NHÂN TƯỚNG HỌC

Thảo luận trong 'Kiến thức Nhân Tướng Học-Âm Dương, Ngũ Hành' bắt đầu bởi Mickey, 12 Tháng hai 2008.

  1. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Tướng tùy tâm sinh - Tướng tuỳ tâm diệt, tướng tốt xấu là ở cái tâm con người!


    LỜI MỞ ĐẦU

    Trong xã hội Việt Nam hiện nay, xem tướng và học tướng là một hiện tượng văn hóa rất phổ cập. Thu hút một số tín đồ vô cùng đông đảo trong hầu hết mọi giai cấp. Số người hành nghề, tài tử cũng như chuyên nghiệp không phải ít. Số người đi xem lại càng đông hơn.

    Nhưng, lại có rất ít người khảo cứu thâm sâu ngành tướng pháp. Cho nên ngành này vẫn còn bị dư luận xem như một môn học huyền bí. Ngộ nhận này sở dĩ có một phần là do những người hành nghề, vì mục đích quảng cáo, đã huyền bí hóa khoa bói toán, phần khác vì các sách hiện có chưa diễn xuất được quan niệm nhân bản và nền tảng thực nghiệm của tướng học. Tác phẩm tướng học hiện nay ở nước ta vừa ít ỏi, vừa đơn sơ, lại mang nặng tính cách hoang đường, hoặc quá thiên về phần thực hành, nặng về giai thọai mà bỏ phần lý thuyết băn bản, cho nên không xây dựng được một học thuyết vững chãi cho khoa nhân tướng.

    Ngay từ buổi sơ khai, khoa này là một bộ môn nhân văn, bao trùm một lãnh vực vô cùng phong phú, có một nền tảng nhân bản và một phương pháp thực nghiệm hết sức rõ rệt.

    Thật vậy, nhân tướng học Á Đông đã tổng hợp tất cả bộ môn tâm lý học Tây Phương vào một mối. Tâm lý học Tây Phương khảo sát con người qua nhiều chuyên khoa riêng rẽ. Có học phái chuyên khảo ý thức và tiềm thức (conscience et subconscience), có học phái nghiên cứu tính tình (carratérologie), có học phái chuyên khảo tác phong (behaviorisme). Sự tồn tại song song của những chuyên khoa đó cho thấy nhân học Tây Phương phân tích con người nhiều hơn là tổng hợp con người. Một khảo hướng như thế không tránh nổi khuyết điểm phiến diện. Khoa tướng Á- đông nhập chung các lãnh vực nhân học làm một. Những nét tướng của khoa nhân học Á-đông đồng thời mang ý nghĩa tính tình lẫn tác phong.

    Nhưng, tướng học Á Đông không dừng chân ở đó. Khoa này còn đào sâu cả địa hạt phú quý, bệnh tật, thọ yểu, sinh kế, nghề nghiệp. Ngòai con người, Đông Phương còn nghiên cứu cả đời người.

    Mặt khác, tướng học Á Đông còn tìm hiểu, qua nét tướng mỗi cá nhân, những chi tiết liên quan đến những người khác có liên hệ mật thiết với mình: đó là cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái, bạn bè.

    Sau cùng, sự giải đóan của tướng học Á Đông còn rộng rãi và táo bạo hơn hẳn khoa tâm lý Tây Phương. Từ nội tâm và liên hệ của con người, khoa tướng Á Đông tiên đoán luôn vận mạng, dám khẳng định cả sự thành bại, thịnh suy, xét cả quá khứ lẫn tương lai không dừng lại ở một giai đọan nào
    Về mặt quan niệm, tướng học Á Đông không có gì thần bí. Khoa này lúc nào cũng hướng về con người và đời người làm đối tượng quan sát. Sự quan sát đó đặt nền tảng trên những nét tướng con người. Tính tình và vận số khám phá được không bao giờ được suy diễn từ thần linh hay từ những ý niệm trừu tượng. Đó là quan niệm hòan tòan nhân bản. Quan niệm này dựa trên định đề căn bản là: có ở bên trong ắt phải biểu lộ ra bên ngoài.

    Vì thấm nhuần tinh thần nhân bản, khuynh hướng tướng học Á Đông coi trọng phần nhân định: cái tâm con người quyết định tương lai con người. Thuật xem tướng chung quy thu gọn vào thuật xem tâm. Nhân tướng học là một nhân tâm học. Nguyên tắc chỉ đạo này được diễn tả qua châm ngôn căn bản sau đây: "Tướng tự tâm sinh, tướng tùy tâm diệt ". Vốn coi nội tâm là chân tướng, cho nên phần tướng của hình hài chỉ là những yếu tố bề ngòai hướng dẫn người xem đi vào bề sâu của tâm hồn. Và chỉ khi nào khám phá được bản thể thâm sâu của con người thì mới đạt mục đích của Tây Phương. Đây là quy tắc duy nhất, bất di bất dịch của việc học tướng và của việc xem tướng.

    Theo quan niệm Á Đông, con người là một sinh vật, luôn luôn biến đổi, do đó các nét tướng cũng biến chuyển theo tâm hồn. Quan niệm này thực tiễn và phù hợp với dịch lý (proceus dialectique) của vạn vật. Đây cũng là một ý niệm căn bản của nhân tướng học Á Đông. Khoa này, thọat kỳ thủy đã xuất phát từ Kinh Dịch tức là sách khảo cứu về các quy luật biến hóa của vạn vật và của con người.

    Nói về phương pháp, nhân tướng học áp dụng lối quan sát trực tiếp con người tức là dựa vào những dữ kiện thực tại và cụ thể chứ không căn cứ vào những hệ luận huyền bí và trừu tượng . Những kết luận về tướng cách cá nhân được rút tỉa từ hình dáng của khuôn mặt, từ đặc điểm của cơ thể, từ màu sắc của nước da, từ đặc tính của mục quang, phong thái đi đứng, nằm, ngồi, cười, nói, ăn ngủ cho đến âm thanh, âm lượng...Những kết luận đó được suy diễn theo lối quy nạp. Người ta tìm những nét tướng giống nhau của những người đồng cách để thiết lập những định tắc cho những ý nghĩa của hình hài, bộ vị, tác phong. Nói như thế, có nghĩa là khoa tướng Đông Phương đã biết sử dụng phương pháp thống kê vô cùng rộng rãi, ngõ hầu tìm hiểu và định giá những nét tướng đã quan sát được trong nhiều trường hợp tương tự, qua nhiều thế hệ khác nhau. Đây quả thật là một phương pháp nhân học dựa vào các trường hợp điển hình, không bao giờ chịu tách rời thực tế.

    Sau cùng, mặc dầu nhân tướng học xếp lọai tướng người, nhưng khoa này không xem các lọai đó như những khuôn mẫu cố định. Những mẫu người đặc biệt đó vẫn sinh động, đó là những mẫu người SỐNG, biến thái qua thời gian, biểu lộ qua những nét thần, nét khí, nét sắc thay đổi từng thời kỳ. Tùy đặc điểm của thần khí sắc biến thiên đó, người ta xét đến biến cố, đến vận mệnh. Cho nên khoa tướng số Á Đông có phần tĩnh ở các hình hài, bộ vị, nhưng cũng có phần động ở thần khí sắc. Những ngọai biểu của thần khí sắc qua thời gian cũng có định tắc riêng, cũng được suy diễn từ việc quan sát, từ sự thực nghiệm, từ các thống kê, từ lối quy nạp.

    Tóm lại, nhân tướng học Á Đông là một bộ môn nhân văn, từ người mà ra, do người mà có và nhằm phục vụ cho con người từ trong việc " tri kỉ, tri bỉ ". Tiếc rằng, cho tới nay, nền tảng nhân bản và tinh thần thực nghiệm đó chẳng còn được mấy người hiểu biết và khai triển khiến cho cái tinh hoa và giá trị của khoa này bị phai lạt dần.

    (Tác giả: HY TRƯƠNG)
     
  2. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    PHẦN THỨ NHẤT
    CÁC NÉT TƯỚNG TRONG NHÂN TƯỚNG HỌC
    Chương thứ nhất
    TỔNG QUÁT VỀ KHUÔN MẶT

    Nguyên tắc coi tướng khuôn mặt trước tiên là phải quan sát một cách tổng quát để có ý niệm sơ khởi về sự cân xứng chung về hình thể rồi sau đó mới đi sau vào chi tiết của từng nét tướng khác nhỏ hơn. Thông thường, người ta thường gặp các danh xưng tổng quát sau đây khi đề cập đến tướng khuôn mặt.​

    . Tam Đình
    . Ngũ Nhạc
    . Lục Phủ
    . Tứ Đậu
    . Ngũ Quan

    Quan sát Tam Đình, Ngũ Nhạc, Lục Phủ ta biết được một cách khái quát sự phối trí của khuôn mặt có cân xứng, thích đáng hay không. Tứ Đậu, Ngũ Quan sẽ giúp ta biết rõ từng nét tướng lồng trong khung cảnh chung của khuôn mặt. Sau đó muốn chi tiết hơn nữa ta thêm vào từng nét tướng để phân qua trọng (tất cả các nét được nói trên gọi là bộ vị trọng yếu).
    Muốn biết về những biến cố xảy ra cho cuộc đời của một cá nhân liên quan đến nhiều lĩnh vực sinh hoạt : tật bệnh, tài lộc, anh em, vợ con v.v..ta dựa vào một số bộ vị (hoặc riêng rẽ, hoặc liên kết một số bộ vị ) đặc biệt gọi riêng là các cung.
    Vì Ngũ Quan có vai trò cực kỳ trọng yếu trong tướng học, nên sau khi khảo sát sơ lược, ta cần đi sau vào từng chi tiết đặc thù, nên phần đó được tách thành 5 chương riêng. Do đó chương này đặc trọng tâm vào việc giới thiêu tổng quát về toàn thể khuôn mặt xuyên qua các tiết mục sau đây:

    TAM ĐÌNH

    1- VỊ TRÍ CỦA TAM ĐÌNH :
    Tướng học Á Đông chia khuôn mặt thành 3 phần : Thượng Đình, Trung Đình và Hạ Đình.

    Thượng Đình: Từ chân tóc đến khoảng giữ 2 đầu lông mày. Trong các bộ vị của Thượng đình quan trọng nhất là Trán.

    Trung Đình: từ khoảng giữa 2 đầu lông mày đến dưới 2 cánh mũi. Các bộ phận quan trọng của Trung Đình là: Mũi, cặp Mắt, Lưỡng Quyền, 2 tai và 2 Lông Mày. Nhưng trong các sách tướng, người ta trú trọng nhiều nhất là bộ phận trung ương là Mũi.

    Hạ Đình: Phần còn lại của khuôn mặt tức là phần từ phía dưới 2 cánh mũi đến cằm.

    2- Ý NGHĨA CỦA TAM ĐÌNH
    Tam Đình có 2 ý nghĩa tổng quát về vận mạng và về khả năng.

    a. Về mặt mạng vận:
    Theo quan niệm siêu hình của người xưa thì tam đình tượng trưng cho tam tài(3 thể trọng yếu nhất trong vạn vật) là THIÊN, ĐỊA, NHÂN.

    Trán thuôc Thiên Đình, tượng trưng cho Trời, trời càng cao, rộng, tươi càng tốt cho nên người ta lấy sự kiện trán cao, rộng và tươi làm quí. Nói chung phần đông kẻ nào có 3 điều kiện này thuộc loại quí tướng, sơ vận suông sẻ .
    Bộ vị quan trọng nhất của Trung Đình là Mũi , tượng trưng cho Người. Cơ cấu con người có rộng, dài và cân xứng ,mới tốt, nên mũi cần phải ngay thẳng hoặc tròn trịa, và phải đều đặn cân xứng.

    Kẻ hội đủ điều kiện trên được gọi là " hữu nhân giả thọ"có triển vọng sống lâu trung vận gặp nhiều hanh thôgn hơn người thường.

    Cuối cùng là phần Hạ Đình tượng trưng cho Đất và bộ vị quan trọng nhất là cằm. Vì đất cần phải đầy đặn, vuông vứt mới tốt nên quan niệm cổ điển đòi hỏi, cằm phải vuông, đầy, chủ về hậu vận sung túc.

    Nói chung, trong quan điểm tướng học Á - Đông, Thượng Đình dài mà nẩy nở hoặc vuông mà rộng là triệu chứng quí hiển ; Trung Đình mà ngay thẳng , cao ráo và dáng vẻ thanh tú về trường thọ ; Hạ Đình bằng phẳng đầy đặn không lệch lạc nhất là vuông vứt là điềm báo trước sẽ được hưởng vận số tốt lúc về già.

    Nếu Thượng Đình nhọn hẹp hoặc khuyết hãm thì hay bị tai họa , khắc cha mẹ hoặc tính nết ti tiện. Trung Đình mà ngắn hoặc bị lệch, hãm thường là kẻ bất nhân bất nghĩa, kiến thức nông cạn hẹp hòi đồng thời cũng là dấu hiệu hậu vận hao tốn , lênh đênh. Hạ đình dài nhưng hẹp hoặc nhọn hay thiếu bề dày thì điền trạch khiếm khuyết, tuổi già cực khổ.

    Nếu Tam Đình cân xứng thì có thể nói tướng mạo của kẻ thượng đẳng. Cho nên tướng thư có nói "Tam đình bình ổn, nhất sinh y thực vô khuy" ngiã là 3 phần của khuôn mặt mà được tương xứng đều hợp, không bị khuyết hãm thì cả đời không phải lo đến cơm áo.

    b. Về mặt khả năng:
    Một số tướng gia khác, nhất là những người thuộc học phái Nhật Bản không mấy chú trọng đến ý nghĩa vận mạng của Tam Đình mà chỉ căn cứ vào cốt tướng học để tìm khả năng con người. Theo nhận định của họ thì:

    - Thượng Đình: biểu dương cho trí lực
    - Trung Đình : biểu dương cho khí lực
    - Hạ Đình : biểu dương cho hoạt lực.

    Khi tiền não bộ của con người phát triển, óc làm việc nhiều nên Thượng Đình nẩy nở tạo ra vầng trán rộng và cao.

    Khi trung não diệp phát triển rõ rệt và lấn áp các bộ phận khác của não thì Trung Đình nẩy nở rõ rệt nhất: Sự tăng trưởng của trí tuệ nhường chổ quyết định cho sự vận dụng của bắp thịt.

    Ngược lại khi não bộ phát triển độc dị thì hạ đình cũng phát triển qua mức và gây ra cảnh Hạ Đình vừa dài vừa rộng lấn lướt các phần kia.

    Nếu cả 3 phần đều phát triển cân phân theo thuật ngữ " Tam đình bình ổn " thì con người sẽ quân bình về cả 3 mặt trí lực, động lực và hoạt lực : con người sẽ có nhiều triển vọng thành công về bất cứ lãnh vực gì trong việc mưu sinh hằng ngày. Do đó, cổ tướng học đã rất có lý khi nhận định rằng người có tam đình bình ổn không phải khốn đốn vì cơm ăn áo mặc.

    Theo nhà tướng học Tô Lãng Thiên, thượng đình biểu thị vận tiên thiên . Trung đình giúp ta quan sát các trạng thái hoạt động hậu thiên. Còn Hạ đình giúp ta trắc định kết quả khả hữu của các hoạt động của con người (thành hay bại, xấu hay tốt v.v...). Tóm lại :

    Thượng đình cho biết những dữ kiện thiên phú của con người như trí thức, nghệ thuật, cảm xúc, tinh thần v.v...Nếu trán cao rộng kẻ đó được hưởng sự may mắn tiên thiên, tức là khỏi phải nhọc công sáng tạo. Nếu trán lũng hoặc lệch, hãm là triệu chứng tiên thiên cho biết thời gian ấu thơ bị khốn quẫn về một hay nhiều lãnh vực nào đó, phần trí lực xúc kém .

    Trung đình biểu thị cho sự phấn đấu của con người từ thưở thanh niên , có trí khôn đầy đủ tương đối. Phần đáng lưu ý nhất là mũi và lưỡng quyền. Theo tác giả Tô Lãng Thiên, khu vực mũi và lưỡng quyền, ngoài ý nghĩa tiền của, vật chất còn cho ta biết tài năng tháo vác của con người trong cuộc vật lộn để mưu sinh. Nếu Trung đình đầy đặn, cân xứng, mũi thẳng, chép mũi tròn, 2 cánh mũi có thế thì tuy thiên đình bị lồi lõm sơ vận linh dinh cực khổ nhưng nhờ nổ lực cá nhân bổ cứu mà cuối cùng trung vận có thể phấn chấn lên được.

    Tóm lại khu vực Trung đình phát triển tốt đẹp có thể bổ túc cho khiếm khuyết trí tuệ tiên thiên. Nhờ sự quan sát khu vực Trung Đình, ta đoán được phần nhận định đối với việc xoay xở định mạng.
    Hạ định là kết quả tổng hợp của Thượng đình và Trung đình. Việc quan sát khu vực Hạ đình giúp ta có thể đoán được kết quả của việc vận dụng trí tuệ và nổ lực cá nhân.

    Hạ đình bao gồm Thực - thương, Lộc - thương, Pháp - lệnh, Cằm và nhân trung biểu thị sự cố gắng lúc tuổi già. Nói rõ hơn thì Lưỡng - Thương bao hàm sự thu nhập , cằm cho biết ảnh hưởng của sự sinh hoạt xã hội đã ảnh hưởng và tạo thành kết quả nơi cá nhân đó ra sao.

    Trong lúc xem tướng phải nhìn toàn bộ khu vực Hạ đình để tìm sự nhất quán. Sự phong mãn phải nhất quán thì mới chắc chắn là phúc tướng . Nếu chỉ có hậu não bộ phát triển mà khu vực hạ đình không tương xứng , thì đó chỉ là ước vọng của vật chất khôgn bao giờ thực hiện được. Ngược lại, hậu não bộ không mấy phát triển mà hạ đình sung mãn thì kết quả thực tiễn do nổ lực cá nhân đem lại vượt quá ranh giới của tiên thiên và chứng tỏ sự thành công của cá nhân đó phần lớn là do nổ lực nhân sự mà có, sự may mắn hoặc giúp đỡ của tha nhân đối với hạn tướng này không đóng vai trò đáng kể.

    [​IMG]
    Nhất quán là từ trên xuống dưới, từ trái qua phải đều vững chắc, không lệch lạc.

    (P.S: Chỉnh sửa lỗi chính tả)
     
    Last edited by a moderator: 13 Tháng hai 2008
  3. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    NGŨ NHẠC

    1. VỊ TRÍ CỦA NGŨ NHẠC

    Ngũ nhạc là 5 dãy núi lớn trong địa lý học cổ điển Trung - Hoa. Người Tàu có thói quen so sánh mặt người với mặt đất của Trung nguyên nên đã địa lý hóa các bộ vị nổi bật nhất của khuôn mặt thành 5 danh hiệu của 5 dãy núi chính để rồi căn cứ vào hình dág , vị thế liên hoàn của chúng mà đán tương lai, quá khứ của con người.

    - Trán tượng trưng cho dãy núi phía nam nên gọi là nam nhạc (tên riêng là Hoành Sơn).
    - Cằm tượng trưng cho dãy núi phía bắc nên gọi là Bắc nhạc (tên riêng là Hằng Sơn).
    - Quyền trái tượng trưng cho dãy núi phía Đông nên gọi là Đông nhạc (tên riêng là Thái Sơn).
    - Quyền phải tượng trưng cho dãy núi phía Tây nên gọi là Tây nhạc (tên riêng là Hoa Sơn).
    - Mũi tượng trưng cho dãy núi chính ở trung ương nên mệnh danh là Trung nhạc (tên riêng là Tung Sơn).

    2. ĐIỀU KIỆN ĐẮC DỤNG CỦA NGŨ NHẠC

    Điều kiện tối thiểu của ngũ nhạc là phải có sự TRIỀU CỦNG (đôi khi gọi là TRIỀU QUI) nghĩa là quần tụ theo một thế ỷ dốc liên hoàn, qui về một điểm quan trọng nhất. Theo quan niệm của khoa địa lý phong thủy Á Đông, sự triều củng khiến cho long mạch (nguyên khí tinh hoa của tạo hóa trong một khu vực nào đó) có thể phát huy được tất cả uy lực tốt đẹp. Trong Ngũ nhạc, Tung nhạc là chủ yếu, là trung tâm điểm của cả hệ thống nên khí thế của nó phải bao trùm tất cả các nhạc khác . Theo sự qui định của tướng thuật, mũi là trung tâm của khuôn mặt, lại tượng trưng cho phần nhân sự Trong Tam tài nên được gọi là long mạch.

    Về phương diện xem tướng, ngũ nhạc tối kỵ ba khuyết điểm sau:
    * Quân sơn vô chủ (Bốn núi không có sự triều củng đối với trung ương). Nói khác đi, Tung nhạc bị khuyết, hãm hay quá thấp, quá nhỏ so với các nhạc khác.
    * Cô phong vô viện (Ngọn chính giữa qua tốt nổi bật lên một cách trơ trọi không được sự phát triển của các ngọn khác hổ trợ). Điều này chủ yếu vẫn là mũi. Mũi tốt mà trán, cằm, lưỡng quyền khuyết hãm thì coi là không đáng kể.
    * Hữu viện bất tiếp (Có vẻ có sự hổ trợ của các ngọn khác nhưng xét kỹ thì lại không có ). Điều này có nghĩa là một hay nhiều ngọn núi chung quanh bị lệch hay khuyết khiến cho toàn thể liên hoàn hộ ứng của ngũ ngạc bị đổ vỡ.
    Phạm vào 3 khuyết điểm nói trên, sách tướng mệnh danh là "long mạch" không có thế, khiến cho "long mạch"không phát huy được . Đôi khi , không những long mạch khong phát huy mà còn có thể trở thành xấu nữa.

    3. NHỮNG YẾU TỐ BÙ TRỪ

    Phép luận tướng phân tướng người thành 2 loại chính là Nam và Bắc tướng . Nam tướng là tướng người sinh trưởng ở miền nam trung hoa. Tại đây, khí hậu chính là nóng có đặc điểm chính là Hỏa vượng .Nếu Hỏa tinh (trán) hay nói theo từ ngữ ở đây là Nam nhạc là bộ vị chủ yếu hỏa của người phương nam được phát triển hợp tiêu chuẩn thì dẫu các ngon khác có hơi thiếu tiêu chuẩn đôi chút (Miễn là không khuyết hãm ,đặc biệt là Trung nhạc) thì cũng có thể lấy bộ vị chính yếu toàn hảo làm vật hóa giải [24]

    Nếu trán của người phương nam không bị thương tổn thì tinh thần và bản thân sự nghiệp hanh thông vượng thịnh. Theo nguyên tắc ngũ hành tương sinh thì Hỏa sinh Thổ (Hỏa chỉ trán, Thổ chỉ mũi) nên nếu Tam nhạc đắc thế thì dù Trung nhạc không hoàn toàn tốt đẹp cũng có thể lướt qua được. Tuy nhiên sự đắc cách của Nam nhạc chỉ phần lớn háo giải các điều bất thường về mạng vận do mũi gây ra mà thôi, nó khôgn hóa giải được tâm địa. Nói khác đi kẻ sinh ở phương nam có trán tốt và mũi xấu vì lệch, thấp thì mạng vận vẫn có thể khá nhưng tâm địa giữ nguyên những khuyết điểm do mũi hoặc các bộ vị khác thuộc Ngũ nhạc gây ra.

    Đối với người phương bắc, bộ vị chủ yếu là Địa các mà cằm là chính. Vì bắc phương là chính thổ nên tối kỵ . Thổ tinh (mũi) khuyết hãm. Do đó đối với họ khí mạch của bắc nhạc liên hệ chặc chẽ với khí mạch của Trung nhạc. trung nhạc khuất khúc, nghiêng lệch thì Bắc nhạc có tốt cũng bị thăng giáng thất thường về mạng vận.
    Sự tổng hợp tốt nhất trong cổ tướng học thực nghiệm là cách "Thủy, Hỏa thông minh" tức là Bắc phương nhân, ngoài bản vị tốt đẹp toàn hảo, còn được Nam nhạc toàn hảo cộng thêm ngũ quan đoan chính, Nam phương nhân, ngoài Nam nhạc toàn hảo, ngũ quan thanh tú còn được địa các nẩy nở vuông vức và triều củng.
    Đông và Tây nhạc (2 quyền) cũng cần phải phối hợp tương xứng với Trung nhạc có thế. Đông và Tây nhạc (đối với đàn ông) cần phải cao nở và mạnh mẽ. Tối kỵ nhỏ, nhọn và lộ xương, lem gốc hoặc cao hơn các bộ vị của Trung nhạc hoặc chỉ được lượng mà hỏng về phẩm.
    Tóm lại, ngũ nhạc chỉ đắc thế khi có sự tương phối, triều củng, minh lãng về cả phẩm lẫn lượng, đồng thời Ngũ nhạc còn phải được Tứ đậu (mắt, mũi, tai, miệng) toàn hảo thì mới có thành đại dụng được. trong Ngũ nhạc nếu có một ngọn không hợp cách thì dẫu ngũ quan có tốt cũng khó đại phát.

    4. SỰ KHUYẾT HÃM CỦA NGŨ NHẠC:

    Ngoài 3 khuyết điểm căn bản kể trên chung cho Ngũ nhạc (quân sơn vô chủ, cô phong vô viện, hữu viện bất tiếp) mỗi Nhạc còn phải có những khuyết điểm sau đây [25]:

    * Nam nhạc: Bị coi là khuyết hãm khi mí tóc lởm chởm, tóc mọc quá thấp khiến trán thành thấp, tóc mọc che lấp 2 bên khiến trán thành hẹp, trán có loạn văn như dấu vết bò, xương đầu không đắc cách, xương trán lồi, ấn đường có sát khí, trán có vết hằn một cách bất thường.

    * Trung nhạc : Bị coi là khuyết hãm khi sơn căn bị gãy, có hằn, mỏng manh ,có nốt ruồi ,sóng mũi bị thương tích thành sẹo, lệch, lồi lên lõm xuống, lỗ mũi bị lộ và hướng lên trên, mũi nhỏ và ngắn, 2 cánh mũi không nổi cao.
    Bị coi là khuyết hãm tương đối khi chỉ có mũi rất cao, rất tốt mà bốn bộ phận khác thuộc Ngũ Nhạc quá thường (cô phong vô viện) chủ về nghèo khổ phá tán, thành bại thất thường.

    * Đông và Tây Nhạc: Bị coi là hãm khi 2 quyền bị lõm xuống, nhỏ và nhọn, trơ xương, có nhiều vết sẹo hay nốt ruồi tàn nhang rõ rệt, quyền thấp hoặc có diện tích nhỏ mà không có khí thế (không có xương ăn thông sang khu vực tai), lưỡng quyền cao thấp không đều v.v...

    * Bắc Nhạc: Bị coi là hãm khí xương quai hàm nhọn, hẹp, cằm lệch, miệng túm, môi dày mỏng không đều, không râu ria, có các nốt ruồi xấu, râu vàng và khô, Nhân trung nông cạn hoặc lệch và mép miệng trề xuống...
    Nếu mỗi Nhạc tránh được khuyết điểm cơ hữu kể trên, và nếu cả 5 nhạc triều cũng thì goi là ngũ nhạc đắc cách.
     
  4. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    TỨ ĐẬU

    1. VỊ TRÍ CỦA TỨ ĐẬU:

    Đậu là một từ ngữ Trung Hoa chỉ mương nước, chỉ có nước chảy. Tứ Đậu là 4 dòng nước chảy bao gồm: Giang, Hà, Hoài, Tế.Cả 4 chữ trong ngôn ngữ Trung Hoa in đều có nghĩa chung là dòng sông.

    Cũng vẫn cái lối mượn thiên nhiên để ví vào con người cho dể hiểu nên người Tàu, trong lãnh vực diện tướng học, đã địa lý hóa 4 bộ phận: Tai, miệng, mắt, mũi thành ra Giang, Hà, Hoài, Tế.
    - Mũi có tên riêng là Tế Đậu
    - Mắt có tên riêng là Hoài Đậu
    - Miệng có tên riêng là Hà Đậu
    - Tai có tên riêng là Giang Đậu.

    Tại sao 4 bộ phận trên được ví như 4 dòng nước? Sách xưa đã giải thích lối hình dung này như sau:

    Nước lúc nào cũng chảy về biển. Bộ óc được ví như biển. Bộ óc là nơi tập trung các tiếp thu của tai, mắt, mũi, miệng như biển gôm nước của 4 dòng sông, cho nên bộ óc được gọi là não hải, còn mắt, mũi, tai, miệng được gọi là Tứ đậu.


    2.ĐIỀU KIỆN TỐI HẢO CỦA TỨ ĐẬU:

    Nước muốn lưu thông dễ dàng thì lòng sông phải sâu, mặt sông phải rộng. Do đó, tướng học đòi hỏi Tứ Đậu phải có những điều kiện sau:
    . Hà Đậu (miệng) phải vuông vức, lăng giác rõ ràng,lớn, rộng. Nếu như miệng quá hẹp, môi quá mỏng, ví như dòng sông nông cạn,nước khó thông và chảy không tới biển cho nên vãn niên phúc thọ hư ảo
    . Giang Đậu (tai) cần rộng và sâu, nghĩa là lổ tai phải sâu và rộng, hình thể chắc chắn, đầy đặn, chủ về thông minh, gia nghiệp ổn định.
    . Hoài Đậu ( mắt) cần phải sâu dài, ánh mắt trong sáng, hình thể thon dài, lòng đen, lòng trắng, phân minh, đồng tử linh động, chủ về thông minh, quí hiếm.
    . Tế Đậu (mũi) thông suốt, tức là lổ mũi phải kín đáo, đầu mũi phải đầy, sống mũi phải thẳng, khôgn cong, không lồi lõm, hai cánh mũi phải đầy, nở và cân xứng thì cuộc đời sung túc, không lo đói rách.

