Tử Vi Tinh Điển

Thảo luận trong 'Trao đổi kiến thức về Tử Vi' bắt đầu bởi cabachlong, 23 Tháng bảy 2006.

  1. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ TAM THAI BÁT TỌA

    Tam Thai (phải đọc là Tam Đài mới đúng) thuộc dương thổ. Chủ về văn mặc (văn từ bút mực) trợ giúp cho quang huy của Thái Dương. Tam Thai tính tình ánh trực vô tư. Nếu đứng bên Thái Dương hoặc được Thái Dương đắc địa chiếu càng sáng sủa. Tam Thai đứng cung nào cũng được không có đất hãm cho sao này.
    Bát Tọa (phải đọc là Bát Tòa) thuộc âm thổ, tính tình thẳng thắn bộc trực, có phần vội vã, cũng chủ về văn mặc và trợ giúp quang huy cho Thái Âm. Bát Tọa đứng bên Thái Âm hoặc được Thái Âm đắc địa chiếu sẽ làm tăng quang huy cho Thái Âm. Bát Tọa đứng chỗ nào cũng được không bị thất hãm.
    Một số Tử Vi gia Trung Quốc cho rằng Thai Tọa kị đứng vào Phu Thê cung sẽ gây ra tình trạng ly khắc. Tử Vi Việt đối với Thai Tọa vào cung Phối chẳng những không trở ngại mà còn đẹp nữa.
    Một vài sách Tử Vi Việt lại bảo Tam Thai thuộc Thủy và Bát Tọa thuộc Mộc. Nếu đọc là Đài với Tòa thì thuộc Thổ có phần chính xác. Thai Tọa với Tử Vi Việt là sự khôn ngoan sang trọng, nhà cửa cao sang. Như vậy thì rõ ràng là Đài với Tòa chứ không còn phải là Thai với Tọa nữa.
    Có những câu phú về Thai Tọa như sau:
    - Giáp Bát Tọa giáp Tam Thai
    Thiếu niên sớm dự các đài nghênh ngang

    - Tam Thai hội hợp cùng cát diệu
    Thời một phen dưỡng dục nên người

    - Mộ trung Thai Tọa văn mưu võ lược kiêm ưu
    (Thai Tọa đóng Mệnh ở các cung mộ thì văn mưu vũ lược đều hay)

    - Bát Tọa hướng Dương, thị tụng ư cung cấm
    (Bát Tọa có Thái Dương là người được ra vào nơi cung cấm, quyền chức)

    - Thai Tọa Phong Cáo hiển ấm thừa quang
    (Mệnh hay Phúc Đức có Thai Tọa Phong Cáo thì được hưởng phúc ấm của ông cha)

    - Thiên Mã ngộ Tam Thai anh hùng vô đối
    (Mệnh có Thiên Mã đứng với Tam Thai là con người bản lĩnh anh hùng)






