mới hoàn toàn rút lui ra khỏi
    cái lớp vỏ xác thịt vật chất. Lạt Ma Giáo lamaisme của xứ Tây
    Tạng cho rằng con người có ba thể căn bản: Xác thể cấu tạo bằng
    xương thịt, nhờ đó linh hồn có thể nương theo để học hỏi những bài
    học đắng cay, đau khổ của cuộc đời; dục thể được cấu tạo bằng
    những thèm khát, ham muốn, tình cảm, nói chung là những dục
    vọng của con người; và linh thể, tức là thể tâm linh, hay (linh hồn
    bất diệt). Người chết phải trải qua ba giai đoạn: Cái xác thể sẽ
    phải tiêu diệt; dục thể cũng sẽ tan rã và linh thể hay linh hồn đi
    theo con đường đưa đến cõi tinh thần.
    Một hôm vị Lạt Ma phụ trách về nghi lễ cầu siêu cho người
    chết, cho mời tôi và nói:
    - Nay đã đến lúc sư huynh cần học hỏi những phương pháp
    thực tế về sự giải thoát của linh hồn. Xin mời sư huynh đi theo tôi.
    Sau khi đã đi qua những hành lang dài và đi xuống những
    cầu thang trơn trợt, chúng tôi đến chỗ cư xá của các vị y sĩ. Tại
    đây, trong một phòng bệnh, một vị sư già đang nằm hấp hối. Một
    cơn bệnh đã làm cho ông ta yếu đi nhiều, sinh lực của ông ta đã
    gần cạn và tôi nhận thấy màu sắc trên hào quang của ông ta đã
    phai mờ. Dẫu sao, ông ta cũng phải gượng sống cho đến khi không
    còn chút sinh lực nào. Vị lạt ma đi cúng với tôi nhẹ nhàng nắm lấy
    hai bàn tay ông ta và nói:
    - Sư ông đã gần được giải thoát khỏi những dày vò của thể
    xác. Sư hãy chú ý nghe những lời tôi nói đây, để cho nhẹ bước siêu
    thăng. Chân sư ông đã lạnh. Cuộc đời sư ông đã tiến gần đến chỗ
    kết thúc cầu cho linh hồn sư ông được bình an, vì sư ông không có
    gì phải sợ sệt. Sinh lực đã rút ra khỏi hai chân sư ông, và đôi mắt
    sư ông đã mờ. Thân hình sư ông đã lạnh, sự sống đã rút lui dần và
    sắp tắt hẳn. Sư ông hỡi, cầu cho linh hồn sư ông được bình an, vì
    sự giải thoát ra khỏi cuộc đời thế tục để bước qua cõi tinh thần vốn
    không có gì đáng sợ. Những bóng tối của cõi u minh vô tận đã lởn
    vởn trước mắt sư ông và hơi thở của sư đã tắt nghẽn trong cuống
    họng. Nay đã đến lúc mà linh hồn sư sẽ được tự do thụ hưởng
    những phúc lạc của cõi giới bên kia. Cầu cho sư được bình an. Thời
    giờ giải thoát của sư đã đến...
    Vị Lạt Ma vừa nói luôn miệng không ngớt, vừa lấy bàn tay
    vuốt nhẹ sau gáy của người hấp hối, từ hai vai lên đến đỉnh đầu,
    theo một phương pháp đã trắc nghiệm để đưa linh hồn ra khỏi xác
    một cách êm ái nhẹ nhàng, không đau đớn. Tất cả những cạm bẫy
    trên đường đi qua cõi âm được nói cho ông lão biết trước, cùng là
    làm cách nào để tránh những cạm bẫy đó. Lộ trình đã được vạch
    sẵn một cách chính xác, do các vị lạt ma có thần thông đã từng
    bước qua bên kia cửa tử, và nay các vị ấy dùng thần giao cách cảm
    để tiếp tục nói chuyện từ cõi bên kia với người trần gian chúng ta.
    Vị Lạt Ma nói tiếp:
    - Sư ông không còn nhìn thấy gì nữa, và hơi thở của sư đã
    ngưng. Toàn thân sư ông đã lạnh và những tiếng động ồn ào của
    thế gian không còn vọng tới tai sư ông nữa. Sư ông hãy được bình
    an, vì thần chết nay đã đến rước sư ông. Sư ông hãy noi theo con
    đường mà chúng tôi đã vạch sẵn, và sư ông sẽ tìm thấy yên tĩnh
    phúc lạc ở đầu đường bên kia.
    Vị lạt ma vẫn tiếp tục vuốt nhẹ cái gáy và hai vai người chết.
    Vầng hào quang của ông lão trở nên mờ dần và sau cùng thì biến
    mất dạng. Khi đó, theo một nghi lễ cổ truyền tự muôn đời, vị lạt
    ma thốt ra một tiếng kêu ngắn và to để cho linh hồn còn đang bám
    víu lấy thể xác có thể được giải thoát hoàn toàn. Ở phía trên cái
    xác thân bất động, nguồn sinh lực tập trung lại thành một khối
    giống như một đám mây khói vần vũ với muôn nghìn vòng xoáy,
    trước khi tượng hình giống như cái thể xác mà nó còn dính liền
    bằng sợi dây bạc trở nên mỏng teo lần lần; sau cùng, cũng như một
    trẻ sơ sinh bước vào đời khi cái cuống nhau rún bị cắt đứt, ông lão
    bước vào cuộc sống ở cõi giới bên kia. Sợi dây bạc vào lúc cuối cùng
    trở nên mỏng như một sợ tơ đã đứt hẳn và cái thể vô hình từ từ
    biến mất dạng ví như một đám mây lướt trên không gian hay một
    đám khói hương tản mát trong đền thờ. Vị lạt ma tiếp tục chỉ thị
    cho vong hồn ông lão bằng thần giao cách cảm và dìu dắt linh hồn
    ông trong giai đoạn đầu của cuộc phiêu lưu qua bên kia cửa Tử.
    - Sư ông đã chết rồi. Ở đây không còn gì cho ông nữa cả.
    Những sợi dây trói buộc của xác thịt đã bị cắt đứt. Sư ông hiện
    đang ở bên cõi Trung Giới. Sư hãy tiếp tục đi theo con đường của
    sư, còn chúng tôi sẽ ở lại dương trần. Sư hãy noi theo con đường đã
    vạch. Hãy từ giã cõi đời thế gian mộng ảo này và bước vào cõi giới
    Tinh Thần. Sư ông đã chết. Hãy tiếp tục tiến bước trên con đường
    đã vạch.
    Những luồng khói hương trầm bốc lên thành những vòng
    tròn; mùi hương thơm bát ngát đem lại sự yên tĩnh cho bầu không
    khí rối loạn. Từ đằng xa vọng lại tiếng trống khi mờ khi tỏ. Từ
    trên nóc tu viện rất cao, một tiếng kèn trầm hùng phát ra một âm
    thanh vang lừng dội khắp bốn phương. Do các hành lang vang dội
    đến tay chúng tôi tất cả những tiếng động ồn ào của cuộc sống
    hằng ngày, chen lẫn với tiếng giầy ủng của các sư sãi và tiếng kêu
    của những con yak. Nhưng gian phòng nhỏ của chúng tôi lúc ấy
    đắm chìm trong im lặng. Một cách yên lặng của nhà mồ. Trong cái
    bối cảnh im lặng đó, những chỉ thị bằng thần giao cách cảm của vị
    lạt ma là những tiếng thổn thức phớt qua cái yên tịnh của gian
    phòng, cũng như ngọn gió nhẹ thoáng qua mằt hồ yên lặng. Sự
    chết; lại có thêm một ông lão vừa bước vào cái chu kỳ bất tận của
    vòng luân hồi sinh tử, có lẽ sau khi đã thu thập những bài học
    kinh nghiệm của một kiếp người, nhưng còn phải tiếp tục con
    đường tiến hóa của mình với những công phu cố gắng trường kỳ
    bất tận cho đến khi đạt tới quả vị Phật.
