Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

Thảo luận trong 'Trao đổi kiến thức về Tử Vi' bắt đầu bởi Phuocduyen, 14 Tháng chín 2008.

  1. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Trích trong Báo KHHB 1973 do Ông Trần Việt Sơn trình bày

    v Các cách ghi trong sách về Mệnh vô Chính Diệu qúa đơn giản, thiếu xót, cho nên dễ sai lầm.
    v Có Mệnh Vô Chính diệu tốt, có Mệnh Vô Chính Diệu xấu.
    v Không phải chỉ xoay quanh cái “Đắc Tam Không, có khi đắc Tam Không mà tốt, có khi đắc Tam Không mà xấu”.
    v Tam Không là những Không nào ?

    Trên đường tìm Mệnh Vô Chính Diệu

    Chúng tôi có nhiều lá số Mệnh Vô Chính Diệu trong tay, chúng tôi cũng được nhiều vị thân hữu cho xem những lá số Mệnh Vô chính Diệu, và, xin thú thật càng xem càng như lạc vào rừng. Có những vị Mệnh Vô Chính Diệu mà thật khá, có những vị Mệnh Vô Chính Diệu nhưng thật kém. Nhưng cứ theo các sách thì Mệnh Vô Chính Diệu, cần đắc Tam Không mới “phú quý khả kỳ” – Nhưng theo các lá số, có vị mệnh Vô Chính Diệu không đắc Không nào, mà được rất khá, lại có vị đắc Tam Không, nhưng lại bị dở.

    Xem ra thì sách nói qúa thiếu xót, cho nên khó mà đúng được. Theo các sách thì Mệnh Vô Chính Diệu, cần có TUẦN, TRIỆT án ngữ và cần thêm THIÊN KHÔNG, ĐỊA KHÔNG hoặc không có những “Không” đó , cũng phải có nhiều sao tốt hội họp mới được, nghĩa là mới khá và mới sống lâu. Những cách đại cương đó, áp dụng vào các lá số, khi đúng, khi sai. Tất nhiên, cách Mệnh Vô Chính Diệu, không phải chỉ đơn thuần được giải đoán như thế, là vì theo thiển nghĩ của chúng tôi, ngoài sự kiện Mệnh không có chính diệu, ngoài các sao Không, còn có các chính tinh chiếu, các hung tinh, các trung tinh tốt khác, còn sự kiện hành của Mệnh .v.v…. tất cả những sự kiện đó còn ràng buộc với nhau để tạo nên sự tốt xấu.

    Trong mục tiêu đi tìm ý nghĩa của Mệnh Vô Chính Diệu, chúng tôi đã cần đến nhiều vị. Có vị lão thành bảo rằng Tam Không phải là Tuần Không, Triệt Không và Địa Không. Sở dĩ phải kể cả Triệt là vì danh xưng của sao đó là Triệt lộ Không vong. Có vị lại cho rằng Tam Không phải là Tuần Không, Địa Không và Thiên Không, còn Triệt là Triệt lộ chứ không phải là Triệt Không, vả lại danh xưng Thiên Không đã sẵn đó để được kể là một Không. Có những lần, chúng tôi có ghi về kinh nghiệm của cụ Ba La, nói rằng Mệnh Vô Chính Diệu mà có TUẦN, TRIỆT đóng ở đó, thì dù có gặp các sao tốt như Lộc Tồn, Tam Hóa, Tả Hữu vẫn phải kể là bị giảm đi, bởi vì TUẦN & TRIỆT làm giảm những cái xấu, nhưng cũng chiết giảm những cái tốt. Cho nên Mệnh Vô Chính Diệu mà được những sao tốt thì phí đi chứ không hay.

    Trong phần trước tôi đã đăng một bài nêu lên kinh nghiệm của Cụ Quản Văn Chính với chủ đề ”Mệnh Vô Chính Diệu có phi yểu tắc bần không ? ” . Trong đó có trình bày 3 lá số Mệnh Vô Chính Diệu mà không yểu cũng không bần. Điều đó đó càng thúc đẩy chúng tôi tìm hiểu thêm trọn vẹn những yếu tố để giải đoán trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu. Nay chúng tôi xin trình bày của cụ Thiên Lương nêu lên các kinh nghiệm của cụ, để giải đoán các trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu như sau :
     
    Last edited by a moderator: 14 Tháng chín 2008
  2. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    Những cách về Mệnh Vô Chính Diệu như sau :

    Có Mệnh Vô chính Diệu mà tốt, có Mệnh Vô Chính Diệu mà xấu. Sự kiện “Đắc Tam Không nhi phú quý khả kỳ” tức là có Tam Không thì được phú qúy một thời gian, cũng không hẳn đúng là thế mà còn phải có những yếu tố khác.

    Sau đây là những trường hợp đại cương về Mệnh Vô Chính Diệu đắc cách. Sau mỗi cách chúng tôi lại có một lá số rất đại cương để giải thích thêm. Chúng tôi xin hẹn lại trong các kỳ sau sẽ bàn kỹ đến từng cách và dựa trên những lá số.

    1- Mệnh vô chính diệu có Âm-Dương tịnh minh chiếu

    Tức là Mệnh không có chính tinh thì phải được Thái Dương, Thái Âm cùng sáng sủa chiếu đến. Mệnh tuy vô chính diệu mà không cần có Không nào được Nhật Nguyệt chiếu là đắc cách.

    Ví dụ : Lá số Khổng Minh

    [​IMG]

    Lá số Khổng Minh không có “Không” nào tại Mệnh, có Tuần và Địa Không xung chiếu, hợp chiếu có Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi. Nhờ hai ngôi Nhật Nguyệt đó mà Khổng Minh cực kỳ thông minh tài giỏi, và cũng có công danh lớn (còn những sự kiện khác, hạn hành xấu, tốt, thọ hay yểu …. Là do những yếu tố khác).

    Còn đây là một lá số khác cũng được cách tương tự, có Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu vào cung Mệnh. Đương số là một sinh viên du học có nhiều triển vọng. Có Tuần tại Mệnh giảm bớt cách tốt, nhưng được thế cũng đủ đẹp, đâu phải đạt tới như mạng số của Khổng Minh.

    [​IMG]

    * Lá số : Khổng Minh
    * Lá số : Giáo Sư Bông

    Lá số Mệnh Vô Chính Diệu của GS Bông, so sánh với Lá số Khổng Minh, có những sự kiện kém hơn là vì Tuần đóng tại Tuất Hợi làm giảm Thái Âm và Hao làm hao giảm Thái dương. Ngòai ra là vị thế của Suy tại Mệnh so với vị thế Quan Đới tại Mệnh của lá số Khổng Minh. Thêm nữa là Mệnh của GS Bông có Kình Dương và Tang Môn.(Phần so sánh hai lá số này xin độc giả đón xem phần kế tiếp)

    - Ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt có thêm các cách quý khác thì hay vô cùng.
    Như lá số Đức Trần Hưng Đạo, tuổi Mậu Tý sinh ngày 30 tháng 12 giờ Ngọ.
    Lá số minh họa : Đức Trần Hưng Đạo

    Mạng Hỏa, Vô chính diệu, có Tuần, được Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu nên thông minh, danh vị xứng đáng, Hồng Việt, Tả Hữu Khoa Quyền (văn võ song toàn, đức độ, chính minh quân tử (Song Long, Quan Phúc chiếu mệnh) không có hung tinh ở cung Mạng, chỉ nhờ Nhật Nguyệt chiếu. Tuần thu hút Nhật Nguyệt tịnh minh, lại thêm nhiều trung tinh tốt.
     
