Chuẩn bị tụng Chú Đại Bi

Thảo luận trong 'BỐ THÍ VẠN SỰ LÀ PHƯƠNG PHÁP CẢI MỆNH TUYỆT ĐỈNH' bắt đầu bởi tutru, 16 Tháng tám 2016.

  1. tutru

    tutru Ban Quản Trị

    Tham gia ngày:
    14 Tháng mười một 2009
    Bài viết:
    513
    Điểm thành tích:
    18
    Giới tính:
    Nam
    TRÌ NIỆM THẦN CHÚ ĐẠI BI ĐÚNG CÁCH

    A. Những bước chuẩn bị trước khi trì niệm thần chú đại bi.

    Bồ Tát Quán Thế Âm đã hứa với chúng ta: “Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả Thiện thần, Long vương, Kim Cang, Mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hay thân mạng của chính họ“.

    Như vậy, thế nào là tụng trì chú đại bi đúng pháp?

    Trong phần hình trạng tướng mạo đã chỉ rõ mười đặc tính cốt yếu của Thần chú Đại Bi mà quan trọng hàng đầu là tâm Đại Từ Bi, cho nên mỗi lần trì tụng thần chú này hành giả phải bắt đầu hướng tâm vào việc quán tưởng khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh. Một cách lý tưởng, để đạt được những công năng mà thần chú mang lại, trong thời gian trì tụng, hành giả phải giữ gìn giới hạnh, đặc biệt là sát, đạo, dâm, vọng. Phải kiêng cử rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi, cùng các thức ăn hôi hám. Tốt nhất là nên ăn chay.

    Phải giữ vệ sinh thân thể, thường xuyên tắm gội, thay đổi y phục sạch sẽ, không nên để cho trong người có mùi hôi. Trước khi trì chú cũng phải đánh răng, súc miệng sạch sẽ, nếu trước đó có đi đại tiện, tiểu tiện thì phải rửa tay sạch sẽ trước khi trì tụng.Tóm lại, “Giữ gìn trai giới,ở nơi tịnh thất,tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan đốt đèn, dùng hương hoa cùng thực phẩm cúng dường, buộc tâm một chỗ”, đó là tất cả những điều kiện lý tưởng để hành giả trì chú Đại Bi. Tuy nhiên, như phần trên đã nói, Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện. Điều này cho phép hành giả có thể trì tụng bất cứ lúc nào mà điều kiện cho phép. Trên xe, trên tàu, trên máy bay, tại sở làm, tại nhà… Với tâm thành, tâm chúng ta lúc đó sẽ hòa nhập vào lời trì tụng đểø cùng thể nhập vào pháp giới, mười phương chư Phật. Bơỉ vì Bồ Tát đã cho chúng ta biết, mỗi lần trì tụng thần chú Đại Bi, thập phương chư Phật đều đến chứng minh.

    Bàn thờ:

    Hành giả nên có một phòng riêng yên tỉnh để lập bàn thờ Bồ tát. Bàn thờ nên có hình tượng Bồ Tát ngàn tay, ngàn mắt. Nếu không có thì có thể sử dụng bất cứ hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nào mà mình hiện có. Hình tượng Bồ Tát nên để day mặt về hướng Tây. Trên bàn thờ tuy không bắt buộc nhưng nên có hoa tươi, trái cây, lư hương để cắm nhang, nước cúng. Nên để đèn sáng mỗi khi hành lễ. Có thể sử dụng vòng tay gỗ để trợ lực khi trì tụng.


    [​IMG]
    Bàn thờ trì tụng Chú Đại Bi

    Cách thức ngồi, lạy :

    Mỗi người nên có một tọa cụ, hoặc đơn giản hơn, một miếng vải sạch hay khăn bông xếp lại để làm chỗ tọa thiền. Hành giả nên ngồi theo cách thức kiết già nhưng nếu gặp khó khăn thì có thể ngồi theo cách thức bán già (ngồi xếp bằng, chân phải gác lên chân trái hay ngược lại), lòng bàn tay để ngữa hướng lên trên, bàn tay mặt để lên trên bàn tay trái, hai đầu ngón cái đụng vào nhau. Mắt nên mở hé, nếu nhắm hẵn thì dễ rơi vào trạng thái hôn trầm, nếu mở lớn thì khó định tâm.