    Sáng ngày thứ tư, một Âm Công đến để lấy xác. Người này
    thuộc về thành phần của giai cấp Âm Công, họ sống trong một khu
    biệt lập ở ngã tư đường Lingkhor và Dechhen Dzong khi y đến nơi,
    các vị lạt ma ngưng việc dìu dắt linh hồn người chết và y có thể
    lãnh lấy tử thi. Y bọc tử thi trong một cái bao vải trắng, nhẹ nhàng
    khiên cái bọc trên hai vai rồi bước ra. Một con yak đã đợi sẵn ở
    ngoài. Không chút do dự, y cột cái bọc trên lưng con yak rồi cả hai
    đều đi đến khu nghĩa địa, tại đây những Âm Công khác đã chực
    sẵn và chờ y đến. "Nghĩa địa" này chỉ là một khoảnh đất trống ở
    giữa những núi đồi bao bọc chung quanh, trên đó có sẵn một phiến
    đá rộng và bằng phẳng, khá lớn để có thể đặt nằm trên đó cái xác
    của một người khổng lồ. Những cây cọc được cắm trong bốn cái lỗ
    đào ở bốn gốc. Một phiến đá khác có đục những hang lỗ sâu đến
    nữa phần bề dày của nó.
    Khi cái tử thi được đặt trên phiến đá đầu tiên, người ta tháo
    bỏ cái cọc vải, cột hai bàn chân với hai bàn tay vào bốn cái cọc, và
    viên Âm Công trưởng mới mổ cái tử thi bằng một con dao lớn. Y
    cắt những đường dài trên tử thi để có thể lột da từng miếng cho dễ.
    Kế đó, y chặt đứt tay chân và cắt thành từng mảnh. Sau cùng, cái
    đầu được chặt lìa khỏi xác và chẻ ra làm đôi.
    Khi vừa nhìn thấy người Âm Công khiên cái tử thi đến nơi,
    những con kên kên bèn hạ cánh bay thấp xuống và đậu tren
    những tảng đá lớn, tại đó chúng chờ đợi một cách kiên nhẫn như
    những khán giả của một sân khấu lộ thiên. Chúng cũng có tôn ti
    trật tự đàng hoàng và áp dụng một kỷ luật rất nghiêm ngặt giữa
    bọn chúng với nhau. Nếu một con nào "phạm thượng" muốn bước
    đến gần tử thi trước những con "chúa đảng" thì lập tức liền xảy ra
    một cuộc xô xát dữ dội.
    Trong khi các con kên kên kiếm chỗ đậu, thì người Âm Công
    trưởng đã phanh cái xác chết. Y thọc hai bàn tay vào trong lồng
    ngực tử thi, móc lấy quả tim và đưa ra cho con kên kên chúa, con
    này liền nhảy xuống đất một cách nặng nề và đủng đỉnh tiến đến
    gần để nhận lãnh lấy phần ưu tiên của nó. Kế đó con thứ nhì xuất
    hiện để nhận lấy lá gan rồi lui vào một góc tảng đá để ăn riêng
    một mình. Hai trái thận và ruột cũng được chia ra cho những con
    kên kên vào bậc "đàn anh". Những miếng thịt được cắt ra thành
    từng mảnh và phân phát cho cả đàn. Thỉnh thoảng, có một con đã
    ăn xong phần thức ăn của mình, lại đủng đỉnh bước tới để kiếm
    thêm một miếng óc hoặc một con mắt, trong khi một con khác vừa
    đáp xuống vừa vỗ cánh để kiếm thêm một miếng thịt nữa. Trong
    khoảnh khắc, tất cả các bộ phận và da thịt đều trôi vào bụng kên
    kên, chỉ còn lại có những xương xẩu rải rác trên phiến đá. Người
    Âm Công, sau khi đã chặt những khúc xương thành từng mảnh
    nhỏ liền đem nhét các mảnh vụn ấy vào những lỗ trống trên phiến
    đá thứ nhì, và dùng búa lớn để nghiền nát thành một thứ bột
    nhuyễn mà loài kên kên rất thích ăn!
    Những Âm Công này đều là những tay chuyên môn thiện
    nghệ về khoa chặt xác người. Họ rất hãnh diện về nghề nghiệp của
    họ và chính là để thỏa mãn cá tính mà họ xem xét tất cả các bộ
    phận trong tử thi để xác định nguyên nhân của sự chết. Nhờ có
    nhiều năm kinh nghiệm nên họ có thể khám nghiệm rất mau
    chóng. Lẽ dĩ nhiên không có gì bắt buộc họ phải chú trọng đến
    những vấn đề này, nhưng truyền thống của nghề nghiệp muốn họ
    tìm ra cái nguyên nhân đã làm cho "linh hồn một người phải rời
    khỏi thể xác". Nếu một người chết vì thuốc độc hoặc vì lý do bị ám
    sát hay do tai nạn, thì sự kiện ấy được phát hiện mau chóng. Sự
    khôn ngoan khéo léo của họ đã giúp ích cho tôi rất nhiều trong khi
    tôi học hỏi với họ. Không bao lâu, tôi đã trở nên rất thành thạo về
    nghệ thuật mổ xẻ tử thi. Người Âm Công trưởng đứng gần bên tôi
    và chỉ dẫn cho tôi những điểm lý thú:
    - Thưa Đại Đức Lạt Ma, người này chết vì bệnh đứng tim.
    Đại Đức hãy nhìn xem, chúng ta sẽ cắt cái mạch máu này... đây
    rồi... Đại Đức có thấy chăng cục huyết đặc đã chặn sự lưu thông
    trong huyết quản?
    Hoặc trong một trường hợp khác:
    - Có một cái gì bất thường ở ngoài người đàn bà này, thưa
    Đại Đức Lạt Ma. Chắc hẳn là một hạch tuyến đã hoạt động sai lạc.
    Chúng ta hãy thử lấy ra xem thì biết.
    Kế đó, sau lột lúc cắt ra một khối thịt khá lớn, y nói:
    - Đây là cái hạch tuyến, ta hãy cắt ra xem. À, phần trung
    tâm của nó rất cứng.
    Và sự việc cứ tiếp diễn như thế. Những Âm Công này lấy làm
    hãnh diện mà chỉ cho tôi xem tất cả mọi sự gì mà họ có thể, vì họ
    biết rằng tôi học hỏi với họ theo lệnh dạy của đấng thậm thâm.
    Nếu trong khi tôi vắng mặt, có một tử thi đặc biệt lý thú vừa được
    đem đến, thì họ để dành riêng cho tôi. Như vậy tôi có thể khám
    nghiệm hàng trăm xác chết, điều này đã giúp cho tôi trở nên một
    nhà giải phẫu ưu tú về sau này! Sự huấn luyện này còn vô cùng
    hữu hiệu hơn là sự học của những sinh viên y khoa, họ phải chia
    các tử thi với nhau trong những phòng mổ xẻ của các bệnh viện.
    Tôi tin chắc rằng về môn cơ thể học, tôi đã học hỏi với các Âm Công
    nhiều hơn là trong trường y khoa có trang bị đầy đủ y cụ tối tân
    mà tôi đã theo học trong những năm về sau.