    Ở đây có một điểm rất trọng yếu cần phải lưu ý, đó là Nhân trung (phần lõm sau chạy dài phía dưới chõm mũi tới chính giữa môi trên), vì Nhân trung được coi là mạch chính của Tứ đậu. Nếu Tứ đậu đều minh hiền (tốt và rõ ràng) mà Nhân trung hẹp, mờ, khuất, bị vạch ngang làm cho mất hẳn mỹ quan hoặc trên rộgn dưới hẹp, trên sâu dưới nông, đều có tác dụng làm nghẽn tắc Tứ đậu khiến dòng nước không lưu thông dẽ dàng. Cái đẹp của Tứ đậu vì thế bị giảm thiếu. Cho nên người ta đòi hỏi Nhân trung phải sâu, trên vừ phải, dưới rộng và rõ ràng, dài là vì cớ đó.

    Lục phủ (6 phủ) là danh hiệu dùng để chỉ 3 cặp xương ở hai bên mặt (h.2).
    [​IMG]

    Hai khu vực xương nổi cao ở hai bên phía trên ở dưới đuôi chân mày chạy lên sát chổ chân tóc gọi là Thiên thương thượng phủ (h.2/1).

    Cặp xương lưỡng quyền thuộc khu vực Trung đình gọi là Quyền cốt Trung phủ (h.2/2).

    Hai phần 2 bên mang tai tiếp giáp với lưỡng quyền và xuống phía dưới gọi Tai cốt hạ phủ, vì khu vực này thuộc về hạ đình (h.2/3).

    Phủ có nghĩa là cái kho chứa đồ vật của cải, nên dưới nhãn quan tướng học, Lục Phủ cho ta biết một cách khái quát về tài vận. Sáu bộ phận đó có xương và thịt cân xứng, đầy đặn thì cũng giống như kho chứa tài sản, chỉ sự sung túc. Sách Nhân luân đại thống phú của Trương Hành Giản đã nói ''Nhất Phủ tựu, thập tải phong phú'' có nghĩa là một Phủ đầy đặn thì giàu có no năm. Thực ra đây chỉ là một câu nói có ý nghĩa tượng trưng chứ không nhất thiết là no răm. Nó chỉ có nghĩa là một Phủ mà đầy đặn thì kẻ đó có khả năng phú túc.

    Trong phép quan sát Lục Phủ, phải lấy xương làm điểm chủ yếu : xương nẩy nở đúng cách, mạnh mẽ cân xứng là tốt, khuyết hãm là xấu. Kẻ có Lục Phủ hoàn mỹ là kẻ mà khuôn mặt (bên phải lẩn bên trái) tạo thành một thế nhất quán tức là xương thị chắc chắn vừa phải, thịt không lấn lướt xương, xương không quá nhiều đối với thịt, khi sắc sáng sủa tươi mát.

    Lục Phủ cũng liên quan đến thời gian thụ hưởng. Thiên thương Thượng Phủ sung mãn tươi tắn tượng trưng cho kẻ được hưởng của của cải tiền nhân lưu lại hoặc được cha mẹ anh chị em chu cấp. Trung Phủ hoàn mỹ, điển hình cho mạng vận cá nhân lúc trung niên tự mình sáng tạo thành sự nghiệp gia sản. Hạ Phủ sung mãn tươi tắn là điềm báo trước, lúc già, sinh kế và gia tài phát triển khả quan.

    Thượng Phủ ứng với thiếu niên, Trung Phủ ứng với trung niên và Hạ Phủ ứng với vãn niên.

    Nếu Lục Phủ khuyết hãm, hắc ám thì phải giải đoán ngược lại.

    ( Đây là nói trong trường hợp người không gầy không mập, khỏe mạnh tự nhiên. Nếu quá gầy thì lex tất nhiên xương phải nhiêù hơn thịt. nếu quá mập thì thịt nhiều hơn xương. Trường hợp cần phải lưu ý là người mập mà mặt ốm, Lục Phủ trỏ xương; người ốm mà mập, Lục Phủ trì trệ.Lúc đó phải coi là Lục Phủ liệt cách).
     
  5. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    NGŨ QUAN

    1.VỊ TRÍ NGŨ QUAN

    Ngũ quan là 5 bộ phận trọng yếu trên khuôn mặt :
    - Hai lông mà gọi là Bảo thọ quan
    - cặp mắt gọi là Giám sát quan
    - Hai tai gọi là Thám thính quan ​
    -Mũi là Thảm biện quan
    - Miệng là Xuất nạp quan.​

    Cổ tướng kinh bàn về Ngũ quan có câu "Trời lấy ngủ tinh để biểu lộ hình thể ; Đất lấy 5 núi để định khu vực ; người thì dựa vào Ngũ quan để định quý, tiện, bần ,phú " . Sách Nhân luân đại thống phú bàn về Ngũ quan có câu "Nhất quan thánh, thập niên quý hiến". như vậy, đủ rõ trong tướng học, ngũ quan đóng một vai trò hết sức quan trọng. Cũng bởi lý do trên mà sách này dành 5 chương đề để chuyên khảo chi tiết từng Quan một QU

    2. ĐIỀU KIỆN TỐI HẢO CỦA NGŨ QUAN

    Đối với phép quan sát Ngũ quan, tướng học có câu sau đây đủ để tóm tắt những điều kiện tổng quát của kẻ có Ngũ quan toàn hảo: "Ngũ quan cần phải Minh lượng và đoan chíng nói về hìng dạng".

    Từ ngữ Minh lượng bao gồm :
    -Thanh khiết
    - Sáng Sủa
    -Có thành khí
    -Trang nhã.

    Còn Đoan chính có nghĩa là :
    -Ngay thẳng
    -Cân xứng và lớn nhỏ thích nghi
    -Hình thể rõ ràng (chỗ nào cần đầy thì đầy,mỏng thì phải mỏng; đen trắng phân biệt v.v...tùy theo Quan đó là Mắt, Tai, Mũi, Miệng hay lông Mày).

    Đó là hai tổng -tắt căn bản trong phương pháp quan sát Ngũ quan.
     
  6. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    13 BÔ VỊ QUAN TRỌNG

    Trong phép xem tướng khuôn mặt, người ta chia khuôn mặt thành rất nhiều khu vực nhỏ gọi là bộ vị. Thoạt đầu, theo truyền thuyết thì từ đời Đông-Chu (cách đây khoảng 2500 năm ) khuôn mặt được chia thành 13 bộ vị (h.3).

    [​IMG]

    Đến đời nhà Hán thì người ta tế phân các bộ vị trên thành 120 bộ vị nhỏ hơn. Đời Đường và Tống, tổng số bộ vị trên khuôn mặt là 130. Các nhà tướng học khét tiếng như Nhất Hanh Thiền sư đời đường, Ma Y và Trần Đoàn đời Tống đều ghi lại trong sách tướng của mình con số 130. Đời sau phần lớn đều theo số 130 của Ma Y- Đến hai đời Minh, Thanh con số đó tăng lên 140. Nhưng bất kể 120,130 hay 140 đó chẳng qua điều là những tế phân vụn vặt, nhiều khi dư thừa vô ích. Ta chỉ cần biết 13 bộ vị chính yếu là đủ để quan sát khí sắc, mạng vận kiết hung. Dưới đây là 13 bộ vị trê khuôn mặt :

    -Khu vực Thượng Đình : Thiên trung, Thiên đình, Tứ không, Trung chính .
    -Khu vực Trung Đình : Ấn đường, sơn căn, Niên thượng, Thọ thượng, Chuẩn đầu.
    - Khu vực Hạ đình: Nhân trung, thủy tinh (miệng), Thừa tương, Địa các.

    Ý NGHĨA CỦA TỪNG BỘ VỊ :

    1. Thiên trung: Thiên trung (coi phụ họa h.3) được coi là tốt đẹp nếu đầy đặn, sáng sủa. Trong trường hợp đó thiên trung là dấu hiệu cho biết thuở nhỏ vận tốt, cha mẹ song toàn, thân thể khỏe mạnh. Ngược lại Thiên trung thấp, lõm, lệch lạc trông không có gì khả quan chủ về tuổi ấu thơ không được tốt đẹp, hoàn cảnh sinh sống lúc nhỏ khó khăn chật vật, không được song thân nuôi nấng đúng mức, thiếu tình thương. Nếu như Thiên trung có khí sắc hắc ám, ấn tàng mường tượng như mạch máu ngầm, có gân xanh chạy dài tới Ân đường (ở giữa 2 đầu long mày ), thì đó là triệu chứng trong đời khó thoát tai ương đột ngột, sinh kế phần lớn khó thành.

    2. Thiên đình: Là phần giữa trán tiếp liền dưới Thiên trung (thông thường Thiên Đình và Thiên trung chiếm 1/2 bề cao của trán. Do đó, cách quan sát và ý nghĩa tương tự như Thiên trung về mặt mạng vận cá nhân,điều hơi khác là Thiên trung chủ về cha. Thiên đình chủ về mẹ. Nếu Thiên đình khí sắc hắc hám một cách trường cửu thêm vào đó là hình thể khuyết hãm sẽ chủ về cảnh cơ khổ thiếu niên phần lớn do mẹ gây ra hoăc không được quý nhân tương trợ, do đàn bà cản trở.

    3.Tư không: Về mạng vận cũng đồng nghĩa với Thiên trung và Thiên đình nhưng thường nặng về ý nghĩa bản thân, trong khi hai bộ vị trên liên quan đến ảnh hưởng tới cha mẹ. trong thực tế khó mà tách biệt được vị trí đích thực của ba bộ vị. Nếu Tư không khuyết hãm hoặc khí sắc xấu xuất hiện thường xuyên, chủ về bản thân hay gặp trắc trở trong công việc, không được phụ huynh hay quý nhân giúp đỡ. Ngược lại Tư không sáng sủa, đầy đặn có khí thế mạnh mẽ thì đó là dấu hiệu bản thân khi hành sự được người trên hổ trợ.

    4. Trung đình: đầy đặn, sắc hồng lạt hoặc vàng, trông sáng sủa, chủ về thành đạt sáng sủa,vừa thông minh tài trí, vừa mạnh khỏe, ít tật bệnh hiểm nghèo. Nếu thấp, khuyết: chủ về ngu độn, vô tài cán. Nếu chổ này bị vết hằn ,sẹo tự nhiên thì nốt ruồi thì dể đưa đến bị người ghét bỏ, có tính nóng nảy, ngông cuồng.

    5. Ấn đường: Đó là khoảng giữa hai đầu lông mày là nơi trung gian giữa trán và gốc mũi. Đối với tướng học Á- Đông cổ điển, bộ vị này rất quan trọng về phương diện mạng vận. Nguyên tắc quan sát từ Ấn đường cũng tương tự như bốn bộ vị vừa kể trên , chủ yếu là lấy sự rộng rãi, nẩy nở là tốt về hình thức, tươi tốt ,hồng nhuận là tốt về thực chất. Tốt cả chất lẫn hình chủ về mưu sự dễ thành. Hẹp hoặc khuyết hãm là xấu. Đặc biệt tối kỵ là hai đầu lông mày không được giao tiếp nhau ở ngay trên Ấn đường tạo thành một vệt đen gần như duy nhất chạy dài từ phía bắt phải sang mắt trái. Kẻ có tướng Ấn đường không mong gì có dịp giàu sang, hèn hạ suốt đời nhọc nhằn. Ấn đường có nốt ruồi ở 2 bên phải và trái chủ về tù tội.

    Một đặc điểm thường thấy ở những người từ tuổi thanh niên trở đi là Ấn đường có vết hằng chạy từ 2 bên đầu long mày lên phía tráng. Sự kiện cũng được sách tướng nghiên cứu tường tận và đưa đến vài nhận xét sau đây:

    a. Ngay chính giữa Ấn đường có một vết sâu và thẳng thì gọi là " luyến trâm văn", về mạng vận có ý nghĩa là vợ chồng sung khắc.Về mặt cá tính, đó là kẻ có ý trí mạnh, làm việc có tinh thần trách nhiệm (h.4)
    [​IMG]
    b. Ấn đường có 3 hằn song song (h.5) chủ về phá tán gia sản, khắc vợ, sống xa quê nhà mới mong tạm đủ ăn mặc.
    [​IMG]
    c. Ấn đường có 2 đường giao nhau như hình chữ bát (/\) (h.6) chủ về sự nghiệp ba đào. Nếu các bộ vị khác đều tốt đẹp thì phải đợi ngoài 40 tuổi mới mong thõa nguyện bình sinh. Về mặt cá tính, đó là tướng người ưa tư lự, tập trung tư tưởng dễ dàng và có ý trí mạnh.
    [​IMG]
    d. Ấn đường có loạn văn là điềm bất thường nặng nề nhất (h.7). Đó là dấu cha mẹ sớm khuất bóng, buôn tẩu tứ phương . Nếu các vết hằng loang lổ đó sâu và rõ thì lại càng xấu, chủ về tính nết buông thả, không thể kiềm chế, đến khoảng trên dưới 30 tuổi khó tránh khỏi yếu tử (nếu các bộ vị khá tốt, mục quang có thần thì chỉ bị đau ốm hay tai ương qua loa).
    [​IMG]

    6. Sơn căn: Đó là khoảng sống mũi nằm giữa 2 mắt. Trong quan niệm " Thiên nhân tương trữ" của Á đông,(xem h.3). Sơn căn được coi như nơi giao tiếp giữa trời và người, giữa âm và dương, cho nên sơn căn cần phải cao, thẳng, ngay ngắn thì sự giao tiếp đó mới thành tựu mỹ mãn, đưa đến hậu quả tốt. Nếu lệch, hãm, gẫy v.v...thì không thể khiến con người hấp thụ được khí của trời và trăng sao. Hơn nữa mũi là dấu hiệu quan trọng nhất của sự giàu sang, nếu sơn căn lệch , nhọn hoặc nhỏ thì gốc mũi vốn đã hư sẽ khiến cả phần còn lại của mũi bị tai hại . Nếu sơn căn tốt thì gần như một định lệ: mũi cũng tốt theo và dưa đến tài vận hanh thông.

    Điều cần biết ở đây là nếu Sơn căn có màu xám như tàn tro thì đó là dấu hiệu báo trước của tật bệnh. Nếu khí sắc đó lan cả xuống sống mũi và xuống sát phần tiếp giáp với 2 đầu mắt thì bệnh càng nặng và có thể bị chết vì bệnh.
    Nốt ruồi ở ngay sơn căn báo hiệu cuộc đời bôn tẩu tha hương. Ngoài ra đó cũng là dấu hiệu tai họa tù ngục, nếu mọc chính giữa khu vực của sơn căn , mọc ở hai bên phải và trái cho biết được kẻ đó trong mình có ác tật.

    7. Niên thượng : Đó là phần thân mũi ở ngay dưới Sơn căn và chiếm khoảng 1/4 chiều dài của mũi đo từ khoảng giữa 2 mắt tới chõm mũi. Các bộ vị như Sơn căn, Niên thượng, Thọ thượng sẽ được mô tả rõ ràng ở phần nói về mũi nên ở đây chỉ chú trọng tới phần ý nghĩa căn cứ vào khí sắc và nốt ruồi của Niên thượng mà thôi.

    Niên thượng có sắc ám đen như sương mù, chủ về người thân có bệnh .
    Niên thượng có nốt ruồi chủ về vận kiếp có số đào hoa nghiã là hoặc do đam mê sắc dục nữ giới mà thành tai tiếng tù tội, hoặc giao du xác thịt với đàn bà mà mắc bệnh.

    8. Thọ thượng: Phần sống mũi tận cùng ở tiếp dưới ngay Niên thượng. Nếu phần thọ thượng có xương hoặc sụn nổi cao là dấu hiệu trong đời thế nào cũng có phen thất bại nặng nề . Về nốt ruồi và khí sắc , cách luận giải tương tự như phần nói về Niên Thượng, ý nghĩa cũng vậy. Tuy nhiên, nếu hai bên(phải và trái) của Thọ thượng có sắc hồng lạt hoặc vàng và tất cả đều tươi mịn, dễ coi thì đó là triệu chứng đủ ăn đủ mặc ( với điều kiện là mũi tốt).

    9. Chuẩn đầu: Đó là phần chõm mũi, hình dạng tròn như viên đạn của con nít thường chơi. Chuẩn đầu cần phải lớn, tròn trịa và có thịt mới tốt , tối kỵ là trơ xương. Tuy nhiên nếu chỉ tốt về hình dạng mà sắc da ở chuẩn đầu khô mốc, ám đen cũng không thể coi là tốt vì đó là dấu hiệu bệnh hoạn hoặc hao phá về tiền bạc nặng nhẹ tùy từng trường hợp.

    Người ta thường nói mũi là nơi quan sát sự giàu nghèo, nhưng thực ra sự giàu ngèo chỉ căn cứ ở phần Thọ thượng xuống đến chuẩn đầu (nhất là chuẩn đầu mà thôi).

    Ngoài ra về mặt xem tướng tài vận, nếu chuẩn đầu nhiều thịt, mập mạp nhưng lổ mũi quá rộng, hếch lên trời, nhiều lông, hai cánh mũi qua mỏng và ở cao hơn vị trí của chuẩn đầu thì cũng là tướng hao tài hoặc hữu danh vô thực về tiền bạc.

    10. Nhân trung: Đó là cái rãnh sâu nằm ngay chạy từ dạ chuẩn đầu xuống tiếp giáp với môi trên .Ở phần nói về môi, miệng và khu vực Hạ đình sẽ nói tường tận về các dạng thức và ý nghĩa. Ở đây chỉ xin nói sơ qua là điều kiện tất yếu để xem là Nhân trung tốt bao gồm:
    - Sâu và rõ ràng, dài và rộng.
    - Ngay ngắn chứ không lệch lạc.
    - Không có nốt ruồi hay các vạch ngang tự nhiên làm đứt đoạn.
    - Trên nhỏ dưới rộng.

    11. Thủy tinh: Là một danh xưng chỉ về môi miệng (trong phần nói về ngũ quan, miệng đoợc coi là xuất nạp quan và là một trong 05 đại bộ phận trọng yếu của khuôn mặt, nên sẽ được mô tả đầy đủ trong một chương riêng. Bởi vậy độc giả nên tham chiếu chương nói về miệng để biết rõ hơn).
    Ở đây điều kiện tiên quyết của Thủy tinh hợp cách là:
    - Môi miệng phải ngay ngắn.
    - Hai môi phải dày mỏng tương xứng
    - Khóe miệng phải hướng lên
    - Bề dày phải vừa phải không nên qua dày quá mỏng.

    12. Thừa tương: Là khu vực nằm giữa khoảng giữa môi dưới và ở phía tận cùng của khuôn mặt và hơi lõm xuống (h.8), nhưng đây chỉ là hình dạng phổ thông. Ở một số người bộ phận này có thể nhô lên cao hoặc thẳng tấp. Trong những trường hợp như vậy hoặc quá hõm đều là hun tướng, chủ về hay bị tai ương sông nước hay ẩm thực . Nếu khu vực này xám tro hoặc đen thì lại càng dễ quyết đoán.
    [​IMG]

    13. Địa các: Đó là phần tận cùng của khuôn mặt, ta thường gọi chung là cằm. Cằm chủ yếu phải nẩy nở, cân xứng, không lem, không nhọn, không đưa lên cao. Địa các quá ngắn chủ yếu về yểu thọ. Quá nhọn và dài chủ về sống lâu nhưng về già lênh đênh cô độc. Địa các có nốt ruồi hay lằn vạch tự nhiên do da mặt xếp lại thì không được thừa hưởng di sản của tiền nhân để lại, dù rằng có cân xứng và đầy đặn.
     
  7. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    12 CUNG TRONG TƯỚNG HỌC

    Về phươngg diện mạng vận từ đời nhà Tống trở đi, các sách tướng có lẻ chịu ảnh hưởng của khoa mạng số nên đã chia khuôn mặt thành 12 cung. Mỗi cung tượng trưng cho một lãnh vực của mạng vận phân phối như sau:

    1. CUNG MẠNG: (h9)
    [​IMG]

    Vị trí của nó là khu vực Ấn đường. Ý nghĩa chính của nó là niềm khát vọng tiềm ẩn có thể thựuc hiện đựoc khát vọng đó.

    Tuy nhiên trong phép xem tướng, một bộ vị không đủ để quyết đoán, nên phải dựa vào các bộ vị lân cận. Do đó tổng hợp các kiến giải cổ nhân cung Mạng và bộ vị lân cận giúp ta biết được một số yếu tố sau đây:

    - Nếu Ấn đường tươi sáng thì kẻ đó có số học vấn, tư chất thông tuệ.
    - Phụ hạ với Ấn đường tươi sáng là cặp mắt sáng sủa hắc bạch phân minh thì dễ giàu sang.
    - Vẫn với Ấn đường tươi sáng, khu vực trán cũng tốt trong thế phối hợp đắc cách dễ được phú quý song toàn . Ngược lại nếu ấn đường và trán đều thấp, trũng tì kẻ đó khó tránh được cảnh nghèo khổ. Trán vừa có vằn khôgn ra hình dạng nào cả, vừa hẹp lại thêm sợi mày khô vàng là tướng khắc vợ, phải sống xa nơi chôn rau cắt rốn.

    2. CUNG QUANG LỘC (h.9/2):

    Vị trí của cung Quan lộc nằm ngay ở trung tâm điểm của trán. Bộ vị này có biệt danh là Chính Trung. Ý nghĩa chính của cung Quan lộc là cho phép phỏng đoán địa vị, chức nghiệp của cá nhân trong xã hội.

    Thời xưa, trong một xả hội quân chủ trọng chức tước, người ta cho kẻ ra làm quan mới thật sự là kẻ có địa vị trong xã hội, nên được hưởng bỏng lộc. Quan lộc là bổng lộc do địa vị xã hội đem lại. Những kẻ làm quan thời xưa phần đông đều có Chính Trung sáng sủa, đầy đặn và rộng.

    Theo quan niệm trên, các sách tướng học cổ điển như Ma Y tưứng pháp, Thủy kinh tập, Thần tướng toàn biên đều nhất loạt cho rằng kẻ có Chính Trung sáng sủa tốt đẹp phối hợp với toàn thể trán rộng rãi, Sơn căn cao rộng thì suốt đời làm quan không bao giờ bị rắc rối, trắc trở đến mức phải "đáo tụng đình "Nếu khu vực Chính Trung khuyết hãm, trán hẹp, nếp nhăn của trán hỗn loạn thì hoạn lộ thường hay bắt trắc. Nếu mắt lại tự nhiên không vì bệnh tật mà có những tia máu lan khắp lòng trắng khiến người ngoài có cảm tưởng kà mắt đỏ thì gần như chắc chắn là kẻ đó không chết thảm thì cũng bị tù đầy vì khoan hoạn.

    Mấy năn gần đây, chịu ảnh hưởng của Nhật -Bản, Một số tác giả đã tìm cách giải thích ý nghĩa của cung Quan Lộc theo đường lối tâm lý học. Hai nhà tướng học đương thời là Tô Lãng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ căn cứ vào các tiến bộ của ngành cốt tướng học cho rằng phần Chính Trung nẩy nở là dấu hiệu bề ngoài của kẻ có tâm hồn thông minh, cao ngạo, thích có địa vị bằng cách nổ lực chứng minh tài ba của mình cho mọi người thấy. Hạng người đó dễ dàng thành công và thành danh trên đường mưu cầu công danh, nhất là thời xưa.

    Sự tuyển lựa quan lại dựa vào tài năng và đức độ thực sự của chính cá nhân đó như vua Nghiêu chọn ông Thuấn, vua Thuấn chọn ông Vũ vậy.

    Phần trung ương của trán không đặc biệt nổi rõ và đẹp nhưng không bị thấp, lõm hoặc tì vết thì cũng có thể xếp vào loại cát tướng. Nếu như cung Quan lộc hẹp, thấp, có tì vết tự nhiên thì tâm hồn vốn đã không có ý tưởng phấn đấu, ý chí bạc nhược nên khó có thể thành đạt được mộng công danh. Do đó, cổ tướng học đã có lý khi nói rằng Trung Chính khuyết hãm thì Quan lộc chẳng ra gì.

    3. CUNG TÀI BẠCH :

    Toàn thể các bộ vị của Mũi đều được coi như là thuộc cung Tài bạch. Ý nghĩa chung của cung Tài bạch tiền bạc của cải. Theo quan niệm xưa, Mũi tượng trưng cho Thổ Tinh, mà Thổ là đất, nguồn gốc của tài nguyên nên Mũi mới đươc xem là Tài bạch. Tuy vậy, điều này chỉ áp dụng cho nam giới mà thôi. Đối với nữ giới, Mũi là Phu Tinh. xem tướng mũi đàn bà, ngoài một số ý nghĩa khác, người ta còn có thể đoán được của người chồng đương sự nữa .
    Ở đây riêng về mặt tài vận, nếu mũi thuộc loại Tiêm -đồng- ty, Huyền- đảm- ty phù hợp thích đáng với Trung chính ngay ngắn. Sáng sủa không khuyết hãm thì có thể đoán là giàu có vĩnh viễn, không bao giờ nghèo khổ. Ngược lại nếu mũi thuộc loại chim ưng, thấp gầy hoặc nhỏ, nhọn, lỗ mũi hếch (ngưỡng-thiên-khổng) thì tài vận khốn quẫn, của cải không bao giờ giữ được.

    4.CUNG ĐIỀN TRẠCH :

    Việc xác định vị trí của cung Điền trạch hiện nay là có hai thuyết:

    a. Thuyết thứ nhất: Các sách tướng cổ như Sử quảng hải, Ma Y tướng pháp, Thần tướng toàn biên, Thủy kính tập và gần đây là tào Trấn Hải, tác giả cuốn Mạng tướng giảng tọa, cho rằng vị trí của Cung Điền trạch là cặp Mắt. Kẻ mắt mờ, khô và không có nhiều tia máu không mong gì có ruộng vườn hoặc có thừa kế được di sản thì củng phá tán cho kỳ hết, về già tay không. Nếu cặp mắt đen lấy, lồng đen, lồng trắng phân minh ( ví dụ như mắt phượng), lông mày cao dễ có số được hưởng di sản hoặc dễ tậu ruộng vườn. Mắt lớn và lộ dễ khuynh gia bại sản.

    b. Thuyết thứ hai: Một số tác giả hiện tại như Tô Lãng Thiên trong sách Nhân tướng học đồ giải và Khuyết Nông Cư Si trong sách quan nhân thuộc loại cho rằng vị trí đích thực của cung Điền trạch là khoảng từ bờ trên cặp mắt tới bia dưới của cặp chân mày.

    Sự tốt xấu của cung Điền trạch biến thiên đồng chiều với sự tốt xấu của khu vực kể trên. Kẻ có Cung Điền trạch rộng rãi, sáng sủa là có rất nhiều triển vọng được hưởng di sản của tiền nhân.Trái lại, khu vực của Cung Điền trạch hẹp thì kẻ đó nếu có ruộng vườn là chính công lao của đương sự chứ không có mấy triển vọng trở thành điền chủ nhờ phúc ấm hoặc tặng giữ của tha nhân.

    Riêng Kiến Nông Cư Sỉ còn viết thêm rằng khu vực cung Điền trạch còn cho ta biết được một phần cá tính con người nữa. Khu vực này cao rộng thì kẻ đó có tư tưởng bảo thủ, không ưa thích các sự thay đổi sâu rộng trong nếp sống hoặc tập quán. Khu vực này hẹp thì trái lại, nghĩa là kẻ đó tính nóng, thích tranh cải, không ưa gò bó trong khuôn sáo cổ truyền. Do đó, đại đa số những kẻ như vậy đều có óc cấp tiến, không nệ cổ.

    5. CUNG HUYNH ĐỆ :

    Vị trí đích thực của cung huynh đệ là cặp lông mày. ý nghĩa chính của cung này là sự tương quan gia vận giữa anh em. Ngoài ra theo các sach cổ như Ma Y, Thủy kính tập v.v... Còn có thể đoán định được số anh em trai nữa.

    Lông mày thanh nghĩa là sợi không lớn, không nhỏ khoảng cách đúng tiêu chuẩn (xem phần lông mày) và dài hơn mắt thì anh em hòa thuận. Lông mày đẹp và mịn, tình nghĩa anh em đậm đà và thấm thía, lông mày giống mặt trăng non thì trong số anh em có người nổi tiếng với đời.

    Ngược lại, nếu lông mày thô, chiều dài quá ngắn là điềm anh em ly tán. Sợi lông mày thô mịn xen kẽ nhau hoặc đuôi lông mày phải và trái cao thấp, dài ngắn khác nhau là kẻ có anh dị nghị. Sợi lông mày ở hai đầu lông mày giao nhau và sắc lại vàng, thưa thớt và ngắn là số có anh em hoặc chính bản thân chết ở xa nhà. sợi lông mày mọc ngược lên và xoắn nhau là số anh em bất hòa.

    Riêng về quan điểm cho là căn cứ vào lông mày mà biết được số anh em trai, gái (thuở xưa , theo quan điểm" Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" chỉ có con trai mới đáng kể), sách Ma Y tướng pháp toàn thư có ghi lại rất đầy đủ và phân biệt ra từng loại lông mày nhưng theo kinh nghiệm hiện tại lý thuyết này không xác thật, nên soạn giả không ghi vào đây.