    LUẬN VỀ LỘC MÃ

    Lộc Mã là Lộc Tồn vớI Thiên Mã. Hai sao này mỗi sao có riêng một tính chất. Nhưng khi hội hợp với nhau lại tạo thành tính chất đặc thù. Bởi vậy trong khoa Đẩu số mới có danh từ Lộc Mã.
    Sao Lộc Tồn mang cái nghĩa y lộc, tượng trưng cho tài phú tiền bạc. Trong lá số hễ Lộc Tồn đứng đâu thì đều có Kình Dương Đà La hiệp. Cổ nhân đặt như vậy với hàm ý chổ nào thấy tiền thì có kẻ dòm ngó.
    Dương Đà còn biểu thị điều lao tâm lao lực phấn đấu cam go hoặc khẩu thiệt thị phi. Kiếm được tiền thì phải vất vả vượt những khó khăn. Sự đặt định này thật thuận lý. Vì Lộc Tồn bị Kình Đà hiệp nên những sao đứng cùng Lộc Tồn rất hệ trọng đối với sự luận đoán.
    Sách xưa viết :” Lộc Tồn Bắc Đẩu đệ tam tinh, chân nhân chi tú, chủ nhân quí tước, tướng nhân thọ cơ, Đế Tướng phù chi thi quyền, Nhật Nguyệt đắc chí tăng huy, Thiên Phủ Vũ Khúc vi quyết chức, Thiên Lương Thiên đồng cộng kỳ tường. Nghĩa là”Lộc Tồn với Tử Vi, Thiên Tướng đứng cùng thành quyền lực, đứng với Thái Âm Thái Dương tăng thêm vẻ huy hoàng, gặp Vũ Khúc Thiên Phủ vốn là hai sao tiền bạc thì tài khí càng dồi dào. Thiên Lương Thiên Đồng nhờ Lộc Tồn nâng cao phúc ấm.
    Lộc Tồn trên cơ bản ý nghĩa là y lộc, cho nên cũng dùng nó để tính sang thọ số của con người, tuổi thọ cao thì mới hưởng nhiều y lộc, như trong ngôn từ ta thường nói để chỉ ai đó qua đời bằng chữ “thất lộc”. Cho nên Mệnh cung mà có Thiên Lương đi với Lộc Tồn thường sống lâu.
    Tiền nhân khi bàn về Lộc Tồn có viết câu:”Nếu đan thủ ở Mệnh mà không gặp các sao tốt khác chỉ đáng xem như mọi giữ tiền (thủ tài nô) ý chỉ rằng không biết hưởng thụ keo bẩn bần tiện.” Tại sao?
    Các sao tốt khác trong câu trên là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa. Lộc Tồn bị Kình Đà hiệp mà đan thủ tất nhiên thành cô lập. Không gặp thế lực khác phò trọ Lộc Tồn đâm ra thành sợ hãi mất tự tin lúc nào cũng lo ai cướp mất lấy mất mà tìm cách bo bo giữ, coi tiền hơn tính mạng.
    Lộc Tồn cô lập nơi Mệnh cung trong tình trạng ấy thà rắng đóng vào Thiên Di thoải mái hơn. Mệnh cung không còn bị áp lực của Kình Đà nữa, y lộc không trở nên vấn đề kinh hãi thì cuộc sống mới dễ chịu nhất là đối với những món tiền cố định như lương bổng, tiền lời ngân hàng, tiền cho mướn bất động sản. Lộc Tồn đóng Thiên Di lại thêm cả hoặc Hóa Lộc hoặc Hóa Khoa hoặc Hóa Quyền thì còn thành công trong những vụ buôn bán xa (ngoại quốc)
    Lộc Tồn đứng với Thiên Mã cũng thế, khả dĩ tìm thấy tài lộc nơi viễn phương. Lộc hội Mã nhờ “động” mà có tiền. Chữ động đây còn có thể hiểu như làm nghề chuyển vận nữa không chỉ thu hẹp vào chữ viễn phương.
    Lộc Tồn với Thiên Mã đồng cung, hoặc đối diện đều gọi là Lộc Mã giao trì. Lộc Mã giao trì nếu có thêm Văn Xương Văn Khúc thì cuộc đời làm ăn phát đạt khá mà không vất vả. Nhược bằng thấy Hỏa Tinh, Linh Tinh tất khó tránh được bôn ba lao bác một nắng hai sương.
    Lộc Mã giao trì do “động” mà đắc lợi. Tuy nhiên cũng còn phải coi bản chất Thiên Mã thế nào để mà định. Thiên Mã nhất định chỉ có bốn nơi Dần Thân Tị Hợi, cùng một chỗ của sao Trường sinh cũng luôn luôn gặp sao Tuyệt ở những nơi này.
    Trường hợp Thiên Mã đứng bên cạnh Trường Sinh thì làm việc dễ đắc lợi, nhưng cứ phải “động” hoài ít có thì giờ nghỉ ngơi. Như cổ nhân bảo: “Mã ngộ Trường Sinh chung thân bôn tẩu”
    Trường hợp Thiên Mã đứng bên sao Tuyệt thì “động” với khí thế suy giảm để thành “bị động” hoặc chóng mệt mỏi. Thiên Mã đứng cùng Hỏa Linh cuộc đời bôn ba rồi mới thành công nếu hỏa Linh đắc địa. Thiên Mã đứng với sao Đà la, Đà La ví như dây quấn vướng vít, mọi việc đều trì trệ, kéo dài, “động” mà không mấy hanh thông, nhưng cứ phải “động”.
    Thiên Mã đi cùng với một chính tinh nào cũng chịu ảnh hưởng của chính tinh đó. Ví dụ Thiên Cơ mang sắc thái hiếu động, Thiên Mã khi đi với Thiên Cơ tính chất hiếu động càng tăng mạnh đến mức thành “phù động” ý chí vội vã xốc nổi. Bất luận ở Mệnh hay Thiên Di, Cơ Mã đều thành con người lắm nghề và ít khi ở yên một chỗ. Tốt hay xấu? lại còn tùy thuộc những hung cát diệu khác.
    Thiên Mã đứng với Thiên Phủ thì Thiên Phủ vốn tính chất an định. Thiên Phủ có khả năng làm cho Mã bớt “động”. Cho đến khi vận gặp lưu Thiên Mã bấy giờ Mã mới có sức chống lại sự ngăn chặn của Thiên Phủ để tạo nên một thay đổi rõ ràng quyết liệt.
    Đối với các sao khác cũng theo như vậy mà suy đoán. Ngoại trừ Mệnh và Thiên Di, Thiên Mã Lộc Tồn khi chấn đóng ở Tài Bạch hay Điền Trạch cũng mang một ý nghĩa đặc thù. Cung Tài Bạch thấy Lộc Mã rất tốt cho chuyện “động” mà đắc tài, buôn bán phương xa.
    Cung Điền Trạch có Lộc Mã làm ăn kinh doanh về nhà đất nơi phương xa sẽ thành công. Tài Bạch, Điền Trạch theo cổ nhân nếu có Thái Dương Cự Môn phùng Lộc Mã hợp nhất rất thuận lợi cho sự nghiệp buôn bán viễn phương.
    Trường hợp thê cung có Lộc Mã mà Mệnh cung xấu thì vợ sẽ bỏ mình đi lấy người có tiền có địa vị hơn. Thê cung ấy thêm sao Triệt Tuần nữa thì chuyện xảy đến càng mau chóng sớm sủa.
    Lộc Tồn thuộc âm thổ, chủ về tuổi thọ có thể chế được tai ách cho người ta. Lộc Tồn tâm tình chân thực, phản ứng thì mau nhưng khai sáng lại chậm vì có khuynh hướng nặng về bảo thủ, khóa hò đồng. Nhờ Thiên Mã Lộc Tồn mới nhanh chóng mau mắn xông vào bắt cơ hội.
    Lộc Tồn gặp xung phá tất phiền nhiễu ví như ngôi nhà cao vật liệu nặng mà bị địa chấn. Cổ nhân mới bảo “Lộc phùng xung phá cát xứ tàng hung” nghĩa là sao Lộc Tồn mà bị xung phá thì trong tình trạng tốt đẹp có ẩn hung hoạ ghê ghớm. Lộc Tồn Hóa Lộc gặp Không Kiếp Hỏa Linh Hó Kị là dấu hiệu của thất bại sụp đổ, bất an, chìm nổi, ưu phiền lo âu.
    Lộc Tồn Hóa Lộc đóng vào Nô Bộc cung, cổ nhân nói:” Túng hữu tài quan dã bôn trì” nghĩa là dù có tước lộc tiền bạc thì cũng chỉ là ở cái thế tay sai bộ hạ.
    Thiên Mã thuộc dương hỏa, chủ về “động” chuyển dịch, xoay sở. Tính chất hiếu động gặp tốt thành hay, gặp xấu thành dở, hợp với Lộc Tồn, Hóa Lộc. Bị các hung sát tinh đi kèm thành khốn đốn, hư hoại.
    Thiên Mã gặp Đà La gọi bằng triết túc mã (ngựa gẫy chân thích chơi hơn làm). Thiên Mã gặp Hỏa Tinh gọi bằng chiến mã, nếu Mệnh xấu thường hung tử tha hương.
    Thiên Mã rất kị các sao Không Vong (Tuần Triệt) cả đời bôn ba.
    Thiên Mã đứng với Tử Vi Thất Sát ở Tị Hợi gọi bằng Quyền Mã. Thiên Mã đứng với Thiên Tướng Vũ Khúc tại Dần Thân gọi bằng “Tài Ấn Mã”. Thiên Mã gặp Thái Âm cung Hợi gọi bằng Tài Mã, gặp Thái Dương tại Tỵ gọi bằng Quí Mã
    Mã ngộ Hình nhi phùng Thiên Khốc ông hoàn phát võ (Mệnh có Thiên Mã đứng cùng Thiên Hình lại được sao Thiên Khốc vào binh nghiệp thành công)
    Mã Khốc như phùng Hình, Quyền Lộc Ấn tại Quan cung, võ tất thắng ban đệ nhất (Cung Quan Lộc Thiên Mã gặp Thiên Khốc gặp Thiên Hình, Hóa Quyền, Hó Lộc, Quốc Ấn khả dĩ làm to trong binh nghiệp)
    Thiên Mã đóng vào cung Tật Ách cả cuộc đời không bao giờ được nhàn nhã thân tâm, chẳng lo cho mình cũng lo cho người, chẳng chuyện gì cũng gây ra chuyện để mà tất tưởi đôn đáo.