    Lạy là nghi thức biểu lộ sự cung kính, tôn trọng. Mỗi thời đại có một cung cách khác nhau để biểu lộ sự tôn trọng. Lối lạy kiểu cũ theo cách thức của người Trung Hoa có nhiều điểm rất bất tiện, không thích hợp cho không khí thiền đường. Trước hết, với kiểu lạy này, khi hành lễ mỗi người chiếm một khoảng diện tích đáng kể đủ để có thể đứng và qùy xuống lạy, gây trở ngại cho những thiền đường nhỏ. Việc đứng lên qùy xuống gây ra những tiếng động của động tác, tiếng sột soạt của quần áo, những động tác này cũng có thể làm phóng ra những bụi bặm, vi trùng mà ta mang trên quần áo, những mùi hôi của cơ thể – nhất là trong những xứ khí hậu nóng nực-, làm mất vệ sinh, gây ô nhiễm môi trường ta cần có để thở. Chưa kể là việc đứng lên qùy xuống lộn xộn trong những tư thế rất khó coi… Cho nên, chúng ta có thể thực hành một cách lạy tương đối đơn giản trong khi hành lễ, là thiền sinh cứ ngồi theo tư thế hành thiền, kiết già hay bán già, khi lạy chỉ cúi gập đầu xuống sàn phía trước, kéo dài tư thế này một khoảng thời gian ngắn đủ để niệm một câu “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm BồTát”, xong ngồi dậy.

    Cách thức tụng đọc chú đại bi :

    Chú Đại Bi phải nên được trì tụng lớn tiếng, giọng điệu trầm hùng, nhanh và liên tục bằng cách lấy hơi từ bụng ra. Lớn tiếng ở đây không có nghĩa là ta phải la lớn lên, nhưng giọng đọc phải rõ ràng, nghe đủ tiếng, không lờ mờ, trại giọng.

    Kinh “Nghiệp Báo Sai Biệt” cho biết việc niệm Phật, tụng kinh, trì chú lớn tiếng có mười công đức sau đây :

    • Dẹp được sự buồn ngủ ám ảnh
    • Thiên ma hoảng sợ.
    • Tiếng vang khắp mười phương
    • Ba đường hết khổ
    • Tiếng đời chẳng lọt vào tai
    • Lòng không tán loạn
    • Dõng mãnh tinh tấn
    • Chư Phật vui mừng
    • Tam muội hiện ra trước mắt
    • Vãng sanh Tịnh Độ
    Thật sự, ta cũng sẽ không lo ngại cơn buồn ngủ ám ảnh. Bởi vì khi trì tụng chú Đại Bi, các vị Thiên, Long, Hộ Pháp sẽ luôn ở bên cạnh ta, khi ta rơi vào cơn buồn ngủ, các Ngài sẽ giúp đánh thức ta -mà rồi qúy vị sẽ chứng nghiệm khi thực hành trì chú một cách nghiêm túc- bằng một âm thanh như tiếng sấm nổ ở trong đầu khiến ta hoảng hồn, giật mình tỉnh thức. Thông thường sau đó ta sẽ không còn (hoặc không dám) buồn ngủ nữa. Tuy nhiên, nếu việc này xảy ra một lần thứ hai trong buổi hành Thiền, điều này có nghĩa là thể xác ta quá mỏi mệt, ta nên xin phép được xả thiền để nghỉ ngơi.

    Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt phải tụng thầm chỉ riêng cho mình nghe, hoặc chỉ nhép môi không ra tiếng như khi chúng ta đang làm việc, đi chung xe tàu với người khác, hoặc đi nằm trước khi ngủ.

    TRÌ NIỆM THẦN CHÚ ĐẠI BI ĐÚNG CÁCH (2)

    B. Nghi thức hành lễ trì niệm chú đại bi:

    Hành giả nên tự mình sắp xếp thời khoá biểu thích hợp và cố định cho việc hành thiền tu tập của mình hằng ngày, vào buổi sáng hoặc buổi tối hoặc cả sáng lẫn tối. Đức Phật dạy rằng mỗi người nên hành thiền ngày hai buổi, buổi sáng sớm lúc mới rạng đông và buổi hoàng hôn lúc ngày chuyển qua đêm, còn nữa đêm thì nên thức dậy để đọc kinh. Đó là thời khóa biểu lý tưởng cho người tu tập, tuy nhiên nếu ta không có điều kiện thì chọn một thời khóa trong ngày cũng được. Thời gian lựa chọn để thiền định vào buổi sáng hay buổi tối rất quan trọng đối với mỗi cá nhân bởi vì có người chỉ hành thiền kết quả vào buổi sáng hoặc ngược lại. Kinh nghiệm cho thấy những người còn sống đời sống thế tục thì hành Thiền vào buổi sáng sớm kết quả hơn, bởi vì buổi tối sau một ngày làm việc, thể xác còn mệt mỏi, tâm hồn lại bị vướng mắc bởi bao nhiêu chuyện lo nghĩ từ chuyện gia đình đến chuyện sở làm … rất khó định tâm.