    Tướng củng phải nói thêm là xem Tướng lông mày chỉ quan sát riêng cặp lông mày là đủ, cần phải đặt lông mày vào toàn thể các bộ vị của khuôn mặt trong thế hô-ứng liên- hoàn nhưu tác giả Tôn Đăng đã đề cặp

    6. CUNG TỬ TỨC (h.9/3):

    Vị trí của cung tử tức là khu vực nằm ngay phía dưới mắt gọi là lệ đường. Cách cấu tạo và màu sắc cho biết một cách khái quát về sự ràng buột giữa đương sự và con cái thấm thiết hay lõng lẻo phần nào hậu vận của con cái triển vọng có con hay tuyệt tự.

    Về mặt liên hệ đến mạng vận của con cái, nếu Lệ đường đầy đủ, tươi hồng thì con cái được thừa hưởng phúc lộc tự nhiên, có cơ hội làm vinh hiển tổ tông. Trái lại lệ đường mà sâu hỏm, màu sắc thô sạm là biểu hiện con cái không ra gì, cha cọp sinh con chó. Nếu Lệ đường mà sâu hỏm, khí sắc lại có các vết sẹo hoặc bị tật bẩm sinh là số tuyệt tự hoặc có con thì khi già cũng thành cô đơn.

    Một vài tác giả cổ điển còn đi xa hơn nữa là phân biệt lệ đường bên phải ứng với con gái, bên trái ứng với con trai, muốn biết một cách khá chính sát phải xem tướng luôn cả khu vực lệ đường của người vợ nữa.

    7. CUNG NÔ BỘC (h.9/4):

    Vị trí đích thực của cung Nô Bộc là khu vực Địa các, nhưng trong thực tế nó bao gồm phần lớn Hạ đình, từ khóe miệng xuống đến tận cằm. Ý nghĩa tổng quát của cung Nô bộc là sự hỗ trợ giữa cá nhân với các người quen biết hoặc giúp việc.

    Khu vực Địa các đầy đặn cân xứng là số có nhiều người quen biết có tài năng giúp đỡ, đối với tha nhân, đương số là kẻ có uy lực và có khả năng điều động người khác. Khu vực Địa các lệch hãm, nhỏ, nhọn là kẻ có số hay bị tiểu nhân ghen ghét ,kẻ giúp việt không hết lòng, có giúp người tận tình thì trung cuộc cũng mang lấy sự oán trách. Nếu khu vực Địa các có vết hằn, nứt tự nhiên là số có kẻ giúp việt hay thuộc cấp không ra gì, dễ dàng trở mặt đối với mình.

    8. CUNG THÊ THIẾP (h.9/5):

    Cung Thê Thiếp ở về phía hai đuôi mắt, khu vực này có tên riêng là Gian môn Cung Thê Thiếp cho ta biết sơ qua về sự liên hệ vợ chồng, sự hạnh phúc trong vấn đề lứa đôi và tình duyên sớm muộn ....
    Gian môn đầy đặn và không bị các vạch ngang dọc làm thành khuyết hãm là kẻ thân thể khang kiện, tình dục mạnh mẽ, cho nên trong đời sống vợ chồng dễ có hạnh phúc vật chất. Nếu bộ vị đó quá nẩy nở, bất kể trai hay gái thì vì tình dục quá mạnh khiến kẻ phối ngẫu trung bình khó có thể thỏa mãn được nhu cầu tình dục. Trái lại khu vực Gian Môn quá thấp hoặc hõm (tương đối so với sự mập hay gầy của toàn thể khuôn mặt)thì kẻ đó có tính dăm dục ngấm ngầm.

    9. CUNG TẬT ÁCH (h.9/6):

    Nằm ở khu vực sống mũi (bao gồm Sơn căn, Niên Thượng, Thọ thượng) cung Tật ách cho ta biết khái quát về sự khỏe mạnh hay suy kém của đương sự .
    Nếu khu vực Sơn căn cao và hai bộ vị kế tiếp ngay ngắn, nẩy nở và thẳng xuôi đó là biểu hiện của kẻ được trời phú có sức chịu đựng bệnh tật, rất dẻo dai, có thể bị lâm nguy, nhưng không chết vì bạo bệnh. hơn nữa kẻ đó ít bị bệnh tật.

    Khu vực sống mũi thấp, lệch, dễ bị bệnh và nếu kiêm thêm cả các vết hằn tự nhiên thì có thể quyết đoán là quanh năm bệnh tật liên miên, khó có thể trường thọ. Nếu tự nhiên khu vực cung Tật ách bị xạm đen thì đó là điềm báo trước bị trọng bệnh. Nếu các bộ vị quan trọng khác như Ấn đường, lông mày, cặp mắt đều ám đen thì có thể chết vì bạo bệnh trong một tương lai gần.

    10. CUNG THIÊN DI (h.9/7):

    Vị trí của cung Thiên Di ở hai bên phía trên của góc trán ) trong thuật ngữ của nhân tướng học, khu vực này được gọi là dịch mã). Ý nghĩa chính của cung thiên Di là sự di chuyển, giao tiếp với các tha nhân không phải là thân quyên của mình. tuy nói góc trán phía trên, nhưng cả khu vực lân cận cũng đều được coi trọng. Nếu khu vực Dịch mã và kế phía dưới đó là Thiên thương đầy đặn, cân xứng và sáng sủa thì đi xa làm ăn có lợi, được ngoại nhân giúp đỡ. Nếu khu vực Ngư vĩ (đuôi mắt) tươi đẹp thì đến già vẫn có triển vọng ngao du xa nhà một cách hanh thông. Nếu khu vực dịch mã lõm, lệch thì suốt đời đi xa chỉ chuốt lấy thất bại, người ngoài hờ hững. Nếu bộ phận trán và địa các lệch lạc, không cân xứng thì do ở chổ ngay từ căn bản Dịch mã bị mất thăng bằng, nên kẻ đó suốt đời long đong, không yên chổ.

    11. CUNG PHÚC ĐỨC:

    Hiện nay theo chổ hiểu biết của soạn gỉa thì có hai thuyết trái ngược về cả vị trí lẫn ý nghĩa.

    a. Thuyết thứ nhất: Được các sách cổ điển về tướng học như Ma Y thần tướng toàn biên, Thủy kinh tập và gần đây như Nghiên Nông Cư Sĩ trong sách Quan nhân tử vi của cung phúc đức nằm ở hai bên má chạy dài từ thiên thương xuống đén tận cùng của khuôn mặt.

    Về ý nghĩa, cung Phúc đức cho phép dự đoán hy vọng về công danh, phú quý (do các bộ vị khác thể hiện) có thể có nhiều xác suất thành tựu trong thực tế hay không . căn cứ vào kinh nghiệm của cổ nhân thì nếu các cung khác tốt mà cung phúc đức xấu thì sự thành tựu thực tế của cá nhân dó bị suy giảm hẳn hoặc mất đi. Ngược lại nếu Cung Phúc đức tốt, các cung kia xấu thì sự xấu đó có thể nguy hại rất nhiều.

    Đại khái là cung Phúc đức đầy đặn, cân xứng (trong ý nghĩa là cả hai bên phải , trái không mất quân bình quá rõ rệt), khí sắc tươi tắn thì chủ về phú quý dễ thành. Cằm tròn, trán hẹp, thuở thiếu niên gặp nhiều vất vả, trán rộng tốt mà cằm nhọn hẹp thì về giá lận đận. Nếu các bộ vị chủ về các cung khác không mấy tốt đẹp, nhưng cũng không xấu lắm mà được mày cao, mắt sáng thì vận số bình thường. Trái lại, vẫn trường hợp trên mà chân lông mày ăn lan xuống tận bờ mắt, tai có luân quách đảo ngược vị trí mà không thuộc loại Hỏa hình nhân thì đối với kẻ đó chẳng nên đề cặp đến chuyện phúc đức làm gì vô ích.

    b)Thuyết thứ hai: Thuyết này mới được đưa ra trong mấy năm nay do hai nhà tướng học hiện tại là Tô Lãng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ chủ xướng. Theo hai vị trên. vị trí của cung Phúc đức nằm ở phía trên phần cuối của cặp lông mày, giới hạn phía dưới là chân mày, phía trên vào khoảng trên dưới một phần tay. Ý nghĩa chính của nó là cho phép ta đón được sự may rủi có tính cách bất định của tài vận (tùy theo sự thay đổi của cách cấu tạo và khí sắc của khu vực trên, thời gian dự đón có thể lâu hay mau trước khi sự kiện xảy ra (h.9/8).

    Bộ phận kể trên có thịt, sắc thái thanh khiết được coi là điểm tốt cho việc mưu cầu tài lộc. Ngược lại, có thể nói kẻ đó ít hy vọng giàu có. Bộ phận chỉ vị trí cung phúc đức bị vằn hoặc sẹo tự nhiên hoặc nốt rùi thì phải giải thích là rủi nhiều hơn may trong khi phối hợp với các cung khác để luận đoán các hung.

    12. CUNG TƯỚNG MẠO :

    Vị trí là toàn bộ khuôn mặt bao gồm tất cả mọi bộ vị, toàn thể các cung phối hợp lại. Về điểm này, Cung tướng mạo cho ta một khái niệm khái quát về những nét trội yếu nhất của một cá nhân và tùy theo điểm trội yếu đó liên quan tới cung nào trong số 11 cung kể trên, ta sẽ biết được chiều hướng chính về mạng vận của kẻ đó sẽ đi về đâu và theo duổi hoạt động nào thì khả dĩ có nhiều triển vọng thành tựu nhất. Trở về các nguyên tắc căn bản của phép xem tướng (coi phần: 10 nguyên tắc căn bản cổ điển của phép xem tướng). Nhưng ở đây xét riêng về mặt các cung chúng ta chỉ cần định sự phối hợp Tam đình, Ngũ nhạc, Ngũ quan có cân xứng không mà thôi.

    Riêng về phần Phụ Mẫu, tướng học không xếp chung một cung. Muốn biết về cha mẹ sách Ma Y tướng pháp toàn thư khuyên ta nên quan sát phần Nhật và Nguyệt giác "Hai khu vực này cao nổi, sáng một cách thanh khiết tự nhiên thì cha mẹ trường thọ, khỏe mạnh. Ngược lại cha mẹ thường hay đau yếu (hoặc mất sớm nếu thấp hãm và có ám khí tự nhiên và kéo dài từ lúc sơ sinh). Nhật giác mà thấp hơn Nguyệt giác thì cha mất trước mẹ. Trường hợp ngược lại thì mẹ mất trước cha. Ngoài hai vị giác ra cần phải quan sát cả vị thế cân xứng của hai lông mày nữa (vẫn theo nguên tắc: lông mày trái chỉ cha, lông mày phải chỉ mẹ) cả hai cùng một chiều hướng ý nghĩa với hai giác. chỉ khi nào hai lông mày và hai khu vực Nhật và Nguyệt giác phù hợp nhau, sự dự đoán mới tạm gọi là chính xác trong phạm vi của cung phụ mẫu. Hơn nữa, việc dự đoán các hung của cha mẹ cũng phải đạt trong phạm vi tổng quát của cung Phúc đức và nhất là cung tướng mạo.

    * Nhật giác là góc trán bên trái phía trên, Nguyệt giác là góc trán bên phải. Đôi khi người ta còn gọi Nhật giác là Tả giác . Nguyệt giác là Hữu giác.
     
  8. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    TRÁN

    1. ĐẠI CƯƠNG:

    Trán là phần mặt của thượng đình. Trong lãnh vực cốt tướng học, Trán là phần bạo bọc phía ngoài của tiền não bộ. Vì tiền não bộ được y giới công nhận là chủ về trí tuệ nên giữa sự cấu tạo và phát triển của tiền não bộ và hính dáng của Trán có liên quan mật thiết với nhau. Do đó xét về trí tuệ con người rộng hẹp, sâu, nông không gì bằng xét hình dạng của Trán. Thông thường Trán cao rông, đầy đặn và ngay ngắn là biểu thị của trí tuệ cao thâm vì khái quát lực, thống nhất lực và quan sat lực phát triển mạnh mẽ khiến người ta dễ dàng quyết đoán kịp thưòi và chuẩn xác. Thành công và đắc lợi là ở chổ đó. Trái lại, kẻ đầu óc trì độn hay do dự bất quyết hoặc nhận định thiếu sót thường bỏ phí nhiều cơ may vận tốt. Do đó về mặt mạng vận, tướng học cổ điển gọi trán là Quan lộc cung thật là có ý nghĩa. trán rộng và cao thì đường công danh rạng rỡ, còn hẹp và thấp thì Quan lộc diên tri và trí tuệ bất túc.

    Nhưng trán rộng hay cao, hẹp hay thấp là do sự cấu tạo tiên thiên, không do cá nhân quyết định, may mắn thì được trán tốt, tức là bẩm thụ được trí tuệ cao viễn, chẳng may thì ngược lại . Bởi vậy trán còn biểu thị cung Phúc đức của môt cá nhân, Phúc đức rộng hay hẹp , dày hay mỏng có thể do trán thể hiện một phần lớn.

    2. CÁC DẠNG THỨC CỦA TRÁN :

    Nếu ta gọi AC là chiều dài khuôn mặt và MN là bề ngang rộng nhất của trán thì ta sẽ có một tiêu chuẩn để định trán cao hay thấp và rông hẹp như sâu (h.10).

    Nhìn một cáh tổng quát ta phân biệt được trán cao và rộng, trán thấp và trán hẹp, trán lồi và Trán vắt v.v...Trên thực tế các loại trên lại pha trộn với nhau tạo thành muôn vàng hình dáng dị biệt. Trước khi đi sâu vào chi tiết cần phải phân biệt thế nào là dài và rộng.

    [​IMG]


    1. AB = 1/2 BC, MN=BC : tiêu chuẩn trung bình.​


    2. AB > BC/2 : Trán cao ​

    AB < BC/2 :
    Trán thấp​

    3. MN >BC :
    Trán rộng​

    MN :
    Trán hẹp​

    Thông thường, bề ngang khuôn mặt bằng chiều dài tính từ khỏng giữa 2 đầu lông mày tới cằm (xem h.10). Qua tiêu chuẩn mẫu đó thì coi là rộng, dưới tiêu chuẩn đó bị coi là hẹp. Về chiều cao của trán, đối với người thanh niên và không sói đầu quá sớm thì bằng một nữa chiều dài từ khoảng giữa 2 đầu lông mày tới cằm. trên mức độ đó là cao, dưới mức độ đó coi là thấp.

    1. Trán rộng :

    Bề ngang rộng, phẳng, có bề cao trung bình biểu thị đặc tính bị động củ trí tuệ. Người có trán rộng mà thấp là kẻ có trí nhớ dai, khả năng ghi nhận các sự kiện cụ thể rất mạnh, nhưng óc phân đoán không hoàn hảo. Họ chỉ suy luận và phán đoán một cách cụ thể. Óc tưởng tượng của họ chỉ lập lại các hoàn cảnh đã trải qua chứ không kết hợp được để sáng tạo ra những hình ảnh mới . Nói một cách tổng quát, đối với một người có trán trung bình hoặc hơi thiếu bề cao, mà lại rất rộng bề ngang thì có thể quyết đoán rằng người đó có khả năng phát triển kiến thức về chiều rộng nhưng không đủ khả năng phát tiển về chiều sâu. Nếu phần dưới của trán, giáp ranh với lông mày, lại bằng phẳng và chiếm phần trội yếu thì kẻ đó thiếu hẳn trí tượng cần thiết để có thể tiên liệu được các hậu quả sẽ xảy tới trong tương lai do việc làm hiện tại của mình. Ngược lại nếu phần trên cảu trán quá rộng so với toàn bộ trán thì kẻ đó quá thiên về tưởng tượng, mơ mộng, thiếu thực tế.

    2. Trán cao:

    Trán chỉ có bề cao mà bề ngang xấp xỉ ở mức trung bình thì đặc điểm của trí tuệ sẽ là sự phát tiển của óc phán đoán, tập trung tư tưởng dễ và có khả năng sáng tạo (óc tưởng tượng khá dồi dào), bề ngang càng thu hẹp ở khu vực qunh mi-cốt đi đôi với sự phát triển quá đáng của phần trên sẽ là dấu hiệu của sự tưởng tượng xa với thực tế, sự lĩnh hội chỉ ở trong lĩnh vực siêu hình hoặc không tưởng.

    Nếu Trán được phát triển cả bề ngang lẫn chiều cao thì thường thường là kẻ đó được thiên phú trí tuệ thâm viễn và hoàn hảo: óc quan sát khả năng lĩnh hội và trí tưởng tượng sáng tạo phong phú dễ thích ứng với hoàn cảnh thực tại. Tuy nhiên, các đức tính trên muốn được phát huy và trở thành hữu dụng lại còn phải tùy thuộc phần lớn vào cách cấu tạo chung của khuôn mặt, sự cân xứng của các bộ vị và nhất là đặc tính về phẩm chất của các bộ vị căn bản. Sự rộng hẹp cao thấp chỉ là dấu hiệu về lượng chưa đủ để xác định rõ ràng.

    Ngược lại, nếu kẻ mà Trán vừa hẹp, vừa thấp là kẻ trí tuệ bị giối hạn tới mức tối đa. Mọi khả năng quan sát, lĩnh hội và phán đoán đều ở mức dưới trung bình. Các nhận xét của họ hoàn toàn dựa vào các sự quan sát nhãn tiền về các sự vật cụ thể hữu hình. Ngoài 4 trạng thái: cao, thấp, rộng, hẹp, Trán còn có thể có một trong các hình dạng sau đây tùy theo cách phối trí của chân tóc.

    3. Trán vuông :

    Trán có hình thể vuông vức (h.11) là dấu hiệu bề ngoài của sự trọng thực tiễn. Vuông cạnh mà cao rộng là đặc tính của tinh thần thực tiển và có khả năng thực hiện các quan niệm của mình. Phần lớn các khoa học gia, kinh tế gia, thực nghiệp gia đều có loại Trán kể trên .

    [​IMG]

    Nếu Trán thấp hẹp mà lại có góc cạnh vuông thì trỏ óc trọng thực tiễn hoặc chỉ nhận thức được những điều thực tiễn nãng tiền nhỏ hẹp.

    4. Trán có góc tròn :
    Hai góc trên của Trán nẩy nở và không có tóc tạo thành hai góc tròn khá rộng khiến phần Trán tiếp giáp với chân tóc trông giống chữ M (h.12).

    [​IMG]

    Loại Trán này nếu cao rộng là đặc tính của khả năng văn học, nghệ thuật thiên bẩm. Đối với các hoạt động vật chất thường nhật loại người có Trán như trwn thường có ý coi rẻ nên không thích ứng với các nghề thực dụng. Ở những người Trán thấp hoặc hẹp, dạng thức trên của Trán trỏ khía cạnh tiêu cực của khả năng thẩm mỹ và nghệ thuật : cảm thấy được cái đẹp nhưng không có khả năng diển đạt hoặc thực hiện.

    5.Trán gồ (lồi) :

    Ta phân biệt ba loại .
    a) Gồ phần giữa (h.13)
    Trán gồ lên ở phần giữa mà toàn bộ Trán lại thấp (tức là dưới mức trung bình )
    hẳn thực tế. Loại người này không bao giờ vạch ra được một kế hoạch khả dĩ thực hành được .
    b) Trán gồ và ở hai phần trên dưới (h.14)​

    [​IMG]


    Trán hình dạng này biểu thị trí tuệ bất túc trong nhiều trường hợp, khả năng trí tuệ dễ dàng hướng dẫn hành đọng trong lãnh vực thực tiễn quen thuộc, nhưng nếu một nghịch cảnh xảy ra, người đó sẽ không biết phản ứng thích nghi với hoàn cảnh mới và sẻ lúng túng không tiìm được cách giải quyết ổn thỏa tinh thần luôn luôn bị ám ảnh.

    [​IMG]

    Nếu phần lọm ở giữa Trán chỉ vừa phải, phần gồ trên dưới cũng ở mức vừa phải thì sự lúng túng sẽ có thể vượt qua sau một thời gian nghiền ngẫm. Qúa nổi bật, thì sự lúng túng đó đưa đến sự bất quyết, bần thần và có thể là sự ù lì (ỉnirtie).

    c)Gồ ở phần dưới (h.15)

    [​IMG]

    Thông thường, nếu Trán ở mức trên trung bình về cả cao lẫn rộng, dấu hiệu này cho biết là kẻ đó có óc thông minh dựa trên dữ kiện do tất cả mọi cơ năng đem lai và dùng làm nền tảng tiến khới cho các hoạt động. Kẻ đó không thích đi sâu vào chi tiết và không trọng khuôn sáo (non conjormisie).

    Nếu phần này đi đôi với phần mi-cốt nẩy nở đều và cao vừa phải, chủ về cá tính rất mạnh nhưng kém phần hàm dưỡng: Tính bạo tháo, dám nói dám làm những điều mới lạ độc đáo. Đi đôi với Trán cao rộng và vát về sau, kẻ đó rất tự tin, thích hành động mạo hiểm, nên cổ tướng pháp mệnh danh là "Bất năng tòng tục, dũng cảm, háo vi phi : Không thể sống theo thói thường, có tính dũng cảm, thích làm những gì tự cho là hợp đạo lý khi cần bất tuân luật lệ triều đình".

    6. Trán tròn : (h.16)

    Cao mà tròn, đầy đặn và điều hòa là kẻ đầu óc thông tuệ. Phụ nữ mà có loại trán này thì đối với vấn đề hôn nhân đòi hỏi một mối tình lý tưởng nên khó được mãn nguyện. Do đó sau khi kết hôn dễ làm cảnh chia ly.
    [​IMG]

    Đàn ông chủ về tự tư, tư lợi quá đáng, khó sống chung với thân tộc cho nên ly hương lập nghiệp mới dễ phát huy được tài năng, toàn diện.

    7. Trán lẹm : (h.17 và h.18)​

    [​IMG]


    [​IMG]

    Trán thu hẹp dần cả về bề ngang lẫn bề cao tính từ mi-cốt trở lên. Theo nhận xét các nhà tướng học Nhật Bản hiện nay là Thạch Long tử Thi trong cuốn Quan tướng học đại ý thì chính vì não bộ thiếu phát triển nên xương sọ cũng bị thiếu tăng trưởng mà thành ra hình dạng như trên.

    Trán lẹm là dấu hiệu bề ngoài của trí tuệ và tình cảm thô lậu, nên hành động, ngôn ngữ không hơn gì người man dã dù rằng có được giáo hoá cũng bằng vô ích, vì những kiếm khuyết trí tuệ có tính cách tiên thiên nói trên.

    Trán thì khi nhìn thẳng thì thấy cân xứng, nhìn nghiên thì thấy hơi lõm là dấu hiệu rõ rệt nhất của sự nổ lực trí tuệ. sự nổ lực đó rất dễ dàng nếu sự sai biệt giữa các phần lồi lõm đó hào hợp thích đáng (h.19) và nếu sự kiện trên phối hợp với trán cao, rộng ta có thể tiên đoán rằng đó là một cá nhân thông minh một cách tế nhị, nhớ lâu những điều cần nhớ, có thứ tự về tư tưởng, óc suy luận và tập trung tư tưởng chính chắn nên phán đoán chuẩn sát hơn người thường.

    [​IMG]

    Về lĩnh vực quan sát, người đó lưu ý đến hình dạng, vị trí cách phối trí và sự cân xứng hơn là về màu sắc của sự vật . Họ có khuynh hướng trừu tự hóa, suy quả cầu nhân, có khả năng tổng quát háo và hệ thống háo việc giải thích sự vật cụ thể cũng như siêu hình.

    Ngược lại, Trán chỉ cao rộgn nhưng phẳng lì như mặt bàn chứ không có sự lồi lõm tối hiểu để có thể nhìn thấy từ xa một cách hòa hợp là dấu hiệu của sự hời hợt, thiếu hẳn sự sâu sắc, tư tưởng khó có thể tập trung vào một số trọng điểm cần thiết. Do đó sự phán đoán thường thiên lệch vì thiếu dữ kiện cần thiết.

    3. Ý NGHĨA VẬN MỆNH CỦA TRÁN :

    Trong đoạn dạng thức cảu trán, chúng ta có suy diễn những ý nghĩa thuộc về tính tình và trí tuệ . Thật ra, trán không phải chỉ có hai ý nghĩa đó mà còn có nhiều ý nghĩa vận mệnh rất phong phú. Vận mệnh con người trên trán đã được khảo sát trong các chương nói về Thiên Đình, nói về các bộ vị ở Thiên đình như Thiên Trung , Thiên đình, trung chính nói về cung Quan Lộc, cung thiên di. Tác giả không nhắc lại ở đây để tránh sự trùnh dụng và rườm rà.

    4. CÁC VẰN TRÁN:

    Các vằn trán chỉ có tính cách phụ đới và không mấy ý nghĩa về phưưong diện mạng vận khi quá tuổi trung niên.
    Nhưng nếu trong tuổi thanh niên mà vằn trán xuất hiện rõ rệt thì đó lại là điềm đáng lưu ý. Do đó những vằn trán nói ở đoạn này chỉ có nghĩa nhiều đối với tuổi thanh xuân mà thôi (các phụ đồ ở hình 20)

    [​IMG]

    Đứng về phương diện quan sát phổ thông, đại đa số ngươì Á-Đông thường có 3 vằn trán và tướng học khi khảo cứu về vằn trán đã dựa vào đa số kể trên. Ba vằn trán tính từ trên xuống dưới là: Thiên văn, Nhân văn, Địa văn với các ý nghĩa tương tự như sau:
    - Thiên văn: chủ về tôn trưởng, người trên
    - Nhân văn: chủ về bản thân
    - Địa văn: chủ về thuộc hạ, những người dưới mình.

    Bởi vậy theo tướng học Á-Đông, 3 vằn trán xuất hiện rõ ràng không đứt đoạn tưưong xứng đoạn tương xứng và có chiều hướng đi lên được coi là các tướng vì dung hòa được cả 3 yếu tố: sự nổ lực của bản thân, sự giúp đỡ của người trên , kẻ dưới (h.20/1). Trường hợp 3 vạch ngang không bình thường lên cũng được xem là cát tướng nhưng thứ bậc kém hơn (h.20/2).

    Bất cứ đường nào thuộc về Thiên văn, Nhân văn, Địa văn đều phải dài, rõ, không đứt đoạn và vắt ngang trán mới được xem là hợp cách.Thiên văn rõ ràng tươi đẹp chứng tỏ mạng vận lúc nhỏ thường được tôn trưởng, thương yêu giúp đỡ, ra đời được thượng cấp quí mến. Nhân văn hợp cách trong một khuôn khổ chung hoàn hảo của trán, biểu thị vận mạng, công danh của người đó đều do dự họ khai sáng, không nhờ cậy vào ai. Địa văn rõ ràng và dài hợp cách chủ về kẻ đó được những người dưới tay tận tâm giúp đỡ mà nên sự nghiệp.

    Ngươc lại thiên văn không rõ ràng là kẻ không được người trên hổ trợ, Nhân văn không rõ ràng hoặc đứt đoạn là kẻ tính tình cáu kỉnh, hay gây gổ, Địa văn không ra gì thì kẻ đó khó cùng người dưới hợp tác chân thành.

    Dưới đây là ý nghĩa và sơ đồ của một số các vằn trán thường có:
    * Có đủ cả ba đường nhưng hoặc Thiên văn hay Nhân văn hay Địa văn không song hành (h.20/3 và h.20/4)thì kẻ đó sẽ gặp hoặc người trên hoặc kẻ dưới không giúp ích gì được cho mình, đôi khi còn gây rắc rối nữa.

    * Cả ba đường đó rõ, hợp cách nhưng có một đường thẳng từ Ấn đường chạy lên cắt đứt như hình chữ vương (h.20/5) được coi là một dấu hiệu tốt chủ về trí tuệ thông minh khoát đạt, ý trí kiên cường, nhưng đứng về mặt vợ chồng: bất hòa dễ đưa đến đổ vở vì Nhân văn tạo thành với đường thẳng đó một hình chữ thập, tượng trưng cho sự phu thê ly tán.

    * Chỉ có đường Nhân văn rất dài, sâu mà không có Thiên và Địa văn: Chủ về huynh đệ bất hòa, ở chung một mái nhà dễ gây xung đột, đối với vợ, kẻ đó cũng thường hay gây gổ. Nếu cả hai vợ chồng đều có loại vằn trán này thật là đại bất hạnh trong cuộc sống lứa đôi (h.20/6).

    *Chỉ có Thiên, Địa văn mà không có Nhân văn hay có mà quá mờ lạt, ngắn: chủ về kẻ đó dễ bị những người xung quanh chi phối (20/7)

    * Vằn trán như vết rắn bò (xà hành) có thể liền (h.20/8) hoặc đứt đoạn chủ về tuổi ấu thơ bị nhiều nghịch cảnh, không được hóa thuận với tôn trưởng, thân thể suy nhược, tư tưởng bi quan. Đối với đàn bà, chỉ dấu trên càng có ý nghĩa sâu sắc hơn.

    *Vằn trán hình hạc (h.20/9) vì trông tương tự như chim hạc đang bay là dấu hiệu của kẻ lãnh đạm với danh lợi vật chất, chỉ thích suy nghĩ, thần kinh suy nhược, kém giao tế. Trong nhãn quan của nữ giới, đàn ông có vằn trán hình hạc là kẻ rất lãnh đạm với thú vui chăn gối .
     