    Những câu phú về Lộc Mã:
    - Lộc Tồn thủ ư Tài Trạch tích ngọc đôi kim
    (Cung Tài, cung Điền có Lộc Tồn thì của cải tích tự)

    - Lộc Tồn Tí Ngọ vị thiên di, Thân Mệnh phùng chí lợi lộc nghi
    (Cung Thiên Di hoặc Mệnh Thân tại Tí hay Ngọ mà có Lộc Tồn thì nhiều bổng lộc)

    - Lộc Tồn hậu trọng đa y lộc
    (Mệnh Lộc Tồn, thân hình đầy đặn tiền bạc sung túc nhất là đối với nữ mạng)

    - Song Lộc thủ Mệnh Lã Hậu chuyên quyền
    (Mệnh có song Lộc, đàn bà lấn lướt chồng như bà Lã Hậu)

    - Minh Lộc ám Lộc vị chí công khanh
    (Lộc toạ Mệnh, Lộc ám củng. Ví dụ Mệnh Dần có Hóa Lộc lại thấy cung Hợi có Lộc Tồn tức ám lộc thì địa vị cao)

    - Song Lộc trùng phùng, chung thân phú quí
    (Mệnh hội tụ hai Lộc suốt đời giàu sang)

    - Lộc Văn củng Mệnh phú nhi thả quí
    (Lộc đi cùng với Xương Khúc hội tụ vào Mệnh, có tiền và địa vị)

    - Lộc hợp uyên ương nhất thế vinh
    (Thân ở Phối cung, hội song Lộc lấy vợ giàu sang hoặc nhờ vợ mà giàu sang
    - Lộc Mã tối hỉ giao trì chúng nhân sủng ái
    (Lộc Mã gặp nhau tại Mệnh cung dễ tạo cảm tình với người chung quanh)

    - Lộc đảo Mã đảo kị Kiếp Không Thái Tuế
    (Mệnh Lộc Mã xung chiếu hoặc Mệnh Mã Lộc xung chiếu mà gặp Kiếp Không Thái Tuế suốt đời bất mãn, công danh trắc trở, tiền nay có mai hết)

    - Lộc Tồn nhập miếu tại hợi cung, chung thân phú túc
    (Lộc Tồn cư Mệnh ở Hợi suốt đời khá giả, với điều kiện không bị xung phá)

    - Hợp Lộc, củng Lộc định vi văn võ toàn tài
    (Lộc thủ, Lộc chiếu không xung phá bởi hung sát tinh, đa tài)

    - Lộc Tồn ngộ Triệt cư huynh đệ nam trưởng bôn ba
    (cung Huynh đệ Lộc Tồn bị Triệt có người anh em bôn ba xứ người, đến vận hạn này thường bị thay đổi thuyên chuyển)

    - Thiên Lộc ngộ Thái Âm ư nhàn cung dị bào huynh đệ
    (Lộc Tồn gặp Thái Âm hãm ở cung Bào thì có anh em cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha)

    - Lộc Tồn Thiên Mã kinh nhân giáp đệ
    (Mệnh Lộc Tồn Thiên Mã là người học hành đỗ đạt cao)

    - Lưỡng Lộc Ngọ Dần nhi phùng Tử Vũ, Đinh Kỷ Âm nam phú đa danh thọ
    (Người tuổi Đinh Kỷ gặp hai Lộc ở Ngọ Dần đi cùng bộ Tử Phủ Vũ Tướng thì giàu và thọ)

    - Thiên Mã nhập Mệnh mẫn tiệp đa năng
    (Mệnh Thiên Mã xoay sở làm việc giỏi)

    - Thiên Mã ngộ Tam Thai anh hùng vô đối
    (Sao Thiên Mã đứng bên Tam Thai vào bất cứ lãnh vục nào cũng giỏi hơn người)