    Ở Tây Tạng, người ta không thể chôn xác người chết. Đất núi
    cằn cõi và lớp đất phủ ở trên quá mỏng làm cho việc đào huyệt rất
    khó khăn. Việc hỏa táng không thể thực hiện được vì những lý do
    kinh tế: Cây gỗ rất hiếm và muốn thiêu một xác chết, người ta
    phải nhập cảng củi từ bên Ấn Độ rồi chuyên chở sang Tây Tạng
    trên lưng những con yak xuyên qua các đường núi gập ghềnh xa
    xôi. Vì đó, giá thành sẽ trở nên đắt kinh khủng. Người ta cũng
    không thể vứt xác chết xuống sông, vì xác chết sẽ làm nhiễm độc
    nước sông cần thiết cho người sống. Chỉ còn lại phương pháp đã
    diễn tả ở trên, tức là cống hiến xác chết cho loài diều hâu và kên
    kên ăn thịt. Việc "điểu táng" này chỉ khác biệt sự chôn cất bên tây
    phương trên hai điểm: Trước hết người tây phương chôn xác người
    chết của họ bằng cách để cho loài sâu bọ đóng cái vai trò của loài
    kên kên bên xứ chúng tôi. Điểm khác biệt thứ hai là khi người Tây
    phương chôn xác, họ cũng chôn luôn cả mọi khả năng truy ra nguy
    nhân của sự chết, thành thử không ai có thể biết chắc rằng cái
    nguyên nhân ghi trên tờ giấy khai tử có đúng sự thật hay không?
    Trái lại, những Âm Công bên Tây Tạng luôn luôn xác định cái
    nguyên nhân thật sự của sự chết, và điều này không bao giờ lọt ra
    khỏi tầm mắt của họ!
    Những cách chôn cất này đều là thủ tục thông thường của
    tất cả mọi người dân tây tạng trừ ra trường hợp của những vị Lạt
    Ma trưởng, là những đấng Hóa Thân. Thi hài các vị này được ướp
    chất hương liệu và đặt trong những cái hòm bằng thủy tinh để
    trưng bày trong các đền thờ hoặc ướp hương liệu xong rồi đem
    phếch vàng. Công tác sau này rất lý thú và tôi đã tham dự nhiều
    lần như vậy. Vài người Mỹ đã đọc những bản thảo của tôi về vấn
    đề này không tin rằng đều ấy có thể thực hiện được. Họ nói rằng:
    - Chính người Mỹ chúng tôi cũng không làm đuợc việc ấy,
    mặc dù chúng tôi có những kỹ thuật tân tiến hơn.
    Sự thật là người Tây Tạng chúng tôi không hề biết kỹ thuật
    sản xuất đại quy mô, và chúng tôi chỉ là những người thợ khéo.
    Chúng tôi không có khẳ năng chế tạo những đồng hồ tay với giá
    một đô la một chiếc. Nhưng chúng tôi có thể sử dụng chất vàng để
    ướp xác chết.
    Một buổi chiều vị Sư Trưởng gọi tôi lên và nói:
    - Một vị hóa thân sắp sửa bỏ xác. Người ở tại tu viện Sera. Ta
    muốn con đến xem cách họ ướt xác như thế nào.
    Như vậy, một lần nữa tôi lại phải chịu đựng một cuộc hành
    trình khó nhọc trên lưng ngựa để đến tận Sera. Khi tôi đến tu
    viện, người ta đưa tôi đến tận phòng của vị sư trưởng đã già.
    Những màu sắc trên hào quang của ông ta đã sắp tắt; một giờ sau
    ông ta từ giả cõi thế giới vật chất để bước qua cõi tinh thần. Là
    một vị sư trưởng và là một nhà khoa học, ông ta không cần có sự
    giúp đỡ để vượt qua cõi trung giới, cũng không cần chờ đợi ba ngày
    như thường lệ. Thi hài ông ta để ngồi theo tư thế kiết dà trong một
    đêm, trong khi các vị Đạt Ma đảm nhiệm việc canh chừng.
    Qua ngày hôm sau, vào lúc tảng sáng, một cuộc diễn hành
    quan trọng đi qua thánh thất của tu viện, đến tận thánh điện và
    qua những con đường bí mật xuyên qua một cánh cửa ít khi dùng
    đến. Trước mặt tôi, hai vị Lạt Ma khiêng cái tử thi đặt trên một
    cái cáng. Tử thi vẫn để ngồi ở tư thế liên hoa. Sau lưng tôi, các sư
    sãi hát thánh ca với một giọng trầm hùng; xen lẫn với âm thanh
    trong vắt của một cái chuông bạt. Chúng tôi đeo những mảnh vải
    yểm tâm vàng bên ngoài những áo tràng màu đỏ. Thân mình
    chúng tôi phát ra những cái bóng đen lung lay và nhảy múa trên
    tường, những bóng đen này được phóng đại quá cỡ và lệch méo do
    bởi những ánh đèn bơ và ánh đuốc lập lè. Chuyến đi xuống đường
    hầm kéo dài rất lâu. Sau cùng, cách chừng hai chục thước bề sâu
    dưới mặt đất, chúng tôi đến trước một cánh cửa bằng đá đã khóa
    chặt. Sau khi đã mở khoá, chúng tôi bước vào một văn phòng lạnh
    như băng. Các sư sãi đặt cái tử thi xuống đất một cách vô cùng cẩn
    thận và rút lui, chỉ còn lại một mình tôi với ba vị Lạt Ma. Hàng
    trăm ngọn đèn bơ được thấp lên tỏ ra một ánh sáng vàng đục và
    xấu. Tử thi được cởi quần áo ra và tắm rửa sạch sẽ. Do thất khiếu
    tự nhiên trong thân thể người chết, người ta móc ra những bộ
    phận, cùng ngũ tạng lục phủ rồi đem đựng trong những cái vại và
    đóng chặt. Kế đó, phía bên trong thân mì;nh được rửa ráy cẩn
    thận để cho khô ráo và chứa đầy một thứ nhựa đặc biệt. Thứ nhựa
    này sẽ đông đặc lại, nhờ đó tử thi mới giữ được cái vẽ tự nhiên như
    hồi còn sống. Khi chất nhựa này trở nên khô và cứng lại, thì người
    ta mới nhồi phía trong với đồ tơ lụa và luôn luôn canh chừng để
    giữ cho khỏi mất cái hình dáng tự nhiên. Để cho chất tơ nhồi cứng,
    và phía trong cho đặc lại, người ta lại đổ thêm chất nhựa. Kế đó,
    mặt ngoài xác chết được phết một lớp nhựa cũng giống y như thế
    và để cho khô. Xong rồi, trước khi dán tử thi thành những băng
    lụa rất tế nhuyễn, người ta phết lên mặt ngoài một lớp nước đặc
    biệt để sau này có thể gỡ các băng lụa ra một cách dễ dàng. Khi
    xét thấy tử thi đã nhồi đủ cứng người ta đổ thêm chất nhựa nhung
    lần này là một loại khác, và tử thi đã sẵn sàng bước qua giai đoạn
    thứ hai của công tác ướp xác. Trong một ngày và một đêm, tử thi
    được để yên tại chỗ để cho nó được hoàn toàn khô ráo. Khi người ta
    trở lại gian phòng, thì nó đã trở nên cứng rắn. Khi đó tử thi mới
    được chở đi một cách trịnh trọng xuống phòng ướp xác. Phòng ướp
    xác này rất nhỏ ở phía dưới phòng thứ nhất, thật ra là một cái hỏa
    lò được xây cất theo một cách riêng để cho những ngọn lửa và
    nhiệt độ có thể luân chuyển chung quanh các vách tường và như
    vậy để giữ cho gian phòng được luôn luôn ở dưới một nhiệt độ cao.