    Last edited by a moderator: 19 Tháng chín 2008
  3. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    2- Mệnh Vô Chính Diệu có hung tinh đắc địa thủ Mệnh

    Mệnh Vô chính diệu, nhưng :

    – Có hung tinh đắc địa thủ mệnh, hung tinh này phải hợp hành của Mệnh.
    – Lại phải không có Tuần, Triệt mới được (Có Tuần, Triệt thì phá mất cái thế đẹp của hung tinh đó).

    * Một vài tỷ dụ :
    – Người Hỏa Mệnh có Thiên Không thuộc Hỏa là hợp cách. Nhưng Thiên Không phải đắc địa, và không được có Tuần, Triệt tại đây.

    – Trường hợp Đà La độc thủ tại mệnh không có chính diệu, nhưng có Đà La đắc địa và hợp với hành của mệnh (miễn là không có Tuần Triệt phá đi). Phải không có hung tinh mạnh nào khác, mới kể là Đà La độc thủ.

    - Lá số Ông Nguyễn Văn Vĩnh Mệnh ông tại cung Thân, Vô chính diệu. Tại đây có Tuần, có Đại Hao, Tang Môn, Địa Kiếp. Ông Vĩnh, Mệnh Mộc, Tang Môn thuộc Mộc và đồng hành với Mộc (sẽ bàn kỹ lá số này ở phần kế tiếp). Ông được ăn vào sao này. Tang Môn ở cung Thân không đắc địa, nhưng được Tuần đóng ngay tại đây nên Tang Môn sáng ra. Còn Hao và Địa Kiếp là Hỏa, bị Tuần là Hỏa chế ngự bớt, cho nên Tang Môn mới được nổi bật lên, phù cho ông Vĩnh. Tuy nhiên cũng vị sự kiện Tang Môn không tự nó phù cho đương số, mà phải nhờ đến TUẦN làm sáng ra mới có được ảnh hưởng tốt, cho nên Ông Vĩnh lên xuống thất thường.

    [​IMG]

    * Nên ghi thêm rằng : hung tinh phù trì cho Mệnh phải cùng Hành với Mệnh mới tốt. Sinh cho mệnh thì không bằng. Còn Kình, Hình tuy mạnh, nhưng vì chỉ chiếu sang nên kể là phụ.
     
    Last edited by a moderator: 19 Tháng chín 2008
  4. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    3- Đắc Tam Không nhi phú qúy khả kỳ

    Bản Mệnh có một không, đắc địa tọa thủ, còn hai không ở Tam hợp chiếu sang, là đắc cách Tam Không. Đây mới thật đúng là cách Mệnh Vô Chính Diệu đắc Tam Không như các sách nói. Cũng là cách phú qúy. Nhưng phải là Hỏa mệnh mới được ăn. Là vì các sao Không thuộc Hỏa chỉ phù trì cho người Mệnh Hỏa. Kế đó mới là Mệnh Kim được hưởng. Phú có ghi :

    “ Hỏa phùng Không tắc phát, Kim phùng Không tắc minh”

    Ở đây,Không phải ở ngay cung Mệnh, chứ không phải chiếu Mệnh

    Ngoài các Mệnh Hỏa và Kim các Mệnh khác không ăn. Như người Mộc Mệnh, thì Hỏa đâu phải của mình ?. Mộc sinh Hỏa, mình còn bị điêu linh là khác nữa.

    Ghi thêm : cụ Thiên Lương cho rằng TRIỆT không phải là KHÔNG, vì TRIỆT là TRIỆT LỘ, không phải là Triệt không. BA KHÔNG phải được kể là TUẦN KHÔNG, ĐỊA KHÔNG VÀ THIÊN KHÔNG (Đây cũng là kinh nghiệm của cụ Ba La)

    [​IMG]
     
    Last edited by a moderator: 19 Tháng chín 2008
  5. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    4- Mệnh không chính diệu hợp chiếu có xung sát

    Mệnh Vô chính diệu, lại không có hung tinh đắc cách hợp hành để hưởng, lại bị các sao hung sát từ tam hợp chiếu vào là nguy hại. Đây là trường hợp rất cần đến TRIỆT, phải có TRIỆT mới giải tỏa được. Phú ghi :”Tam phương xung sát, đắc nhất Triệt nhi khả bằng”. TRIỆT mà ở ngoài thì chỉ giải được xung sát ở một cung thôi. TRIỆT phải đóng ngay ở Mệnh mới phá được các xung sát từ ngoài vào. Nhưng cung Mệnh phải Vô chính diệu và không có hung tinh đắc chứ nếu có hung tinh đắc cách thì TRIỆT lại phá luôn cách hay đó.

    [​IMG]
     
    Last edited by a moderator: 27 Tháng chín 2008
  6. vochinhdieu79

    vochinhdieu79 New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng ba 2008
    Bài viết:
    111
    Điểm thành tích:
    0
  7. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    5- Mệnh có Không, nhưng lại có Hung tinh đắc cách và Trung tinh đắc cách

    Bên trên đã nói (trường hợp ba) đến cách “Đắc Tam Không”. Cách đó có thể bị phá đi bởi sự kiện lại gặp thêm trung tinh hay hung tinh đắc cách. Mệnh Vô chính diệu, có 1 Không tại mệnh và 2 Không ở 2 cung Tam hợp chiếu vào là đắc cách, nhưng chỉ có thế thôi, hoặc là thêm những sao thường mà thôi. Chứ nếu lại thêm những hung tinh đắc cách và những trung tinh tốt, thì lại giảm kém. Bởi vì những hung tinh và trung tinh tốt ấy, gặp phải KHÔNG thì đương nhiên bị giảm ảnh hưởng. Cách đó gọi là “KIẾN TAM KHÔNG”. Mọi sự, chỉ là phù vân, phú quý có cũng không bền.

    * Đây là trường hợp mà Cụ Ba La đã nói đến. Cách đắc Tam Không đã là tốt rồi, nhưng lại được cả lô trung tinh tốt (hoặc hung tinh đắc cách) thì lại phèo. Đã không được hưởng các cái tốt đó, mà những cái tốt ấy lại bị trừ đi ở các cung khác.
     