    - Mã ngộ Không Vong chung thân bôn tẩu
    (Thiên Mã bị Tuần Triệp suốt đời vất vả)

    - Mã Bật Kiếp Không hưng thượng quân tử
    (Thiên Mã, Hữu Bật gặp Không Kiếp làm nghề trộm đạo)

    - Lộc Mã giao trì vượng phu ích tử

    - Mã ngộ Khốc nhi phùng Hình Quyền Lộc Ấn tại Quan Lộc võ tất thăng ban đệ nhất, văn hội chuyển đạt tam công
    (Cung quan Lộc thấy Thiên Mã gặp Thiên Khốc, Thiên Hình, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Quốc Ấn theo nghiệp võ hay văn đều đạt địa vị cao)

    - Mã ngộ Thiên hình nhi phùng Thiên Khốc công hoàn phát võ
    (Mã gặp Thiên hình, Thiên khốc vào nghiệp võ phát công danh)

    - Thiên Mã tại Tỵ, thị chiến mã hạnh ngộ Lương Khoa loạn thế xuất đầu
    (Thiên Mã tại Tỵ cùng đứng với Thiên Lương Hóa Khoa gặp thời loạn thành danh)

    - Chích hỏa phần Thiên Mã bất nghi viễn hành
    (Thiên Mã đứng cùng Hỏa Linh đừng nên phiêu lưu đi xa)

    - Mệnh Thân đồng tọa như tại hỏa cung hoặc lâm Hợi địa đồng cung vô chính diệu khưng kiến Mã Hình Linh Kiếp như hoa khai ngộ vũ, mãn thế phi bần tắc yểu
    (Mệnh VCD Thân Mệnh đồng cung đóng Tỵ hợi mà thấy Thiên Mã Linh Tinh Thiên hình Địa Kiếp ví như hoa nở bị cơn mưa lớn, không nghèo thì yểu)

    - Lộc phùng Lương miếu bảo tư tài ích dự tha nhân
    (lộc gặp Thiên Lương miếu địa khéo giữ của thích cho người vay lấy lời)

    - Nữ Mệnh Thiên Mã ngộ Lương Ấm, tiện nhi thả dâm
    (Số nữ Mệnh ở Tỵ Hợi saoThiên Lương thủ mà gặpThiên Mã thì dâm tiện)

    - Song Lộc cư nhi ngộ Cơ Lương phú gia địch quốc
    (Mệnh Song Lộc đứng cùng Cơ Lương đại phú)

    - Lộc Tồn Thiên Mã đồng gia
    Có người buôn một bán ba nên giàu

    - Mã Lộc ấy một phương hội ngộ
    Cách phi thường phong độ anh tài

    - Long đong Đông tẩu Tây trì
    Bởi vì Thiên Mã Thiên Di hãm nhàn
    (Mệnh đóng tại Tỵ, Thiên Mã đối xung từ Hợi thường long đong ngược xuôi)

    - Từ cung Thiên Mã phùng Không
    Gặp sao Phụ Bật một vùng sanh đôi

    - Mã Lộc ngộ tướng mấy ai
    Giàu sang đến trước đấng trai anh hùng

    - Đồng cung Tồn Mã gặp nhau
    Tiền tài vinh hiển ngàn dâu thẳng đường

    - Tử Phù gặp Mã Dần Thân
    Phù dư mã ắt thanh vân lộ đồ

    - Mã ngộ Linh Hỏa miếu cung
    Chiến binh Mã ấy vẫy vùng nơi nơi

    - Tuấn mã Khốc Khách hợp bài
    Ngựa kia có nhạc anh tài lên yên

    - Mã kia sao Tuyệt một nhà
    Cùng đồ mã ấy thật là gian truân.

    - Thiên Hình ngộ Mã chẳng nên
    Phù thi mã ắt tật nguyền chân tay

    - Chiết túc Đà Mã sum vầy
    Tử Mã Tuần Triệt đêm ngày khảm kha

    - Thiên Mã nhập Mệnh ấy ai
    Tài năng mẫn tiệp, người người ngợi ca

    - Tràng sinh Mã Hỉ đồng cung
    Công danh đắc lộ vẫy vùng một phương

    - Phá Quân Tiêu Mã hợp vào
    Ắt người du đãng ai nào dám thân.
    (Phá Quân hãm địa tại Dần Thân đứng với Thiên Riêu, Thiên Mã)

    - Lộc cư Nô Bộc bực mình
    Đông Tây xuôi ngược mới sinh tiền tài

    - Vũ Cơ Lộc Mã Hỉ Hồng
    Hôn nhân vận ấy đèo bồng thất gia

    - Tài buôn bán nhiều bề giỏi dắn
    Mà Mệnh cung Tồn hẳn Thiên Di

    - Tang Môn ngộ Mã đinh ninh
    Mỗi người mỗi xứ gia đình quạnh hiu
    (Thiên Mã vào cung Bào hội Tang Môn)

    - Triệt Tuần ngộ Mã ưu phiền
    Bỏ chồng vợ trốn đến miền xa khơi
    (Mã gặp Triệt Tuần ở Thê)

    - Cơ Lương Lộc Mã ấy ai
    Thạch Sùng kim ốc có sai đâu là

    - Hỉ Thần Hoa Cái yêu vì
    Lộc Mã hội hợp nhiều khi ngoại tài
    (Cung Thiên Di thấy Lộc Mã và Hỉ Thần Hoa Cái thường có tiền đến bất ngờ)

    - Chơi bời du thủy du san
    Thiên Di đảo Mã họp làng kết giao

    - Kình tứ Mộ, Mã triều lai
    Biên cương ắt hẳn ra tài võ công
    (Kình đóng cung quan ở Thìn Tuất Sửu Mùi có Mã chiếu)

    - Quan Lộc Tử, Mã nhất ban
    Khốc Hư Tí Ngọ đồng sảng hoạnh thương
    Mã Lộc Thiên Hỉ thuận đường
    Hoặc là Lộc Mã hợp phường tốt thay.