    Mặt đất của phòng ướp xác được đắp lên một thứ bột đặt biệt
    làm thành một lớp bột rất dày. Tử thi được đặt ngồi ở giữa. Ở phía
    dưới, các sư sãi chuẩn bị việc đốt lửa. Người ta nhồi vào lò một tạp
    chất gồm có muối (một thứ muối đặc biệt được chế tạo tại một tỉnh
    ở Tây Tạng), các loại dược thảo và khoáng chất. Khi gian phòng đã
    được nhồi đầy thứ tạp chất nói trên từ mặt đất lên đến trần, chúng
    tôi bước ra ngoài hành lang, cánh cửa được đóng chặt và nêm
    phong bằng con dấu triện của tu viện. Các sư sãi được lệnh đốt
    lửa. Trong giây lát, người ta nghe tiếng củi lửa cháy tí tách và khi
    ngọn lửa đã lên cao có tiếng bơ sôi sục. Quả thật, các nồi "Súp de"
    được đun bằng phân con yak và bơ phế thải. Suốt một tuần lễ, lửa
    cháy dữ dội trong lò và những luồng hơi nóng tràn vào trong
    những khe vách tường trống ruột của phòng ướp xác. Cuối ngày
    thứ bảy, người ta ngưng đốt thêm lửa và ngọn lửa tàn lụi lần lần.
    Nhiệt độ xuống thấp làm cho bức tường đá rên rỉ. Khi hành lang
    đã nguôêi lại để có thể đi qua, người ta còn phải đợi thêm ba ngày
    nữa trước khi nhiệt độ trong phòng trở lại bình thường. Mười một
    ngày sau khi niêm phong, gian phòng lại được mở khóa và gian
    phòng lại được mở. Các sư sãi thay phiên nhau để cạo sạch chất
    bột đã đặc cứng. Họ cạo bằng tay chứ không dùng đồ khí cụ để
    không làm sứt mẻ các xác ướp.
    Trong hai ngày liền, họ đã gở xong những tảng muối và tạp
    chất đã giòn tan. Sau cùng gian phòng đã trống trơn, chỉ còn lại
    cái tử thi ngồi lại chính giữa theo thế liên hoa. Người ta cẩn thận
    nhắc cái xác lên và chở lên gian phòng thứ nhất, tại đây nó được
    quan sát dễ dàng hơn dưới ánh sáng của các ngọn đèn bơ.
    Những băng lụa được tháo gở ra từng băng một, cho đến khi
    cái xác hoàn toàn trơ trọi. Việc ướp xác đã thành công hoàn toàn.
    Trừ ra cái màu sắc trở nên sậm hơn nhiều, tử thi có cái hình dáng
    tự nhiên như người sống, dường như nó có thể sống dậy bất cứ lúc
    nào. Một lần nữa nó được phết thêm một lớp nhựa và các sư sãi
    kim hoàng chuyên môn mới bắt đầu hàng động. Thật là một kỹ
    thuật xảo điệu vô cùng! Và có ai khéo léo như các sư sãi kim hoàng
    này, họ có thể đắp một lớp vàng lên một lợp vàng trên xác chết! Họ
    làm việc từ từ, phết lên tử thi một lớp vàng tinh lọc nhất và mịn
    màng tinh tế nhất. Bất cứ ở đâu, vàng này cũng đáng giá một gia
    tài. Đối với chúng tôi, nó chỉ có một tầm mức quan trọng của một
    loại kim khí thiêng liêng, một tinh khí mà tính chất bất hư hoại
    tượng trưng cho cái định mệnh tâm linh của con người.
    Những sư sãi kim hoàn làm việc với một kỹ thuật rất tinh vi,
    và săn sóc từng chi tiết nhỏ nhặc. Khi hoàn thành công tác, họ để
    lại cho chúng tôi một hình tượng mạ vàng coi tự nhiên như người
    sống, không thiếu một nét hay một vết nhăn; điều này lại chứng
    minh cái xảo thuật tân kỳ của họ.
    Thân hình nặng trĩu và với cái số lượng vàng đắp lên được
    chở đến phòng các đấng hóa thân và đặt lên ngồi trên một ngai
    vàng cũng như những xác ướp được đặt tại đây từ trước. Trong số
    đó, có vài xác ướp đã có từ lúc bắt đầu lịch sử thần thoại. Những
    xác ướp này được ngồi sắp hàng ví như những vị thẩm phán
    nghiêm minh, quan sát xuyên qua những kẻ mắt hé mở, những tội
    lỗi sa đọa của thời hiện kim. Chúng tôi chỉ nói chuyện thì thầm, và
    đi nhón gót chân, dường như không muốn quấy rầy những người
    chết đang ngồi đó. Tôi cảm thấy một sức hấp dẫn mãnh liệt của
    một trong các pho tượng vàng, nó gây cho tôi một sự ám ảnh lạnh
    lùng. Tôi có cảm giác như pho tượng ấy vừa nhìn tôi vừa mỉm cười
    dường như nó biết rõ tất cả. Bỗng nhiên có người sờ nhẹ vào vai tôi
    làm tôi giật mình gần muốn té xỉu vì sợ hãi. Tôi quay đầu lại thì
    ra đó là... Sư phụ tôi. Người nói:
    - Đây là xác ướp của con hồi kiếp trước. Chúng ta vẫn biết
    rằng con sẽ tự nhìn cái xác của mình!
    Sư phụ dắt tôi đến một vị Hóa Thân ngồi bên cạnh cái xác
    ướp của tôi và nói:
    - Còn đây chính là... ta.
    Chúng tôi đều xúc động y như nhau, và từ từ lùi bước ra khỏi
    phòng, cánh cửa lại được khóa chặt và niêm phong cẩn thận.
    Sau đó, tôi thường có dịp trở lại phòng Hóa thân để nghiên
    cứu những xác ướp mạ vàng. Đôi khi tôi đến ngồi thuyền định suy
    tư một mình bên cạnh các vị Hóa Thân. Mỗi vị đều được có một
    tiểu sư được ghi chép cẩn thận, và tôi đã xem qua tiểu sử một cách
    vô cùng thích thú. Chính tại văn phòng này mà tôi được xem tiểu
    sử tiền kiếp của sư phụ tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức, do đó tôi
    biết những công trình, những đức hạnh và tài năng của người
    trong kiếp trước, những danh vọng và chức vị mà người đã có, và
    người đã qua dời trong trường hợp nào. Cũng ở tại đây, tôi đã đọc
    được tiểu sử tiền kiếp của tôi, mà tôi nghiên cứu một cách say mê
    thích thú. Có tất cả chính mươi tám xác ướp mạ vàng nằm trong
    gian phòng này, một gian phòng bí mật đào sâu trong núi đá tận
    dưới lòng đất. Tôi đứng trước một pho lịch sử của xứ Tây Tạng. Ít
    nhất tôi tin như vậy vì hồi đó tôi chưa biết rằng những thời kỳ sơ
    khai nhất của lịch sử Tây Tạng và sau này mới được tiết lộ cho tôi
    biết.

    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007
  15. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Các Lạt ma hóa thân

    MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
    Sau khi tôi đã dự kiến độ nửa chục cuộc ướp xác trong các tu
    viện khác nhau, ngày nọ vị sử trưởng tu viện Chakpori cho mời tôi
    đến và nói:
    - Này đạo hữu Lâm Bá, theo lịch dạy của đấng Thậm Thâm,
    đạo hữu sẽ được điểm đạo vào hàng Sư Trưởng. Thể theo ý muốn
    của đạo hữu, đạo hữu sẽ có thể tiếp tục mang danh hiệu Lạt Ma
    thôi như Minh Gia Đại Đức vậy. Tôi chỉ biết truyền đạt cho đạo
    hữu bức thông điệp của đấng Khôn Lường.