  9. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    Chương thứ hai

    LÔNG MÀY

    I. TỔNG QUÁT VỀ LÔNG MÀY:

    a. Các đặc tính của lông mày:
    Về phương diện cáu tạo cơ quan bộ vị, Lông mày được cổ tướng học gọi là Bảo thọ quan.
    Đem chiêm tinh thuật ứng dụng vào tướng số, Lông mày phải được mệnh danh là Kế Đô, Long mầy trái được gọi là La Hầu .
    Trong phép đoán lưu niên vận hạn dựa vào các bộ vị trên mặt Mày trái được gọi là Thái Hà, mày phải là Phồn Hà .
    Căn cứ vào cốt cách con người để định thanh trọc (qua việc phân bố một số bộ vị thành nhiều học đường) Long mày được gọi là Ban duẩn học đường.

    b. Các đặc thái của lông mày:
    1. Long mày đúng cách.
    Sợi Long mày có đường kính tương tự như đường kính sợi tóc được coi là đúng cách về hình dạng, khoảng cách của chúng cũng tương đương với khoảng cách giữa các sợi tóc.

    2. Lông mày thưa.
    Sợi Lông mày lớn bằng sợi tóc, khoảng cách giữa các sợi Lông mày bằng khoảng cách của các sợi lông chân, tay thì gọi là Lông mày thưa.

    3. Lông mày lạt và mỏng.
    Sợi Lông mày nhỏ lại vừa ngắn như các sợi lông măng nhình xa tưởng như không có nên gọi là Lông mày lạt và mỏng.

    4. Lông mầy đặm, thô.
    Sợi lông mày to bằng sợi lông mũi thì gọi là sợi Lông mày thô, Thường thường nếu sợi lông mày bằng sợi tóc nhưng khoảng cách giữa những sợi lông mầy bằng nhau hơn là khoảng cách các sợi tóc thì đó gọi là Lông mày đậm. (Trường hợp này tướng pháp gọi là Trọc Trung Hữu Thanh). Cũng có trường hợp khoảng cách giữa các sợi lông mày bằng khoảng cách giữa các sợi tóc nhưng vì sợi thô nên khít lại với nhau cũng gọi là đậm. Trường hợp này mới gọi là Trọc.

    II. CÁC Ý NGHĨA CỦA LÔNG MÀY :

    a) Tương quan giữa Lông mày và cá tính.
    Lông mày liên quan mật thiết với cặp mắt, giúp cho người ta định rõ được tinh thần con người về mặt trí tuệ. Cho nên coi tướng Lông mày không nên tách rời ra khỏi cặp mắt.

    1. Thông minh tổng quát
    Lông mày cong và dài quá mắt, trông bóng bẩy và không rộng. Không hẹp là biểu thị thông minh, mẫn tuệ. Nếu dài vừa phải thì cần phải có nốt ruồi ở giữa chân mày mới đắc cách.

    2. Thông minh, đa tài và khéo léo

    Lông mày thanh tú, dài quá mắt, hướng Lông mày mọc từ đầu mắt hướng về cuối mắt, mọc kín xương chân,không lan lên trên, không rủ xuống phía mắt, biểu thị tâm tính trung hậu, thông minh, nhãn quan rộng rãi.

    Nếu mắt mờ và nhỏ: các đức tính trên chỉ có tính cách tiêu cực, chỉ biết thưởng lãm, cảm thông mà không đủ sức làm đến nơi những điều mình nghĩ.
    Nếu mắt sáng lớn thì các đức tính trên trở thành tích cực, thực thì được tất cả sở nguyện. Khéo léo chân tay trong tất cả mọi công tác trí óc lẫn tay chân; đuôi Lông mày càng cao thì các đặc thái trên càng rõ.

    Vẫn những đặc tính trên nhưng nếu chiều dài của Lông mày ngắn dần thì các đức tính trên cũng bị giới hạn dần lại.

    3. Thông minh hiền hào
    Lông mày đẹp rũ xuống phái mắt và hình dạng Lông mày như cánh cung.

    4. Cứng cỏi, ngoan cố, ngu độn
    Lông mày có sợi trung bình, đẹp mà mọc ngang là kẻ tínhtình cứng cỏi, hay câu nệ nhưng còn biết thị phi.

    Lông mày ngắn mà mọc ngược là kẻ tính tình ngoan cố, ưa cãi lý.
    Lông mày thưa ngắn (hoặc mịn nhưng xoắn lấy nhau hoặc mọc ngược chiều mà ngắn) mà ánh mắt vô thần là kẻ ngoan cố và ngu độn.

    5. Cô độc, quả giao
    Lông mày ngắn không tới đuôi mắt: tính nết ưa cô đôc, không thích giao du thân mật với mọi người. Do đó không có bạn tâm giao.

    6. Hào sáng phóng khoáng
    Lông mày mịn đen bóng, mọc che kín hết xương Lông mày mà dài hơn hoặc bằng chiều dài của mắt, đuôi Lông mày cao hơn đầu Lông mày, các sợi Lông mày xuôi theo chiều thuận và phủ lên mi- cốt như hình dạng mái ngói: giữa mi- cốt lông mọc rồi hai bên thấp dần là biểu thị tâm tình hào sáng, phóng khoáng, không cậu nệ tiểu tiết. Nếu Lông mày thưa, thô hoặc quá to bề ngang thì là kẻ cuồng phong.

    7. Mềm mỏng, nhu thuận
    Kẻ tính tình nhu thuận, dễ bị người thuyết phục thì Lông mày vòng cung, đầu và đuôi nhọn, nhỏ so với phần giữa hoặc hơi cong mà đầu chân mày cao, đuôi Lông mày xuống thấp hơn đầu.

    8. Tham lam, dâm dật
    Đặc trưng của tham lam, dâm dật làloại Lông mày hoặc mịn và rối như tơ vò hoặc nhỏ bản và cong vút như mày ngàn.

    9. Tàn nhẫn, háo sắt
    Lông mày thô, mọc thẳng đứng hoặc mọc hướng lên phía trên là kẻ thần khí cương bạo, tính tình tàn nhẫn, háo sắt, ưa đấu tranh bạo lực, Sách Nhân luân đại thống phú có nói : "Lông mày mọc ngược mà thô là kẻ tính hay đa sát, dữ như lang sói". Nhưng, đặc tính trên chỉ trở thành hành động nếu nó đi đôi với mắt chó sói hoặc mắt óc lồi mà lộ hung quang. Còn không thì đó chỉ là biểu hiện của tính háo sắt tiêu cực.

    Người ta thường nói "Mi thanh mục tú" là kẻ tính tình hòa nhã, thông minh. Xem như vậy, Lông mày và mắt là những nơi để phát hiện ra được cá tính của con người. Phối hợp cả hai (Lông mày và mắt) ta có tạm đủ yếu tố để quan sát cá tính con người dưới khía cạnh tinh. Ở đây soạn giả thấy cần phải đúc kết những điều thu thập được của tướng học về tương quan giữa Lông mày và cá tính thành một "biểu nhất lãm" dưới đây để độc giả tiện tham khảo.

    _ Lông mày dài, mịn, trông thanh nhã là biểu hiện của sự thông minh và kéo dài chân tay lẫn trong cách cư xử.
    _ Khoảng giữa Lông mày có nốt ruồi là kẻ thông minh có tài bắt chước.
    _ Lông mày đẹp, cong xuống như trăng non là kẻ thông minh nhưng tiêu cực, tính nết hiền hòa.
    _ Xương Lông mày nổi rõ ràng và tính theo chiều dọc thì hai bờ xuôi thấp như mái nhà là kẻ cương nghị.
    _ Lông mày phía trên dài hơn phía dưới và mọc lan quá mi cốt về phía trên là kẻ rất hiếu kỳ và cực đoan.
    _ Lông mày bóng bẩy, mọc kính mi cốt và xuôi theo chiều từ đầu đến đuôi là kẻ tính tình hào sảng.
    _ Lỗ chân Lông mày tương đối nhỏ và khít, Lông mày dài và có chiều thẳng hơn là chiều cong là tướng thông tuệ, hiền hậu, chung thủy.
    _ Lông mày cong hoặc đuôi Lông mày là kẻ tâm tính thiện lương nhưng mềm yếu không có dũng khí.
    _ Mày thô nhưng có thế hoặc mọc ngược mà xoắn tít ở đầu sợi là kẻ tính tình hung bạo.
    _ Xương Lông mày (mi -cốt) mọc quá rõ và hai bờ điều cao bằng phần chính giữa bất kể mày thanh hay trọc, đều là triệu trứng bề ngoài của hung hãm, tàn bạo, gặp việt khó thương hay gây ra đổ vỡ.
    _ Lông mày mà đuôi bị khuyết là kẻ hay trí trá, gian hiểm.
    _ Lông mày quá thưa thớt và mỏng là kẻ tài trí tầm thường, hay a dua nịnh hót.
    _ Lông mày thưa mà đậm, hoặc đuôi Lông mày có nốt ruồi đen là kẻ tham lam ưa trộn cắp hoặc háo dâm.
    _ Hai Lông mày có hình dạng hoặc sắc thái không tương xứng là kẻ tính tình cố chấp, quan niệm một chiều.
    _ Lông mày đa số xuôi theo chiều bình thường mà lại có một số mọc thẳng đứng hoặc mọc ngược lên hướng trên là kẻ tính tình phản trắc hoặc gặp việc khó thì mất hết khí phách con người.
    _ Lông mày ngắn hơn mắt, thương kém về tài giao tế.
    _ Đầu Lông mày có một số sợi lông mọc ngược chiều về phía Lông mày đối diện là biểu hiện của cá tính ưa tranh đấu và ưa sát sinh.
    _ Lông mày mọc dọc theo chiều ngang và hướng xuống phía mắt biểu thị tính nết cứng rắn, cố chấp, có tà ý.
    _ Lông mày đỏa vị trí (chiều Lông mày xuôi theo từ đuôi mắt hướng về đầu mắt) là kẻ kiên cường, không chịu cùng người khàc cộng tác.
    _ Lông mày trông thô và hỗn trọc là kẻ đầu óc trì độn.
    _ Đàn ông mà có Lông mày đàn bà (nhỏ, hẹp hoặc mảnh quá cức) là kẻ tâm tính không bình thường, hay vong ơn bội nghĩa.
    _ Đàn bà mà Lông mày có bbề ngang quá hẹp trông như sợi chỉ. Khi nói năng mà lông mày cũng bất động như lúc im lìm là kẻ bất cần trinhtiết, đâm đãng.

    b) Tương quan giữa Lông mày và phú quí, bần tiện
    Lông mày cũng như mắt giúp ta biết được quý tiện, cho nên có tên là Ban duẩn học đường. Cũng vì lẽ đó, mà tướng pháp có câu Văn danh tại mi.

    1.- Phú quý
    Lông mày dài quá mắt là tướng tổng quát về phú quý.
    _ Lông mày dài, mọc cao lên về phía trán, cách xa mắt là phúquý vinh đạt.
    _ Lông mày đẹp hướng lên phía Thiên thương là tướng có phúc khí: vừa giàu có vừa được mọi người kính nể.
    _ Lông mày đen, tươi, mịn, dài bằng hoặc hơn mắt là tướng quý hiển, dễ dàng thành danh hơn người.
    _ Lông mày đẹp, sợi nhỏ như sợi tóc là qíy tướng: đó là dấu hiệu cho biết tiến trình tiến triển vô hạn.
    _ Lông mày đẹp, đầu Lông mày có nốt ruồi đẹp và đen là kẻ có tướng được hưởng quan lộc cao sang hơn người.
    _ Lông mày cong và dài, đẹp và mịn là tướng phú quý, danh tiến vang khắt thiên hạ.

    2. Bần tiện
    Đặc tính tổng quát là sợi thô, quá nhỏ, lông mày ngắn.
    _ Lông mày quá ngắn, xấu, không tới đuôi mắt là tướng nghèo khổ, có tiền cũng không được hưởng.
    _ Khoảng cách giữa bờ mắt và Lông mày không có hoặc quá ít cơ hồ như Lông mày che lấp mắt hẳn mắt là tướng của kẻ luôn luôn khốn quẫn về tiền bạc.
    _ Lông mày mà có nhiều gân nổi lên ở phía trên là tướng khốn quẫn không bao giờ kiếm được đủ tiêu.
    _ Mày đậm được coi là tốt nhưng quá đậm đến nỗi nhìn không thấy chân Lông mày thì lại là tướng phá tài, dễ bị cùng quẫn.
    _ Hai đầu lông mày mọc liền với nhau thành một vệt dài duy nhất từ đuôi mắt phải sang đuôi mắt trái là tướng không bao giờ dư giả tiền bạc.
    _ Lông mày mọc ngược mà thô là tướng bần tiện. Nếu có thêm sợi dài thì tính hung dữ,
    _ Lông mày ngắn, mọc xoắn tít và lan sát tới bờ mắt khiến người ngoài nhìn vào thấy có vẻ sầu khổ là tướng phá tiền bạc, càng về già càng nghèo khổ.
    - Đầu lông mày, trong tuổi thanh niên mà có những vằn nhỏ rõ rệt là tướng nghèo hèn, suốt đời vất vả.
    - Hai đầu lông mày có hai vết sâu rõ, thành chữ bát là tướng vất vả, suốt đời không được hưởng thụ nhàn hạ về tiền bạc.
    - Lông mày có sợi quá nhỏ và mảnh là tướng vừa nghèo vừa đê tiện.
    c. Tương quan giữa Lông mày và gia vận:
    1. Gia cảnh tốt và vui vẻ:
    Đời sống gia đình lúc nhỏ cũng như lúc lớn ảnh hưởng tới gia đình và thể hiện qua tính cách của Lông mày, ta có thể biết được những nét chính yếu về gia đình vận mạng:
    - Sợi Lông mày, chiều dài lông mày vượt quá mắt.
    - Sợi lông mày cao dần và thanh tú
    - Sợi lông mày đen đậm nhưng đen nhuận, snág sủa, hình dạng tổng quát của lông mày cong xuống như trăng thượng tuần.
    - Đó là những dấu hiệu bề ngoài của kẻ có gia đình vận mạng tốt, có hạnh phúc gia đình.
    Ngoài ra theo một thuyết khác khá thông dụng nhưng không được chính xác lắm là lông mày có thể cho ta biết được số anh em ruột đại khái như sau:
    - Lông mày đậm dài quá mắt thì có khoảng 3 hoặc 4 anh em.
    - Lông mày đẹp, đậm đều, nhưng chỉ vừa bằng mắt thì anh em tối đa là 2 người.
    - Lông mày bình thường nhưng nếu đặc biệt có một sợi mọc thẳng và đặc biệt dài hơn tất cả các sợi khác thì có 1 hoặc 2 anh em, có hai sợi thì 3 hoặc 4 anh em , ba sợi thì có 4 hoặc 5 anh em .
    - Sơi lông mày trông sáng sủa, đen min, không thưa, không khít khao từ đầu đén cuối có khoảng cách đều đặn quân bình kể trên là kẻ có 6, 7 hoặc 8 anh em ruột.
    2. Gia cảnh xấu và bất hòa:
    Hai đầu lông mày giao nhau thì anh em ruột thường hay xung khắc. Nếu có thêm loại lông mày mọc đứng thẳng thì khổ sở vì anh em , có anh em không bao giờ nhờ cậy được
    - Lông mày mọc rủ xuống hoặc hướng lên chứ không theo chiều xuôi bình thường, sơi lông mày lại dài đều đều là dấu hiệu bất hạnh trong đời sống gia đình.
    - Lông mày bị đứt đoạn là kẻ không thể chung sống cùng nhà với anh em có số ly hương xuất ngoại mới khá.
    - Lông mày trông có vẻ thanh tú nhưng mắt lờ đờ, thần sắc trì trệ là kẻ thường hay lụy vì đàn bàn, hoặc gây liên lụy cho con cái.
    - Lông mày có hình chữ bát mà sắc hắc ám là kẻ vô duyên với quyến thuộc, có hình chữ nhất là biểu hiện của kẻ bị vợ coi thường.
    - Lông mày bên phải có một số sợi mọc dài và uốn cong là dấu hiệu mà chết trước cha, Bên trái là dấu hiệu cha chết trước mẹ. Cả hai lông mày đều có dấu hiệu trên là điềm cha mẹ đều mất sớm.
    - Hai lông mày đều mọc không tương xứng (hoặc một bên cao bên thấp, bên xuôi bên ngược, bên thẳng bên cong, bên đậm bên lợt, bên lớn bên nhỏ, v.v...) là biểu hiện hoặc cha hay mẹ mất sớm, hoặc anh em bất hòa hoặc thân thích thò ơ.
    - Lông mày thô, cứng thì tính tình ưa dâm dật nhưng rất hiếm con hoặc không con.
    - Lông mày rủ xuống phía dưới mắt mà trong dáng mặt lúc nào cũng có vẻ nhăn nhó sầu muộn là tướng của kẻ khắc với vợ con, gia đình thưuờng gặp cảnh bất hòa.
    d. Tương quan giữa lông mày và thọ yếu:
    Đối với tưuớng pháp cổ điển lông mày là một dấu hiệu rõ rệt và khả tính nhất để đón vận mạng sống con người dài hay ngắn, vì thế, lông mày được mệnh danh là báo thọ quan.
    1. Dấu hiệu trường thọ:
    - Các sợi lông mày phía đuôi dài hơn phía đầu.
    - Lông mày dài mà có chiều cong xuống.
    - Trong tuổi trung niên mà lông mày có điểm vài sợi bạc, trong khi toàn bộ lông mày có dáng tươi nhuận
    - Lông mày đa số bình thường, đột nhiên có một số sợi mọc dài hẳn ra ở khoảng giữa. tuy nhiên, dấu hiệu này xuất hiện trước 50 tuổi là dấu hiệu sẽ chết đột ngột vì bệnh nội tạng trong vòng vài ba năm tới kể từ khi phát hiện
    2 Dấu hiệu trường thọ và khoẻ mạnh:
    -Mày dài, vị trí duôi mi cốt cao dần, sợi long mày đẹp và sáng sủa
    - Lông mày cân sứng về sắc thái, dài ngắn, lớn nhỏ, vị trí, hình dạng sợi lông mày mọc điều đặng sáng sủa.
    -Mi cốt cao vừa phải, có thế, lông mày đều và phía đuôi có góc nhọn rõ ràng, tươi đẹp.
    3 Đấu hiệu non yểu:
    -Hai đầu lông này mọc sát vào nhau, trong xa không thể phân biệt được rõ ràng là tướng yểu mệnh tự nhiên.
    -Hai bên lông mày bất tương xứng là tướng chết yểu vì bệnh tật.
    -Đầu lông mày cao, cuối lông mày thấp và dầu mi-cốt cao hẳn rồi lại trũng và mất hút vào xương trán.
    III -CÁC LOẠI LÔNG MÀY ĐIỂN HÌNH
    1-Lông mày quỷ (quỷ mi)
    Sợi lông mày thô dài, có bề ngang rất rộng. Phía cuối lông mày có một số ăn lan xuống bờ mắt(h21).Người có loại lông mày quỷ là người rất khôn ngoan, gian hiểm, tham bạo, ưa sử dụng thủ đoạn. Trong khi giao thiệp với người thường ra vẽ nhân nghĩa,nhưng thực tâm chỉ nhằm lợi dụng.
    [​IMG]
    H21

    2-Mày thưa và rời rạc (Sơ tán my)
    Sợi lông mày tương đối ngắn, thưa và khoảng cách giữa các sợi lông không điều đặn. Chiều dài ngắn hơn mắt và hình dạng thô trọc(H22).Về phương diện mạng vận,lông mày thưa biểu hiện tình bạn lạt lẽo bình thường, tiền bạc không giữ được lâu bền mà lại lên xuống theo từng chu kỳ.Hết rồi lại có ,có rồi lại hết, dù hết sức cố gắn cung không thể thay đổi trình tự kể trên.
    [​IMG]
    H22
    3-Lông mày đức đoạn(Gián đoạn mi)
    Bất kể lông mày nhiều hay ít, dài hay ngắn, nếu có mọt quãng bị ngắt quãng hoặc lông ở một đoạn quá ngắn hay mờ lạtmột cách bất thường đều bị coi là gián đoạn mi(h23).Lông mày gián đoạn có ý nghĩa rất xấu vè mặt mạng vận,kẻ có gián đoạn mi có của cũng không giữ được vì tiền bạc thăng trầm ngoài ý liệu, anh em vô duyên, không nhờ cậy được, tính tình xung khắc hoặc phải xa cách cha mẹ.
    [​IMG]
    H23
    4-Mày đuôi én(Giao da mi)
    Lông mày to bề ngang, đen và đậm, hình dạng thô và phần đuôi chẻ ra hai nhấnh rõ rệt trông giống như đuôi chim én(h24).. Về mặt mạng vận, từ trung niên trở đi rất xáu, có thể bị tù tội, gia sản tiêu hao, anh em bất hoà và ly tán.
    [​IMG]
    H24
    5-Lông mày thưa và lạt(Hoàng bạc mi)
    Sợi lông mày nhỏ, màu ngả vàng, khoảng cách thưa và không đều, luôn luôn ngắn hơn mắt.Nếu mắt dài mà gặp loại lông mày này thì ngay từ tuổi trẻ tuy tiền bạc có vào nhiều nhưng ra cũng lắm,không bao giờ dư dật.Nếu mắt hôn ám thì kẻ có lông mày thưa và lạt có số chết ở quê người (h25)
    [​IMG]
    H25
    6-Lông mày chổi xể(Tảo trứu mi)
    Hình dạng lông mày tương tự như cái chổi quét nhà(h26).Đầu lông mày trong thanh tú, lông mịn, càng về phí đuôi thì càng thưa dần, phía nhọn uốn cong về phía trán.Về mặt mạng vận gia đình,lông mày chổi xể tượng trưng cho sự thiếu tình cốt nhục(cả anh em lẫn con cái).Hậu vận rất xấu vè cả tiền bạc lẫn gia cảnh.
    [​IMG]
    H26
    7-Lông mày chữ bát(Bát mi tự)Về loại lông mày này có hai giả thuyết:
    a)Đầu lông mày bình thường nhưng cuối lông mày chia thành hai nhánh.Một nhánh hếch lên và chiều hướng của sợi lông mày cũng hướng lên;còn nhánh thứ hai tẽ xuống, chiều lông mày cũng xuôi theo.Tóm lại, hai nhánh có chiều hướng khác nhau:một thuận một nghịch(h27).Lối phân định này được nhiều người công nhận hơn lối thứ hai.Về ý nghĩa,lông mày chữ bát chủ vè vận số long đong nhất là các lãnh vực tình cảm, tiền bạc.
    b)Lông mày thuộc loại dài,đầu lông mày cao và thân lông mày thấp dần,đến đuôi lông mày thì xuống thấp gần ngang hàng với đuôi mắt.Cả hai lông mày phải trái và trái hợp với nhau thành hai nhánh trông như hai nhánh chữ bát. Loại lông mày chữ bát thường đầu mịn đuôi thưa,càng thô và càng tản mát thì ý nghĩa lại càng xấu.
    [​IMG]
    H27
    8-Lông mày dao cau(Tiêm dao mi)
    Lông mày nhỏ, hẹp cả bề dài lẫn bề rộng có hình dạng như loại dao têm trầu thời xưa(h28), lông mày thô và ngắn.Kể có loại lông mày dao cau tâm địa gian hiểm, đầu óc tàn nhẫn, hung bạo, ngay cả đối với anh em ruột thịt cũng không vị tình.Người có loại lông mày dao cau thường chết bất đắc kỳ tử.
    [​IMG]
    H28
    9-Lông mày la hán(la hán mi)
    Mày đậm mà thô.bề ngang rất rộng và uốn hơi cong như lông mày các tượng La hán trong các đền chùa cổ(h29).Đây là loại lông mày rất xấu,tượng trưng cho sự trì trệ đủ mọi phương diện.Người có cặp lông mày la hán mà được cặp mắt tốt thì vợ trễ, con muộn, tuổi trẻ gian nan vất vả.Nếu lông mày la hán đi với mắt xấu hoặc nhãn thần hôn ám là điềm báo trước chết vì hình thương ở tuổi trung niên.
    [​IMG]
    H29
    10-Lông mày rồng(Long mi)
    Lông mày đẹp, có dáng bóng bẩy, sợi lông mày dài và hơi thưa,đầu lông mày nhỏ, đuôi lông mày cao, hơi thô và cao hơn đầu(h30).Về mặt mạng vận, lông mày rồng phối hợp đắc cách với các loại mắt tốt là tượng trưng cho sự đông anh em, cha mẹ sống lâu và giàu có hơn người.
    [​IMG]
    H30
    11-Lông mày lưỡi kiếm(kiếm mi)
    Sợi lông mày mịn, khoảng cách vừa phải, bề ngang hơi nhỏ, bề dài quá mắt.Trông xa loại lông mày này thẳng, đuôi ngược lên trông như lưỡi kiếm(h31).Lông mày này biểu tượng cho tính nết cứng cỏi, học vấn sâu rộng.Về mặt gia đình, mạng vận, mày lưỡi kiếm tượng trưng cho phú quý lúc trung niên trở đi.
    [​IMG]
    H31
    12-,Mày lá liễu(Liễu diệp mi)
    Lông mày dài, thon ở hai đầu, trông mường tượng như lá cây liễu. Về tính chất của lông mày này, có vẻ hơi thô trọc nhưng nhìn kỹ và lâu lại có vẽ thanh tú đặc biệt(trọc trung đới thanh),(h32).Mày lá liễu biểu tượng tâm tính trung tín nhưng cá tính nhu thuận, dễ bị người thân chi phối hoặc khinh mạn. Nếu gặp được người quỳên quý đỡ đầu mới có thể hiển đạt được.
    [​IMG]
    H32
    13-Lông mày sư tử(Sư tử mi)
    Lông mày đậm và khá dài, thường thường bằng chiều dài của mắt, sợi lông mày thô, bề ngang khá lớn và hơi cong xuống, tuy nhiên mọc khá xa bờ mắt(h33).Lông mày sử tử hợp với mắt sư tử hoặc cọp tượng trưng cho sự thông minh, hoạt bát, dễ thành đạt nhưng vợ trễ con muộn,vinh hoa phú quý ở buổi vãn niên.
    [​IMG]
    H33
    14-Lông mày đầu mịn đuôi thưa(Tiền thanh hậu tán mi)
    Vị trí lông mày đầu đuôi bằng nhau, bề ngang thuộc loại hơi lớn, đầu lông mày có sợi nhỏ , hơi khít,mịn, bắt đầu từ phần gấp khúc trở về sau lông mày dài dần dần và khoảng cách thưa dần .Hình dạng lông mày tương tự chữ nhân(h34),trông thoáng qua thì không được tao nhã, nhưng nhìn kỹ dưới nhãn quan tướng học thì lại có vẽ thanh tú(trọc trung hữu thanh).Người có loại lông mày trên, đỗ đạt hoặc nổi tiếng sớm nhưng tiền bạc bình thường, từ trung vận trở đi tấn phát được,Nói chung loại lông mày đầu mịn đuôi thưa chủ về quý mà kém thọ.
    [​IMG]
    34
    15-Lông mày ngắn, nhỏ mad đẹp(Đoản xúc tú mi)
    Long mày mịn , đều, bề ngang hơi nhỏ và ngắn hơn mắt,dáng vẽ thanh tú, hợp với khuôn mặt, cặp mắt và râu tóc(h35).Đắc cách nói trên thì lông mày đoản xúc nhi tú tượng trưng sự khang kiện về cả vật chất lẫn tinh thần : tính tình trung hậu, trí tuệ sáng suốt, khong hay đau ốm trong buổi vãn niên.
    Tóm lại, đoản xúc mi tú thuộc hạng tiểu quý ,tiền tài bình thường nhưng gia đình, vận mạng hoà thuận.
    [​IMG]
    H35
    16-Lông mày đẹp vừa phải(Khinh thanh mi) Đặc tính tôngt quát tương tự như loại đoản xúc tú mi ở trên, nhưng bề ngang lẫn bề dài đều lớn hơn, hơi có chiều cong uốn theo mắt và dài bằng hoặc lớn hơn mắt ,đuôi mày dài và hơi thưa(h36).
    Người có loại khinh thanh mi phối hợp đắc cách với râu tóc và mắt là tướng được mọi người vị nể, thông minh, hoạt bát, lại đói xử với kẻ xung quanh có nghĩa.
    [​IMG]
    H36
    17-Lông mày sâu róm(Toàn luỹ mi) Sơi lông mày thô, dầy, khít, phía đầu dựng ngược và ngắn, phía đuôi hoặc ngang hoặc hơi xuôi về phí đuôi mắt.hình dáng thô bạo và to bề ngang( h37).
    Kể hợp cách về ngũ quan thì dễ thành đạt về mặt võ nghiệp nhưng tính tình thô lỗ hay gây hiềm khích . Kẻ thường tục thì hoặc hình thê khắc tử hoặc bản thân lưu lạc tuỳ theo ngũ quan bị khuyết hãm hoặc xung khắc nhiều hay ít.
    [​IMG]
    H37
    18-Lông mày chữ nhất(Nhất tự mi) Sợi lông mày mịn, đen, khoảng cách vừa phải , khá to bề ngang, dài bằng hoặc hơn mắt và đầu đuôi bằng nhau, thẳng băng thành hình dạng chữ nhất (-)Hán tự(h.38).Lông mày chữ nhất hợp với các loại mắt dài và có chân quang, biểu hiện cho tâm tình nhân nghĩa, thông tuệ.
    Về mặt mạng vận , lông mày chữ nhát đắc cách tượng trưng cho sự phát đạt ngay từ thuở trẻ, gia đình thuận thảo đến bạc đầu, phú quý trường thọ ít khi có kẻ sánh kịp.
    [​IMG]
    H38
    19-Lông mày trăng mon(Tân nguyệt mi) Lông mày có sợi vừa vặn , mịn, mọc xuôi, sắc đen và rõ như nét vẽ, uống cong như hình dáng trăng mồng 2 mồng 3 , dài quá mắt và dáng vẽ thanh tao(h.39).Hợp với mắt hạc hoặc mắt loan, ngũ quan toàn vẹn, tương xứng với cách cục hình hài , mày trăng non biểu tượng cho trí óc thong tuệ, nhu thuận , nổi tiếng vè đường văn học và khoa bảng.
    Về mặt mạng vận , gia thế , có thuyết cho rằng kẻ có mày trăng non thì cả anh em cũng điều hiển quý nhưng không có gì làm bằng.
    [​IMG]
    H39
    20-Lông mày tằm( Ngoạ tầm mi) Sợi lông mày hơi thô, cong và to bản trông như dáng con tằm.Néu lông mày đẹp và có vẽ tao nhã (trọc trung hữu thanh) thì đó là biểu hiện của tính nết khon khéo , uyển chuyển, dễ thành đạt, nhưng thiếu tình thân thiết anh em(h.40).
    [​IMG]
    H40
    21-Lông mày cọp( Hổ mi). Lông mày xếch lên, to bản, dài bằng hoặc hơn mắt, sợi lông mày thô, đuôi dài và hơi thưa(h.41)
    Lông mày cọp thường được coi là loại mày quý nếu hợp với mắt sư tử hay cọp và chủ về các nghề có tính chất canh tranh(vũ nghiệp, thực nghiệm gia v.v..)Lông mày cọp chỉ nặng về tính cách quý hiển chứ khong đại phú, trường thọ, ngoài ra còn khắc anh em con cái.
    [​IMG]
    H41
    22-Mày đậm ngắn (Đại , đoản xúc mi) Mày rất ngắn , không quá mắt, nhưng dáng vẽ đậm và thanh nhã , sợi nhỏ, đen và mịn.Phía đầu lông mày có một số sợi mọc ngang(h.42).
    Về phương diện mạng vận gia đình, lông mày đậm, đẹp và ngắn tượng trưng cho gia cảnh hoà thuận:anh em thân thiết, con ngoan vợ hiền...Tiền bạc khi tụ khi tán.
    [​IMG]
    H42
    23-Lông mày thanh tú(Thanh tú mi) Hình thể hơi cong và dài quá mắt , đầu hơi nhỏ và thấp, đuôi lớn dần và cuối cùng nhọn, cao hơn đầu .Sợi lông mày không lớn không nhỏ, không quá đậm không quá lạt, trông xa như nét tranh vẽ . Tướng pháp gọi loại lông mày này là thanh tu mi vì tục ngữ có câu:" Mi tự thanh sơn".Màu xanh tươi như cây bao phủ núi một màu xanh (h.44).
    Phối hợp với loại mắt trong sáng , có thần , lông mày thanh tú biểu hiện cho sự thông minh, trí tuệ cao viễn, đỗ đạt sớm, danh vang thiên hạ về mặt học thuật.
    [​IMG]
    H43


     
  10. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    KHU VỰC HẠ ĐÌNH

    Trong khu vực hạ đình, ngoài miệng là bộ vị quan trọng bậc nhất còn có một số bộ khác cũng đóng một vai trò đáng kể như: pháp lệnh, nhân trung, cằm và mang tai.

    a) Pháp lệnh:
    Pháp lệnh là hai vết lằn chạy dài từ hai bên cánh mũi xuống phía dưới(h168), hình giống như chữ bát.