    Last edited by a moderator: 27 Tháng chín 2008
  8. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    6- Mệnh có hung tinh khắc Mệnh

    Mệnh Vô chính diệu phải kiếm ngay đến hung tinh tại Mệnh. Thấy hung tinh tại đây không phù cho Mệnh như trong trường hợp 2, mà lại khắc Mệnh, nhìn ra các cung ngoài chiếu vào thấy các sao KHÔNG thì các sao KHÔNG này không lợi gì. Đó là trường hợp NGỘ KHÔNG : tức là BẦN & YỂU.

    Mệnh đã bị hung tinh khắc là đã mệt rồi lại thêm KHÔNG chiếu vào, thành thử những ảnh hưởng xấu phù nhau, mới thành ra bần và yểu.

    7- Một trường hợp tốt nhưng Mệnh có Tuần

    Mệnh vô chính diệu có hung tinh đắc cách hợp hành, hợp chiếu lại thêm trung tinh đắc cách là tốt. Nhưng nếu Mệnh có TUẦN thì lại kể như hão. Phú có ghi :”Tứ chính giao phù, kị nhất KHÔNG nhi trực phá “.

    8- Mệnh không có KHÔNG nào

    Lại có trường hợp Mệnh Vô Chính diệu mà không có KHÔNG nào (không có KHÔNG tọa thủ hay chiếu) cũng không có hung tinh. Trường hợp này phải xem các trung tinh. Nếu thấy nhiều trung tinh tốt mới khá được.

    Ví dụ Lá số độc giả : Lá số
     
    Last edited by a moderator: 27 Tháng chín 2008
  9. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    * Vài điều ghi chú thêm :

    Tuy rằng gặp trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu thì phải xét theo các trường hợp trên mà đoán, nhưng vẫn KHÔNG ĐƯỢC QUÊN : vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn, vòng Tràng Sinh. Phải nắm vững vòng Thái Tuế mà suy đi, tức là đoán theo vị trí Mệnh tính theo vòng Thái Tuế (Xin tham khảo thêm kinh nghiệm về vòng Thái Tuế - Tử Vi Nghiệm Lý Tập 1 của cụ Thiên Lương).

    Người Mệnh Vô chính diệu là người hay thay đổi, là vì không có chính tinh làm nền tảng cho tính tình và cuộc đời. Nhưng đồng thời, người đó cũng có cuộc đời xét theo vị trí Mệnh. Trong trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu lại cần phải theo vị trrí Mệnh theo vòng Thái Tuế mà đoán.

    Như ông Nguyễn Văn Vĩnh, Mệnh Vô chính diệu, cũng phải xét Mệnh có Tang Môn (trong vòng thái tuế), thì ông là người lo toan tính toán. Thân của ông có Bạch Hổ, ông là người cứ lao đầu làm việc, rất thực tế.

    Thí dụ khác : Vua Lê Lợi - Lá số minh họa . Mệnh Vô chính diệu, đồng thời Mệnh đóng tại Tam hợp Thái Tuế : Vua tin ở sứ mạng của mình và cứ chiến đấu, chiến đấu đến cùng.
     
    Last edited by a moderator: 3 Tháng mười 2008
  10. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    Lá số danh nhân : Nhà Văn kinh doanh Nguyễn Văn Vĩnh

    Luận giải Cụ Thiên Lương (Báo KHHB)

    * Đặc điểm : Lá số Vô chính diệu - Mệnh TUẦN Thân TRIỆT

    Dưới thời Pháp thuộc, ở mỗi miền Việt Nam, Trung cũng như Nam hay Bắc đã khai sinh ra những nhân vật có thể nói là nhân tài thườg đi có cặp. Khắp nước người dân tôn kính cụ Phan Bội Châu bao nhiêu thì luôn luôn không sao quên được lòng ngưỡng vọng cụ Phan Chu Trinh, ở Miền Nam một khi đã nghĩ đến ông Bùi Quang Chiêu là liên tưởng ngay đến ông Nguyễn Phan Long, thì ở Miền Bắc cũng vậy đã nói đến ông Phạm Quỳnh là nhớ ngay đến ông Nguyễn Văn Vĩnh.

    Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuổi Nhâm Ngọ (1882) sanh ngày 30 tháng 4, giờ Dậu, nghĩa là ông hơn ông Quỳnh 10 tuổi.

    Lá số minh họa

    Tuổi Nhâm Ngọ Mệnh Vô Chính Diệu ở cung Thân. Thân đắc Đồng Lương ở Dần. Ở đây có thể nói hai vị trí đi gióng đôi liên hệ mật thiết với nhau, mặc dầu Tang Môn vẫn là thế nghịch của Bạch Hổ và Thân cung vẫn ở thế đàn áp Dần cung.

    Người này sanh ra đời ở hoàn cảnh cứ canh cánh lo âu tính toán (Mệnh) mà khi đã tính toán rồi thực hành lao đầu làm việc (Thân)

    Mệnh Vô Chính diệu thấy Tang Môn nằm chình ình (Mộc) nghiễm nhiên đóng vai chủ động cho đương số (Mộc Mệnh). Người ta thường nói gặp Tang Môn, Bạch Hổ đắc địa ở Mão Dậu, Dần Thân, cũng nên phân tách cho rõ hơn : Bạch Hổ (Kim) đắc địa ở Thân Dậu (Kim) còn Tang Môn (Mộc) đặc địa ở Dần Mão (Mộc) thì Tang Môn ở đây là trong nghịch cảnh hội với Đại hao, Địa Kiếp (Hỏa) một bầy hung hãn dẫn đầu là hai sao này đều đắc địa phải kể là đắc Tuần ngự chế. Nếu là Triệt thì hết thảy từ Mã, Trường Sinh, Hao, Kiếp, Tang Môn gì đều tan nát hết. Với cái Mệnh Vô Chính diệu đắc Tuần này (tạm kể vì chỉ có Hỏa Mệnh hay Kim Mệnh mới toại nghiệm) bảo toàn được chủ đích là sự lo toan cho Thân kinh doanh sự nghiệp dầu có bôn ba đây đó cũng xông pha không quản ngại.

    Cũng nên kể Thiên Mã này chính lẽ không phải của ông, bằng ông cố xử dụng thì chỉ mất công, sự nghiệp trồi sụt không có gì là bền vững mà ông còn lao tâm khổ xác vì Mộc Mệnh.