    Như vậy, với tư cách một vị Hóa Thân được mọi người nhìn
    nhận, tôi đã đảm nhiệm trở lại cái danh vị cũ của tôi hồi tiền kiếp,
    cách đây độ chừng sáu thế kỷ về trước. Bánh xe luân hồi đã quay
    giáp trọn một vòng.
    Ít lâu sau đó, một vị Lạt Ma cao niên đến thăm tôi tại phòng
    riêng và cho tôi biết rằng tôi phải trải qua một cuộc lễ "Chết giả".
    Vị Lạt Ma ấy nói:
    - Con hỡi, khi mà con chưa bước qua bên kia cửa tử và trở về
    dương thế, thì con sẽ không bao giờ biết rằng vốn không có sự chết.
    Sự học về các cõi giới vô hình đã đưa con đi xa. Cuộc lễ này sẽ còn
    đưa con đi xa hơn nữa; con sẽ vượt qua cõi sống và cõi chết và con
    sẽ đi ngược dòng thời gian để truy nguyên đến tận cái dĩ vãng vô
    cùng màu nhiệm của xứ sở chúng ta.
    Sự chuẩn bị cho cuộc lễ này thật lâu dài và gian lao. Trong
    ba tháng trường, tôi phải tuân theo một phép ăn uống rất khắc
    khổ. Bất hạnh thay, tôi lại còn phải dùng thêm những món cỏ
    thuốc mùi rất nồng nặc ngoài những bữa ăn thường ngày. Người
    ta khuyên tôi nên chỉ nghĩ đến những gì "Trong sạch và thánh
    thiện" mà thôi (làm như là người ta có thể nghĩ khác hơn trong
    một tu viện!) thậm chí các món tsampa và trà cũng bị hạn chế. Nói
    tóm lại, tôi phải trải qua một nếp sống khắc khổ tối đa, chịu một
    kỷ luật nghiêm khắc và trải qua những giờ công phu thiền định
    lâu dài.
    Sau cùng, ba tháng đã trôi qua, các nhà chiêm tinh tuyên bố
    rằng thời gian đã điểm, và những ảnh hưởng tinh tú đều thuận lợi.
    Trong hai mươi bốn giờ đồng hồ, tôi nhịn đói cho đến khi tôi nhận
    thấy bụng tôi thật trống rỗng. Sau đó, người ta đưa tôi xuống
    những nấc thang bí mật ở dưới hầm điện Potala. Chúng tôi đi
    xuống rất lâu; những người đồng hành với tôi đều cầm đuốc soi
    đường, còn tôi thì không. Chúng tôi đi qua những dãy hành lang
    mà tôi đã biết trong cuộc thám hiểm trước đây. Sau cùng, chúng
    tôi đến chỗ đầu cuối một đường hầm có tảng đá khép chặt. Một
    cánh cửa bí mật bằng đá lớn xoay vòng trước mặt tôi và đưa chúng
    tôi đến một đường hầm khác rất hẹp và tối tăm, nơi đó xông lên
    một mùi mốc meo lẫn lộn với mùi gia vị và mùi hương trầm. Đi xa
    hơn độ vài thước, chúng tôi bị ngăn chặn bởi một cánh cửa thếp
    vàng rất dày và chắc; cánh cửa này mở ra từ từ với những tiếng
    khua rít vang vội ra tận đằng xa. Những ngọn đuốc được dập tắt
    và thay thế bằng những ngọn đèn bơ. Chúng tôi bước vào một ngôi
    đền ở dưới hầm, được đục khoét trong núi đá từ nhiều thế kỷ trước
    bởi những cuộc địa chấn do hỏa diệm sơn gây ra. Ngày xưa những
    dòng phún thạch từ trong lòng đất đã trải qua những dãy hành
    lang này trước khi đến miệng núi lửa. Tôi thầm nghĩ: "Bây giờ thì
    là những người yếu hèn tội lỗi đi ngang qua con đường này, và họ
    tự nghĩ rằng mình là thần thánh. Nhưng trong giờ phút này, tôi
    cần phải tập trung tư tưởng đến cuộc lễ, nhiều chúng tôi đã đến
    ngôi đền Minh Triết Huyền Bí".
    Ba vị Sư Trưởng dẫn đường cho tôi; kỳ dư những người đi
    theo hộ tống đã mất dạng trong bóng tối, giống như ảo ảnh của
    một giấc mơ. Chỉ còn một mình tôi ở lại với ba vị hiền giả lão
    thành, thân hình già nua với năm tàn tháng lụn và bình tĩnh đợi
    ngày khuất núi để được gọi lên cõi trời, ba ông lão này có lẽ là ba
    vị sư cao cả nhất trong thế giới, sẽ đặt tôi dưới một cơn thử thách
    cuối cùng trong cuộc lễ điểm đạo. Mỗi vị đều cầm nơi tay mặt một
    ngọn đèn bơ, và tay trái cầm một cây nhang to lớn cháy nghi ngút.
    Tiết trời rất lạnh lẽo, một cơn lạnh lẽo rất lạ lùng, không hề có
    trên mặt đất. Cơn im lặng rất thâm trầm, và những tiếng động rất
    hiếm đến từ bên ngoài càng làm cho sự im lặng ấy trở nên lạ lùng
    hơn nữa. Những đôi giày ủng lót bằng nỉ của chúng tôi không thấy
    một tiếng động nào; chúng tôi lướt đi qua những cái bóng. Tôi
    nghe tiếng suỵt soạt êm dịu từ những vạt áo tràng bằng nhung
    màu vàng nghệ của các Sư Trưởng. Tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc
    mà cảm thấy trên da thịt một luồng điện chạy lăn tăn như kiến bò,
    và có hiện tượng phóng điện toát ra từ cái thân hình tôi. Hai bàn
    tay tôi chiếu sáng dường như phóng hào quang. Tôi nhận thấy các
    vị Sư Trưởng cũng có hai bàn tay chiếu sáng giống y như tôi. Khí
    trời khô ráo và sự cọ sát bởi những áo tràng của chúng tôi đã gây
    nên một sự tích tụ của tĩnh điện. Một trong các vị Sư Trưởng bèn
    đưa cho tôi một chiếc đũa vàng và nói nhỏ thì thầm:
    - Con hãy cầm chiếc đũa vàng này nơi bàn tay trái và vừa
    chống lên vách tường vừa đi. Như vậy, những cảm giác khó chịu sẽ
    biến mất.
    Tôi làm y theo lời. Sau một phát phóng điện mãnh liệt nó
    làm cho tôi giật mình nhảy nhỏm, mọi việc đều êm đẹp.
    Những ngọn đèn bơ lần lượt được thắp sáng bởi những bàn
    tay vô hình. Khi tôi nhìn rõ hơn dưới ngọn đèn bơ loe lét, tôi thấy
    những pho tượng khổng lồ mạ vàng, trong đó có vài pho tượng
    chôn ngập đến nửa thân mình dưới một đống ngọc quý và châu
    báu. Một tượng phật xuất hiện từ trong bóng tối; tượng ấy to lớn
    đến nỗi ánh sáng không vượt lên khỏi dây lưng. Những hình tượng
    khác cũng ẩn hiện chập chờn trong bóng tối; đó là các vị thần, biểu
    tượng của những dục vọng và thử thách mà con người phải vượt
    qua trước khi thực hiện Chân Ngã.