    [​IMG]

    Theo nguyên nghĩa thì pháp lệnh có nghĩa là pháp luật và mệnh lệnh. Do đó, nhìn vào pháp lệnh ta có thể quan sát được cá nhân đó có tính trật tự hay không.

    Ngoài ý nghĩa về cá tính kể trên việc quan sát pháp lệnh còn cho ta biết:
    Sự nghiệp thịnh, suy: pháp lệnh rõ ràng đều đặn cân xứng à biểu hiện của sự nghiệp phát triển, ổn cố. Nếu pháp lệnh không rõ ràng, lệch lạc thì ý nghĩa trên sẽ đảo ngược lại. pháp lệnh về mặt gia vận, còn được coi là đường phân ranh giữa gia đình tính và xã hội tính. Phía trong pháp lệnh, đặc biệt là khu vực nhân trung được coi là trung tâm gia đình, phía ngòai là xã hội. Do đó, kẻ có pháp lệnh hướng ra bên ngoài chủ về đối với gia đình rất có hứng thú, đối với đời sống xã hội cũng có nhiều đam mê, hướng ngoại hơn là hướng nội.
    Chính pháp lệnh có nhiều ý nghĩa như vậy nên trong tướng học người ta rất lưu tâm quan
    sát và đi đến một sốnhận xét sau đây:

    1 Pháp lệnh mờ lạt
    hình 169 là loại pháp lệnh chủ về suốt đờ sự nghiệp gặp nhiều khốn khó, rất ít khi được việc gì tọai ý. Nếu như ngoài việc pháp lệnh mờ tối mà mắt thuộc loại vô thần thì vừa bất đắc chí vừa yểu thọ.

    [​IMG]H169


    2- pháp lệnh có nốt ruồi
    Đây là dấu hiệu chủ về sự bất hoà hợp với thân quyến khó tránh khỏi phá tan tổ nghiệp hoặc về tính tình thì đó là loại người tự tôn quá đáng nên sinh ra lắm chuyện lôi thôi, cuộc đời sẽ có lúc thất bại chua cay.

    [​IMG]H170


    3-pháp lệnh chẻ
    Loại pháp lệnh này ở cối chẻ thành nhiều ngả hoặc gồm nhiều đoạn nhỏ chấp nối dư thừa lại với nhau là dấu hiệu của người có chí mà không thành đạt, rời bỏ nơi sinh đẻ, bôn tẩu tha phương, suốt đời vất vả. Dù có may mắn được giàu sang một lúc thì cũng chẳng bền vững.(H171)

    [​IMG]H171

    4-pháp lệnh toả khẩu
    Đó là loại pháp lệnh có hai lằn chạy sát với mép miệng. Nếu đuôi pháp lệnh rõ và ăn thông với hai vằn của khoé miệng thì được gọi là đẳng xà nhập khẩu( rắn bò vào miệng) chủ về vệc sẽ bị chết đói vào khoảng 45 tuổi hoặc ít ra cũng bị tai nạn lớn lao. Tuy nhiên, dù kết cuộc có bị đói rách, nhưng loại pháp lệnh này không có nghĩa là người đó không thể phát quý một thời. Thời xưa, tướng quân Chu Á Phu được vua Hán Vũ Đế phong tước giàu sang tột đỉnh một thời, đến đời vua sau họ Chu bị hạ ngục và cố ý chết đói trong tù. Vừa qua, tại Đài bắc vợ một nhà tỷ phú cũng có loại pháp lệnh này và rốt cuộc chết vì đói nhưng không phải là vì bần hàn mà chỉ vì mắc bệnh yết hầu, không ăn được mà chết.(H172)

    [​IMG]H172

    Tuy nhiên, nếu người nào có loại pháp lệnh này, chủ về chết vì không được ăn nhưng nếu được các quý tướng khác lấn lướt thì lại vô hại. Vào năm 1911, tại Thượng Hải có 1 nhà đại tài phú tên Lương Sỹ Di cũng có loại pháp lệnh trên nhưng lưỡi ngay ngắn và chính giữa lưỡi có nốt ruồi son (chủ về đại cát tướng ): Kết cuộc là Lương chết vì già trên nhung lụa giàu sang, tận hưởng vinh hoa phú quý lúc Mãn đời. Sở dĩ Lương được như vậy nhờ có nốt ruồi son phá hư tướng chết đói và từ Đằng xà nhập khâu, 2 lằn pháp lệnh tai hại đã hợp với nốt ruồi son thành cách cục phú quý gọi là song long thương châu: 2 con rồng tranh nhau ngọc quý.
    Do đó, xấu mà gặp đúng cách phối hợp thì lại trở thành tốt. Đoán tướng pháp lệnh cần hết sức lưu tâm việc này.

    [​IMG]H173

    1 biến thái khác của loại pháp lệnh kép gồm bộ phận pháp lệnh bên ngoài rất rõ bao quanh 2 đường lằn nỏ chạy từ 2 mép mũi xuống trán 2 lằn nhỏ này có thể rõ hay lờ mờ. Loại này là cuộc đời bất định lúc trung niên. Thánh công không đủ nhưng khi thất bại lại dư thừa. Dữ kiện trên trở thành thục té trong khoảng thời gian trên dưới 50 tuổi. Đến vận hạn thuộc pháp lệnh, người đó khó thoát cảnh đói rah1, đại nạn.(H173)

    5 Pháp lệnh thảm tử:
    Loại người có pháp lệnh vừa tỏa khẩu vửa có lằm mờ nhỏ nhưng đủ nhìn thấy hình chạy dài từ phía dưới mắt đến tận khóe miệng (h.174) thuộc hạng người chết vì ngộ độc hay bị đầu độc, tự sát vì độc dược. Tóm lại, dó la loại pháp lệnh thảm tử của người chết vì chất độc mà từ trần.

    [​IMG]H174

    6. Pháp lệnh phú quý
    Như hình 175, pháp lệnh này tiêu biểu cho người quý hiển, không giàu thì nổi danh trong thiên hạ, những người nổi danh trong các lình vực giao ùdục, văn nghệ phần lớn đều có pháp lệnh này.


    [​IMG]

    Hình thái thứ hai tương tự trên nhưng chiều dài pháp lệnh dài hơn, đuôi mở rộng hơn (h.176) loại này tượng trưng cho sự phú quý, thọ khảo nhưng có điểm đáng lưu ý là về văn niên khó tránh cô độc. Có loại pháp lệnh này đi tu dễ nổi tiếng và thích hợp nhất.

    7 Pháp lệnh thọ khang
    Đặc trung pháp lệnh thường thấy ờ người mà suốt đời ít bệnh, sống lâu là 2 lằn của pháp lệnh cân xứng , dài, bao quanh khóe miệng ( nhưng không tiếp giáp khóe miệng, h.177 ).
    Chính vì lẽ thông thường có dạng thức trên thì sống lâu, tướng học gọi là Thọ đới (sợi đai trường thọ).


    [​IMG]H177


    Bình thừơng, người ta ngộ nhận hễ có lằn bao quanh mép là thọ đới , nưng nói chính xác , chỉ có loại pháp lệnh kể trên mới thực sự xứng danh Thọ đới đích thực.

    b) Nhân trung
    Nhân trung đôi khi gọi là nhân sung, là phần ăn sâu xuống mặt tạo nên 1 rãnh từ chuẩn đầu kéo dài đến giữa môi (môi Trên , h. 178).

    [​IMG]

    Trong tướng đàn bà, Nhân trung là 1 bộ phận quan trong, cho phép quan sát cơ cấu nội thể, thai sản khó dễ, con nhiều hay ít, nhiều gái hay trai.

    c) Ý nghĩa tổng quát Nhân trung
    trong phép xem tướng , Nhân trung đóng vai trò quan trọng vì nhiều ý nghĩa . Những ý nghĩa đó đã được cuốn tướng pháp cổ điển là thần tướng toàn biên ghi khá rõ, xin dịch nguyên văn :
    "Nhân trung với con người cũng giống kinh rạch đối với hình thể đất đai. Nếu kinh rạch nông hẹp thì nước bị ứ đọng. Có thể định được thọ mạng dài, ngắn, căn cứ vào sự dài ngắn của Nhân trung. Có thể dựa vào sự rộng hẹp của Nhân trung để đóan con cái nhiều, ít. Bởi lẽ đó, người ta lấy nhân trung làm thọ mạng cung của con người.

    Nhân trung cần dài , chớ không nên co rút lại, nên sâu và rộng , ngay ngắn , chớ không nghiêng lệch, phía trên vừa phải, dưới rộng dần là tốt.
    Nhân trung nhỏ hẹp thì cuộc sống quẫn bách, Nhân trung bằng phẳng thì gặp gian nan, vất vả.

    Phần trên hẹp, dưới rộng là dấu hiệu nhiều con , phần trên rộng, dưới hẹp chủ về hiếm muộn (ít con ) ; trên dưới đều hẹp mà khúc giữa phình rộng, chủ về con cái khó nuôi . trên dưới đều hẹp và bằng phẳng là tuyệt tự : nhân trung sâu và dài : trường thọ ; nhân trung nông , ngắn, yểu chiết.

    1 - Nhân trung dài, ngắn
    sự dài này có tính cách hết sức tương đối, chỉ có kinh ngiệm mới khiến ta nhận chân dược sự kiện này.Thường với người loại chính cách thì chiều dài nhân trung bằng 1/3 chiều dài hạ đình được coi là trung bình. Nhân trung dài hơn 1/3 ha đình coi là dài, dưới 1/3 là ngắn (h.179/1 & 179/2)


    [​IMG]

    Về mặt mạng vân Nhân trung dài , sâu , không lệch lạc là tướng sống lâu . ngược lại là tướng yểu. Cũng do ý nghĩa trên, Nhân trung còn được gọi là Thọ đường và tục ngữ Trung Hoa có câu; Nhân trung dài 1 tấc, sống lâu trăm tuổi.

    Về mặt cá tính, kẻ Nhân trung ngắn thường được người khác khen ngợi ca tụng mình, thậm chí, chấp nhận việc biến cả những khuyết điểm của mình ra thành ưu điểm. Theo sự nhận xét của nhà tướng học Tô Lăng thiên thì hạng phụ nữ có Nhân trung ngắn rất thích được ca tụng là mĩ nhân đài các, mặc dầu mặt mũi như quỷ dạ xoa, cử chỉ như con lật đật.

    Trái lại, kẻ Nhân trung dài và đúng cách có kiến thức độc lập và khách quan mọi hành vi cư xử đều xuất phát tự mình. Nếu gặp người ca tụng hay bị người chê bai đều tự xét 1 cách minh bạch. Đối với loại người này bỗng dưng khen ngợi hay cung kính 1 cách đặc biệt chỉ khiến cho họ hoài nghi ta và sẽ có tác dụng phản kại điều mà ta mong đợi ở họ.

    2- Nhân trung rộng, hẹp
    Sự rộng hẹp ở đây cũng chỉ có tính cách tương đối và chủ quan. Suy diễn từ nguyên tắc tổng quát được mặc nhiên công nhận cho loại tướng người chính cách thì với tiêu chuẩn trên, hễ chiều rộng bằng 1/3 chiều dài là vừa phải.

    [​IMG]

    Trên hay dưới mức độ kể trên là rộng hay hẹp. 2 hình vẽ 180 và 181 tượng trưng cho Nhân trung hẹp và rộng được căn cứ vào tiêu chuẩn trung bình của loại người chính cách nói ở đoạn trên. Các hình vẽ về sau cũng theo 1 quan niệm đó.
    Về ý nghĩa thọ mạng Nhân trung hẹp, chủ về sức khỏe tổng quát ở dưới mức bình thường, Nhân trung có ý nghĩa ngược lại. Về cá tính thì chủ về khoát đạt, hẹp chủ về nhỏ nhen.

    3- 3 dạng thức thông thường của Nhân trung
    Bất cứ trai hay gái dù ngắn hay rộng hẹp, người ta đều thây Nhân trung có 1 trong 3 dạng thức căn bản sau: a) trên hẹp, dưới rộng H.182)

    [​IMG]

    Mạng vận : đời sống ít gặp phiền não, vui nhiều hơn buồn, may mắn da số so với rủi ro, tai
    họa.

    Con cái: có khả năng sinh nhiều con và con trai nhiều hơn con gái. Ơû đàn bà có ý nghĩa dễ
    sinh sản.
    Cá tính:có đảm lượng khoan hoà dễ tha thứ hoăc mau quên các lỗi lầm của người khác
    vui tính
    b) Trên rộng dưới hẹp(h.183)
    Mang vận: Đời sốg gặp nhiều tai ương hơn là may mắn ,càng về già càng khốn đốn
    Con cái : ít có khả năng sinh dục,đàn bà thì sinh đẻ khó khăn
    Cá tính: hẹp lượng,hay cáu kỉnh(quạu)

    [​IMG]

    c)Trên dưới bằng nhau (h.184 )
    Mang vận: Thành bại that thường
    Con cái:số con trai,gái xấp xỉ bằng nhau
    Cá tính: vui giân bất thường.Nói tóm lại đây là lọai trung dụng của hai loại .Nhân chung
    nói ở hai tiểu đoạn trên về tất cả các ý nghĩa của nó.

    [​IMG]
    Ngoài ra các điều mô tả trên về mặt hình thức,bất cứ loại Nhân trung nào (dài , ngăn , rộng , hẹp, nở trên ,nở dưới ,cân xứng)điều cóthể hoặc mờ h.185 hoặc rõ, hoặc có vạch ngang cắt đứt (h186).


    [​IMG]

    *Sự mờ nhạt làm giảm phần lớn các ý nghĩa tốt của Nhân trung ,nhung lại không làm thay
    đổi ý nghĩa xấy thành tốt.

    * Sự rõ ràng về hình dạng nhấn mạnh thêm ý nghĩa tốt hay xấu của từng loại Nhân trung

    * Vạch ngang có thể rõ ràng hay mờ lạt,dài hay ngắn,liên tục hay đứt đoạn với ý nghĩa chung là khắc chế .Đàn bà mà nhân trung trên rộng dưới hẹp lại bị vạch ngang rõ rệt là kẻ tuyệt tự,hoặc hữu sinh vô dướng hư thai ..v.v
     
  11. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    CẰM VÀ MANG TAI.

    I. CẰM

    a) khái quát về cằm :

    Cằm (thuật ngữ Trung Hoa về tướng gọi là Địa các ) là khuyết tận cùng của khuôn mặt tính từ trán trở xuống(h.187)trang 222 trong trường hợp ta nhìn chính diện.

    Nếu ta nhìn nghiêng và chia phần bán diện làm đôi thì phần trước thuộc Cằm, phần sau kề từ phía dưới hai tai trở xuống thuộc về Mang tai (tai cốt ).Thông thường hai phần Địa các và tai cốt liên hệ mật thiết với nhau về cách cấu tạo,nên kết hợp khá chặt chẽ về mặt mang vận và cá tính đối với từng cá nhân một

    [​IMG]

    Về ý nghĩa mang vân tổng quát ,Địa các chủ về hậu vận(tức là khoảng 50 tuổi trở đi) Địa các nảy nỡ ,vuông vức , sắc thái tươi tắn là dấu hiệu càng về già thì số vận càng tốt .Trái lại Cằm thon nhọn thì vãn thiên thường cô đơn bần bách.

    Về mặt cá tính những tướng học gia thuộc tân phái ,chịu ảnh hưởng của của tướng học Nhật bản cho rằng vì tiểu não bộ và Địa các có liên hệ tương hổ đặt biẹt nên khi nghien cứu về dia các đã đề ra,số ý nghĩa thực chất sau nay:
    - ý chí mạnh hay yếu
    - Sức chịu đựng cả vật chất lẫn tinh thần .
    - Tình dục nhiều hay ít ,manh yếu,........

    b) Các dạng thức tổng quát của cằm :

    [​IMG]

    Nhìn chính diện(nhìn thẳng phía trước mặt )ta thấy Cằm có 3 dạng chính thức:
    - Cằm tròn (h.188)
    - Cằm vuông (h.189)
    - Cằm nhọn(h.190)

    Nhìn nghiên ( trắc diện) ta cũng thấy có 3 dạng thức thông thường:

    [​IMG]

    -Cằm vát (h.191)
    -Cằm gồ(h.192)
    -Cằm thẳng (h.193)
    Loại Cằm tròn và thường có hình dạng thẳng xuôi hoặc đôi khi hơi tháo vát chứ ít khi nào gồ lên.Ngưởc lai , loại Cằm thon nhọn thường vát hoặc gồ chứ ít khi thẳng xuống

    a) Các ý nghĩa của Cằm
    Hai loại Cằm tròn và vuông thuộc loại Cằm nở và thuộc loại bình thường hợp tiêu chuẩn Tam đình bình đẳng, loại Cằm thon nhọn thuộc loại Cằm lép, sách thường gọi là Hữu thiên vô địa

    1. Về mặt mang vận :
    -Cằm nay nở câng xứng chủ về hoạc phúc lộc khả quan
    - Cằm bạc nhược , nhỏ nhọn chủ về già hoặc cô độc hoặc nghèo khổ, tuỳ theo sự phối hợp tồng quát của toàn thể khuôn mặt.

    2.Về mặt cá tính :

    Cằm nay nở moat cách thích đáng biểu thị tâm tính quân xứng, dung hoà đưởc lý tưởng và thực tế, sử sự thích đáng nhất, kế đó là loại cằm tròn
    Nếu quá vuông vức, ý chí quá mạnh dễ trở thành cực đoan,cố chấp ngoan cố hoặc lì lợm . Cá tính của người có cằm quá tròn map thường biểu lộ ra ngoài bằng sự trọng ẩm thực, tình cảm phong phú , dễ bị xúc động. Loại Cằm thon nhọn thường là kẻ có cá tính mẫn nhuệ, thiên về lý tưởng , càng thon nhọn càng xa rời thực tế nên không bao giờ thành công trên đường đời.

    II. MANG TAI (h 194 )

    [​IMG]

    a) Khái quát về Mang tai :

    Mang tai hay tai coat là phần trung gian giửa Cằm và Lưỡng quyền , nhìn nghiên thì thấy rõ hơn . Một sốđông sách tướng cổ điển thường ít đề cập đến phần tai cốt vì hai lẽ:
    Những dđiều ghi lại trong cổ thư phần nhiều thiên về mạng vận , ít khi thiên về cá tính mà tai cốt không có vai trò đáng kể trong lĩnh vực này.
    Ý nghĩa về cá tính tai cốt được coi là phần tướng về tâm tướng bí truyền . chì lưu lại bằmg lối tâm truyền .Do đó , đối với cổ nhân điều gì đả gọi là tâm truyền thường ít ghi lại trên giấy trắng mực đen , thảng hoặc có ghi thì cũng chỉ ghi lại moat vài yếu quyết giản lược , kẻ ngoài khó long lỉnh hội đầy đủ được các ý nghĩa , mặc dầu vẫn có câu Não hậu kiến tai vô tình hán , nghĩa là kẻ mà đứmg sau phía gáy (ót) còn trông thấy xương Mang tai nghìa là kẻ không có tình nghĩa.

    b) Các dạng thức của Mang tai :

    Mang tai co dạng thức chính yếu:
    -Mang tai vuông xuôi
    -Mang tai bạnh
    -Mang tai hóp.

    1-Mang tai vuông xuôi

    [​IMG]

    Loại mang tai vuông xuôi h195 có góc hơi vuông ở phía dưới và góc của chiều thẳng của Mang tai gần như dựng thành một đường thẳng đứng chạy từ tai xuống.
    Phối hợp với loại Cằm nay nở thích đáng , loại mang tai vuông xuôi tượng trưng cho gia vận hưng vượng lúc tuổi già ,được nhiều người giúp đờ trong mọi công việc .Nói tóm lại nay là loại phúc tướng

    2-Loại Mang tai bạnh (h196)

    [​IMG]H196

    Đặc điểm của loại mang tai này là phần dưới kể từ chổ tiếp giáp với Lưỡng quyền nay nở một cách đặc biệt khiến cho khuôn mặt phía dưới nở phìm ra trông tương tự như mang của loài rắn đeo kính (cobra) mỗi khi mó định cắn hay mổ vào vật gì trước mặt.

    Về mặt Mang vận: phối hợp với Ngũ quan can xứng , loại Mang tai bạnh là kẻ dễ thành công trên đường công danh sự nghiệp nhưng kết quả thường thê thảm ít khi được chết lành.

    Về mặt cá tính :nay là một trong vài dấu hiệu đặc thù nhất của kẻ tâm địa độc ác , âm hiểm khôn lường , bình thường làm việc gì cũng nghĩ tơi mình trước hết . Họ có thể giúp ta và chịu thiệt đôi chút , miễn là họ lời nhiều hơn, nhưng đến khi thực sự đụng chạm tới quyền lợi to lớn như danh vọng chức vụ thì họ sẵn sàng bán đứng bạn với bất kỳ giá nào, không hề thương tiếc. Năn nỉ với hạng người đó khi họ đã định loại tar a khỏi vòng tranh chấp là một điều thậm vô ích tục ngữ Trung Hoa có câu ''Kẻ Mang tai bạnh ra không có láng giềng " là để ám chỉ cá tính đặc biệt của loại người trên.

    Đời Tam Quốc ,Nguỵ Diên đầu quân dưới trớng Khổng Minh và tỏ ra là một vỉ tướng quân nổi tiếng, tài ba, dũng cảm nhưng vì có tướngNão hậu kiến tai bi Khổng Minh chê làphán cốt. Tuy vậy , đối với vị quân sư nổi đời dời như Gia Cát Lượng thì việc cần cái tài và dũng của Nguỵ Diên lúc đó rất cấp thiét và vô hại cho đại cuộc lúc ông còn sống. Để đề phòng hậu hoạn , Khổng Minh đã sắp sẵn dịêu kế mai sau dùng tới .Về sau, khi Khổng Minh từ trần, binh quyền được giao lại cho Khương Duy cùng với cẩm nang diệu kế. Quả đúng như lời tiên đoán của Khổng Minh lúc sinh tiền . Nguỵ Diên trở mặt đánh lại quân Thục, chỉ vì hắn thấy quyền lợi và khát vọng thực sự của mình bị Khổng Tử trao lại cho Khương Duy chứ không trao cho hắn . Rốt cuợc tại trận tiền , Khương Duy theo lời dặn trong cẩm nang của Khổng Minh , đem lời khích bác Nguỵ Diên. Ngụy Diên lên tiếng thách đố "Ai giám giết ta".Đúng lúc hắn đang dương dương tự đắc thì một người tâm phục Khổng Minh mai phục sẵn trong hàng ngũ của hắn đã chém bay đầu kẻ pản thần trước ba quân. Cuộc đời và cá tính của kẻ Mang tai bạnh là như vậy đó.

    3-Mang tai hóp (h197 )

    [​IMG]H197

    Đó là hiện tượng ngược lại với Mang tai bạnh . Như đã nói ở đầu , trong mục dẫn thượng , mang tai đi đôi với Địa các nhỏ nhọn , tạo thành khu vực hạ đình eo hẹp , tượng trưng cho hậu vận cơ đơn. Chẳng những vậy , kẻ có loại mang tai này , khi gặp hiểm nghèo , ít gặp được người ra tay cứu giúp
    Về mặt cá tính :tính nết căn bản trội yếu của loại Cằm và Mang kể trên quá thiên về tính toán thiệt hơn , chỉ nghĩ và coi lo8ỉ ích của bản thân là chuân đích , ít khi chịu dung hợp lợi mình với lợi người.
     
  12. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    VÀI GIAI THOẠI LIÊN QUAN ĐẾN KHU VỰC HẠ ĐÌNH

    a) Giai thoại về Răng

    Đời thanh , Khang Hy Hoàng Đế , tướng mạo cốt cách rất bình thường , ông thường cải trang làm kẻ thứ dân lẻn ra khỏi cung cấm để chính mình thanh sát cảnh sinh hoạt của dân chúng . Một bữa kia , Khng Hy đi ngang qua một căn lều , thấy nhiều người xúm lại để thầy tướng coi vận mạng cho từng người. Hiếu kỳ Khang Hy cũng đứng lại nghe , sau đó ông lại nhờ thầy tướng coi giùm mình . Xem kỹ , thầy tướng không khỏi kinh ngạc , lại không biết nay là đương kim hoàng tử , bèn hỏi:" Các hạ có sợ lời nói thật không ?" Khang Hy đáp :"không, tôi tình cờ đi ngang qua nay, vì tính hiếu kỳ xin tiên sinh cứ nói thật ra , không hề chi" ​

    -Theo sự quan sát của kẻ hèn này thì diện mạo các hạ thuộc loại tiện cách , toàn thân cẩu cốt . Nếu căn cứ vào tướng cách mà bàn thì đó là tướng ăn mày.

    Khang Hy nghe xong ,không nhịn được cười ha hả ,bèn liệng ném bạc coi tương rồi quay mình toan bỏ đi . Thầy tướng ngẩn người quan sát rồi gọi Khang Hy đứng lại , áy náy nói "Điều kẻ hèn này vừa nói là căn cứ vào tướng cách . Theo tướng bề ngoài thì đó là loại tướng xấu nhất , nhưng nhân lúc các hạ sắp đi , há miệng cười lớn để lộ răng rồng . Cẩu cốt mà sinh được răng rồng là sự cực quí, muôn người mới có một . Có được tướng cách đặc biệt đó thường là kẻ phú quý vô cùng , muốn gì được nay . Xin các hạ cố lên, đừng để phí tướng cách đặc biệt đó" .
    Khang Hy nghe nói rất phục tài quan sát của thầy tướng, lại cảm động những lời khuyên nhủ chân thành , nên khi về đến cấm cung , nhà vua hạ chỉ thây tướng vào bệ kiến và thưởng cho quan chức , đó là nhờ tâm địa lương thiện của ông thầy tướng .

    b)Về Nhân trung ngăn lệch , Hạ đình liệt cách

    Vào khoảng năm thứ 22 Dân Quốc (tức là khoảng 1933) tại Nam Kinh có rất nhiều viên chức chính phủ sùng bái việc coi tướng , vì có khá đông tướng học gia tài tử xuất sắc , trong số đó có viên Tham sự họ Tiền .Một bữa kia , ông Ngô Triệu Mai , tòng sự tại tối cao Pháp viện ,tổ chức bữa tiệc có cả họ tiền tham dự và gần như suốt buổi tiệc chỉ bàn về tướng . Trong tiệc có một vị thực khách họ Hạ tự nhận là ở Vân Nam vừa mới đến Nam Kinh , yêu cầu Tiền Tham sự coi tướng giùm mình xem vận mạng ra sao . Tiền quan sát họ Hạ hồi lâu rồi hỏi :" Tiên sinh năm nay chưa đến 50 tuổi phải không?" Hạ đáp: " Phải năm nay tôi 49". Tiên hỏi :" Năm ngoái vợ tiên sinh tạ thế đúng không ?" Hạ đáp :"Đúng , tiện nội vừa mất năm rồi "
    Đoán xong quá khứ , hạ bèn hỏi đến việc tương lai . Tiền nói:"Ông tuy vừa từ Vân Nam lai nay nhưng rồi ông lại trở về Vân Nam ngay. Việc ông dự địng làm đã thành tựu rồi , ông chưa biết sao?"