    Ngắm đến Thân ở Dần, Đồng Lương đắc cách phải nhìn nhận ông được thành danh là vì Đồng Lương được Cơ Âm cũng đắc cách hội chiếu. Bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương tối hảo chỉ có ở Dần đủ cả nghĩa một sức thông minh hơn người và một văn nghiệp xuất chúng. Nhưng nào ông có theo hẳn văn nghiệp (Đồng Lương ngộ Triệt). Định mệnh đặt ông là phải lo âu toan tính, trí óc ông là làm việc thực tế kinh doanh cho nên lời văn ông cũng giản dị bình thường hoạt bát, không chứa đựng nhiều từ ngữ nặng nề như một số đồng nghiệp cùng thời. Ngay đến tư tưởng ông cũng thực tế hơn ông Phạm Quỳnh chủ trương lập luận bênh vực thuyết Lập Hiến muốn giữ phần nào chủ quyền hình thức. Trái lại ông Nguyễn Văn Vĩnh nói huỵch toẹt là đã bị trị thì nên áp dụng chương trình trực trị cho rồi, ăn thua ở chỗ thực tâm của kẻ cầm quyền và dân trí, đừng nên nửa trăng nửa đèn thành không đi đến đâu. Có lẽ vì thế người đời mới gán cho cả hai ông là thân Pháp bán nước

    Cái nỗi khổ tâm của ông Phạm Quỳnh - Lá số - là tin vào lòng nhân hậu và khả năng của mình (Thiên Lương Tả-Hữu). Nước dầu đã mất, nhưng tiếng nói của dân Việt còn là còn … Đối với một văn nhân trong nghịch cảnh (Tuổi Nhâm ở Hợi) kể cũng đáng thương. Ông Vĩnh cũng viết ”Nước Việt Nam sau này hay còn dở là ở chữ quốc ngữ “. Hai ông cùng chủ trương nên bảo toàn tiếng nói mẹ đẻ làm sao cho nó đừng mất và phổ biến rộng ra là được, cũng như cụ Phan Chu Trinh thường nói :”điều làm trước nhất là khai thông dân trí đã”.

    Cái chủ trương kinh doanh của ông Vĩnh không phải là không có hậu ý (Thân trong tam hợp tuổi) không phải là không chính nghĩa. Chỉ vì Thân (Đồng Lương) bị Triệt mà sự nghiệp của ông không toại chí, khi trồi khị sụt (Mã mượn). Với ông, ta thấy con đường văn nghiệp chỉ là phương tiện, cái chí hướng kinh doanh mới là mục đích xa xăm của ông. Không phải là ông không biết thân phận của kẻ mất nước (Mệnh ở thế Tang Môn) cho nên ông cố hành động theo con đường chính nghĩa (Bạch Hổ) riêng tư của ông, tưởng không phải là không có tâm hồn với đất nước.

    Đời ông đi vào cung Tuất là giai đoạn bắt đầu làm báo (1908) đạt được chí hướng của mình với nhiều hy vọng sau này (Thái Âm miếu đắc Long Trì). Bị Đà La không hẳn là La Võng. Nhưng cũng là một trong Tam ám của Thái Âm chỉ phần nào ngăn trở chậm bước tiến thân thỏa mãn của ông.

    Bước sang cung Điền chỉ là giai đoạn khai sơn phá thạch giật gấu vá vai đem cái chí kinh doanh ra thực hành rầm rộ. Theo một số người cộng sự cho biết ông làm việc ngày đêm bất kể, chưa được hưởng thụ gì thì tuổi 45 đã đến rồi cứ một ngày một lội giòng nước ngược luôn cho đến năm 54 tuổi (1936) ông trút hơi thở cuối cùng ở Hạ Lào.

    Đây cũng là một trường hợp tuổi Nhâm vận hành gặp Lộc Tồn, Lưu Hà, Kiếp Sát, Thiên Không, ông mới chỉ là gây dựng sự nghiệp còn thiếu trước hụt sau. Nếu được đầy đủ cho mình được hưởng thụ ngôi cao phú qúy, có lẽ cao sanh đã đoản mệnh sớm hơn , cho hay đó chỉ là con đường rẽ mà thôi. Vì THÂN ông bị TRIỆT thì làm sao mở máy chạy tốc độ không khỏi trục trặc ban đầu hay bước đầu tiên phải mất nhiều thời giờ hơn người khác. Một phần Mệnh ông (Mộc) đáo Thủy cung không đến nỗi đoản mau phải chờ đến năm giao vận là năm tính sổ 10 năm thiếu đủ phải thanh toán cho sòng phẳng.

    Người Mộc Mệnh Vô Chính Diệu thật khó kiếm được hung tinh đắc địa thủ vai cho xứng làm nên trò hơn Tang Môn đắc TUẦN. Còn Thiên Mã ở đây chỉ là Mã mượn của người Kim Mệnh, cũng nhờ TUẦN cho ông cho ông được phần nào nghị lực. Đại Hao, Địa Kiếp ngộ Tuần cũng phần nào tiết chế sự tiết khí của Mệnh. Nhưng cung Quan Cự Môn Kình, Hình không có gì ngăn cản, Thái Dương vượng địa cùng Phượng Riêu đắc cách ở Tài tức là cát hung chung chiếu dàn cảnh kiến nhất Không, cuộc đời bôn ba như mộng ảo, phú qúy là phù vân. Chỉ tiếc cho Thân ông được Thiên Lương vượng địa bị Triệt, cái thế chính nghĩa (Thái Tuế) đứng với Thiên Cơ đắc địa hẳn ông đã tính toán với một hoài vọng lớn lao cho dân cho nước, đến khi nhắm mắt qua đời ông ôm theo không một ai hiểu thấu (Thái Âm miếu bị Đà ám).

    Có phải cái dự tính của ông Nguyễn Văn Vĩnh hãy còn trong vòng bí mật mà tôi tin là không phải như người ta đã nghĩ về ông./.
     
    Last edited by a moderator: 3 Tháng mười 2008
  11. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    Lê Thái Tổ : Một vị đế vương Mệnh vô chính diệu

    Luận giải Cụ Thiên Lương (Báo KHHB)

    Thái Tổ khởi nghĩa tại đất Lam-Sơn (Thanh-Hóa) ròng rã 10 năm đánh quân minh sau 13 năm đô hộ, khai sáng cho một triều đại gần 4 thế kỷ (360 năm). Ngài trị vì được 6 năm và thọ có 49 tuổi (50 tuổi là lão, 49 tuổi là yểu).

    Nói đến triều đại và công nghiệp của Thái Tổ, ai ai cũng phải công nhận là 1 triều đại chính thống có công đuổi xâm lăng lấy lại độc lập cho giang sơn đất nước. Sau này bao lần vật đổi sao dời hết Nguyễn đến Trịnh, rồi sau đến Tây Sơn vẫn lấy danh nghĩa là phù lê diệt tặc (Nguyễn Huy Trịnh).

    Vậy thời lá số của Ngài hẳn là đặc biệt, mà đặc biệt thật : Ngài tuổi Ất Sửu, sanh ngày 6 tháng 8 giờ Tí. Thân Mệnh đồng cung tại Dậu, vô chính Diệu, không có một không nào thủ mệnh hay chiếu.

    Lá số Lê Thái Tổ : Lá số minh họa

    Đây là 1 cái mệnh đặc biệt, tuy vô chính diệu nhưng qủa là đắc chính diệu. Kim mệnh âm nam đắc Bạch Hổ Dậu cung cùng Phi Liêm, Phượng Các, Giải Thần đủ tư cách một nhà đại ái quốc, đại anh hùng cứu quốc, cắn răng chiến đấu, hăm hở dũng mãnh vô cùng.