    Ngoài ra, mỗi cuối tuần nên có một buổi hành lễ chung của những người trong nhóm; đây cũng là dịp để tự sám hối, trao đổi kinh nghiệm tu tập. Việc tu học sẽ tăng tiến nhanh chóng nếu ta có những bạn đồng tu, những thiện trí thức đúng nghĩa.

    Nghi thức hành thiền

    Hành giả ngồi xuống theo tư thế kiết già hay bán già. Điều chỉnh thế ngồi, lắc vai, lay chuyển thân thể chừng 5 lần, sửa xương sống cho ngay, chuẩn bị cho mình một thế ngồi thoải mái.

    Rải ba tiếng chuông.

    Lắng lòng thanh tịnh theo tiếng chuông ngân, hành giả thanh lọc nội tâm, tiêu trừ các tội chướng thân khẩu ý để bắt đầu bước vào nghi thức hành Thiền.

    1. Tịnh Pháp Giới và Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

    ÁN LAM (21lần)

    Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà phạ, truật độ hám (3 lần)

    2. Tác Bạch Cúng Hương:

    (Có thể có những bài nguyện hương khác nhau, hành giả có thể tự chọn bài nguyện hương quen thuộc).

    Hương thơm giăng bủa

    Thánh đức tỏ tường

    Bồ Đề Tâm rộng chẳng suy lường

    Tùy chỗ phóng hào quang

    Lành tốt phi thường

    Dâng cúng Pháp trung vương

    NAM MÔ HƯƠNG CÚNG DƯỜNG BỒ TÁT, MA HA TÁT. (3 lần).

    3. Đãnh lễ chư PHẬT, BỒ TÁT

    Nhất tâm đãnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A-Di-Đà-Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Quá Khứ Vô Lượng Ức Kiếp, Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Quá Khứ Vô Lượng Kiếp, Chánh Pháp Minh Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Thập Phương Nhứt Thiết, Chư Phật Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Hiền Kiếp Thiên Phật, Tam Thế Nhứt Thiết Chư Phật Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Thần Diệu Chương Cú. (Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Quán Âm Sở Thuyết Chư Đà La Ni, Cập Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Tôn Pháp.(Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát.(Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát(Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Tổng Trì Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Thập Phưong Tam Thế, Nhứt Thiết Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).

    Nhất tâm đãnh lễ Ma HA Ca Diếp Tôn Giả, Vô Lượng Vô Số Đại Thanh Văn Tăng, Chư Lịch Đại Tổ Sư (Chuông, 1 lạy).

    4. Đại bi phát nguyện:

    (Nếu một nhóm hành thiền chung, người chủ trì sẽ dâng lời phát nguyện này, các thiền giả chỉ nhẫm đọc theo và lắng lòng suy nghĩ theo lời nguyện.)

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con mau biết tất cả Pháp.

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con sớm được mắt trí huệ.

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con mau độ các chúng sanh.

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con sớm được phương tiện khéo.

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con mau lên thuyền bát nhã.

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con sớm được qua biển khổ.

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con mau được giới định đạo.

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con sớm lên non niết bàn.

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con mau về nhà vô vi.

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.

    Nếu con hướng về nơi non đao,

    Non đao tức thời liền sụp đổ.

    Nếu con hướng về lửa, nước sôi.

    Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.

    Nếu con hương về cõi địa ngục,

    Địa ngục liền mau tự tiêu tan.

    Nếu con hướng về loài ngã quỷ,

    Ngã quỷ liền được tự no đủ.

    Nếu con hướng về chúng Tu la,

    Tu la tâm ác tự điều phục.

    Nếu con hướng về các súc sanh,

    Súc sanh tự được trí huệ lớn.