    Hạ thấy Tiền nói quá đúng ý nguyện của mình nên phục lắm, nhưng thật tình chưa rõ kết quả việc đỉnh làm. Nguyên do là thời đó , nước Tàu theo chế độ tản quyền , cơ cấu tổ chức tại mỗi tỉnh gần như là một chính phủ . Hạ được bạn bè ở Nam Kinh đề bạt nên được Bộ trưởng Giáo Dục bổ làm Gím Đốc Học chính tại tỉnh Vân Nam với quyền hành tương tự như Bộ trưởng Giao dục của một tiẻu quốc. Tuy vậy , Hạ vẫn lo rằng nếu chính phủ địa phương cải tổ toàn diện thì rất có thể phe cánh của nhóm người mới ở địa phương không chịu công nhận Hạ làm Giám đốc Học chính. Mà viêvc thay đổi chính phủ địa phương thời đó là rất có thể xảy ra , và lúc đó tỉnh Vân Nam lại rục rịch sắp cải tổ chính quyền. Nghe Hạ nói ngay tình chưa biết , họ Tiền thông cảm mối lo lắng của Hạ bèn nói :" bất kể chính qytền Vân Nam cải tổ ra sao thì ômg vẫn ở chúc vị trưởng ngành giáo dục tỉnhđó đến ngày mãn phần" Hạ nghe nói trong bụng rất mừng , tự nghĩ nếu như vậy hy vọng là có thể tai chức đến 20 năm.

    Mấy bữa sau, một thực khách trong bữa tiệc hôm đó đến hỏi Tiền rằng :" Ông nói như vậy đúng không ? Thời buồi này, chính trường nay vầy mai khác , biến đổi luôn luôn làm sao vững được đến già ?"
    Sau khi biết chắc người đó không phải là bạn của Hạ , họ Tiền mới nói rõ thêm " Tôi nói như vậy là xét rằng thọ số của Hạ chỉ đến giữa năm 51 tuổi là dứt . Quan vận và thọ mạng tương quan"
    Người kia nói :" ủa , thì ra là vậy . Chúng tôi xem Nhâu trung của Hạ thấy ngắn và lệch thì chỉ tưởng là hoạn lộ năm đó là không tốt chứ không đoán đươc là thọ mạng ông ta năm dó chấm dứt . Về điểm này xin ông giảng giải rõ cho".

    Tiền đáp :" về phần tướng khuôn mặt , Nhân trung là nơi giao tiếp giữa Trung đình và Hạ đình chủ về vận mạng năm 51 tuổi. Hạ tiên sinh có Nhân trung ngắn và lệch thì dĩ nhiên năm đó vận mạng nói chung là không được tốt . Nhưng tại sao lai quả đoán là năm đó ông ta sẽ chết thì cần phải xem thêm hình dạng của môi miệng và thế của Hạ đình. Môi Miệng của Hạ thuộc loại liệt cách , âm thanh rè như tiếng phèn la lại không có âm lượng , cằm vừa ngắn lại vừa thon . Nói tóm lai phần Hạ đình của ông không có điểm nào đáng kể . Xua nay, nếu chỉ có phần Nhân trung xấu mà môi miệng và Hạ đính tốt tjì đến vận hạn của Nhân trung , tức là 51 tuổi chỉ không được êm xuôi mà thôi chứ không nhgĩ đến chết chóc . Đắng này , môi miệng và khu vực Hạ đình đèu quá xấu thì đến vận hạn của Nhân trung khó tránh khỏi tuyệt mạng "
    Quả nhiên , Hạ làm Giám đốc Học chính tỉnh Vân Nam được 2 năm, đến năm 51 tuổi bị bệnh và mất tại chức.

    Trước thời Trung Hoa Dân Quốc ít năm , lúc đó Dân Quốc Đảng còn âm thầm hoạt động trong bóng tối , có hai yếu nhân về sau Đều là các nhân vật có tên tuổi trong giới chính Trung Hoa là Lâm Sâm và Tôn Dật Tiên . Cả hai đều được người xem tướng lúc chưa hiển đạt về nhiều phương diện , nhưng ở nay chỉ thuật lại riêng vấn đề tử tức mà thôi.

    Hồi đó có bậc trưởng vối họ Cao có biệt tài xem tướng và chính nhờ có họ Cao bí hiểm mà sau này Lâm Sâm rất tin tưởng ở tướng học . Một bữa , họ Cao có đề cập đến vấn đề con cái của Lâm Sâm như sau: " Số anh .........hiếm hoi , nếu như đến 35 tuổi mà vẫn chưa có con thì nên nuôi con nuôi đi , không phải để phụng dưỡng mà để nối dõi tông đường ". Lâm Sâm cho rằng theo chỗ ông ta được biết về tướng thì tướng học chỉ cho biết được sự tốt xấu của vận mạng hay công việc , còn phần con cái là do hai vợ chồng chung sức tạo nên , làm sao nhìn một người mà lại đoán ra được . Bởi vậy ông ta không tin hỏi vặn lại : " Sinh con là việc của hai vợ chồng làm sao chỉ nhìn một trong hai người mà biết được ? Vả lại , đàn ông đến 60, 70 tuổi còn sinh con là sự rất thường , tại sao lại có thiên kiến cho tôi nếu trước 35tuổi chưa có con thì không thể đẻ con được ?"

    Như chưa đủ Lâm Sâm còn bồi thêm :" Không sinh con được phần lớn là do đàn bà . Tôi là đàn ông , nếu vợ cả không con thì lấy vợ lẽ , nàng hầu để có con, sao lão bá đơn thuần nói là tôi không con ".

    Họ Cao thấy Lâm Sâm có vẻ không bằng long vè sự nhận định của mình bèn giải thích " Đã đành việc sinh con đẻ cái là việc chung của hai vợ chồng nhưng cả hai phải không có bệng kín gì mới được . Nếu một trong hai người có bệnh kín thì làm sao có con . Hiện nay tôi thấy anh có khuyết điểm đó nên mới quyết đoán như vậy.

    Họ Cao lại e rằng Lâm Sâm chưa tin mình nên lại tay chỉ vào Nhân trung của mình nói với Lâm :" Đây là khu vực liên hệ với việc sinh con. Nếu sâu vào và rõ như cái rãnh là tướng nhiều con, nếu nông hoặc bằng phẳng là dấu hiệu hiếm hoặc không có con . Nhân trung của anh bằng phẳng như da mặt. Từ 35 tuổi trở về trước là lúc nhười ta có tinh lựu sung mãn mà nếu không có con thì từ đó trở về sau càng khó có con hơn nữa. " Lâm Sâm lấy gương soi quả nhiên thấy Nhân trung của mình bằng phẳng nay nge bậc trưởng bối nói vậy mới nhớ lại bốn ngươi quen thuộc, thảy đều có vợ lâu năm và nhớ lại ai là kẻ có Nhân trung sâu rõ, ai là người có Nhân trung bằng phẳng". Quả thực hai người nhiều con đều có Nhân trung sâu và rõ còn hai người kia không con thì Nhân trung quá nông cạn, gần như không có vậy.
     
  13. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    NHỮNG NÉT TƯỚNG ÂM THANH

    Âm thanh trong tướng học cũng như Môi học đóng một vai trò trọng yếu , giúp biết được rất nhiều về con người trên nhiều bình diện. Do đó , cổ tướng học đặc biệt chú trọng đến phần xem tướng âm thanh.

    Nhà tướng học tông sư đời Tống là Mã Môi đã nói: " Tướng pháp thường thừa lấy âm thanh làm chủ ". Một nhà tướng học nổi tiếng khác là Đạt Ma thiền sư của Thiếu Lâm Tự. Trong phần yếu quyết căn bản để thẩm định sự hoàn hảo hay khuyết điểm tổng quát của con người cũng nói: " Cầu toàn lại thanh âm " Tuy nhiên, vì phần này có tình cách trừu tượng và rất khó lĩnh hội , nên soạn giả nghĩ rằng tại nay chì nêu ra những điểm khái quát tối cần thiết và dễ nhận tháy nhất. Chúng ta hầu hết đều đã mạc nhiên công nhận là giọng đàn ông hoặc con trai khác với giọng nói đàn bà Sự sai biệt về giọng nói đó , chúng ta chỉ cảm nhận thấy dễ dàng, nhưng miêu tả ra cho rành mạch.

    Do đó, điểm khái quát thứ nhất là đàn ông phài có giọng đàn ông và đàn bà phải có âm thanh đàn bà. Những kẻ có âm thanh thuận theo định luật d9ó hầu hết là những kẻ được coi là bình thường về âm điệu tổng quát. Trái lại , đàn ông mà có giọng đàn bà hay đàn bà mà có gong đàn ông thì mạng vận thường hay bị lận đận về mặt tình cảm.

    Đàn ông có giọng đàn bà phần lớn đều khó thành đạt được sự nghiệp . Hạn hữu lắm mới được phú quý trung bình, nhưng về giá trị đạo lý hoặc quý hiển nói chung chẳng có gì đáng cho người khác khâm phục.

    Đàn bà có giọng đàn ông thường khắc chồng, khắc con tình cảm không mấy khi được thư thái.

    Ngoài điều kiện tiên quyết đó , còn có điều kiện thứ hai đi kèm là :

    *Giọng đàn ông phải mạnh mẽ, rắn rỏi trong sáng
    * Giọng đàn bà phải ôn hoà, nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng.

    Nhưng nếu âm thanh đàn ông , tuy mạnh mẽ mà khô khang , lớn mà không có tiếng vang, hoặc giọng lớn mà nhịp nói quá nhanh gần như nuốt tiếng đó thì là tướng xấu. Các điểm khác trên khuôn mặt, hoặc cơ thể mà hoàn hảo thì sự khuyết điểm của âm thanh bị coi là phá tướng. Nặng nhẹ tuỳ theo từng trường hợp, nặng thì sự nghiểp bất thành hoặc chết yếu, nhẹ thì sóng gió liên miên hoặc tai hạo trong công danh sự nghiệp. Đàn bà mà tiếng nói tuy có nữ thanh, nhưng quá nhỏ và yếu, không trong trẻo, không có âm lượng thì cũng không thể lấy việc nữ nhân có âm thanh nữ làm quý. Đàn bà mà có khuyết điển về phần phẩm chất của âm thanh vừa kể trên khó thoát khỏi cảnh khốn quẩn về một hay nhiều lãnh vực nào đó trong cuộc sống , thậm chí có thể đoán là yểu mạng nữa. Tóm lại, âm thanh dù nam hay nữ phải trong trẻo, có âm lượng đầy đủ, phát tự lồng ngực (Đan điền) chứ không nên phì phào đầu môi chót lưỡi (ý nói tiếng không ra âm lượng, hụt hơi). Có loại âm thanh thượng thừa kể trên dẩu cho diện mạo không được sáng sủa khôi ngô thì cũng có thể sống cuộc sống an nhàn bình dị.

    Ngược lại, mặt mũi khôi ngô tuấn tú , thân hình phì nộn mà tiếng nói bị phá , bị liệt cách (tham chiến thêm đoạn nói về ứng dụng của Ngũ hành trong âm thanh ở chương 2, phần 1, quyển 2). Đại khái như tiếng lớn như tàng mát , hoặc thê thàm như tiếng vượn hú, buồn tẻ như tiếng dế hoặc cuồng loạn như tiếng chó sủa trăng, đều là những điểm bất thường. Nếu tướng mạo đã không ra gì mà còn gạp phải âm thanh này thì phải đoán là mạng vận kẹ đó không bao giờ khá được.

    Ngoài sự thanh trọc của âm thanh xét một cách tổng quát , ta còn phải lưu ý mỗi loại người điển hình ( kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) cần thích hợp với loại âm thanh tương ứng trước khi xét đến vấn đề âm thanh hùng tránh hay nhu nhược, thanh hay trọc. Phàm hình người nào hợp với âm thanh chính cách của người đó, chưa từng bỉ cản bẩn bách, hạ tiện bao giờ.
     
  14. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    NHỮNG NÉT TƯỚNG TÓC VÀ RÂU

    Tóc râu đối với người nhất là người đàn ông , về mặt mang vận lẫn cá tính có vai trò khá quan trọng. Tóc thì trai hay gái đều có, nhưng râu thì gần như là một đặc tính độc đáo thiên phú của nam giới, nói là gần như vì đôi khi củng thấy râu ria (tuy ít nhưng cũng đù để phân biệt) ở một số nhỏ phụ nữ . Những trường hợp đảo ngược bhư đàn bà có râu ria , đàn ông mặt mày râu ria trơ trụi đều chưa bao giờ đưa đến kết quả tốt đẹp về mặt mạng vận cho kẻ đó.

    a)Tóc

    Bàn về tóc tướng học cổ điển đưa ra tất nhiều thuyết , có thuyết mượn cả kiến thức y học Á Đông nhày xưa để giải thích : nhưng tựu trung tất cả đều giống nhau ở các điểm că bản sau đây:

    * Tóc không được quá nhiều, cũng không được quá ít đến độ gần như trơ trụi
    * Tóc không được rối loạn , không được cứng như rể tre , mhưng không được mềm nhũn như sợi bún.
    * Sắc phương xanh đen , tươi bóng không được khô dòn , úa như cỏ đang lúc tàn lụi.

    Tóm lại, tóc có số lượng vừa phải, không rối loạn nghĩa là sợi này không xoắn chặt vào sợi khác như bean thừng,có sắc tươi mát bóng bay , tự nhiên mềm mại , là loại tóc thuộc loại thượng thừa, chủ về mạng vận hanh thông có tính cương nhu tính đáng , không thái quá, không bất cập.
    Sự thượng thừa về tóc nói trên chỉ có ý nghĩa tốt khi nó phối hợp đầy đủ với râu và lông mày . Cả ba thứ lông đó ( tóc ,râu, lông mày )trên một con người phải tương đồng về cả phẩm lẫn lượng. Lông mày ra sao thì tóc lông cũng vậy , mới có thể xem là phù hợp.

    Ngược lại những điểm kể trên đều phải coi là loại phản thường ,phần lớn đều không tốt. Tuy nhiên ,những sự kiện trên chỉ có tình cách đại thể,trong thực tế còn có những uẩn khúc khác,Chẳng hạn sự phù hợp râu tóc của người thổ, hình kim (tham chiếu chương 1, phần II của quyền thứ nhất),tức là loại người rắn chắc, nặng nề,khác với sự phù hợp râu tóc của người hình Hoả(hạng người mặt mũi gân guốc, mắt lộ, mày thưa, râu ít,......).Cho nên ,râu thưa, tóc ngắn và cứng thường là dấu hiệu bất thường về mặt mạng vận không tốt đẹp về cá tính ,nhưng không phải lúc nào cũng đúng như vậy mà phải để ý tới một số biệt lệ. Dưới đây là một số trường hợp râu tóc bị coi là hung tướng:

    * Người khoẻ mạnh ,da thịt tràn đầy nhựa sống mà râu tóc đặc biệt khô dòn và rậm.
    * Da dẻ khô khan mà tóc lại cực mean và ít.

    Những sự tương phản thường nói trên ,nếu nhẹ thì chủ vế long đong vất vả, nặng thì khó tránh khỏi chết chóc thê thảm. Nói về mặt cá tính ,kẻ mà râu tóc cứng thì khí phách nhỏ hẹp,cố chấp,cứng ma 2khô,mà thô kệch như tro tàn ,chẳng những cá tính ngu độn ,thô lỗ mà còn là dấu hiệu của sự chết non,vận bĩ. Râu tóc không cứng ,khuyết nhũn ,thưa đậm thích đáng với từng thể dạng con người, sắc đen và bóng bẩy thì dấu nghũ quan có bị xếp vào loại trung bình hoặc dưới, nhưng thực tế khí chất lại là thượng thừa. Hình tuy bất túc ,nhưng thần khí hữu dư nên vận mạng vẫ có thể tốt đẹp,con cháu nên người. ở trên đã nói, tóc nhiều hay ít, nhưng sự nhiều ít đó phải căn cứ vào từng thực trạng ở loài người chính thường.Tuổi trẻ ,tóc nhiều và đen: tuổi càng cao thì tóc ruing dần và biến đổi từ màu đen sang màu trắng.Điểm đáng chú ý ở phép xem tướng tóc là tóc của đang ở tuổi thanh niên (từ 15,16 đến 30) mà ít tóc hoặc hói thì mới coi là phản thường . Ngược lại tuổi khaỏng tam tuần mà hói đầu ruing tóc lại là lẽ tự nhiên , không có gì đáng nói . tương tự như vậy, nếu sau 40 tuổi mà tóc bắt đầu hoa râm hoặc bạc thì coi là thông thường. Ngược lại là điểm không tốt , hoặc về vận mạng hoặc về sức khoẻ. Trong y lý cổ điển phương Đông , nhười ta cho rằng sự tốt sấu của tóc liên quan mật thiết tới mức độ mạnh yếu của thận . Tóc sớm bạc là dấu hiệu bề ngoài của thận xấu.

    Về việc rụng hay cách mọc của tóc cũng được cổ nhân nghiên cứu . Người ta nghiệm thấy rằng , tóc mọc dựng đứng ở hai bên phải và trái đầu , hoặc sói dần theo vị trí đó là triệu chứng xấu . Kẻ đó hoạt động thường hay lận đận , thành công đó nhưng rồi that bại ngay đó , vinh nhục thất thường . nếu tóc mọc thẳng đứng ở khu vực trung ương của đỉnh đầu hoặc chính giữa phần trên tiếp giáp với chân tóc , hình dạng chỉnh tề lại là điềm tốt chủvề làm việc dễ đạt được ý nguyện.

    b) Râu

    Ở nay tác giả gạt ra ngoài trường hợp quá đặc biệt là đàn bà có râu . Những điều đề cập sau nay là loại râu của nam giới Râu trong thuật ngữ của tướng học bao gồm tất cả mọi thứ lông hoặc dài hơn loại lông măng ( hoặc còn gọi là lông tơ) mọc ở phía trên môi trên , ờ khu vực cằm , ở hai bên xương Mang tai. Tất cả mọi loại râu đó bất kể là mọc ở đâu muốn được coi là tốt thì phải hội đủ hai điều kiện sau nay :

    Đặc biệt là râu Cằm và ray ở khu vực giáp môi trên ( ria) phải tương xứng về cả lượng lẫn phẩm chất

    Râu ria và lông mày cùng màu sắc và đểu phải tươi nhuận , cứng mềm thích đáng. Kẻ có râu tóc hội đủ hai điều kiện trên, về cá tính là người có khí phách nam nhi, khoáng đạt cứng cỏi, không dễ khuất phục trước nghịch cảnh hay bạo lực , đến già vẫn còn sinh động , vận mạng khả quan .
    Kẻ râu thưa , khô hoặc râu tóc không tương xứng đều là những kẻ về già lận đận . Đàn ông không có râu ( hoặc có nhưng rất ngắn , rất ít và mềm , màu sắc vàng ám thì cũng coi như không có ) thì chẳng những trông mất cả vẻ nam nhi khí phách mà thực chất lại rất giống đàn bà, dù có thông minh thì cũng gian xảo , uỷ mị khó có thể tự lập, nếu có đôi chút thành công thì cái đó do người khác tạo dùm . Bởi vậy tục ngữ Việt Nam có câu :" Đàn ông không râu bất nghì ". Tóm lại, đối với đàn ông tâu tóc và lông mày liên hệ chặc chẽ , nhưng vì tóc chung cho cả đàn bà nên ta chỉ cần lưu ý đến Râu và Lông mày. Vậng mạng của các đấng tâu mày chả có liên quan đến rầu may khá nhiều. Tuy vậy có một điều phân biệt là dẫu ý nghĩa về mạng vận tương đồng , nhưng râu chủ về tuổi già còn lông mày chủ về tuổi trẻ nhiều hơn.
     
  15. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    NHỮNG NÉT TƯỚNG NỐT RUỒI

    a) Bản chất và ý nghĩa

    Trong thuật ngữ của tướng học, danh từ nốt ruồi bao gồm :

    Những dấu chấm trên làng da hoặc chìm trong da ( tục bgữ gọi là tàn nhan hay bã chè ) , có hình dáng hơi tròn , hoặc tròn , có thể nó như..
    Đầu đinh ghim hoặc lớn bằng đầu nén hương thông thường đang đốt cháy. Loại này người ta mệnh danh là tử chí hay nốt ruồi chết.

    Những dấu chấm nổi cao hơn mặt da 1 cách tự nhiên (mụn cóc không được coi là nốt ruồi vì có nguồn gốc bệnh lí lan tràn rộng hay bị thu hẹp nhờ phép trị liệu y khoa thông thường ), có thể lớn bằng đầu nén nhang hoặc nhỏ như hạt tấm.Loại nốt ruồi này được gọi là nốt ruồi sống (sinh chí).

    Về mặt màu sắc, nốt ruồi bất kể là loại sống hay chết đều có thể có các màu sắc sau nay:
    -Màu xám tro
    -Màu đen lạt
    -Vàng đậm như chất hoàng thổ
    -Hồng lạt
    -đỏ đậm như màu son tàu.

    Chỉ có hai màu đen huyền và đỏ đậm như son tàu mới coi là quí ,những màu khác , tạp sắc chủ về hung hiểm , phá hại.
    Về vị trí xuất hiện , nói chung thì nốt ruồi nên hiện ở những bộ vị đó ,nhất là phái đẹp nốt ruồi son hoặc mun có hình dạng vừa phải sẽ làm tăng thêm duyên dáng của nụ cười , ánh mắt .
    Xuất hiện ở các bộ tĩnh vị, ví dụ như sống mũi trán làm giảm mĩ quan khuôn mặt.

    Về dự đoán sự tốt xấu căn cứ vào vị trí nốt ruồi ,ta can phải nhớ nguyên tắc cơ bản là nốt ruồi nên vừa phải và ở những chỗ khuất kín trên khuôn mặt , hoặc mọc sau lớp quần áo thường có ý nghĩa tốt ,trái lại là xấu.

    Sách Tướng lí hoành chân , bàn về nốt ruồi có nói:" Nốt ruồi dối với con người cũng như cỏ cây đối với núi non ,gò đống đối với địa thế của đất đai . Chất đất tốt thì sinh ra cây cối tươi tốt , chất đất cằn cỗi thì sinh ra cây cây cỏ héo úa, xấu xa.Người có nội chất tốt thì ra nốt ruồi đẹp cho thế nhân biết được cái đẹp.Người có bản chất xấu thì không sao có nốt ruồi đẹp được.Cũng như gò đống đối với mặt đất, nốt ruồi nên ẩn tàng mới quí .Gò đống hiện ra ngay giữa đường đi lối lại hay sân vườn gây cản trở , làm mất mĩ quan , nhưng ở nơi rừng núi lại góp phần vào việc làm gia tăng cảnh trí của địa thế .Bởi vậy, nốt ruồi không nên hiện ra TRÊN TRÁN MŨI ( mũi và trán ví như đường cái hoặc sàn vườn ) mà nên hiện ra ở chân mày chân tóc (những nơi này với khuôn mặt ví như thâm sơn hiểm cốc )" Từ những điểm trên ta thấy phép giải đoán sự cát hung của nốt ruồi có thểđược thu gọn vào 3 điểm chính :

    Bản chất nốt ruồi( chìm hay nổi)

    Màu sắc( tốt xấu )

    Vị trí xuất hiện (thích đáng hay trái chỗ)

    b) Phương pháp giải đoán

    Trong 3 điểm chính trên thì vị trí nốt ruồi đóng vai trò chính , còn cách cấu tạo và màu sắc chỉ có giá trị thứ yếu .
    Xuất hiện đúng vị trí thích nghi là nốt ruồi sống ,không lớn không nhỏ ,màu đen hoặc đỏ sậm khá rõ rệt là điềm rất tốt .Sắc bóng và đậm chủ yếu về sự việc nhãn tiền, lạt dần chủ về việc quá khứ ,đậm dần chủ về tương lai.Nếu nốt ruồi chết, hình dạng méo lệch thì khuyết mấy ứng nghiệm dù là màu sắc gì đi nữa.

    Xuất hiện không đúng vị trí ngoài ý nghĩa đặc thù do vậy từng vị trí nốt ruồi sống cực xấu, nốt ruồi chết xấu vừa , hình dạng lớn nhỏ cũng ảnh hưởng tới sự xấu : lớn xấu nhiều ,nhỏ xấu ít.Về ,màu sắc thì sắc đen huyền đỏ sậm gíup cho nốt ruồi sống ,không lớn không nhỏ ,mọc sái chỗ ,sửa chữa phần nào tính chất xấu của vị trí và có ý nghĩa là tiền hung hậu kiết .Nếu nốt ruồi sống mà là các màu tạp sắc hoặc không phải là đen huyền hay đỏ sậm thì mới phải giải đoán là cực xấu.

    Người da trắng mà mặt mày châu thân có nhiều nốt ruồi chết màu đen bóng chủ về thông minh ,nhưng háu sắc, màu vàng khô chủ về ngu đần đê tiện,
    Người cao gay mà tuổi thiếu niên mặt và thân hình có nhiều nốt ruồi chết cỡ lớn rải rác , màu sắc hỗn tạp chủ yếu về yểu thọ.

    Người mập và trẻ, có các nốt ruồi chết hiện lên trên thân hình ,diện mạo thì yểu, nhưng ngoại ngũ tuần mặt và tay chân nảy sinh ra. Bất luận màu gì miễn là có sinh khí thì đó là dấu hiệu trường thọ.

    Nơi đây là ý nghĩa của nốt ruồi trên 1 số bộ vị quan trọng của khuôn mặt :
    * Thiên : chủ về không được thân cận những người quyền quí trai thường khác cha ,con gái thường làm tổn hại chồng.

    *Thiên đình : chủ yếu không được hưởng hạnh phúc của cha mẹ , đặc biệt là khắc mẹ.

    * Tư không : thường nói bao quát cả cha mẹ và có ý nghĩa tương tự như 2 bộ vị trên .đàn bà thường suốt đời khổ vi chồng .Ngoài ra về mặt tai họa ,nếu kẻ đó ,bất luận nam nữ mà nghề nghiệp khiến thường xuyên phải tiếp xúc với các loại hỏa khí như lính cứu hỏa ,hỏa đầu quân ,thợ luyện kim ,v.v... thì trong đời khó thoát khỏi tai nạn về lửa 1 lần.

    * ấn đường :Nốt ruồi sống nhưng phá cách chủ về ý chíbạc nhược ,làm việc có đầu không đuôi,đắc cách hoàn toàn chủ về qúi hiển
    *Sơn căn: chủ về hình khắc (trai khắc vợ , gái khắc chồng ).Nếu chính giữa sơn căn và tiếp giáp với niên thượng có nốt ruồi sống mà sắc như tàn tro chủ về chết bất đắc kì tử.

    * Sống mũi (bao gồm cả niên thượng ,thọ thượng ):chủ về nghèo khó ,thân thể bệnh tật .đàn ông dễ bị đàn bà hiếp chế, đàn bà dễ bị chồng làm khổ.

    *Chuẩn đầu : chủ về khó tránh khỏi hao tổn tiền bạc và cũng có ý nghĩa nhân vì háo sắc mà tốn của (chung cả nam lẫn nữ ).Riêng đối với đàn bà ,còn có 1 trong nhiều ý nghĩa quan trọng cho biết là số có chồng tính tình độc hại ,nham hiểm.

    *Nhân trung :tại đây có nốt ruồi là 1 điểm cực xấu vì đó là nơi cho biết khá chính xác về thọ yểu , con cái (nhất là đàn bà vì ngoài ý nghĩa chung cho cả 2 giới còn có ý nghĩa đặc biệt là tử cung dễ bị bệnh).

    *Thực thương và lộc thương:chủ về hệ lụy do ăn uống mà ra (bị bệnh vì ăn uống ,miệng tiếng vì ăn uống v.v...)

    *Thừa tương: khó tránh khỏi nhân vì ăn nhậu mà ngộ độc hay chết vì rượu nhất là vào khoảng 54 tuổi.
    *Miệng ,môi:ham ăn và có ăn luôn luôn.

    *địa các : chủ về tai họa, tốn tiền hại của ,do người quen biết gay ra(chẳng hạn đứng bảo lãnh cho ai thuộc về 1 việc liên quan đến tiền bạc ,ruộng vườn v.v...).

    *Lê đường : chủ về đàn ông thường hay trai gái ,nếu không lấy thêm vợ bé thì cũng lăng nhăng .đàn bà khó tránh khỏi cảnh tái giá.

    *Cung phu thê: chủ về đàn ông thường hay trai gái, nếu không lấy thêm vợ bé thì cũng lăng nhăng .đàn bà khó tránh khỏi cảnh tái giá.