    Đối cung Cự Cơ, Lộc Tồn, Hóa-Lộc là cả một cái thế cai trị độc đóan thực dân bóc lột vững như thành đồng vách sắt. Nhưng nhìn vào cái thế cờ, Thái tổ tuy là yếu, vẫn ở cái thế lợi là Kim khắc Mộc với bộ Tứ hóa, mỗi vị trí đều có cái đắc dụng riêng như Khoa ở Ách (Tử tướng ngộ hình đắc Khoa khả giải), Kỵ ở quan ( Nhật Nguyệt đắc địa, Thanh Long, đắc địa Hóa Kỵ).

    Trong 10 năm tranh đấu, tám năm ở cung Ngọ bị khắc nhập cả thời gian lẫn không gian rất nên nguy khốn vô cùng. May là người vô chính diệu gặp hạn Sát Phá Tham đắc địa nhưng đều bị kiềm chế hết thảy (Thất Sát ngộ Triệt, Phá Quân ngộ Tuần, Tham Lang ngộ Thiên Không) nên cứ cù cưa và phải chịu đựng sự gian lao, chờ cơ hội thuận lợi.

    Phải chờ qua Đại vận ở Tỵ cung và cũng phải đến 2 năm sau mới thành công và ở ngôi được 6 năm đến năm 49 tuổi là băng hà.

    Tam Hóa liên châu ở Thìn phài công nhận là quý, là tấm bào quốc huân chương cho người được cái hãnh diện mang nó đang đứng ở chỗ thanh thiên bạch nhật, ở Ách cùng với Khoa giáp Quyền Lộc đã cứu Vương bao nhiêu lần, nhất là trận bị bao vây ở Chí Linh tháng tư năm Mậu Tuất hết lối thoát, nhờ có ông Lê Lai đổi áo Vương mới trốn được.

    Thiên Đồng là phúc tinh đóng ở Phúc đức là đúng cách, nhưng tại sao lại bị Tuần làm giảm cả bộ Tướng Ấn. Nó là một uẩn khúc của Thái Tổ nhà Lê sau 10 năm chinh chiến, không muốn kéo dài cuộc can-qua, sai sứ sang Tàu cầu phong, nhưng vua nhà Minh không chịu, cứ bắt phải để con cháu nhà Trần làm vua nuớc nam mới được. Năm lần bảy lược sự quy lụy đó đủ giáng cho thấy là Thiên Đồng, Tướng ấn bị Tuần là thứ cách.

    Có phải là cái nghiệp của những nhà khai sáng cho mỗi triều đại, sau khi đã bình định xong đất nước cứ hay làm hại công thần, những người đã cùng mình vào sanh ra tử nằm gai đếm mật, để đưa mình lên 1 địa vị tôt đỉnh cao sang.

    Vua Lê lợi cũng không thoát khỏi cái nghi ngờ qùang siên ấy, nên đã giết oan hại ông Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo chỉ vì sự gièm pha của phường mua rối. Có lẽ đó cũng là luật bù trừ của cán cân công lý thiêng liêng nên ngài phải chịu mất sớm một năm trước khi đến cõi thọ.
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng mười 2008
  12. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    Quân Sư Khổng Minh có ý phá định mệnh

    Luận giải Cụ Thiên Lương

    KHỔNG MINH : 1 trường hợp để giải đoán Mệnh Vô Chính Diệu

    Nói đến Khổng Minh thì khắp vòm trời Đông Nam Á và ngày nay có thể nói hầu hết khắp thế giới đều biết và công nhận đó là một quý nhân, một vị quân sư có suy tính không ai có thể lường trước được. Thánh Thán và Mao Tôn Cương là hai nhà văn nổi tiếng về phê bình nhân vật của Trung Quốc đã phải hạ bút cho là một kỳ nhân đệ nhất trong “Tam tuyệt” thời tam quốc đứng trên hai người là Tào mạnh Đức và Quan Vân Trường.

    Trước đây tôi đã đem sức mọn ra phác họa hai bức tranh của Tào Tháo và Quan Công và tự thấy qúa thô sơ không tô điểm diễn tả nổi được phần nào tư cách chính yếu của cổ nhân. Nay đối với Khổng Minh, thật tình không biết làm sao trình bày cái tài tình của người còn gấp trăm ngàn lần đắc sắc hơn. Nhưng lòng đã nguyện, nên cũng cố gắng diễn tả trình bày và xin lỗi qúy vị lão thành trong làng bỏ qua nếu có điều gì không được thấu đáo kỹ càng.

    Quân sư Khổng Minh tên thực là Gia cát Lượng sinh năm Tân Dậu (năm 181 dương lịch) ngày 10 tháng 4 giờ Tuất.

    Lá số minh họa : Khổng Minh

    Tuổi Tân Dậu, Mệnh lập ở Mùi, Thân ở Mão là hai vị trí của người không được hài hài lòng với ý chí của mình từ thiên định mệnh cho đến chí phấn đấu. Phải chăng ông là người sinh ra không gặp thời, đâu phải vô tài. Cái tài của ông là cái tài của một tuyệt thế kỳ nhân (Tả, Hữu, Thai, Thanh Long, Lưu Hà) với sự thông minh xuất chúng (Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi) đồng chiếu Mệnh Vô Chính Diệu ở Mùi). Cốt cách của ông là Thiên Lương (Mệnh Mộc) cùng với Thái Dương là thiên chức của người lãnh phận sự phò tá cho các vị nguyên thủ quốc gia (Quân sư, Thừa Tướng). Người ta thường nói Mã ở Hợi là Mã hết đường chạy, sự thực với Khổng Minh Mộc Mệnh đối với cung Hợi (Thủy) Mã không phải là không đắc dụng, khiến ông thành một vị ngoại trưởng có tài thuyết phục người ta cùng với Điếu Khách ở Mệnh. Thiên Mã này tài bồi nghị lực, ông càng thọ đắc bao nhiêu, ông càng lao tâm khó nhọc, ông càng cố gắng mẫn tiệp (Mã+Linh) bao nhiêu càng đưa ông lâm cảnh thân thể hao mòn gần đất xa trời (mệnh Mộc tiết khí Mã-Linh). Thật là một tấm gương vĩ đại của một Thừa Tướng tận tụy về công vụ mà quên hẳn cái xác phàm nhân của mình.

    Người có Tả Hữu nhập Mệnh là người có tài quán xuyến mọi vấn đề, thấu hiểu cả văn lẫn võ, được Nhật Nguyệt tịnh minh hội chiếu mà Mệnh lại ở thế vô chính diệu là cả một sự mênh mông bao quát, tức là có thể nói ông thấu hiểu hết thảy mọi sự việc từ hữu hình đến vô hình, từ vấn đề nhân sự đến thiên sự.