    - Kình Đà ngộ Mã đã đành
    Là người xuôi ngược để dành chiến công
    (Kình tại Quan Lộc hội chiếu Thiên Mã)

    - Hỏa Linh hợp Mã một nhà
    Hoặc nghề cơ khí hoặc là chở chuyên


    Những câu phú về Lộc Tồn

    - Mệnh Lộc Tồn tại viên khả hưởng tổ nghiệp
    (Lộc Tồn đóng Mệnh cung có thể được hưởng sản nghiệp ông cha)

    - Minh Lộc ám Lộc cẩm thượng thêm hoa
    (Lộc Tồn hay hóa Lộc ở Mệnh có Hóa Lộc hay Lộc Tồn chiếu theo thế nhị hợp như gấm thêm hoa miễn là không gặp Tuần Triệt)

    - Song Lộc ngộ Cơ Lương phú gia kham kỳ
    (Thủ Mệnh Cơ Lương gặp song Lộc giàu có)

    - Lộc Mã tối hỉ giao trì chúng nhân sủng ái
    (Lộc Mã đứng cùng dễ gây thiện cảm với người)

    - Hợp lộc củng Lộc khả thành võ công
    (Mệnh Lộc có Lộc từ cung Thiên Di xung chiếu có thể phát về nghiệp võ)
     