    *Lưỡng quyền: quyền của mình bị người khác chiếm đoạt hoặc vì người mà mang lụy đến thân khiến cho quyền uy của mình bị tổn hại.

    *Tai : ở phía trên ,chủ thể về cá tính con người hiếu hạnh ,ở phía dưới chủ về thông minh.

    Những điều kể trên chỉ là những điểm dễ thấy trên khuôn mặt .Ngoài ra nốt ruồi còn có thể mọc (hoặc từ lúc sơ sinh ,hoặc tới 1 thời điểm nào đó trong đời)bất cứ ở đâu ,trên mặt cũng như trên châu thân (chân tay, bụng, rốn ,cổ ,âm hộ ,dương vật v.v...). Do đó liệt kê tất cả với từng danh hiệu bộ vị riêng rẽ sẽ quá room rà ,nên soạn giả tóm tắt những ý nghĩa chính của nốt ruồi trên mỗi bộ vị thành từng sơ đồ ,độc giả chỉ can quan sát kĩ cũng đủ có 1 ý niệm khá rõ rệt về nốt ruồi.

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    GIAI THOẠI VỀ NỐT RUỒI

    Đời Thần Tông nhà Minh , tại Quảng châu có một vị Trạng nguyên tên là Đáo Trạch, tình cờ mang họ kép là Trần Từ , hiện nay tại làng Phán Đường vẫn còn đền thờ. Theo truyền thuyết Đáo TRạch vốn họ Trần, từ lúc sing ra trên ngực đã có 7 nốt ruồi son. Gia đình Đáo Trạch rất nghèo, cha Trần Tấn Tài sing sống vè nghề làm ruộng. Lúc Trần Đáo Trạch lên 4tuổi , một hôm theo cha ra đồng thăm ruộng , bị một kẻ bất lương trong họ là Trần Tương lén dẫn đi bán cho một phú hộ trong vùng là Từ Tử Lỗ. Tự Lỗ đời đòi là một cự phú , nhưng đến đời ông ta không may hiếm con trai , có rất nhiều thê thiếp mà chỉ sinh con gái.

    Tử Lỗ đang lúc sầu muộn thì thấy Trần Đáo mặt mày dĩnh ngộ , trên ngực lại có 7 nốt ruồi son tục gọi thất tinh tụ hội là tướng cực quý , nên vô cùng mừng rỡ, nhận ngay làm con và đổi họ thành họ Từ . Lớn lên , Đáo Trạch được cha nuôi cưng như trứng mỏng , noun danh sư về nhà dạy học, lại nuôi riêng một tiểu đồng tên là Trần Quang để sớm tối hầu hạ Đáo Trạchcho chu đáo. Nhờ trời phú tính thông minh, năm 20 tuổi đậu cử nhânrồu chuan bị vào Bác Kinh thi đình.

    Một hôm Đáo Trạch tắm rửa , tiểu đồng Trần Quang được sai kỳ cọ cho thiếu chủ , Trần Quang thấy trên ngực Trần Đáo Trạch có 7 nốt ruồi lấy làm kỳ dị và ghi nhớ mãi .Không Dáo Trạng chuan bị đi thi , trần Quang được dịp nghỉ, về nhà thăm cha mẹ . Một sự tình cờ Trần Quang chính là con Trần Tấn Tài , vì nhà nghèo nên phải đi làm tôi tớ cho người . KHi về đến nhà Trần Quang thuật lại chuện thiếu chủ của mình cho mẹ nghe . Bà mẹ nghe nói nhớ lại đứa con thất lạc từ thuở thơ ấu, bất giác trong long khóc rống lên . Trần Quang hỏi mẹ cớ sự được mẹ cho biết, cách đó 16 năm anh ruột y cũng có 7 nốt ruồi son trên ngựcbỗng nhiên biệt tích , nay nghe chuyện bà ta nhớ đến con mà khóc Trần Quang nói : "Có lẽ thiếu chủ là anh con chăng ? Con nghe người lão bộc nói rằng thiếu chủ không phải là con đẻ của ông chủ Lúc ông chủ mang về nuôi , thiếu chủ đã được 4 tuổi . Bây giờ thiêu chủ vừađứng 20 , như thế rất hợp với thời gian anh con mất tích".
    Cha nghe con nói hỏi thêm " thật vậy à mày có biết ai đem bán thiếu chủ họ Từ không?" Trần Quang đáp:" con không rõ nhưng hỏi lão bộc thì có thể biết được . Ngày mai thiếu chủ vào kinh ứng thi ,lão bộc cũng đi theo , đề rồi con hỏi lão ta xem sao" Hôm sau Trần Quang trở về nhà nói cho cha mẹ biết là nhân dịp thầy trò đi xa , hắn làm bộ mời lão bộc ăn uống để tạm biệt và lợi dụng dịp lão bộc say rựu hắn hỏi người lảo bộc về lý lịch của thiếu chủ , lão bộc tiết lộ rằng chính Đáo Trạch là con đẻ Trần Tán Tài và bị Trần Tương dụ đi bán cho họ Từ hồi mới 4 tuổi . Trần Tấn Tài nghe xong đem chuyện thưa lại với các kỳ lão trong làng, bắt Trần Tương tra khảo thực hư thì tên này thú nhận mọi việc đúng như lão bộc nói.

    Nói về Đáo Trạch vào kinh ứng thí liền trúng Tam trường, đến kỳ yết danh được chấm đậu Trạng nguyên và được Minh Thần Tông tuyển làm Phò Mã ban cho cờ biển vinh quy.

    Nghe tin con vinh hoa ph1u quý về làng, họ Từ vô cùng mừng rỡ, dựng nhà, rạp, trương cờ xí, bày thành đội ngũ đi đón. Họ Trần cũng tập hợp người trong họ đi đón, nhưng không tiết lộ gì cho phe họ Từ biết việc Trần Tấn Tài đã nhận ra Đáo Trạch là con mình.

    Khi tân trạng nguyên về đến Quảng Châu, cả hai họ đều tranh nhau nhận người. Rốt cuộc, việc phải đưa đến ông Tổng đốc tỉnh Quảng-đông để nhờ phân xử. Sau khi biết rõ ngọn ngành, Tổng đốc Quang-đông bèn đề nghị hai họ nên nhận Đáo Trạch làm con chung ; sau này Đáo Trạch và Công Chúa khi sinh con ra thì đứa con đầu lòng mang ten cả hai họ. Gíai pháp này được cả hai họ đồng ý. Thế là từ đó , Đáo trạng mang họ kép là Trần-Từ. Về sau con chau hai họ Trần-Từ điều quý hiển, giàu có nên góp tiền chung xây một ngôi đền thờ nguy nga tráng lệ để kỷ niệm ông tổ chung. Cái quý tướng của 7 nốt rùi son ở trước ngực là như vậy.
     
  16. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    NHỮNG NÉT TƯỚNG ĐỘNG TÁC

    a) Tướng đi
    Đi là 1 loại động tác tích cực tiêu biểu cho dương ,nên tướng đi thượng cách phải là loại tướng đi linh hoạt vững chắc , khoảng cách giữa các bước chân can xứng ,thân hình ngay thẳng .
    Ngược lại đi mà co đầu rụt cổ ,thân hình xiêu vẹo ,bước chân như người say rượu v.v... đều là loại tướng hạ cách .
    Cũng nhờ qan sát tướng đi người ta có thể biết rõ thêm con người về nhiều khía cạnh ,nên ở đây chúng tôi cố gắng trình bày theo hình thức tóm gọn những ý nghĩa của tướng đi.

    1-Về mặt sức khỏe
    đi đứng ngay thẳng ,thân mình không gấp khúc nghiêng ngả ,bước chân không loạn c/tỏ là bắp thịt eo lưng mạnh mẽ, gân xương cứng cáp nên nội tạng ổn cố. Kẻ như thế ,thọ số đương nhiên phải dài hơn người thường . đi mà xiêu vẹo ,thân hình co rút ,bước chân loạng choạng là kẻ nội tạng suy nhược, eo long không có sức giữ được thân mình ,gân xương ở chân cẳng yếu kém. Dựa vào đó có thể suy diễn ra được là kẻ đó khó có thể sống lâu.

    2-Về mặt cá tính
    Bước chân lảo đảo như không có gân cốt là kẻ không có chủ trương rõ ràng, thiếu đảm lượng.
    Bước chân đều đặn, dáng dấp hiên ngang là kẻ kiến văn rộng rãi ,tư tưởng phóng khoáng cởi mở.
    Bước chân nhanh nhẹn tự nhiên là kẻ hoạt lực sung mãn, làm việc gì cũng mau lẹ nhưng nếu bước chân quá gấp và ngắn thì lại là kẻ có tư tưởng hẹp hòi, xử sự hay chấp nê tiểu tiết.

    3-Về mặt cá tính
    -Bước đi vững vàng ,thanh thản tự nhiên như thuyền lớn xuôi theo dòng nước cả thân mình không day trở , không gấp khúc là tướng đại quí hiển .
    -Bước đi đủng đỉnh như trâu :nhàn hạ giàu có
    -đi chậm vã dáng dấp tương tự như ngang ,vịt : tiểu hoặc trung phú
    -Bước chân cao dài nhẹ và thanh thản như hạc : thanh quí
    đi mà rụt đầu ,rụt cổ, leach vai đầu laove62 trước chủ về bần hàn.
    -đi vội vàng như ngựa chạy ,cổ vươn thẳng về trước : nghèo hèn
    -đi như rắn bò, sẽ nhảy cô đơn.

    b)Tướng đứng
    Tướng đứng được coi là 1 biến thái phụ tùng của tướng đi nên không có gi đáng nói nhiều.
    Khi đứng thân mình ngay ngắn ổn trọng ,chân cẳng can phân là tướng thượng cách .Ngược lại thân hình lắc lư ,2 chân động nay không ngừng ,chân cao chân thấp v.v...đều là hạ cách.

    c)Tướng ngồi
    Ngồi là 1 động tác tiêu cực nên thuộc về âm.
    Do đó tướng ngồi tốt nhất là ổn cố,không rung gối ,lắc mình tư thế nghiêm trang, dù là trai hay gái cũng không vượt ra ngoài những điễm chính yếu đó.
    Bàn về tướng ngồi ,cổ tướng học cho rằng: Ngồi tuy thuộc âm nhưng nhưng ngoài âm mà trong tính lại dương thì tinh thần phải sung mãn ,hoạt động .Do đó khi ngồi tinh thần hoạt động nhiều hơn thể xác .Bởi vậy tư thế phải ổn trọng ,phải làm chủ được mọi động tác phụ đới ,nghỉa là ngồi không lắc lư thân mình ,không co chân duỗi cẳng .Kẻ ngồi ổn trọng đàng hoàng thì tính nết cũng đàng hoàng trang nghiêm ,dễ hiễn đạt. Kẻ ngồi nhấp nhỏm ,bồn chồn thì cá tính nôn nả hành động hấp tấp,công danh tài lộc không dễ tới tay.

    Bởi vậy,để diễn đạt ý nghĩatrên,tướng thuật có câu: "Mộc dao diệp lạc, nhân dao phúc bạc",: cây rụng là rụng ,người rung phúc mỏng .Dưới là 1 vài tư thế thường được ghi nhận trong tướng học :
    -Ngồi như trái núi :quí hiển
    -Ngồi như chó ngồi phú túc
    -Ngồi như kẻ ngủ gục
    -Thân mình lệch lạc
    -Ngồi rung gối : tán tài.

    d)Tướng ngủ
    Thường nằm dễ đi đến chổ ngủ ,nên ở đây lấy tướng ngủ và các biến tháo của cách nằm
    Cách nằm được coi là thượng đẳng là khi nằm ít day trở thân mình ,thần thái an tĩnh tự nhiên như rồng uốn khúc ,như chó nằm nghỉ .
    Cũng như tướng đi và tướng ngồi , việc quan sát tướng ngủ của 1 cá nhân giúp ta biết được .

    1-Sức khỏe
    -Ngủ ngửa chân tay thoải mái là kẻ có sức khỏe sung mãn
    -Ngủ nghiêng mà vẫn ngũ được dễ dàng là kẻ tì vị khỏe mạnh ,nội tạng ổn cố
    -Ngủ mà hơi thở đều hòa không gay ra tiếng động đáng kể là dấu hiệu trường thọ.Hơi thở rất nhẹ hầu như không có tiếng động là điểm cực quí của tướng ngủ vì đó là dấu hiệu chắc
    chắn nhất của sự trường thọ bất kể hình hài bộ vị ra sao .Sách tướng gọi đó là Qui tức :Rùa thở.

    -Ngủ mà thở ra nhiều ,hít vào ít là tướng yểu thọ
    -Ngủ mà hơi thở khò khè là dấu hiệu của hô hấp kém ,nội tạng không điều hòa nên thọ số ngắn ngủi.

    2-Cá tính
    -Ngủ hay day trở thân mình : tinh thần dễ thác loạn
    -Ngủ nằm nghiêng ,người cong kiếm như tôm :tính nết cẩu thả ,ý chí bạc nhược
    -Ngủ nằm sấp ,úp mặt vào gối là kẻ tính nết quá cương ngạnh cố chấp
    -Ngủ nằm ngửa thần sắc tự nhiên người không cứng đơ là kẻ tâm hồn cương trực tính nết thông tuệ
    -Trung niên ngủ ít ,dễ tỉnh :thông tuệ
    _Trung niên ngủ nhiều ,khó tỉnh :ngu độn
    -Ngủ hay nói lảm nhảm : TINH THẦN SUY NHƯỢC.

    3-Về mặt mang vận
    -Ngủ nằm sấp ,hai tay chân dang thẳng là kẻ ngu độn , dễ chết thảm
    -Ngủ mà thân hình cứng đờ như ma thây : số chết yểu
    -Hai tay ôm mặt nằm sấp mà ngủ :thường bị đói rách
    -Ngủ mà hay la lối như kẻ cuồng loạn là dấu hiệu chết không được lành
    -Ngủ hay mở mắt ,há miệng :chết thảm hoặc chết đường
    _Ngủ hay trẹo răng ,nghiến lợi :khắc vợ ,khắc con
    -Thanh thiếu niên lúc ngủ chụm miệng lại như kẻ thổi lửa là dấu hiệu chết về hình ngục hoặc đến già chết thảm
    -Nằm ngửa ,thần thái tươi tỉnh :quí hiển
    -Nằm nghiêng ,mình không đè lên tay ,tay kia đặt lên mình ,dáng dấp tự nhiên ,thư thái là tướng ngủ của người thanh quí, nhàn hạ.

    GIAI THOẠI VỀ CÁCH NGỦ

    Đời Dường , Lý Kiểu tướng người thanh quý nhưng tẻ lạnh ,thân hình lại nhỏ bé , năm anh em đều có tướng cách như vậy và không ai sống qúa 30 tuổi , đến khi Lý kiểu trưởng thành , bà mẹ rất lo lắng bèn mời tướng thuật gia đệ nhất đời Dường là Viên Thiên Cương tới xem tướng cho Kiểu . Thiên Cương xem kỹ , nói với mẹ Kiểu rằng :" Lệnh lang tuy tnh thần thanh tú nhưng khí chất quá tẻ lạnh sợ rằng không thể sống được lâu" Bà mẹ rất buồn nhưng cố nài ông thầy tướng ở lại nhà mình để tìm xem có điểm gì trên tướng cách của Kiểu , khiến Kiểu thoát khỏi vết xe của mấy người anh , uổng phí một đời tài hoa không . Thiên Cương cảm động trước lời khan cầu của bà mẹ , nên bằng long ở lại để quan sát ngôn ngữ , cử chỉ của Kiểu xem sao.
    Một hôm , lúc Thiên Cương đi ngủ thì Lý Kiểu vẫn còn thức . Đến canh 3 Thiên Cương tỉnh giấc thì Kiểu đã ngủ nhưng không nghe thấy hơi thở , tựa hồ như khí đã tuỵêt , Thiên Cương mới đầu rất kinh ngạc nhưng quan sát kỷ lưỡng mới phát hiện ra rằng Lý Kiểu ngủ mà hơi thở hầu như thoát ra bằng lỗ tai hơn là lỗ mũi , sch1 tướng gọi là Quy tức nghĩa là rùa thở. Sáng ra , Viên Thiên Cương nói với bà mẹ của Kiểu rằng :" Xét kỹ tướng của lệnh lang nay mới biết rằng có tướng Quy tức tất sẽ đại quý và trường thọ nhưng người hay bị bệnh và không giàu có ". Sau quả nhiên ,dưới thời Võ Tắc Thiên xưng đế, Lý Kiểu làm quan đến chức tể tướng mà không mấy dư dã.
     
  17. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    NHỮNG NÉT TƯỚNG TRÊN THÂN MÌNH

    a) Cổ

    Theo quan điểm của á đông cổ được coi là rường cột của con người nên xét 1 cách tổng quát thì cổ nảy nở,tròm đầy ,cứng mạnh là tướng tốt ,chủ về phú quí.Cổ mảnh dẻ nghiêng lệch chủ về chết yểu.Người mập cổ không nên dài ,người gầy cổ không được ngắn .đi ngược lại với tổng tắc đó,con người sẽ gặp nhiều điều không may.

    Tuy nhiên ,sự dài ngắn cũng phải tới giới hạn nào đó .Nếu cổ dài như cổ cò,ngắn như cổ heo thì lại bất hợp cách.
    Bàn về sự lớn nhỏ của cân xứng cũng vậy.Cổ quá lớn,trông như cái cột,lấn lướt cả thân mình, hoặc quá nhỏ như cổ bầu rượu đều là liệt cách .Một điểm cần lưu ý là dù cổ lớn hay nhỏ ,dài hay ngắn đều không nên lộ hầu vì lộ hầu chủ về gian truân trì trệ.

    Về thế cổ người ta phân biệt :
    -Cổ nhỏ ,dài : con người bần tiện ,nếu lại thêm lệch lạc nữa thì tính nết số mạng không ra gì
    -Cổ lớn và mập: không nên có tàn nhang và tạp sắc .Nếu có khuyết điểm này thì tính neat bỉ ổi ,tầm thường vận mạng không được hanh thông
    -Thế cổ như hướng về phía trước nhưng không được quá lộ liễu ,chủ về tính nết hòa ái phong nhã
    -Thế của cổ hướng về sau chủ về cá tính nhu nhược ,số kiếp hay gặp sóng gió bất ngờ.
    -Cổ tròn dài như cổ hạc :dễ phát nhưng chung cuộc không được an lành .Tuy nhiên nếu ,mập và cả đầu tương xứng như chim yean thì là tướng đại phú quí

    b) Lưng

    Tướng lưng tốt phải hội đủ các điều kiện sau nay:
    -đầy đặn
    -Rắn chắc
    -Cân xứng
    -Nở nang
    Có được những biểu hiện trên thì nội tạng ổn cố ,ít tai họa ,được hưởng phúc lộc
    Trái lại lưng mỏng ,thế yếu,lưng cong v.v... đều là các loại tướng xấu,nội tạng không ổn định ,tinh thần suy nhược ,chone6n Ngũ quan ,Lục phủ có tốt cũng khó mà phát huy ưu điểm của mình hầu đưa đến thành công trong thực tế.

    c) Eo lưng

    Đó là tiếp giáp với phần dưới bả vai chạy dài theo 2 bên cạnh sườn xuống đến tận mông .Phía trước của eo lưng là bụng liên quan mật thiết với nhau. Sách thần tướng toàn biên đã rất có lí khi nói rằng :"Eo lưng là thành quách của bụng. Mọi sự an nguy của bụng đều dựa vào eo lưng cả"
    Bởi vậy trong tướng học á đông eo lưng phải ngay thẳng rộng dày .Kẻ có eo lưng như vậy là kẻ có phúc lộc. Eo lưng hẹp, lép, mảnh mai là tướng kẻ đa thành đa bại ,thân thể suy nhược Eo lưng rộng rãi bằng phẵng tương ứng với mông là eo lưng thượng cách chủ về thọ Eo lưng cong (hõm xuống ,lồi lên) hẹp lệch không tương xứng với mông là tướng hạ cách ,chủ về tính nết nhu nhược, khó thành đạt.

    Đàn ông tối kị eo lưng thắt đáy lưng ong .đàn bà nếu eo lưng quá nhỏ và bó lại ở phần giữa ,đường tử tức có rất nhiều điểm bất lợi
    Viên Liễu Trang đã nói :"đàn bà thân nhẹ ,thắt đáy lưng ong, nhan sắc mĩ miều, lấy làm thiếp thì được chứ chẳng nên lấy làm vợ chính thức vì lẽ kể trên.

    d)Bụng

    Bụng cần phải tròn đầy và hướng xuống, hình dáng thanh nhã và chắc chắn.Bởi vậy tướng học có câu:"Bụng tròn, mạnh mẽ, hướng xuống là tướng của kẻ phú quý trường thọ."
    Đem quan niệm Âm dương áp dụng vào thân thể, bụng được xếp vào loại âm, ngực xếp vào loại dương.Âm phải hướng xuống mới hợp vị thế. Cho nên, thế bụng hướng lên là kẻ ngu đần, da bụng mõng lắm bệnh nội tạng.

    đ) Ngực

    Bụng và ngực được coi là phần chứa đựng thần khí của toàn thân,kho đựng của lục phủ ngũ tạng, ngực ngay thẳng rộng rãi chắc chắn thì thần khí an hoà, phú quý khả kỳ, trí cao tài lớn. Ngực hẹp, lệch lạc thì bụng cũng ảnh hưởng theo, nên thần khí bế tắc, nội tạng nghiên lệch: tâm tình ngu độn thất thường khó có thể trường thọ, mưu cầu công danh cũng khó thành đạt.
    Trên khu của ngực có vú. Vú đối với cá tính và vận mạng con người có vai trò khá quan trọng. Dưới nhãn quan tướng học, vú không nên hướng lên, mà núm vú cần ngang hoặc chúc xuống, có màu sắc tươi hồng mới được gọi là cát tướng chủ về khoẻ mạnh, nhiều con và phú quý.Núm vú dài là tướng kẻ bần cùng, không nên mưu cầu công danh, phú quý lam chi vô ích.
    Về cách xem tướng ngực, Thần tướng toàn biên có đưa ra phương thức so sánh với các ý nghĩa như sau:
    • Ngực dài hơn khuôn mặt chút đỉnh,hoặc bằng là tướng người trí cao, lộc hậu.
    • Ngực ngắn hơn khuôn mặt chủ về trí thô, tài mọn, phúc mõng.
    e) Rốn

    Rốn cần phải sâu và rộng mới hợp cách;lồi, hẹp là sái cách.
    -Rốn sâu, rộng, tương xứng với thân hình chủ về có tài trí và phúc lộc
    - Rốn hẹp và nông cạn chủ về ngu đần vất vả.
    -Thế rốn hướng lên: đầu óc minh mẫn, hưởng phúc
    -Thế rốn hướng xuống: đầu óc tối ám, phước lộc ít.
    -Rốn thấp so với toàn thể bụng: khiến thức rộng rãi, nhình xa thấy rộng.
    -Rốn cao so với bụng: kiến thức nông cạn, không biết tính trước liệu sau.

    g) Hạ bộ

    Nhà tướng học khét tiếng đời Minh là Viên Liễu Trang nói rằng:"Đến những nơi như cầu tiêu, nhà tắm ta sẽ phát hiện ra được những hiện tượng kinh người." Như vậy,tướng học không những chỉ chú trọng quan sát những điều dễ phát hiện ở khuôn mặt, tay chân mà còn phải lưu tâm tới cả những nơi bí ẩn của con người vẫn được che đậy kín đáo. Muốn biết hạ bộ ra sao mà không cần khổ công như Liễu Trang , Nhất Hạnh thì ta có thể theo bí quyết của Trần Đạn Gĩa, tác giả bộ "Tướng lý hoàn nhân"Đàn ông nhìn mũi , đàn bà nhìn miệng, trên sao dưới vậy.
    Bàn về những nết tướng hạ bộ, cổ thư đưa ra một số nhận thức sau:
    • Đại tiện chậm hoặc vuông: quý hiển phi thường
    • Tiểu tiệnvọt ra thành như hạt châu, hoặc mưa chủ về quý; thẳng và rũ xuống chủ về tiện
    • Âm hộ (kể cả nam lẫn nữ) nhiều lông thì quý nhưng dâm, không lông thì nghèo và tính nết đê tiện.
     
  18. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    NHỮNG NÉT TƯỚNG CHÂN TAY

    Đối với tướng học, tứ chi có một vai trò rất quan trọng trong việc quan sát mạng vận và cá tính con người.Người ta nghiệm thấy những người trì độn hoặc suốt đời khốn khổ dù bộ vị trên mặt không lấy gì quá tệ đều có tứ chi bất quân xứng hay không ngay thẳng.Bởi lẽ đó, tác giả Trần Đạm Gĩa đã nói: "Tứ chi đối với con người cũng như bốn mùa đối với sự phát triển của vạn vật. Bốn mùa mà không điều hoà thì vạn vật khó sinh sôi nẩy nở. Tứ chi không ngay thẳng, cân xứng thì kẻ đó suốt đời khốn khổ."

    Dưới nhãn quan tướng học Á đông, diện mạo được coi như thân cây,chân tay ví như cành nhánh. Có cây tốt thân mà xấu cành, có cây lại tốt cành mà xấu thân. Cành và thân đều tốt đã đành là quý, nhưng cành tốt thân xấu hay ngược lại thì cây đó vẫn có thẻ khả dụng. Cho nên , nếu Ngũ quan , Tam Đình, Ngũ nhạc có bị khuyết điểm đôi chút về mặt hình thức mà tứ chi hợp cách (Hợp cách ở đây có nghĩa là tứ chi tương xứng với thân hình; thẳng xuôi, văn tay, văn chân rõ đẹp, hội đủ các điều kiện tất yếu của chân và tay mà tướng học đòi hỏi) vẫn được coi là loại tướng khả dĩ có phú quý.

    a)Tay

    1- Cánh tay hợp cách
    • Cánh tay trên(từ vai đến khuỷ tay) gọi là long cốt; cánh tay(từ khuỷ tay đến cổ tay )gọi là Hổ cốt.Hổ cốt bao giờ cũng phải ngắn hơn long cốt mới đúng điều kiện tự nhiên, xương không được lộ.
    • Cánh tay phải xuôi thẳng như măng tre, tren to dưới nhỏ dần và màu sắc tươi mịn.
    • Cánh tay (trong tướng thuật cánh tay chỉ tính từ vai đến cổ tay) phải dài hơn thân mình.
    *Riêng cánh tay có nhiều ý nghĩa:
    • Tay thẳng như măng tre : đầu óc thông minh. Ngược lại, đầu óc thiếu sáng suốt, cục xúc thô lỗ.
    • Tay xuôi và dài gần tới gối: tướng vừa quý vừa hiền. Ngược lại , là kẻ bần tiện
    • Tay tươi mịn: có số được hưởng phúc thọ. Ngược lại, cực khổ mới có miếng ăn.
    • Cánh tay tự nhiên mềm mại và nhỏ nhắn : có số thanh quý thô cứng : nghèo hèn
    • Người nhỏ cánh tay kớn :hao tài
    • Người lớn cánh tay nhỏ : bần cùng .
    2- Lòng bàn tay hợp cách

    -Không dày không mỏng,
    -Có huyết sắc .
    - có chỉ tay chin tươi mịn và rõ không đứt đoạn .
    - Bàn tay phải thích hợp với từng loại người ( vd: như người hình Kim thì bàn tay phải vuông , người hình Mộc thì bàn tay phải xuôi và gay )
    * Lòng bàn tay vô bệnh mà thường có mồ hôi là kẻ thường hay khổ tâm nhọc trí .
    - Lòng bàn tay ngắn mỏng : số hèn
    - Lòng bàn tay nổi cao xung quanh , giữa hơi loom xuống :số giàu
    - Lòng bàn tay đầy đặn , dàihơn ngón tay : số quí hiển .
    - long bàn tay đỏ như hoa son : vinh hoa phú quý , nhưng đỏ như huyết lại là kẻ tàn nhẫn , có tính háo sát .
    -Bán tay khô khang cằn cỗi như đất vường hoang : nghèo hèn .
    - Đàn bà mà gan tay quá mềm :có tính dâm đãng.