    Từ lúc còn là thư sinh bạch diện ẩn dật ở núi Ngọa Long, ông đã phân tách trình bày đủ lẽ cái thế tàn của nhà Hậu Hán để Lưu Bị biết, rồi ra cái sức chống đỡ của thế nhân cũng chỉ được phần nào có nghĩa là đất nước có gặp người tài ba có khôn khéo cũng chỉ giữ được một phần ba. Cuộc gặp gỡ hai nhân vật này chứng minh cái thế chính trị sáng suốt của Khổng Minh bằng bộ Tả Hữu, Âm Dương, Thiên Mã nói lên hết thảy mọi sự việc của suốt một đời ông, một cái tài tuyệt luân của một vị Thừa Tướng, một vị quân sư điều khiển ba quân, thêm cái tài vô hình huyền bí là ông thấu thiên cơ, ông là một vị thánh sư về tướng số.

    Ông không biết sự biến chuyển của cơ trời, làm sao ông cầu được gió Đông Nam để thiêu đốt trăm vạn quân Tào ở Xích Bích. Sự cầu đảo gió này không biết ông có tài thực sự khiến thay đổi được khí trời trong cảnh trái thời tiết, hay ông tinh thông về thiên văn biết đến giờ đó có gió lạ ông làm trò cầu đảo để khuất phục nhân tâm. Cũng như cái trò mượn 10 vạn mũi tên của Tào Tháo để bắn quân Tào Tháo. Nếu không biết ngày giờ đó sa mù, quân Tào không dám xông trận chỉ lấy cung đem ra bắn loạn sà ngầu khi có báo động, chỉ trong mấy tiếng đồng hồ ông có đủ số tên đem nộp cho Chu Du để cho quân có đủ tên bắn giết quân Tào khi lâm trận Xích Bích. Tôi tưởng hai sự việc này tỏ ra ông thấu hiểu thiên văn một cách qúa tài tình.

    Nguỵ Diên là một viên thượng tướng được liệt đứng liền sau Ngũ Hổ, lúc mới bước chân vào ra mắt Huyền Đức xin qui hàng. Khổng Minh quát võ sĩ đem ra chém đầu liền. Ông nói người này có xương trái khớp ở gáy tức là tướng hình của người phản trắc không nên để. Theo tôi nghĩ không biết Khổng Minh có tài coi tướng giỏi hay không hay đó chỉ là một cách hành xử răn kẻ làm tôi không nên hai lòng, vì Nguỵ Diên vừa mới giết chủ là Hàn Huyền đem thành Tràng Sa đến dâng cho Lưu Bị để làm món qùa tiến thân.

    Những sự việc trên đây là sự việc đứng về phương diện vô hình huyền bí. Còn như mưu mẹo thực hư, hư thật không biết đâu mà lường với Khổng Minh.

    Bắt Tào Tháo trên con đường nhỏ Hoa Dung là một tình tiết dàn cảnh đến Tào Tháo là một nhà quân sự có hạng cũng phải mắc, phải kể là qúa tài tình: Một đám tàn quân bại trận thì không khi nào dám ngang nhiên chạy trên đường lớn là chỗ dễ bị phục kích, tất nhiên con nhà tướng phải cho binh tháo lui theo đường hẻm mã trong đường hẻm thấy khói lên, Tháo cho là nghi binh để nhử mình chạy qua đại lộ, vậy cứ tiểu lộ chạy là thoát, ai ngờ tiểu lộ nghi binh hóa ra thật có Quan Vân Trường đứng chận. Tháo đành bó tay chịu trận. Những sự hành quân của Khổng Minh luôn luôn khiến đối phương không biết đâu mà tính.

    Những điều mà tôi muốn trình bày bằng lá số này là Khổng Minh coi nhân thế không đối thủ, mà đối thủ chính cống kia là cao xanh, là trời, thượng đế nên Khổng Minh có ý kình phá định mệnh.

    Biết nhà Hán đã hết vận mà còn cố công gánh vác một thời gian nữa cho Lưu Bị từ một vị hoàng thân đã trở thành một thường dân làm nghề dệt chiếu bán dép có tinh thần muốn bảo tồn đế nghiệp chiếm lại được phần ba quốc thổ.

    Đương giữa mùa Đông rét cóng chỉ có gió bấc lạnh lẽo làm sao có được gió Đông Nam. Ông cầu đảo mà được chẳng là tài cướp được quyền tạo hóa làm cho đại Đô Đốc Đông Ngô là Chu Du kinh hãi phải than rằng : Người này có phép cướp quyền trời đất. Nếu để sống ắt gây tai họa cho Đông Ngô, ta phải giết ngay đi để dứt mối lo sau này.

    Biết mệnh mình đã hết, cố tình nhường tinh cầu thọ lấy thêm 12 năm nữa mà vụ đốt hang thượng phương định thiêu chết ba cha con Tư Mã Ý trong đó có Tư Mã Chiêu là cha của Tư Mã Viêm sau thành Tần Võ Đế thống nhất đất nước. Trong lúc lửa cháy bốn bề, địa lôi nổ tung từng đám đất thì trời mưa như trút nước. Người đời sau có câu : Địa lôi chống sao lại thiên lôi, lửa của người làm sao chống lại nước của trời. Những sự việc này Khổng Minh cố thực hiện mà không thành chẳng qua đã có định mệnh là cái vị trí của Thân ông ở Mão (Tuế Phá). Ông quật khởi chống hẳn tạo hóa đi ngược lại định mệnh không cho phép ông thỏa mãn tức là vị trí Hợi Mão Mùi của người Tỵ Dậu Sửu nếu là thường nhân dễ gây nên loạn ý làm xằng.

    Đem Quản Di Ngô và Khương Tử Nha ra sánh với Khổng Minh là một việc khó trình bày, vì hai ông này là người gặp thời phò chúa cũng có thời là Tề Hoàn Công và Chu Văn Vương, kẻ nên nghiệp bá người thành nghiệp đế, hai ông được rạng danh với công nghiệp sáng ngời.

    Trường hợp của Khổng Minh là trường hợp của Văn Trọng nhà Thương phò vua Trụ và Phạm Tăng phò Hạng Võ, một khi đã được người lấy lễ trọng đãi mình, mình chỉ còn biết đem hết sức lực khả năng ra phục vụ và cũng không đành lìa bỏ như tướng Trần Quang Diệu quyết tâm phò vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn để rồi rốt cuộc cùng nhà vua bị thảm hại. Có phải người đời hay trọng kẻ phù thịnh, mấy ai đã tán thưởng đến người phò suy, cũng không nên nhắm thành bại để xét tài năng của cá nhân. Gia Cát Võ Hầu là một quái kiệt đáng phàn nàn về cảnh ngộ, đáng kính về tư cách, đáng trọng về tài ba./.
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng mười 2008
  13. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    Giáo Sư Nguyễn Văn Bông thực là một nhân tài đáng tiếc !.

    Cụ Thiên Lương (Báo KHHB)

    Trưa ngày 10/11/1971 sau khi được tin GS Nguyễn văn Bông bị nạn, lòng tôi thương cảm cũng như đối với bao nhiệm vụ khác chẳng may cho đất nước cho nạn nhân. Chừng một tháng sau đó, có một ông bạn cho xem lá số tuổi Kỷ Tị , sinh ngày 25 tháng 4, giờ Tuất (02/06/1929) nói là lá số của G.S Nguyễn Văn Bông. Sau khi nhìn vào một vài điều, tôi thấy chưng hửng như mất một báu vật gì trên tay.