    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm (10 lần) (chuông, lạy)

    Xong tụng đọc:

    THẦN CHÚ ĐẠI BI

    Theo http://loiphatday.org/tri-niem-chu-dai-bi-dung-cach-phan-2
     
    Chỉnh sửa cuối: 16 Tháng tám 2016
  2. tutru

    tutru Ban Quản Trị

    Tham gia ngày:
    14 Tháng mười một 2009
    Bài viết:
    513
    Điểm thành tích:
    18
    Giới tính:
    Nam
    Trì tụng Chú Đại Bi nhưng không ăn mặc chỉnh tề có tội không? Bản Chú Đại Bi nào là đúng nhất?
    Đăng ngày: 18/08/2016. Bởi: Huyền bí . Lượt xem bài: 619

    VẤN: Con là một phật tử vừa mới bước vào cửa đạo, tham lam dục vọng mê đắm rất nhiều. Nhờ được bạn bè chỉ dạy nên con cũng có trì tụng chú đại bi cũng như niệm Phật. Mỗi lần trì niệm cũng giúp con phần nào kìm chế dục vọng của mình làm con rất mừng. Tuy nhiên, vì công việc gia đình và cá nhân, con không thể có thời giờ để ngồi trước bàn thờ tụng niệm cho đúng nghi lễ. Có khi con quét nhà, dọn dẹp và không mặc quần áo chỉnh tề nhưng con niệm Phật vậy con có mang tội bất kính với chư Phật không?

    Đọc trên các diễn đàn trang nhà Phật giáo con lại thấy rất nhiều sự khác nhau trong bản chú đại bi, một số bản có sai lệch ít chữ, con không biết vậy thực ra bản chú đại bi nào là đúng nhất? Con sợ con đọc sai chú đại bi, là kim khẩu của Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ không có kết quả. Con hoang mang vô cùng, xin Sư cho con biết con nên đọc bản chú đại bi nào là đúng nhất? Con xin thành thật cảm ơn.

    [​IMG]

    ĐÁP:

    Đã gọi là “Đại bi tâm Đà ra ni”, tức là Bồ tát tổng trì các pháp và vượt qua mọi trở lực để đạt đến cứu cánh. Người tụng thần chú Đại bi là nhằm giúp cho tam nghiệp gở bỏ lần nghiệp lực tham sân si của chúng sanh, tiến đến bờ giác, an lạc, mục tiêu mình muốn đến. Vì vậy khi muốn tụng thần chú phải phát nguyện, công cứ theo thời biểu sinh hoạt trong gia đình; đến giờ tụng kinh thì tụng kinh, đến giờ làm việc thì làm việc, đến giờ ăn thì ăn… Người Phật tử khi muốn làm một việc đại sự cần phát nguyện, nguyện thực hiện công việc đạt tiêu chí. Quá trình phát nguyện tụng thần chú Đại bi, các vị nên khuôn thước theo thời biểu vào thời gian rổi rảnh, khoảng 22, 23 giờ, mỗi thời khóa tụng thần chú từ 30 phút đến 60 phút. Trước khi tụng thần chú phải thực hiện nghi thức khóa lễ do quý Thầy chế tác quy định

    Nghi thức trì tụng
    Tịnh pháp giới chơn ngôn:
    An lam tóa ha (7 lần)

    Tịnh tam nghiệp chơn ngôn:
    An ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ đạt ma ta phạ bà phạ thuật độ hám (3 lần)

    Kính lạy đức Thế tôn,
    Quy y các Phật đà,
    Nay con phát đại nguyện
    Trì tụng chú Đại bi,
    Trên trả bốn ơn nặng,
    Dưới giúp ba đường khổ.
    Những người thấy, nghe được
    Đều phát tâm bồ-đề,
    Thực hành hạnh trí huệ,
    Tập hợp mọi phước đức
    Báo thân này kết thúc,
    Đồng sanh cõi cực lạc.
    Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3 lần)

    Phật pháp tuyệt diệu,
    Cực kỳ cao xa,
    Trăm ngàn vạn kiếp
    Khó mà gặp được.
    Nay con thấy nghe,
    Lại được thọ trì
    Nguyện cầu thấu hiểu
    Ý thật của Phật.
    Kính nghe
    Đấng viên thông giáo chủ,
    Vẻ từ ái trăng tròn.
    Hầu Di Đà nơi Cực lạc phương Tây,
    Giúp Thích Ca cõi Ta bà uế trược.
    Ở trên núi báu lưu ly
    Ngự giữa sen hồng nghìn cánh,
    Quá khứ là Chánh pháp minh vương,
    Hiện nay là Quán âm tự tại,
    Ba mươi hai ứng rộng độ quần sinh,
    Bảy nạn, đa cầu, nhiều phương ứng vật.
    Sức mầu thù thắng
    Tán thán khôn cùng.
    Ngưỡng trông đức cả từ bi
    Rũ lòng thương tưởng.