  2. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ HỎA TINH VÀ LINH TINH

    Trong Tử vi đẩu số, Hỏa Tinh với Linh Tinh là hai sát tinh đi cặp như Kình Đà, Không Kiếp. Cả ba cặp sao trên gọi chung bằng “lục sát”. Đôi khi gọi bằng tứ sát, bộ bốn này không có Không Kiếp. Hỏa Tinh, Linh Tinh hiện ra mang đến sự biến động, làm chuyển hẳn một hoàn cảnh khách quan.
    Ảnh hưởng của Hỏa Linh phải kể là nghiêm trọng. Tỉ dụ Mệnh cung VCD, Hỏa Tinh hay Linh Tinh độc thủ thì quan hệ với những người sinh thành không mấy tốt đẹp, hoặc mồi côi hoặc bố mẹ chia lìa, hoặc đi làm con nuôi, hoặc không gần gũi phải ở với ông bà nội ngoại, chú bác cô dì, hoặc như Lã Bố làm con ba họ.
    Trường hợp Hỏa Linh đóng ngay vào Phụ mẫu cung, nhưng chính tinh của cung này tốt lại thấy cả Lộc Mã thì phải đoán rằng thủa nhỏ đi theo bố mẹ đến một dị vực (phương xa) tạo điều biến đổi cho cả cuộc đời về sau (tỉ dụ lần du cư tị nạn sang Mỹ)
    Hỏa với Linh đều chủ về biến động, thứ biến động gay gắt khó khăn chìm nổi. Hỏa với Linh trên biến động lại mang riêng hai trạng thái khác biệt. Cổ nhân viết:”Hỏa minh, Linh ám”. Giả như hỏa Linh mang đến tai họa thì Hỏa rõ ràng khả dĩ nhìn thấy trước mà dự liệu được, nhưng Linh thì bất ngờ và âm thầm.
    Hỏa như sóng dữ nổi trên mặt nước. Linh như ngọn sóng ngầm khó đề phòng. Hỏa Tinh thộc dương hỏa, sao của sát phạt chủ về các việc hung họa. Hỏa Tinh thủ Mệnh tính cứng rắn cương quyết, có quyền uy nhưng rất nóng ngẩy không chịu an hận, không thể thỏa hiệp với hiện thực ưa phiêu lưu và bôn ba.
    Linh Tinh thuộc âm hỏa cũng là sao sát phạt chủ về những việc phá hoại. Linh Tinh lanh lợi và cơ mưu, cao vọng không chấp nhận hiện thực, tâm ý bất thường dễ phản phúc hay tạo những đột biến
    Tỉ dụ như Hỏa Linh vào Điền Trạch đều đưa đến tai hoạ về nhà cửa: cháy nhà, bị đoạt nhà. nếu Hỏa Tinh thì cháy nhà xảy đến bằng tai nạn vô ý. nếu Linh Tinh thì xảy đến bằng có kẻ đốt nhà. Âm mưu đoạt nhà đều vì Linh Tinh chứ không phải do Hỏa Tinh
    Hỏa Linh vào cung Tật Ách thì hỏa bệnh thuộc thực và rõ rệt. Linh Tinh bệnh thuộc hư và âm trầm.
    Hỏa Linh đóng mệnh tuổi trẻ đã ly hương. Ở cung Phụ mẫu, tuổi nhỏ sớm phải xa cha mẹ một thời gian. Ở cung huynh đệ, anh em chia lìa. Ở Phu Thê cung vợ chồng phân tán. Để tìm hiểu cặn kẽ vẫn phải căn cứ vào nguyên tắc “Hỏa minh Linh ám” mà đoán Hỏa và Linh đều rất hợp với sao Tham Lang.
    Tại sao? Vì Hỏa Linh thuộc hỏa mà Tham Lang là Dương Mộc, Mộc sinh Hỏa. Tham Lang có Hỏa hay Linh thêm Lộc Tồn, hoặc Hóa Lộc chủ về hoạnh phát tiền bạc. Nếu thấy cả Không Kiếp chen vào thì bạo phát rồi bạo bại.
    Tham Linh không hay bằng Tham Hỏa. Cổ nhân nói “Tham Linh tịnh thủ tướng chi danh (Tham Lang Linh Tinh đồng cung đác địa làm tướng văn tướng võ) cho người ta cảm tưởng rằng Linh đi với Tham tốt hơn Hỏa đi với Tham
    Thực ra không phải vậy, Hỏa gặp Tham là minh Hỏa, Linh gặp Tham là ám hỏa. Hỏa cần phải sáng sủa, không nên tối ám. Bởi thế khi viết vào chi tiết cổ nhân mới thêm:”Hỏa Tinh mà hội hợp với Tham Lang ở vượng địa chức tới tước hầu và thượng tướng, lập công lớn nếu không bị hung sát phá, tuổi trung niên thành công”
    Còn với Linh Tinh thì cổ nhân viết:”Ngộ Tham Lang tú, quan lộc diệc bất ninh nhược phùng cư vượng địa, phú quí bất khả luận”. Linh và Hỏa đứng với Tham Lang đều đi tới chổ thành đạt phú quí hơn người, nhưng riêng Linh Tinh cổ nhân phê mấy chữ “diệc bất ninh” trong khi với Hỏa tinh thì không phê mấy chữ này. Bất ninh là không yên. Tham Linh thường phải ứng phó với những hoàn cảnh khó khăn hơn Hỏa minh Linh ám càng rõ rệt khi chúng hiện vào các cung tử tức, nô bộc. Cung tử tức không chính tinh Hỏa tinh đơn thủ, nếu đối cung có chính diệu hay thì vẫn sinh con được, không sợ tuyệt tự. Nhưng nếu là Linh Tinh thì bà thứ sinh con cho chứ không phải chính thê.
    Hỏa Tinh đóng nô bộc với Hình Kị thì chỉ bị bộ hạ oán ghét nhưng không mưu hại. Còn bị LinhTinh thì chẳng những căm giận mà còn âm mưu phản bội dẫn họa tới.
    Hỏa Linh đi với Dương Đà lại biến ra những ý nghĩa khác. Kình Dương Đà La đều thuộc Kim. Hỏa Linh thì thuộc Hỏa. Kim có hỏa luyện mới nên thép tốt, vàng y. Kình Dương là dương kim cần dương hỏa hun đúc. Cho nên Kình Dương chỉ tốt khi gặp Hỏa Tinh
    Đà La là âm kim, cần âm hỏa cho nên Đà La chỉ gặp Linh Tinh mới hay. Kết quả khác nhau ở chổ Kình hỏa thì phát mau và rạng rỡ, còn Đà Linh thì phát chậm và âm thầm. Kình gặp Hỏa có quyền đi với chức tước. Đà gặp Linh có quyền nhưng không ở chức vị cao.
    Đà Linh thường là người giỏi về công an mật vụ và không thể thành võ tướng với võ công hiển hách mọi người đều biết. Đà Linh dễ gặp nguy hiểm hơn Kình Hỏa nhưng nguy hiểm qua mưu mô tranh chấp. Kình Hỏa thường nổi bật khi biến động đã hoàn tất.
    Đà Linh thường là người âm thầm hoạt động để dựng nên biến động. Kình đi với Linh hay Đà đi vớiHỏa đều trở thành vô dụng hoặc tác hại.
    Có câu phú rằng “Kình Dương Linh Tinh vi hạ cách (Kình Dương đứng với Linh Tinh là hạ cách). Trong khi Kình Dương đứng bên Hỏa Tinh thì lại có câu phú khác “Dương Hỏa đồng cung uy quyền cuất chúng” (Kình Dương đứng bên Hỏa Tinh thì oai quyền. Dĩ nhiên phải là Kinh Dương đắc địa)
    Hỏa Linh đứng thế hiệp Mệnh, nghĩa là Mệnh cung ở giữa hai phía sát bên là Hỏa Linh. Cách cục này phải kể như xấu, đưa tới hung tọa bất an, cuộc đời bôn ba nếu Mệnh cung chính tinh xấu càng nặng. Trường hợp Mệnh cung Tham Lang độc thủ nơi miếu vượng thì lại là cách hoạnh phát bạo phát. Trường hợp Hỏa Linh hiệp Kình Dương ở Mệnh thì vẫn thành công nhưng cực kỳ gian nan.
    Những câu phú cổ nhân về Hỏa Linh còn thấy:
    - Vũ Khúc Dương Đà kiêm hỏa tú, táng mệnh nhân tài
    (Mệnh hoặc vận hạn có Vũ Khúc Kình Đà Hỏa tinh vì tiền mà tang mạng)

    - Hỏa Linh thủ xung nữ dâm dục
    (Hỏa Linh đóng Mệnh cung hoặc xung chiếu đàn bà đa dâm)

    - Thất Sát LinhTinh trận vong yểu triết
    (Thất Sát gặp LinhTinh số không thọ, thường hung tử)

    - Linh Tinh Phá Quân bôn ba lao bác tài tinh khuynh
    (Linh Tinh Phá Quân hãm cuộc đời long đong vất vả và tiền bạc phá bại)

    - Linh Hỏa Dương Đà thủ Mệnh yêu đã bối khúc chi nhân
    (Tại Mệnh hội tụ Kình Đà Linh Hỏa dễ bị tật như còng lưng)

    - Hỏa Linh tương ngộ nhập miếu danh chấn chư bang
    (Hỏa Linh ở Mệnh nơi miếu địa công danh hiển hách)

    - Linh Tinh toạ Mệnh nhập miếu vũ chức cư đa
    (Linh Xương Đà Vũ hạn ngộ đầu hà)

    - Linh Xương Đà Vũ hạn ngộ đầu hà
    (Vận hạn thấy Linh Tinh hãm gặp Đà La Vũ Khúc hãm hay Văn Xương có thể chết)

    - Hỏa Linh dũ Phá đương Thân, bại điền tài ư tổ nghiệp
    (Hỏa Linh đứng với Phá Quân ở Thân không phải cung Thân thường phá điền tài của tổ nghiệp)

    - Linh Hỏa miếu vi nhân đại dởm
    (Linh Hỏa thủ Mệnh miếu địa là người can trường to gan)

    - Hỏa Linh Dương Đà vi tứ sát đơn phùng Cơ nhi hữu duyên
    (Tứ Sát Hỏa Linh Dương Đà một trong bốn sát ấy gặp Thiên Cơ là người có duyên).

    - Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác tọa, ngộ Kiếp Không Thiên Sứ họa trùng trùng
    (Hỏa Linh ưa gây họa gặp thêm Kiếp Không ở chỗ Thiên Sứ họa còn gấp bội)

    - Linh phùng Sứ, Mã hội Dương Đà hữu tật tứ chi
    (Cung Tật ách nơi sao Thiên Sứ đóng lại thấy cả Dương Đà chân tay có tật)

    - Hỏa Linh hãm ư tử tức đáo lão vô nhị khốc
    (Hỏa Linh hãm vào cung tử tức, hiếm con hoặc lúc già xa con)

    - Linh Hỏa Hình Tang tối hiềm tử tức, hạnh ngộ Nhật Nguyệt tịnh minh lão lai tất hữu
    (Linh Hỏa Hình Tang ở cung con, nếu như có Nhật Nguyệt song hữu thì khi về già cũng có người nối dõi)

    - Hỏa Linh nhập Mệnh miếu, kiến chư cát, lập vũ công
    (Hỏa Tinh hay Linh Tinh miếu địa đóng mệnh gặp thêm các cát tinh lập đựơc võ công)

    - Hỏa Linh tương ngộ nhập miếu danh chấn chư bang
    (Hỏa với Linh đồng cung ở đất miếu danh tiếng khắp nơi)

    - Hỏa Linh hãm hội Dương Đà bảo cưỡng tai thâm.
    (Hỏa Linh ở đất hãm gặp Kình Đà thì lúc nhỏ lắm bệnh tật)

    - Nữ Mệnh Hỏa Tinh tâm độc, nội lang, khắc phu khắc tử
    (Đàn bà Hỏa Tinh thủ mệnh giỏi tháo vát nhưng tâm độc và dữ dằn khắc chồng khắc con)

    - Đà La Hỏa Linh đồng cung giới dịch chi tật
    (Mệnh hay Tật Ách có Đà La Hỏa Linh dễ mắc chứng phong ngứa, sưng gan)

    - Hỏa Linh ngộ hãm Thiên Cơ
    Hẳn trong Mệnh ấy có tà chứ không
    (Hỏa Linh hãm gặp Thiên Cơ hãm, người thật khùng như bị ma làm)

    - Hỏa Linh Trì Mộc sáng soi
    Lánh mình lửa cháy, nước sôi chớ gần

    - Hỏa Linh ngộ Mã oán gia
    Đề phòng hỏa hoạn mới là khỏi tai

    - Linh Tinh Việt Hỏa đoài biên
    Thạch trung hương hỏa thất kiềm sinh tai
    (Linh Tinh, Hỏa Tinh, Thiên Việt ở Dậu dễ bị tai họa về nhà cửa)

    - Kiếp Không da ắt đen hoàn
    Hỏa Linh mặt khó sầu đăm đêm ngày
    (Mệnh Hỏa Linh mặt mày ít tươi tỉnh, thường xấc sược, giận dữ)

    - Đất tứ mộ Linh Tinh Tham Vũ
    Có uy quyền chớ ngộ Kình Dương

    - Tuất Thìn Xương Khúc Đà Linh
    Sát gia Mệnh hạn gieo mình trầm vong

    - Kình Dương Kị Hỏa một bài
    Hãm mà thủ mệnh thật loài ác tinh

    - Dương Linh toạ thủ Mệnh ai
    Lại gặp Bạch Hổ hoạ tai đao hình

    - Linh phùng Sát Phá hạn hành
    Văn Vương xưa cũng giam mình ngục trung

    - Phu cung Riêu Sát Kình Dương
    Hội giao Linh Hỏa gái toan giết chồng

    - Cự Môn Linh Hỏa tương phùng
    Ba lần mối lái chẳng xong mối sầu
    (Linh Hỏa đây đóng vào cung Phu thê)

    - Linh Tinh hà tiện bao nhiêu
    Phá Quân kia lại tiêu liều tiêu vung
    (Linh Tinh ở cung Phu thê có vợ hay chồng hà tiện)

    - Kiếp Không Linh Hỏa xấu xa
    Sinh con lại gặp những lại gặp những tà ác tinh
    (Kiếp Không Linh Hỏa vào tử tức hiếm con, con bất hiếu, bất mục)

    - Bóng tà vẫn kém hào con
    Bởi chưng Linh Hỏa Thái Âm hãm nhàn

    - Hỏa Linh Dương Nhẫn lâm vào
    Có sinh con cũng liệt vào tật thương
    - Thiên Hình giữ của tốt sao
    Linh Tinh hà tiện nên giàu đáng khen
    (Linh Tinh đây ở cung Tài Bạch)

    - Thiên Lương ngộ Hỏa chớ lầm
    Hại người tổn vật mấy lần họa sinh.

    Hỏa Tinh ở Dần Ngọ Tuất là miếu địa. Hỏa Tinh tại Tỵ Dậu Sửu là đắc địa. Hỏa Tinh vào Hợi Mão Mùi là lợi địa. Hỏa Tinh đứng Thân Tí Thìn là hãm địa.