    Chúng tôi đến gần một vách tường, trên đó có vẽ hình một
    Bánh Xe Luân Hồi Sinh Tử đường kính dài năm thước; dưới ánh
    sáng lập lòe nó dường như xoay tít đến nỗi làm tôi cảm thấy chóng
    mặt. Chúng tôi vẫn tiến bước; tôi có cảm giác là sắp bị ngăn chặn
    bởi một vách đá. Nhưng vị Sư Trưởng đi trước tôi đã biến mất
    dạng sau khi đi lọt qua một cánh cửa bí mật ẩn dấu rất khéo léo
    không thể nào ai biết được. Cánh cửa này đưa vào một đường hầm
    đi xuống dốc, đường này rất hẹp và quanh co, tại đây ánh sáng
    mập mờ của những ngọn đèn bơ làm cho bóng tối càng thêm âm u
    huyền bí. Chúng tôi đi với những bước đi ngập ngừng do dự, thỉnh
    thoảng lại xẩy chân và trợt ngã. Bầu không khí thật nặng nề khó
    thở dường như toàn khối Địa Cầu đè nặng lên vai chúng tôi. Tôi có
    cảm giác như đi lọt vào tận trong ruột của trái đất. Sau cùng, sau
    một khúc quanh, một động đá mở rộng trước mặt chúng tôi, một
    động đá chiếu sáng ngời những ánh vàng; có những mạch vàng
    xen kẽ với những lớp đá tảng trên vách. Trên vòm đá cao vút trên
    đỉnh đầu chúng tôi, những mạch vàng này phản ảnh ánh sáng lập
    lòe của những ngọn đèn bơ, chiếu lóng lánh như ánh sao chiếu
    trên nền trời trong một đêm không trăng.
    Ở chính giữa động đá, có một ngôi nhà màu đen và sáng
    ngời, dường như làm bằng gỗ mun. Trên tường có những hình biểu
    tượng và sơ đồ lạ lùng giống như những hình vẽ mà tôi đã thấy
    trên những vách đá dưới hầm khi tôi thám hiểm cái hồ nước dưới
    lòng đất trước đây. Chúng tôi bước vào nhà do một cửa lớn và cao.
    Bên trong tôi thấy ba cỗ quan tài lớn bằng đá đen có chạm hình và
    khắc những dòng chữ lạ kỳ. Ba cỗ quan tài đều không có đậy nắp.
    Nhìn vào bên trong tôi bèn muốn đứt hơi thở và thình lình tôi cảm
    thấy rất yếu. Vị Tiên Chỉ, cao niên nhất trong ba vị Sư Trưởng mới
    nói với tôi:
    - Con hỡi, con hãy nhìn xem. Các vị này đã từng sống như
    những đấng Thần minh ở xứ ta và một thời kỳ mà xứ này còn là
    một đồng bằng, chưa có núi non gì cả. Các vị ấy đã từng dong ruổi
    trên đất liền, trong khi những vùng biển cả còn đập sóng ở ngoài
    khơi của xứ Tây Tạng, và khi những bầu tinh tú khác còn chiếu
    sáng trên nền trời của chúng ta. Con hãy nhìn xem cho kỹ, vì chỉ
    có những bậc đạo đồ (inities: Những vị chân tu đã được điểm đạo
    trong giới huyền môn) mới được thấy mà thôi.
    Tôi làm y theo lời: Tôi vừa thích thú vừa khinh ngạc. Ba thể
    xác to lớn, toàn thân đều mạ vàng nằm dài trong ba cỗ quan tài
    trước mắt tôi. Hai người nam và một người nữ. Mỗi nét trên thân
    hình của họ đều được giữ nguyên vẹn dưới lớp vàng bên ngoài.
    Nhưng họ là những người khổng lồ! Người nữ đo trên ba thước tây
    và người lớn nhất trong hai người nam đo không dưới năm t1`hư
    ớc. Đầøu của họ rất lớn, hơi nhọn trên đỉnh đầu, quai hàm
    hẹp, miệng hơi nhỏ và cặp môi mỏng. Sống mũi dài và thâm, đôi
    mắt ngay thẳng và thụt vô sâu. Gương mặt họ tươi như hồi còn
    sống, họ có vẻ như nằm ngủ. Chúng tôi đi nhón gót vì sợ làm cho
    họ thức giấc. Tôi nhìn xem cái nắp của một cỗ quan tài: Trên đó có
    khắc một bản đồ thiên tượng với những tinh tú rất lạ lùng. Nhờ có
    học về khoa chiêm tinh, tôi đã từng quen thuộc với vị triù các bầu
    tinh tú, như bản đồ thiên tượng này là hoàn toàn khác hẳn.
    Vị tiên chỉ quay lại phía chúng tôi và nói:
    - Con sẽ trở nên một bậc đạo đồ. Con sẽ nhìn thấy dĩ vãng và
    con cũng sẽ biết cả tương lai. Cuộc thử thách sẽ rất cam go gian
    khổ. Nhiều người không còn sống sót sau cơn thử thách và nhiều
    người đã thất bại nhưng không ai rời khỏi chốn này một cách an
    toàn, trừ phi đã vượt qua cơn thử thách. Con đã chuẩn bị sẵn sàng
    chưa và con có bằng lòng chịu đặt dưới cuộc thử thách ấy không?
    Tôi đáp rằng tôi sẵn sàng và ba vị Sư Trưởng liền đưa tôi đến
    một phiến đá đặt ở giữa hai cỗ quan tài. Theo chỉ thị của hai vị Sư
    Trưởng, tôi ngồi lên phiến đá trong tư thế liên hoa hai chân xếp
    bằng, lòng bàn tay lật ngửa. Một cây nhang to lớn cháy nghi ngút
    được cắm lên mỗi quan tài ở hai bên và trên phiến đá chỗ tôi ngồi.
    Các vị Sư Trưởng lần lượt rút lui và biến mất dạng, mỗi vị cầm
    một ngọn đèn bơ soi đường. Họ đóng cánh cửa lớn: Chỉ còn lại một
    mình tôi với những cái xác ướp của những vị tiền bối của một thế
    hệ đã qua. Thời gian trôi đi, tôi định tâm ngồi thiền. Ngọn đèn của
    tôi đem theo đã cạn bơ và vụt tắt. Trong một lúc, tôi nhìn thấy cái
    bấc đèn còn ngúm đóm lửa tàn, và ngửi thấy một mùi bốc cháy, rồi
    kế đó mọi sự đều biến mất và không còn gì nữa.
    Tôi nằm dài trên phiến đá và bắt đầu hô hấp theo một phép
    khí công đặc biệt mà tôi đã thụ huấn trong nhiều năm. Bầu không
    khí im lặng và bóng tối dầy đặc chung quanh đè nặng lên tôi. Quả
    thật đó là cái im lặng của nhà mồ.
    Thình lình thân hình tôi cứng đơ và trở nên bất động như
    một xác chết. Tay chân tôi đã tê liệt và lạnh dần. Tôi có cảm giác
    như đang bước vào cõi chết, chết trong cái ngôi mộ cổ này, ở một bề
    sâu trên một trăm thước dưới lòng đất và ánh sáng mặt trời. Một
    cơn rung chuyển mạnh diễn ra bên trong thân thể tôi làm cho toàn
    thân tôi rũ liệt.