    Hôm nay ngày … tháng … năm … Đệ tử … quy đầu Tam bảo, trì tụng chú Đại bi, hồi hướng công đức cầu nguyện (nguyện cầu … ) Cúi mong Phật đức từ bi không thể nghĩ bàn, ban ơn gia hộ.
    Nam mô Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán-thế-âm Bồ-tát.

    Cúi lạy Quán âm đại bi chủ,
    Nguyện lực sâu dày tướng hảo thân.
    Nghìn tay trang nghiêm khắp hộ trì.
    Nghìn mắt sáng ngời soi muôn nẻo.
    Mật ngữ phô bày trong thật ngữ,
    Bi tâm khơi dậy giữa vô tâm.
    Khiến con sớm trọn các mong cầu,
    Vĩnh viễn diệt trừ bao tội chướng.
    Long thiên thánh chúng thường gia hộ.
    Trăm nghìn tam muội trọn huân tu.
    Thọ trì, thân con quang minh tràng.
    Thọ trì, tâm con thần thông tạng.
    Rửa sạch trần lao nương biển nguyện,
    Siêu chứng bồ đề phương tiện môn.
    Con nay xưng tụng, thề quy y
    Sở nguyện như lòng thảy trọn đủ.
    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
    Nguyện con chóng thông hết thảy pháp.
    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
    Nguyện con sớm chứng mắt trí huệ.
    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
    Nguyện con chóng độ hết muôn loài.
    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
    Nguyện con sớm trọn phương tiện khéo.
    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
    Nguyện con chóng lên thuyền bát-nhã.
    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
    Nguyện con sớm vượt qua bể khổ.
    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
    Nguyện con chóng tròn giới định đạo.
    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
    Nguyện con sớm lên đỉnh niết bàn.
    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
    Nguyện con chóng đến nhà vô vi.
    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
    Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
    Nguyện con nhìn núi đao,
    Núi đao tự gãy đổ.
    Nguyện con nhìn vạc dầu,
    Vạc dầu tự khô cạn.
    Nguyện con nhìn địa ngục,
    Địa ngục tự tiêu diệt.
    Nguyện con nhìn ngạ quỷ,
    Ngạ quỷ tự no đủ.
    Nguyện con nhìn tu la,
    Ac tâm tự dập tắt.
    Nguyện con nhìn súc sanh,
    Tự chứng thành đại trí.

    Nam mô Đại bi hội thượng Phật, Bồ tát (3 lần)
    Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
    Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. An tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
    Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
    Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát bà tát đa (na ma bà tát đa), na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. An a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.
    Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. An tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha.

    (Trì tụng 3 lần, 7 lần, 21 lần, 49 lần hay 108 lần…bao nhiêu lần tùy ý).

    Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
    Đêm ngày sáu thời thường an lành,
    Tất cả các thời đều an lành,
    Nguyện đức Từ bi thường gia hộ.
    Nguyện tiêu ba chướng, trừ phiền não,
    Nguyện chơn trí huệ thường sáng tỏ,
    Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,
    Kiếp kiếp thường tu bồ tát đạo.
    Nguyện sanh cực lạc cảnh phương Tây,
    Chín phẩm hoa sen là cha mẹ,
    Hoa nở thấy Phật, chứng vô sanh,
    Bất thối bồ tát là bạn hữu.
    Nguyện đem công đức này,
    Hướng về khắp tất cả,
    Đệ tử và chúng sanh
    Đều trọn thành Phật đạo.

    Gặp được thần chú Đại bi, thì Phật tử trì tụng, được vô lượng công đức, không nên nghi ngờ đúng sai, bản thần chú thuộc Phạn ngữ (Ấn độ), người dịch thần chú không bao giờ dịch sai; chỉ có người miền Bắc và miền Nam nước ta dịch có khác theo ngôn ngữ địa phương mà thôi.

    Ví dụ bản dịch theo miền Bắc thì đọc: …Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni – bản dịch miền Nam thì đọc: …Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni.

    Bản dịch cũ: …Tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha…

    Bản dịch mới: …Tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha…
    Gia đình Phật tử phát tâm tụng thần chú ở bản kinh nào thì tụng theo bản kinh đó, không phải bị lỗi.

    HT Thích Giác Quang
     

Chia sẻ trang này