    Lá số : Giáo Sư Bông
    Cầm lá số tôi có thể nói thẳng ra rằng rất hiếm, đời tôi chưa có bao giờ được tiếp chuyện ngay với người có lá số như thế, có chăng là lá số cổ nhân Quân sư Gia Cát Võ Hầu đời Tam Quốc, tuổi Tân Dậu, sinh ngày 10 tháng 4 giờ Tuất.

    – Lá số minh họa : Khổng Minh
    Khổng Minh xưa kia là một vị quân sư trước sau không người so sánh. Ngày nay GS Bông có được qúy cách phần nào so với vị quân sư đó phải kể là một nhân tài, vinh hạnh cho ông.Nói về cách, thì Khổng Minh tuổi Tân Dậu, Mệnh Vô Chính Diệu, được Nhật Nguyệt chiếu. Thân đóng ở Mão ngộ Hóa Quyền có quyền chỉ huy để giữ thế chống lại Bắc ngụy và Đông Ngô là một nước đối nghịch. Ông hơn GS Bông về phương diện chính là ở chỗ đó.

    Tuổi Tân Dậu, Mệnh ở Mùi, Thân ở Mão là cái vị trí của người có cuộc sống không hài lòng. Khổng Minh vì ân tình nghĩa lụy với Lưu Bị, chỉ còn biết đem hết năng lực của mình ra phò chúa đến cùng. Đến ngày mắt nhắm tay buông, thì nhà Tần thống nhất nước Tàu.

    GS Bông, cũng Mệnh Vô chính diệu kém Khổng Minh vì tuổi Kỷ không trúng cách tam hợp tuổi. Tham Vũ Quyền Lộc không phải của ông nhưng cũng rực rỡ lắm rồi.

    Tuổi Kỷ Tỵ, Mệnh đóng ở Mùi, cung Thân ở Mão cũng là vị trí của người bất mãn, vì hai tuổi khác nhau nên hành động cũng phải thay ngôi đổi chỗ khác nhau. Người tuổi Kỷ Tỵ ở vị trí Mùi là người lo toan, làm sao cải thiện được đời, cho nước cho dân. Người tuổi Tân Dậu vị trí ở Mùi cũng là người luôn luôn ở vị thế thua thiệt, nhưng có tài thuyết phục kích thích người ta, vì thế Khổng Minh mới thuyết phục được tòan thể nhân sĩ Giang Đông, lôi cuốn theo trận Xích Bích làm lụt thế hung hăng của Tào Tháo, kiếm được đất Kinh Châu cho Lưu Bị trú ẩn lúc sơ khai khởi nghiệp.

    Cái Thân của GS Bông ở Mão cũng trong cái thế không hài lòng như Khổng Minh, nhưng đây là vị trí của người chỉ còn có biết nói, nói hợp lý, có KHOA nói để mong cải tạo được xã hội. Người nào nói ông là đối lập thật là không hiểu ông và cũng oan cho ông.

    Khổng Minh là một qúi nhân (Thai, Thanh Long, Lưu Hà) được Lưu Huyền Đức tham cố thảo lư, cầu ông mang tài thao lược ra dẹp lọan cho nhà Hán. Ông biết đời ông sinh ra Mệnh Thân đều đóng vào thế đối cực làm không thành việc nên phải nói trước là thế nước rồi sẽ tam phân, tức là ông bất lực không tạo nổi việc thống nhất. Thái Dương, Thiên Lương đắc Quyền ở Mão bị Phá, Hư chống không nổi Thái Tuế, Lộc Tồn, Địa Kiếp (Dậu = Ngụy quyền) ông cố cầm cự thế nước cho đến hơi thở cuối cùng đó là cái tài kinh bang tế lễ của ông (Tả, Hữu, Âm Dương, Thiên Mã) cái chân giá trị của ông là ở chỗ đó. Thật ra Khoa Quyền Lộc của ông không có gía trị thiết thực để làm nên việc. Tam Hóa liên châu ở Dần ( Khoa Giáp Quyền Lộc ở Ách) tạo cho ông bao phen sa vào miệng Cọp vẫn thóat nạn ở tay Chu Du và Tư Mã Ý như thường, cũng như Tam Hóa liên châu của Bình Định Vương Lê Lợi ở Thìn vào sanh ra tử 10 năm kháng chiến chống quân Minh, nhất là trận Chí Linh nhờ có ông Lê Lai thay áo mão để Vương trốn thóat.

    Lá số Lê Lợi : Lá số minh họa

    Gíao sư Nguyễn Văn Bông Mệnh vô chính diệu, Tang Môn (Mộc) thủ Mệnh là con người lo toan tính tóan, không chịu khuất hèn (Kình) trung lương ôn hậu (Thai Tọa) cũng đa tài, thông minh xuất chúng, nghị lực xuất chúng (Tả Hữu, Âm, Dưong, Thiên Mã). Ông kém Khổng Minh ở cái cách Thai, Thanh Long, Lưu Hà được người cầu thỉnh, ông phải chịu ở địa vị Suy, Tang Môn, Kình Dương, tự mình tiến thân nhưng không hèn, cho nên của Ông ở Hợi đắc TUẦN hơn cả của Khổng Minh, cũng ở vị trí đó ngộ Bệnh đắc Cô Qủa (nghị lực nhiều khi thối chí nhưng cố kiên trì)

    Cũng vì TUẦN ở đó mà Thái Âm của ông phải kém sáng, đi đôi với Thái Dương ở Mão bị Hao, nhường bước Vạn Thế Quân Sư tưởng cũng là thế đương nhiên của bực quân sư vô tiền khóang hậu kết tinh bỡi bộ Thai, Thanh Long, Lưu Hà, Tả Hữu, Âm Dương, Thiên Mã, Cô Qủa. Dầu sao bộ Nhật Nguyệt của Gíao sư cũng không phải kém quang huy vẫn ở chỗ tuyệt hảo Mão Hợi có Quang Quý phò trợ.

    Hòan cảnh của GS Nguyễn Văn Bông từ một cậu bé sửa xe đạp phụ giúp cha để lấy tiền ăn học, để trở thành một Tiến Sĩ Công Pháp Quốc Tế trong vòng 25 năm không phải là có nhiều dễ kiếm ngay cả ở các nước gọi là văn minh tân tiến, không phải là không nghị lực phi thường, không thông minh xuất chúng, không tài cán đa năng.

    Nhập hạn 35-44, Ông về nước, Mệnh Vô chính diệu gặp Sát Phá Tham hãm địa, nó đưa ông lên bổng rồi nhấn chìm ông xuống hố sâu, độc hại nhất là Hình, Sát hãm địa. Tiểu vận năm Tân Hợi (1971) tại cung SửuThiên Đồng, Cự Môn hội Không Kiếp, Thiên Cơ, Hỏa Tinh (Tật Ách lưỡng tướng Hà, Sát, Kị, Sứ)

    Một người như lá số này, nếu là đúng sự thật, phải đáng tiếc cho đất nước mất qúa sớm một người con đa tài, thông minh nghị lực có thừa, phải chờ đến thời gian 45-54 mới thực thi được khả năng của đương số.