    Một ánh sáng màu xanh lợt từ từ xuất hiện trong ngôi mộ
    như một ánh chớp mới mọc trên một truông núi. Tôi cảm thấy tôi
    hơi cử động, thân tôi nhẹ bổng bay lên rồi rơi xuống; trong một lúc
    tôi tưởng rằng tôi đang ngồi trên một con diều gỗ lượn trên không
    gian. Sự thật hiện ra trong trí tôi: Tôi đang bay phất phơ trên cái
    thể xác bằng xương thịt của tôi. Tuy không có gió, nhưng tôi bị lôi
    cuốn bởi một đám khói. Ở phía trên đầu, tôi thấy một vừng ánh
    sáng giống như một cái hoa màu vàng. Từ chính giữa thân mình
    tôi, tỏa ra một sợi dây màu vàng bạc, chiếu lóng lánh và tràn đầy
    nhựa sống.
    Tôi nhìn xem cái thể xác vô tri bất động của tôi, nó chỉ là một
    cái xác chết như mọi tử thi khác, lần lần, tôi phân biệt những điển
    dị đồng nhỏ giữa cái xác của tôi với cái xác của những người khổng
    lồ nằm gần bên đó là một điều rất lý thú. Tôi nghĩ đến những sự tự
    hào lố bịch của nhân loại đương thời: Làm sau những người chủ
    nghĩa duy vật có thể giải thích sự hiện diện của những cái xác ướp
    khổng lồ này? Tôi đang còn suy nghĩ... thì thình lình tôi trở nên ý
    thức được một cái gì nó làm đảo lộn dòng tư tuởng của tôi. Dường
    như lúc ấy tôi không còn cô độc một mình. Những mẫu chuyện
    dụng vặt vọng đến tai tôi, những tư tưởng đứt đoạn không thốt ra
    lời. Những hình ảnh tân loạn xuất hiện chập chờn xuyên qua tầm
    nhãn quan siêu linh của tôi. Tôi có cảm giác rằng từ xa xa ngân
    lên một tiếng chuông lớn với một giọng trầm. Tiếng chuông ấy đến
    gần rất mau cho đến khi nó dường như nổ ra trong đầu tôi: Những
    giọt ánh sáng muôn màu nhỏ li ti và những tia chớp với những
    màu sắc lạ lùng chưa từng thấy hiện ra trước mắt tôi. Thể vía của
    tôi phất phơ và đưa đẩy như một chiếc lá rụng bị cuốn đi trong
    giông bão. Tâm thức tôi bị dày vò, cấu xé một cách đau đớn phũ
    phàng bởi một con trốt xoay tít với muôn nghìn đám lửa. Tôi cảm
    thấy bị bỏ rơi,cô đơn độc chiếc, như một mảnh bèo trôi dạt giữa
    một vũ trụ bấp bênh vô định. Một đám sương mù đen kịt bao phủ
    lấy tôi và đem đến cho tôi một niềm yên tĩnh lạ lùng, nó không
    phải là của trần gian.
    Những bóng tối dày đặt bao phủ lấy tôi đã dần dần tiêu tan.
    Tôi nghe tiếng gầm thét của biển cả và tiếng rít lên của những
    viên đá sạn bị sóng nhồi trên bãi cát. Tôi thở một bầu không khí
    đầy hơi muối và tôi ngửi thấy mùi rong biển. Cảnh vật rất quen
    thuộc đối với tôi: Tôi nằm dài một cách uể oải trên bãi cát được
    sưởi nóng bởi ánh sáng mặt trời, và ngắm nhìn những tàn cây thốt
    nốt. Nhưng có một phần trong người tôi đã phản đối: Tôi chưa hề
    nhìn thấy biển cả bao giờ, và không biết có loại cây thốt nốt! Một
    tràng dài những giọng nói và tiếng cười vang vọng ra từ một lùm
    cây. Những giọng nói càng đến gần và xuất hiện một đám người da
    sậm như đồng cỏ và nô đùa vui vẻ. Những người khổng lồ! Tất cả
    đều cùng lứa như nhau! Tôi nhìn lại thân mình: Tôi cũng vậy, tôi
    cũng là một người khổng lồ. Những ấn tượng tiếp diễn theo nhau
    trong trí tôi: Ngày xưa, hàng bao nhiêu nghìn muôn năm trở về
    trước, quả địa cầu ở gần mặt trời hơn bây giờ, những sự luân
    chuyển của nó lại đi theo một hướng ngược chiều. Những ngày lại
    ngắn hơn và nóng hơn bây giờ. Những nền văn minh vĩ đại đã
    được xây dựng nên và nhân loại thời ấy thông thái hơn người đời
    nay. Từ chốn không gian bên ngoài bổng nhiên một bầu hành tinh
    di động xẹt ra và chạm cào trái đất, làm cho trái đất bị dội ngược
    lại, bật ra khỏi vĩ đạo của nó, và xoay ngược chiều những cơn giông
    bảo làm chấn động biển cả và nước biển trào lên các lục địa, nước
    biển tràn ngập khắp nơi, quả địa địa cầu lại rung chuyển bởi
    những cơn động đất dữ dội. Nhiều vùng lục địa bị sụp lở và chìm
    xuống nước, những vùng khác lại trồi lên mặt biển. Xứ Tây Tạng,
    được đội lên trên bốn ngàn thước cao hơn mặt biển, không còn là
    một xứ nhiệt đới có bờ biển, một nơi nghỉ mát có thời tiết ôn hòa,
    dễ chịu nữa. Những dãy núi cao vút, những quả diệm sơn phun
    lửa và phun thạch bao vây chung quanh, chặt chịa như vách
    thành. Trên vùng thượng du, đất đai bị nứt nẻ ra thành những vực
    thẩm, tại đó loài cầm thú và thảo mộc của những thời đại đã qua
    vẫn tiếp tục sinh trưởng. Nhưng có rất nhiều điều mà tôi không
    tiện nói ra, và một phần cuộc lễ điểm đạo của tôi thật quá thiêng
    liêng và có tính cách quá riêng tư để có thể công bố trong một
    quyển sách dành cho đại chúng.
    Sau một thời gian, những linh ảnh đã lu mờ dần và biến
    mất. Lần lần tôi đã mất cả ý thức về cõi siêu linh và cả ý thức về
    cõi phàm trần. Sau đó, tôi có cái cảm giác khó chịu là bị lạnh lẽo
    kinh khủng vì nằm dài quá lâu trên một phiến đá trong bầu không
    khí lạnh buốt của ngôi mộ cổ. Những tư tưởng lạ từ bên ngoài đến
    "Thăm dò" khối óc của tôi như những ngón tay sờ mó.
    - A, y đã trở lại với chúng ta. Chúng ta đã đến kịp giờ.
    Nhiều phút trôi qua một ánh sáng lu mờ từ từ tiến đến gần
    tôi. Những ngọn đèn bơ và ba vị Sư Trưởng.
    - Con hỡi, con đã vượt qua cuộc thử thách. Con đã nằm trên
    phiến đá này suốt ba ngày ba đêm. Bây giờ, con đã nhìn thấy, con
    đã trải qua sự chết và con đã sống lại.
    Khi ngồi dậy, tay chân cứng đơ, tôi lảo đảo vì yếu sức và vì
    không cử động lâu. Khi tôi bước ra khỏi ngôi mộ cổ mà tôi không
    bao giờ quên suốt đời tôi, tôi đã thở bầu không khí lạnh như băng
    trong các đuờng hầm bí mật. Cơn đói khát làm cho tôi muốn xỉu và
    tôi bị hoang mang xúc động bởi tất cả những gì tôi nhìn thấy, bởi
    tất cả những gì mà cái kinh nghiệm vừa qua đã cho tôi biết. Về
    đến đạo viện, tôi ăn uống đến thỏa lòng; đêm đó khi tôi đi ngủ, tôi
    hiểu rằng những lời tiên tri sẽ được thực hiện và không bao lâu tôi
    phải rời khỏi xứ Tây Tạng để đi đến những xứ xa lạ. Bây giờ, khi
    tôi đã biết những xứ ấy rồi, tôi có thể nói rằng đối với tôi những xứ
    ấy có vẻ kỳ dị hơn là tôi tưởng tượng!