    3- Ngón tay hợp cách

    -Ngón tay thẳng không cong không lệch .
    - Phía tiếp can với bàn tay lớn rồi thon dần lên đến đầu ngón tay .
    -Màu sắc , mềm cứng phải tương xứng với bàn tay .
    -Ngón tay trỏ tương đương về chiều dài lẫn hình dạng với ngón tay áp út , chiều dài ngón tay cái tương đương với chiều dài ngón tay áp út.
    * Ngón tay có những ý nghỉa chính sau nay :
    - Ngón tay nhỏ và xuôi dài :thanh quý ( có tiếng mà không có miếng )
    - Ngón tay quá ngắn và không tròn đầu : nhu đần , đê tiện .
    - Ngón taymềm ,khoảng cách giữa các ngón tay khít lại : giữ được tiền , biển lận .
    - Ngón tay cứng , khoảng cách giửa các ngón tay thưa :phá tán ,khuyết giữ được tiền ưa hoang phí .
    - Ngón tay tươi tắn :tâm tính tao nhã .
    - Ngón tay dùi đục : tân tính lỗ mảng thô tục.

    b) Chân

    1- Cẳng chân hợp cách ( tính từ chỗ tiếp giáp với thân mình đến mắt cá )
    - Tương xứng với thân hình cả về chiều dài lẫn vóc dáng .
    -Ngay thẳng vững chắc .
    - Xương thịt thích nghi .
    - Không được ngắn hơn thân mình nhưng cũng không được dài hơn tay
    -Cẳng dưới phải có lông vừa phải , lông chân dài vừa tần hơi thưa và mềm
    * Chân có những ý nghĩa đáng lưu ý sau đây :
    - Thịt chân rắn chắc vừa phải , chân thằng :tư tưởng cao thượng , tính tình hoà nhã .
    -Cẳng chân quá lớn là tướng kẻ làm việc nhọc nhằn , đầu óc trì độn nhưng sống lâu , quá nhỏ là tướng lười biếng , yểu thọ .
    - Cẳng chân quá ngắn không bao giờ ở được địa vị cao cả .
    -Chân cẳng thô : tính neat lỗ mãng , khó thành công mà lại dễ thât bại , cảm xúc có tính cách theo bản năng hơn là lý trí .
    - Đầu gối thích ứng ( nghĩa là bình xung với độ cao của mông ): tính tình dũng cảm nhưng khiêm cung.
    - Đầu gối hình tròn : người có chí khí cao , có khả năng làm được nhiều việc lớn .
    -Đầu gối lỏng lẻo( khi duỗi thẳng cẳng chân ): con người lao lực hoặc về thể xác hoặc về tinh thần . Ngoài ra còn là dấu hiệu thân thể suy nhược .
    -Dầu gối chặt chẽ ( khi duỗi thảng chân đầu gối không thể di động được thì gọi là chặt chẽ ): tính neat cương trực , có khí phách cao xa , thân thể khoẻ mạnh .
    -Đầu gối hình tròn như quả núi: tính neat gian xào hay có hành vi hoặc tư tưởng bất chính.

    2- Bàn chân hợp cách

    - Có dạng vuông , rộng rãi ,rắn rỏi và dầy
    -Không quá rộng bề ngang .
    - Gót chân rộng và bằng .
    - Gan bàn chân hơi vũm .
    - Năm ngón chân phải in sát mặt đất
    - Gan bán chân chỉ chân rõ và sâu .
    * Bàn chân vuông ,dày ,rộng : tướng khoẻ mạnh phú quý , nhưng quá rộng lại là số cực nhọc về sing kế .
    -Hẹp thô lỏng , nghèo khổ .
    -lòng bàn chân có nốt ruồi hoặc có các chỉ chân rõ ràng :sốphú quý vinh hiển .
    -Bàn chân phía dưới bằng phẳng như tấm ván : vừa nghèo hèn vừa ngu độn .
    - long bàn chân vũm và các ngón chân cùng ở trên một mặt phẳng : thông minh giàu có.

    3. Ngón chân hợp cách

    - Các ngón phải khít không được dài quá
    - Chiền dài các ngón không được chênh lệch .
    - Các ngón chân nên có lằn sâu và rõ chạy dọc theo chiều dài mỗi ngón .
    - Ngón chân ngắn: số an nhàn .
    - Ngóc nhân dài số hay gặp trắc trở hoặc vất vả. Đàn ông ngón chân dài xấu hơn đàn bà về mặt mạng vận nhưng tính neat thường là thành thực.
    - Năm ngón chân khít nhau: chủ về giàu, ngược lại là dấu hiệu nghèo túng .
    -Chiều dào năm ngón chân tương đương : có tài nămg cao khí phách rộng , làm việc có kế hoạch rõ ràng.
    -Năm ngón chân lệch lại so le : khí lượng hẹp hòi, làm việc theo bản năng , không biết đường tiến thoái.
     
  19. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    LOẠI TƯỚNG BIẾN CÁCH

    KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT

    Tướng mạo, thân hình dộng tác của con người đôi khi vượt ra ngoài các kiến thức tướng học thông thường. Tướng học thông thường lấy con người chính thức là đối tượng nghiên cứu để dự đoán thông minh, đần độn, thọ yểu, giàu nghèo. Sự nghiên cứu đó, phần lớn dựa vào ngụ quan, tam đình,lục phủ có cân xứng, phối hợp hay không.

    Nhưng con người không phải lúc nào cũng có dạng chính cường: đôi khi có những người mà thân hình, diện mạo hoặc động tác có những đặc điểm xét theo tiêu chuẩn chính thường về ngũ quan,, tam đình v.v...không đủ để giải thích thỏa đáng. Theo kinh nghiệm của nhiều thế hệ lưu lại, người ta nhận thấy có nhiều người có khuôn mặt, thân hình hay cách đi đứng, nằm ngồi có những nét phảng phất hoặc giống các loại chim hoặc giống các loại thú hơn là giống đồng loại (con người ). Tùy theo giống loại nào thì phú quý, thọ khang , giống loại nào thì bần tiện , yểu chiết mà người ta đi đến việc phân loại tướng cách hạng người đặc thù đó thuộc loại bí cách gọi là cầm thú tương hình.

    1-Hình phương: Mắt có hình dạng ,bề dài rõ rệt, chiều ngang thích hợp, lông mày nhỏ, phần hạ đình thấp, mũi cao và cong, tinh thần, cốt khí tươi tỉnh, giọng nói trong trẻo, tính nết hòa ái.

    Kẻ hình phụng, nếu cao dong dỏng, không gầy quá, không mập là kẻ hình phụng trì trê. Nhìn hình phụng thông sảng . Nếu thân hình mập tròn là kẻ hình phụng trì trệ. Nhìn nghiêng mà trán rộng cao hơn cằm thì gọi là tướng thiên địa tương ứng thuộc về quý cách. Lông mày và mắt đều nhỏ, thượng đình dài mà hạ đình ngắn thì gọi là tướng tiểu phụng hình nhân, thuộc về trung cách. Lông mày lớn , thân hình dài, mũi cao và thẳng , tinh thần sảng khoái ,lanh lẹ thì gọi là tướng đơn phung. Tướng thư chép rằng;"Lông mày , mắt và đầu dài ngũ nhạc đầy đặn, điều hợp, thân hình nhỏ nhắn, đi lại , hành động, có vẻ thanh tu là kẻ đắc phụng cách, ngôi vị cực sang".

    2- Hình hài: thương , khố bị hãm, ngư vĩ cong xuống phía dưới, đuôi mắt hơi cong xuống, đầu nhiều xương, ít thịt, cổ dài, bước đi nhấc cẳng dưới và khoảng cách dài thân thể mảnh dẻ,,,,,
    thượng đình dài, rộng là kẻ hình hạc: tính ôn hòa thích ở nơi tịch mịch, có dang vọng về đường
    đạo đức, văn học.

    3-Hình chim ưng: đầu vuông, trán tròn, mũi cong vòng như mỏ chim , mắt tròn, viền mắt hơi đỏ, mắt có nhiều tia máu, mioệng nhỏ, tai mỏng, tính nóng nảy. Cổ tướng thư nói rằng: người hình chim ưng , trán rộng, mắt sáng rực, xương má xệ xuống tận hàm , giọng nói trong trẻo, bước chân dài rộng, hùng dũng có khiếu về binh nghiệp nhưng tính háo sát, thích đấu tranh nên ít khi được chết an lành.

    4-hình chim yến: Mắt tròn, xương quai hàm nảy nở, môi hồng, miệng nhỏ, mũi ngắn, mắt sâu và đen trắng phân minh, sáng láng, thân hình cao gầy. Người hình yến đa tài, đa nghệ nhưng hay thăng trầm, thành đạt sớm thì lại dễ chết yểu.

    5-Hình công: mặt nhỏ, thân hình cao lớn, tính ưa thủ lễ, ưa trang sức, dang vọng.

    6_Hình ngỗng: Mắt nhỏ, miệng hơi túm và nhỏ, cổ dài, chân ngắn, bước đi chậm dãi, thượng đình chiếm phần trội yếu nhất trên lông mày, mũi ngắn. Kẻ có tướng ngỗng mà lại có mắt ngỗng đắc cách không lo thiếu ăn, thiếu mặc.

    7-Hình Sẻ: thân thể nhỏ bé,ánh mắt lộ vẻ nôn nóng, mặt tròn và sác thái vô sự thường lộ vẻ kinh nghi . Tính nết kết hợp cách tướng chim sẻ thường ham dâm dục, ít khi giàu có lớn, số thường hay vất vả.

    8-Hình uyên ương: thân hình trung bình, mặt trắng pha sắc hồng, mắt tròn và đẹp, đi đứng cục mịch, không có uy thế, nói năng tục tĩu và tính rất dâm ô. Hợp với mắt uyên ương, bộ vị đắc cách, người hình dáng kể trên có thể nổi danh với đời.

    9-Hình chim tước:thân hình vừa phải, khuôn mặt nhỏ, tai sắc xang pha trắng, di thì nhanh nhẹn mà thân thẳng thắn, nói năng khoan dung khiến người nghe vui tai, ấm dạ. Tính tình người hình chim thước đắc cách ( hợp thước nhãn cộng hình thước) : trung hậu, có tài, vãn vận an khang, phúc lộc gồm đủ.

    10-Hình gà: thân thể trung bình, đầu nhỏ, mắt nhỏ, tròng mắt hơi vàng, mặc dầu tham vọng nhiều nhưng lại trọng điều nghĩa khí, không bao giờ thất tín. Kẻ hình gà hậu vận rất tốt.

    11-hình vịt: thân hình tròn mập, chân cẳng ngắn, mặt nhỏ và không có gì đặc biệt thanh tú, đi đứng chậm dãi, ì ạch, miệng rộng, hạ đình dài, nảy nở, cuh3 tiền bần hậu phú nhưng thuộc loại phú nhi bất quý.

    12_hình cò: thân hình thon nhưng dài, mũi nhỏ và dài, phần thân mình ngắn, chân dài. Lưng thẳng tuột, khi đi thường hay lắc lư đầu, hình dạn nói chung thanh khiết nên người hình cò ( đắc cách với mắt cò) là hàn tướng( tướng lạnh nhạt, ưa cô độc) chứ không phải là thanh tướng. Hình cò đắc cách là tướng kẻ ở ẩn hưởng đi tu dễ thành chính quả chứ không thích hợp với đời
    sống tập thể.

    13-Tướng cọp: đầu lớn, cổ vuông vắn, khỏe vai tròn trịa, lưng đầy đặn, tràn cao, eo rộng , mắt lớn ( hổ nhãn) tròng mắt đen phân minh, miệng lớn và vuông có lăng giáp. Người ta phân biệt nhiều thứ hình cọp tùy theo sắc thái: a)nếu môi như chu sa, mục lực sáng láng nìn người như thôi miên, tinh thần an thái, nói vang như tiếng trống đồng, tính tình khoát đạt thì gọi là lâm trung chi hổ ( hổ ở trong rừng) Kẻ có tướng lâm trung chi hổ thì chức vị cử phẩm thường là dễ phát về võ hơn là về văn.

    b)Nếu tinh thần quá mạnh bạo, đi đứng ngang tàn mà ánh mắt lại mờ yếu không được ổn định thì gọi là xuất lâm chi hổ ( cọp ra khỏi rừng). Kẻ có tướng Xuất lâm chi hổ tuy tốt nhưng có nhiều sở đoạn nên quý hiển mà không được hưởng lâu bền, kết cuộc về vận hạn sẽ suy giảm.

    c)Vẫn các đặc tính chung mà tinh thần an nhàn, tao nhã, nói năng có thứ tự, mịch lực bình ổn thì gọi là kháo hổ sơn (cọp trên núi) .Kẻ có tướng kháo sơn hổ được hưởng lộc lâu dài đến tận cuối đời.

    d)Vẫn các đặc tính hình thể của tướng cọp mà tinh thần bất định, ngồi, đứng hay đi thường ngoảnh mặt, lắc vai thì gọi là khắc sơn chi hổ (cọp không thích hợp với núi rừng) .Kẻ có loại tướng cọp này có thể quý hay tiện nhưng thường thì xấu nhiều tốt ít. Nếu khuôn mặt không sầu muộn mà lúc nào cũng rầu rĩ, không bệnh mà mệt nhọc tựa hồ mắc bệnh thì dầu cho có xứng ý thỏa lòng 1 lúc cũng chỉ được 1 thời gian ngắn, rốt cuộc chết non.

    14-Hình rồng: Thân hình từ trung bình đến cao lớn, diện mạo đoan chính, cốt cách thanh tú oai nghiêm mắt sáng và đen trắng phân minh, tai và mũi cao cử chỉ đường bệ, tâm tính cơ trí. Dây là loại tướng người phi thường. Nếu đắc cách long thể, long diện (mắt mũi, lông mày, đầu v.v...đều tương tự như dáng rồng , đi đứng như rồng bay, hổ chạy) là dấu hiệu đế vương. Ngày
    xưa Hán Cao Tổ(Lưu bang) Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) đều là loạĐường Thái Tông (Lý Thế Dân) đều là loại tướng rồng đắc cách.

    15 Hình kì lân :Tác người trung bình, cổ có xương thịt vững chãi, thân hình trông như ưỡn lên , mắt sâu, lông mày đen trông hơi có vẻ thô mà có uy thế ( trọc trung hữu thanh) , trán cao, vuông rộng, giọng nói thanh tao , đi đứng chững chạc , mắt sáng , tai cao . Hình kì lân hội đủ các điều miêu tả ở trên là tướng đại quý.

    16 Hình sư tử: Thân hình đôn hậu , chắc chắn, mắt tròn và lớn đen trắng phân minh, có thần quang, nhiều râu, lông mày thô đậm , đầu vuông vức, miệng rộng và vuông ,môi dầy, mũi lớn và gãy, tâm linh cơ xảo và khôn lường, cổ tướng thư nói rằng : Đầu của tướng người sư tử đắc cách phía sau nổi rõ xương tròn , phía trán cũng gồ cao sẽ là kẻ cực phẩm nhân thần , văn võ song tòan.

    17 Hình voi: Phía sau đầu nôỉ rõ, trán cao và nở , Aân đường bằng phẳng, mắt nhỏ, lông mày dài, mũi hếch, môi cong, răng lộ , tai lơn và dầy, không rõ vành, thân hình to lớn ,dềnh dàng, mắt nhìn kém và rất ít ngủ. Kẻ có đắc cách tượng hình, tượng nhãn thì tính tình chậm lụt, hòa bình, không phú thì cũng tiểu quý. Tuy nhiên ,đắc cách về hình dạng chưa đủ, còn phải hợp cách về phẩm chất nữa : đi đứng chậm rãi, chắc chắn, ngồi vững vàng như trái núi, giọng nói trầm hùng.

    18 Hình tê giác: Thân hình mập mạp, quân phân, lông mày dài bằn ánh mắt, trán cao rộng, xương phía trên Aán đường nổi rõ cộng thêm với đầu tròn mắt lớn, tai dày.Kẻ đứng cách tê giác về hình dạng nếu phụ thêm các đặc tính nội tương ứng với loại hình này là kẻ có tướng giàu có và an khang đến già.

    19 Tướng vượn: Mắt tròn, khuôn mặt nhỏ, lông mày và mắt đều tròn, tay rất dài và lớn so với thân mình tiếng thanh và cao vút, tính ưa sạch sẽ và thích diêm dúa, thích trái cây, miệng nhỏ, mũi nhỏ , hay ca hát , không ưa lễ nghi, dễ phẫn nộ, tâm tính linh xảo, thân hình cao nhỏng, môi mỏng và xương lại rất nảy nở. Kẻ hợp cách vừa kể (đặc biệt là tay dài và chân ngắn, bước
    chân nhẹ nhàng) rất dễ nổi danh về đường biện thuyết, hư ngụy.

    20 Tướng khỉ :Người trung bình , da trắng (thuộc thiên hình nhân) , đầu , trán nổi cao, lưỡng quyền cao và lộ, Ngũ quan tề chỉnh, mắt tròn, về phần tâm, tính tương tự như tướng vượn. Tướng khỉ đắc cách hợp với mắt khỉ là đại quy cách, phú quý thiên toàn nhưng háo dâm vô kể. Xưa nay, tất cả mọi kẻ đắc cách thực sự hầu tướng đều là kẻ thành đạt. Thời cuối đời Mãn
    Thanh (1905) tổng đốc Lưỡng quảng là Trương Chi Đồng tự Hiếu đạt là 1 thí dụ điển hình nhất của tướng khỉ đắc cách và thuần túy không pha trộn các hình khác. Ông ta tự nhận mình là con khỉ già ở Cổ tự núi Nga My đầu thai làm người. Đặc điểm của Trương Chi Đồng là rất thích hoa quả, có khi thức trắng hai, ba đêm không ngủ mà tinh thần vẫn tươi tỉnh như thường nhưng không đêm nào lại bỏ qua trong sự chung chạn sắc dục.

    21.Tướng rùa: Cổ dài chân ngắn, thân thể mập mạp tròn lẳn, đầu hơi thon nhọn, lông mày đậm, mắt tròn tai cao, Ngũ nhạc tương xứng, lưng nảy nở, rắn chắc và cong lên như thân rùa , hơi thở nhẹ nhàng, ánh mắt ổn định. Tam đình đầy đặn,bình quân. Kẻ có tướng rùa đắc cách toàn bộ là kẻ có phúc phận vừa thọ vừa phú.

    22. Tướng trâu :Thân hình khôi ngô ,cao lớn, đầu to cổ lớn, nói năng đi đứng chậm chạp, mắt sáng và đen trắng phân minh. Hợp với tướng trâu (hình thể lẫn nội chất ) là kẻ phúc tướng suốt đời ít bệnh, giàu có hơn người .

    23. Tướng chuột : người nhỏ nhắn, thấp lùn, sắc da đỏ hồng, mắt tròn và nhỏ (người đời thường gọi là ti hí Mắt lươnh ).Kẻ đúng cách tướng chuột là kẻ khôn ngoan ranh mãnh, tâm cơ tinh xảo hơn người nên thường kiếm đủ miếng ăn được khó hiểm đạt.

    24. Tướng rắn : hình dạng đầu dài, mắt ngắn, Ngũ hẹp không cân xứng, trán bằng, lông mày nhỏ hẹp, mắt mở thao láo, miệng túm, răng nhỏ , thân hình to và thô lỗ, mũi dài nhưng gián đài, Đình quý rất nhỏ, chưa nói đến là đã liếm môi, khi đi lắc lư phần thân dưới như kiểu chữ chi trông mường tượng như rắn đang tườn mình trên mặt đất bằng phẳng. Người hình Tướng rắn hành động mẫn tiệp, hay thù độc khi bị người ta động chạm đến mình, mưu mô, ác hiểm khôn lường. Tuy nhiên, người hình rắn lại thường khôn ngoan , khéo léo và mưu thuận bề ngoài nên trong giới quan lai thường ghi nhận được nhiều người có tướng rắn.

    25. Tướng ngựa : mặt rất dài và thành hình tam giác rõ rệt, mắt tròn lớn,miệng rộng, răng lớn trắng và đều đặn lưng rất dài, phản ứng chậm chạp nhưng chắc chắn, có đức độ. Ban đêm thường ít ngủ, đứng ngồi có dáng vẻ uy nghi. Người có Tướng ngựa đắc cách là tướng trung hoặc đại úy tùy theo sự thành tựu của Ngũ quan có hoàn toàn hay không.

    26. Tướng dê : đầu vuông, mặt dài, trán thấp, địa các nhỏ và nhọn, miệng túm và rất nhiều râu (râu quai nón), lòng đen ít và lòng trắng ngả màu vàng nhưng trông không được thanh khiết, chân ngắn hơn thân mình, đầu rụt xuống phía trước, lúc đi nhìn xuống đất nhiều hơn là nhìn thẳng về phía trước. Đàn ông mà được Tướng dê, mắt dê thì quan cao, lộc hậu nhưng không được chết lành, đàn bà có tướng dê thì tính tình dâm đãng, trí trá tuy nhiên rất giàu có.

    27. Tướng nai : mắt hơi dài, sáng sủa, tròng đen lớn, lòng trắng ngả màu xanh lơ, ánh mắt hiền hòa ngây thơ hoặc lơ đãng, ngồi lâu thường hay cựa quậy không yên tĩnh, tính tình không được ổn định, khi đi rất nhanh, tương tự như người chạy. Người có Tướng nai đắc cách (Tướng người + Tướng mắt đều phối hợp tương xứng ) thường ưa thú vui điền viên hơn là cạnh tranh với
    người đời, phúc lộc tự nhiên.

    28. Tướng gấu : Tướng người mập mạp, rắn chắc, ngực, bụng bằng nhau và đầy đặn, tròn trịa, mũi hếch, hơi thở gấp, đứng ngồi không yên chỗ. Kẻ có tướng gấu đắc cách, thân hình, mắt mũi, ... dễ thành sang quý nhưng tính nết hung bạo tàn nhẫn.

    29. Tướng cá : Tai nhỏ, lông mày thưa thớt và ngắn, mắt trròn, cổ ngắn, miệng như miệng cá, ngủ mà mắt không khép kín. Tướng cá, mắt cá, : Cổ tướng học xếp vào loại bất thường.

    30. Tướng heo : người mập cổ lớn và ngắn nên trông xa như không có cổ, miệng túm , tai nhọn, chân dưới ngắn, hình tượng rất kì dị tương tự như heo. Loại tướng heo, mặt heo là tướng ngu đần, bất đắc kì tử. Tuy nhiên người tướng heo thường hay đủ ăn mạc, thuộc loại phú nhi bất quý.

    31 - Tướng chó : đầu lớn mà thô, mặt hơi nhọn, tai nhọn và vểnh, tính nóng nảy, háu ăn, thân dài bằng chân, cư xử với người ngay thẳng trung hậu, hay bị tiểu nhân oán ghét. Cổ nhân phân biệt : nằm mà giống chó là tướng thọ , đi mà giống chó là Tướng hà tiện, thân hình giống
    [​IMG]
     
  20. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: NHÂN TƯỚNG HỌC

    Chương thứ ba

    NHỮNG TƯỚNG CÁCH ĐẶC BIỆT

    I. NGŨ TRƯỜNG

    Ngũ trường là dạng xưng của 5 bộ phận:
    -đầu dài
    -mặt dài
    -thân dài
    -tay dài
    -chân dài.

    Người có Tướng ngũ trường thường quý hiển nên loại người có Tướng ngũ trường thường được xếp vào loại Tướng quý. Quý ở đây chỉ có nghĩa là tốt, là thượng thưa mà thôi. Nhưng những điều liệt kê ở trên chỉ là phần hình thức , chưa đủ dể quyết đoán, mà có thêm ngũ quan ngay ngắn, cử chỉ hiên ngang, dáng dấp thanh nhã, khí sắc tươi tắn mới thực là quý tướng . Loại tướng này được xếp vào loại phú quý song toàn nhưng phần quý hiển nặng hơn phần phú túc . Trái lại , nếu chỉ được Ngũ trường về hình thức mà thực chất lại kém cỏi : ví dụ xương thịt khô xạm , cằn cỗi , thần thái ủ tủ , trơ xương lộ gân hoặc thịt bệu xương nhỏ đều là tướng hạ tịên.

    Trong số Ngũ trường , có thể thiếu một mà vẫn không trở thành tướng xấu ( dĩ nhiên ở đây nói về hình và chất cùng tốt ) là chân ngắn . Nếu như cũng một trường hợp vừa nói mà thay vì chân ngắn , ta thấy ngược lại là tay ngắn hơn chân thì bao nhiêu điểm tốt lại trở thành xấu , vì đấy là tứơng bần hàn , đê tiện . Bởi vậy , tướng thuật có câư : " Cước trường , thủ đoản nhân đa tiện" .

    II. NGŨ ĐOẢN

    Được gọi là Ngũ đoản tướng khi có :
    - Đầu ngắn .
    - Mặt ngắn .
    - Thân ngắn .
    - Tay ngắn .
    - Chân ngắn .

    Về mặt xét đoán cũng vẫn như trên , nếu Ngũ đoạn mà xương thịt cân xứng , thần thái uy nghi , Ấn đường sáng sủa là tướng đại phú . Ngaỳ xưa vương quốc nước Tề là Án Anh người lùn chỉ cao bằng tầm ngực của tên quân hầu đánh ngựa , nhưng lại là lùn kiểu Ngũ đoản nói trên . Gần đây Việt Nam có một tướng có tướng Ngũ đoản đúng cách , đó là Nguyên Tổng Thống đệ nhất Cộng hoà , Ngô Đình Diệm .
    Trái lại , nếu Ngũ doản mà thịt bệu , xương thô , tai dơi , mắt chuột , Ngũ nhạc lệch lạc , nửa thân dưới dài , mà nửa thân trên lại ngắn , v.v ... thì khó tránh khỏi cuộc đời quẫn bách , tầm thường . Ngũ đoản đều đặn mà trên dài dưới ngắn mới quý , còn ngược lại thì lưu lạc lênh đênh thành bại bất thường.

    III. NGŨ HỢP
    [​IMG]

    Cốt tú : Răng đều hay không đều không thành vấn đề .Điều cần thiết là răng phải chắc chắn , tươi sáng tựa như ngọc ngà không có vết . Người nào có bộ răng hợp với điều mô tả trên được kể là Cốt tú.

    * Nhục tú : Sắc mặt lúc nào cũng hồng hào tươi tĩnh thì gọi là Nhục tú . Chỉ cần hồng hào tươi tĩnh mà thôi . Gầy mập không cần lưu ý .

    * Huyết tú : Lông mày thanh nhã , mịn màng và chất của lông mày cũng như sự thưa mỏng của nó tương xứng với tóc và râu được gọi là Huyết tú .

    * Khí tú : tiếng nói trong trẻo , có âm lương vang ra xa thì gọi là Khí tú . Đối với phép quan sát thần khí của Á Đông thì âm thanh là đối tượng dễ quan sát nhất về khí . Khí tốt thì âm thanh trong trẻo vang dội . Từ Khí có thể suy ra Thần và Sắc . Bởi vậy Đạt Ma Thiền Sư có nói : Cầu toàn tai thanh . Trong phép xem tướng , người ta đã liệt việc xem tướng âm thanh vào loại tướng pháp thượng thừa cũng bởi lý do trên .

    * Chất tú : Mắt sáng , tia long lanh có thần khí thu tàng như tinh tú tự phát ra ánh sáng ban đêm : sáng mà êm dịu thì gọi là Chất tú.

    Đời nhà Thanh , Đệ nhất thi nhân Hoàng Công Độ là người có đủ tướng Ngũ tú. Bởi vậy , tâm tính thông tuệ , dung hơp được cả các tinh hoa của thơ văn cổ điển bác học lẫn thơ văn bình dân . Nhà thơ họ Hoàng đã dùng những kỹ thuật bác học cổ điển để sáng tạo ra nhữn bài thơ ý tứ mới mẻ khiến cho việc thưởng thức những cái hay đẹp của văn chương cổ điển càng thêm phong phú. Thơ văn của Hoàng đã tạo thành một phong trào văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng trong giới sĩ phu thời đó và phần nào đã có ảnh hưởng đến cuộc vận động Tân văn hoá của nhóm Hồ thích sau này . Sở dĩ Hoàng Công Độ hiển hách một thời cả về công danh lẫn sự nghiệp như vậy đều là do may mắn được trời sinh ra có tướng Ngũ tú.

    6. LỤC ĐẠI
    Đầu lớn , mặt lớn , tai lớn , mũi lớn , miệng lớn và bụng lớn được gọi là Lục đại . Nếu tất cả đều ngay ngắn , cân xứng thì đó là tướng quý .
    Ngược lại , nếu :
    - Đầu lớn màtrán không có Nhật , Nguyệt giác (tức là trán gồ)
    - Mắt tuy lớn nhưng ánh mắt láo liên hoặc mờ ám .
    - Miệng tuy lớn nhưng không rõ luân quách .
    - Bụng tuy lớn nhưng hếch lên , thì đó gọi là tướng Lục đại bần yểu .

    7. LỤC TIỂU
    Trán , mắt , mũi , tai , miệng , bụng đều nhỏ thì gọi là Lục tiểu .

    a) Quý tướng :
    - Trán nhỏ , nhưng đều đặn vuông vắn .
    - Mắt nhỏ nhưng sống mũi thẳng và ngay ngắn .
    - Tai nhỏ nhưng đầy và Thuỳ châu rõ ràng , hướng về miệng .
    - Bụng nhỏ nhưng xuôi .
    Ngoài ra , thân mình phải can xứng với khuôn mặt mới thực sự tốt .

    b) Tiên tướng :
    Nếu sáu bộ phận trên nhỏ nhưng không hội đủ những điều khiện vừa kể thì bị xếp vào loại tướng tiện (không ra gi ) . Người có tướng lục tiểu khuyết hãm chẳng những trí óc đần độn hoặc lệch lạc mà mạng vận cũng trì tuệ , thọ mạng ngắn ngủi .
    Ngoài một số tướng cách đặc thù kể trên , ta còn có thể căn cứ vào sự bất quân xứng giữa các bộ phận căn bản trên con người mà đặt ra vô số tướng cách
    hỗn tạp . Ví dụ :
    - Tứ tiểu , nhất đại .
    - Tam tiểu , nhị đại .
    - Ngũ tiểu , nhất đại v.v...
    Điểm cần lưu ý trong tướng pháp để giải đoán quý tiện của loại tướng hỗn tạp ( gồm cả đại lẫn tiểu trên lhuôn mặt hay thân hình của một cá nhân) là:
    * Dù hình thức và thực chất có hoàn hảo thì sự hỗn tạp trên không bao giờ đưa đến phú quý song toàn hoặc bền vững cả . Những kẻ đó hoặc là phú mà quý , hay ngược lại , hoặc tiền phú hậu bần , hoặc yểu .
    * Mức độ xấu của tướng cách hỗn tạp , tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố : bộ vị chủ yếu , khí sắc , tinh thần khí phách v.v...
     

Chia sẻ trang này