    Đành rằng năm tháng, ngày giờ lúc Giáo sư ra chào đời hẳn phải có nhiều người giống lá số của ông, cho đến lá số của Khổng Minh cũng phải có người y hệt thì việc gì mà than tiếc.

    Xin thưa rằng người giống số nhau rất thường, nhưng cá nhân làm thay đổi được hòan cảnh để nổi lên được thân thế với đời không phải là dễ kiếm, còn có biết bao nhiêu yếu tố vô hình về luân hồi nhân qủa của bao nhiêu tiền kiếp mới sanh quí nhân nhập cuộc. Số chỉ ở trong phạm vi tương đối của thế nhân.
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng một 2010
  14. Kthytran

    Kthytran New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng năm 2009
    Bài viết:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    Thưa bác,

    Nhân lúc đang rất tâm đắc và được mở mang tầm mắt bởi loạt bài viết "Để giải đoán Mệnh Vô Chính Diệu", cho phép cháu được Bác chỉ giáo vài điều mà bấy lâu nay, nhiều nhà nghiên cứu tử vi vẫn chưa thể giải thích rõ ràng và thỏa đáng về trường hợp này:

    - "Thân vô chính diệu" có cách Nhật Nguyệt chiếu hư vô ạ. Đặc biệt là khi cung Thân vô chính diệu tại Mùi, có Thiên Không tọa thủ kết hợp với các bộ Quang Quý, Thai Tọa chính cung và Thiên Đức - Nguyệt Đức - Thanh Long - Phức Đức hợp chiếu.
    - Mệnh: Cự Đồng tại Sửa, hãm địa nhưng bị Tuần Triệt.

    Thưa Bác, đây là lá số tử vi của cháu ạ. Bố cháu và bạn bè vẫn thường bàn luận về tử vi của cháu, nhưng vẫn chưa thể giải thích rõ ràng về lá số này. Cháu cũng có theo Bố nghiên cứu nhiều tư liệu nhưng cũng không thấy đề cập đến gì nhiều về trường hợp của cháu. Sự đề cập mà cháu nói đến là những vấn đề như sau:

    - Liệu cung Thân vô chính diệu có được hưởng vẹn toàn sự đẹp đẽ của Nhật Nguyệt chiếu hư vô như trong trường hợp Mệnh vô chính diệu hay không ?
    - Liệu Tuần Triệt sẽ ảnh hưởng lên cung Mệnh như thế nào ? Cự Đồng hãm địa có sáng sủa hơn nhờ Tuần Triệt hay không ?


    Đây là đường link về ngày sinh của cháu ạ:

    http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/2/170021101978/1/Thytran.jpg

    Cháu chào Bác ạ,

    Cháu,

    Thy
     
  15. STV

    STV New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng năm 2009
    Bài viết:
    28
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    Thưa chú, cháu có mấy câu hỏi khi đọc bài viết về Mệnh VCD ạ:
    - Trong bài viết, chú có nói Mệnh VCD đắc 1 không thì chỉ hành mệnh là Hỏa hoặc Kim ăn được. Nếu mệnh VCD độc thủ hung tinh thì chỉ hành mệnh phải hợp mới được. Như vậy, tại sao Thiên không (hành hỏa) lại giúp đc cho người có mệnh Hỏa(cùng hành), Kim (khắc), trong khi đó Đà là hoặc Kình dương hành kim thì lại chỉ có thể giúp đc cho người mệnh Kim? Theo chú, nếu hung tinh Kình/Đà độc thủ thì có thể giúp đc cho người mệnh Kim (cùng hành) và người mệnh Mộc (khắc) hay không?

    - Trong sơ đồ mệnh VCD có Nhật, Nguyệt chiếu của chú, cháu thấy có một vài trường hợp Nguyệt sáng sủa nhưng lại bị Tuần che chắn, làm phủ định cái anh sáng đó đi. Như vậy, liệu người đó có còn được hưởng cái ánh sáng của Thái Âm?

    Cảm ơn chú.
     
  16. sutucai

    sutucai New Member

    Tham gia ngày:
    9 Tháng năm 2009
    Bài viết:
    13
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    Kính chào bác Phước Duyên. Nhân có chủ đề về mệnh VCD, cháu có một thắc mắc muốn hỏi bác. Rất tình cờ cháu có đứa bạn sinh cùng ngày nhưng chỉ khác giờ (16/08/1984- khoảng 21h 15'). An sao tử vi thì thấy bạn cháu mệnh VCD và thân cự Phu Thê cũng VCD nốt. Cháu mới học tử vi nên ko biết luận giải thế nào cả. Mong bác xem giúp hộ bạn cháu .

    Đây là link lá số :
    http://xemtuong.net/KHHB/tuvi/laso....g_Nu,1,1984,8,16,21,00,1,1,12,7,20&session=45

    Cháu cảm ơn bác nhiều!
     
  17. gioxoaychieu

    gioxoaychieu New Member

    Tham gia ngày:
    15 Tháng năm 2009
    Bài viết:
    51
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    Cháu kính chào bác Phuocduyen ạ
    Bác ơi mệnh vcd "phi yểu tắc bần" liệu có cách nào cứu được ko bác.Cháu mệnh VCD chẳng có không nào tọa thủ cả cháu sợ lắm bác ạ Mong bác xem giúp cháu về lá số của cháu với ạ.Cháu sinh ngày 27/12/89 lúc 16h
    Đây là lá số của cháu
    [​IMG]
    Mong bác cho cháu đôi lời về lá số của cháu
    Cháu xin chân thành cảm ơn bác.
     
    Last edited by a moderator: 1 Tháng sáu 2009
  18. grastia

    grastia New Member

    Tham gia ngày:
    8 Tháng tư 2009
    Bài viết:
    40
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    gioxoaychieu: Chính tinh của bạn giống hệt của minh. Mình cũng mệnh VCD.

    Các bạn nhờ xem TV thi post bài sang mục giải đoán số mệnh, mình thấy bên này chủ về các bài nghiên cứu và bàn luận.
     
  19. STV

    STV New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng năm 2009
    Bài viết:
    28
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

    Các bạn, mục này là để trao đổi về tử vi, chứ không phải là chỗ để bàn luận, mổ xẻ , phân tích lá số của bất kỳ ai cả.

    Rất mong các bản chuyển yêu cầu xem lá số của các bạn sang mục khác cho hợp lý hơn.
     
    Last edited by a moderator: 2 Tháng sáu 2009
  20. tigerlong2

    tigerlong2 New Member

    Tham gia ngày:
    12 Tháng một 2008
    Bài viết:
    4
    Điểm thành tích:
    0

Chia sẻ trang này