    Vài ngày sau đó, tôi cùng với sư phụ đang ngồi trên bờ sông
    hạnh phúc thì một người kỵ mã phi nước đại chạy ngang. Khi y
    nhìn ra Minh Gia Đại Đức, y đột ngột dừng ngựa đến nỗi vó ngựa
    hất văng những đám mây bụi xoay tít trong cơn gió lốc. Y xuống
    ngựa và nói:
    - Tôi có mang thông điệp của đấng thậm thâm gửi cho vị Lạt
    Ma Lâm Bá.
    Y rút trong túi áo một bức thơ bao bọc ở trong một khăn
    choàng theo nghi lễ truyền thống, và sau khi chuyển giao bức thư
    cho tôi với ba lần váy chào y bèn lui gót thót lên lưng ngựa và
    phóng nước lớn đi ngay.
    Lúc ấy tôi không còn e dè sợ sệt gì nữa; kinh nghiệm vừa rồi
    của tôi ở dưới hầm điện Potala đã đem cho tôi sự tự tin. Tôi bèn
    mở bao thơ và đọc bức thông điệp trước khi chuyển giao cho Minh
    Gia Đại Đức, sư phụ tôi. Tôi nói:
    - Sáng ngày mai, con phải đến vườn Ngọc Uyển để bái yết
    đấng thậm thâm. Ngài cũng có mời sư phụ cùng đến.
    Sư phụ tôi đáp:
    - Lâm Bá, tuy thầy không có thói quen thăm dò những ý định
    thầm kín của đức Thái Tế, nhưng thầy cảm thấy rằng không bao
    lâu con sẽ lên đường sang Trung Hoa. Còn thầy, thì... như thầy đã
    nói với con, không lâu nữa thầy sẽ từ giã cõi trần để quay về
    thượng giới. Chúng ta hãy vui với ngày hôm nay va tận dụng thời
    giờ ít oi còn lại.
    Qua ngày hôm sau, một lần nữa tôi theo con đường quen
    thuộc đến vườn Ngọc Uyển; sau khi xuống chân đồi tôi đi trên
    đường Lingkhor và đến trước cổng vườn. Minh Gia Đại Đức cùng
    đi với tôi. Hai thầy trò chúng tôi cùng có một tư tưởng giống nhau:
    Có lẽ chúng tôi đang cùng đi chung một lần cuối cùng để viếng
    thăm đấng thậm thâm. Những cảm nghĩ đó chắc hẵn đã hiện rỏ
    trên nét mặt của tôi vì khi tôi ngồi một mình với Đức Đạt Lai Lạt
    Ma, ngài nói:
    - Giờ phút chia ly, để mỗi người đi một đường bao giờ cũng
    đầy sự sầu thảm bi ai. Ở đây, trong ngôi nhà mát này, ta đã suy
    gẫm nhiều giời về vấn đề tối hậu này, là nên ở lại hay nên đi khi
    xứ sở ta bị nạn ngoại xâm? Dầu cho ta quyết định như thế nào
    cũng có người phải chịu khổ sở. Lâm Bá con hỡi, con đường của con
    đã được vạch sẵn và tất cả con đường đều khó nhọc gian nan. Gia
    đình, tổ quốc, bạn bè... con phải bỏ hết tất cả. Con sẽ gặp trên bước
    đường đời của con như con đã biết trước, sự hiểu lầm, sự nghi nan,
    đố kỵ cùng sự ngược đãi tra tấn và tất cả những gì đau khổ đắng
    cay. Cách xử thế của những người ngoại quốc rất kỳ dị và không
    thể giải thích. Như ta đã nói với con, họ chỉ tin nơi những gì họ có
    thể làm, những gì họ có thể phân chất trong các phòng thí nghiệm
    khoa học. Còn cái khoa học quan trọng nhất là khoa học về chân
    ngã, thì họ không quan tâm. Đó là con đường của con, con đường
    mà con đã chọn trước khi sinh ra ở kiếp này. Ta đã quyết định biệt
    phái con sang Trung Hoa trong năm ngày tới.
    Năm ngày! Chỉ còn năm ngày thôi trong khi tôi hy vọng sẽ
    dài đến năm tuần lễ.
    Trên đường về tu viện Chakpori, sư phụ và tôi không trao đổi
    với nhau một lời nào. Khi về đến tu viện người mới nói.
    - Lâm Bá, con phải về thăm cha mẹ, thầy sẽ cho người đi báo
    tin cho cha mẹ con hay trước.
    Cha mẹ tôi? Thầy tôi đã đối xử với tôi còn hơn cả bậc phụ
    mẫu. Và không bao lâu người sẽ từ giã cuộc đời: Người sẽ từ trần
    trước khi tôi quay trở về Tây Tạng trong vài năm sau. Di tích của
    người để lại cho tôi là cái xác ướp mạ vàng đặt tại phòng các vị hóa
    thân, cái thể xác vô tri mà người vứt bỏ như một cái áo cũ đã trở
    nên vô dụng.
    Qua ngày thứ ba, tôi trở về nhà cũ của tôi. Tôi đi một mình
    và đi bộ như cái ngày mà tôi rời khỏi nhà để đi vào tu viện. Nhưng
    trong thời gian qua tôi đã trở nên một vị Lạt Ma và một vị Sư
    Trưởng. Cha mẹ tôi đợi tôi ở nhà và đón tiếp như một vị thượng
    khách. Tối hôm ấy tôi lại đến văn phòng của cha tôi để ký tên vào
    quyển gia phả và ghi vào đó những tước vị của tôi. Sau đó, tôi lại
    đi bộ trở về tu viện, nó đã trở nên nhà của tôi từ bấy lâu nay.
    Hai ngày cuối cùng cũng trôi qua rất mau. Trước ngày lên
    đường tôi đến bái yết Đức Đạt Lai Lạt Ma một lần cuối cùng. Tôi
    nó vài lời từ giả và ngày ban ân huệ cho tôi. Lòng tôi se thắt khi
    tôi từ biệt ngài. Cả ngài và tôi đều biết rằng tôi gặp ngày trở lại
    khi ngày từ trần ở cõi giới bên kia.
    Qua ngày hôm sau tôi lên đường vào lúc bình minh, bước đi
    chậm chạp và lòng không hứng khởi. Lại một lần nữa tôi bước
    chân trên con đường thiên lý không một mái nhà riêng, hướng về
    những chân trời xa lạ. Tôi phải bắt đầu lại tất cả. Đi đến điểm cao
    tột của truông núi, tôi quay đầu nhìn lại rất lâu, và đó cũng là cái
    nhìn cuối cùng của tôi xuống thành phố thánh địa Lhassa.
    Một con diều đơn chiếc đang bay lượn trên điện Potala.
    Hết


    Tác giả: LOBSANG RAMPA
    MỤC LỤC
    1. THỜI THƠ ẤU
    2. LỜI TIÊN TRI
    3. TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
    4. TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIÊN
    5. ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
    6. ĐỜI SỐNG TRONG TU VIÊN
    7. TÔI MỞ THẦN NHÃN
    8. TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
    9. TRẠI HOA HƯỜNG
    10. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
    11. TÔI TRỞ VỀ NHÀ
    12. TÔI SỬ DỤNG THẦN NHÃN
    13. TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA
    14. MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠM HUYỀN MÔN
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng ba 2007

Chia sẻ trang này