    Linh Tinh đóng Dần Ngọ Tuất, Thìn, Tỵ, Mùi là miếu địa. Linh Tinh hãm ở Tý Hợi Dậu Sửu
     
  3. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ KÌNH DƯƠNG ĐÀ LA

    Kình Dương, Đà La trong khoa Tử Vi là hai sát tinh đi đôi như Linh Hỏa, cùng với Linh Hỏa thành bộ “tứ sát”. Nhưng Kình Đà có nhiều khác biệt với Hỏa Linh. Hỏa Linh mang đến phiền nhiễu, Kình Đà đem lại tổn thất.
    Khi hội tụ đủ bộ tứ sát lại đoán khác và gặp Địa Không Địa Kiếp lại đoán khác. Kình Dương hóa khí là “Hình”, Đà La hoá khí là “Kỵ”. Hình từ Kình Dương biểu hiện sự phá hoại lực, có thể gây ra thất bại, có thể gây ra thị phi sau khi đã thành công. Kỵ từ Đà La biểu hiện ngăn trở trì trệ, có thể tạo nên những khó khăn bất ngờ, có thể khiến cho đương sự vào mê hồn trận. Phá hoại lực của Kình Dương thường rõ ràng dễ nhận thấy. Ngăn trở trì trệ của Đà La thường ngấm ngầm quỷ quyệt.
    Kình Dương phá hãm ví như một chân tiểu nhân. Đà La phá hãm ví như ngụy quân tử. Bởi vậy khi Kình Dương hội Hỏa Tinh gây thành sức mạnh phản kháng như cách “Mã đầu đới tiễn” nơi cung Ngọ, vượt qua những khó khăn gian tân mà đến với thành công.
    Nhưng nếu Đà La hội với Hỏa Tinh lại thành ra thứ trở ngại không vượt được rồi thất bại. Hung họa đến từ Kình Đà xem như thế còn tùy thuộc vị trí chúng đứng và hội tụ với sao nào để mà tìm ra đầy đủ ý nghĩa.
    Kình Dương là một tình trạng phát triển thái quá. Còn mang tên gọi khác là “dương nhẫn” đầu mũi gươm xung kích tiền phong. Kình Dương vào Mệnh làm việc xông xáo, không do dự, đã quyết thì làm. Sở đoản của Kình Dương là khó tiếp thụ ý kiến người khác, hiếu thắng, cao ngạo, ăn nói sắc nhọn dễ gây thù oán. Khuynh hướng cực đoan, tình cảm yêu với hận rõ ràng ân với oán phân minh.
    Đà La ngược lại, làm việc âm thầm, gan góc, tiến chậm nhưng không ngừng tiến, không vội vã nhưng không phải không có phản ứng mau. Thường nuốt để bụng và cực kỳ cố chấp, khả năng nhẫn nại cao
    Đến đây ta hãy bàn về vị trí của sao Kình Dương. Kình Dương bao giờ cũng đứng trước Lộc Tồn gọi bằng Tiền Kình Hậu Đà. Không thể đặt ngược vị trí của nó thành Tiền đà Hậu Kình
    Như trên đã nói Dương nhẫn là một tình trạng phát triển cao độ. Giáp Lộc đóng Dần thì sự phát trểin cao độ của Giáp Mộc phải vào mộc cung là Mão. Bính Hỏa Lộc tại Tỵ thì tình trạng phát triển mạnh cũng phải ở nơi cung hỏa Dương nhẫn tất phải đóng Ngọ.
    Ất mộc Lộc tại Mão thì dương nhẫn Thìn là thủy mộc khố. Đinh Kỷ Lộc ở Ngọ thì Dương nhẫn đóng Mùi hỏa khố. Tân kim Lộc tại Dậu thì Dương nhẫn đóng Tuất kim khố…
    Sách Tinh Bình Hội Hải viết “Giáp Lộc đáo Dần, Mão vi Dương nhẫn, Ất Lộc đáo Mão, Thìn vi Dương nhẫn…” Lộc tiền nhất vi vi “Nhẫn” vi vạn vật chi lý giai ố cực thịnh. Lộc quá Nhẫn sinh công thành đương thoái, bật thoái tắc quá việt kỳ nhân (Nghĩa là trước Lộc Tồn một cung là Dương nhẫn bởi lẽ cái lý của vạn vật không thuận được với tình trạng thái qua, Lộc lên cực điểm thành hoại, công thành rồi hay từ tồn lại, cứ tiếp tục quá khích tất sẽ bại.
    Ở số Tử Bình không có sao Đà La, nhưng Dương nhẫn rất quan trọng. Tử vi căn cứ vào lý luận trên, không cách gì mà đổi ra tiền Đà hậu Kình, đổi như vậy lý ngũ hành mất đất đứng.
    Lấy trường hợp tuổi Bính Mậu có Đồng Âm tọa thủ tại Mệnh, Đồng Âm ấy được Kình Dương mới hay, nếu như lại sao Đà La nằm chềnh ềch ở đây thật khôi hài. Câu phú Thiên Đồng Thái Âm cư Ngọ vị, Bính Mậu trấn ngự biên cương. Phải tiền Kình tuổi Bính Mậu mới có Dương nhẫn tại Ngọ được.
    Kình Dương đắc địa thủ Mệnh thân tài chắc chắn, xương lớn nhưng không lộ cốt. Kình Dương hãm thân tài gầy guộc xương lộ da như cam sành. Kình Dương hợp với các cung mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) vì mộ cung có khả năng thuần hóa được tính phát triển quá mức dủa sao này. Kình dương ở mộ tuy đắc địa nhưng vẫn phải có cuộc đời phiêu lưu bôn ba ly hương và xa cách người thân.
    Kình Dương đóng vào tứ bại địa (Tí Ngọ Mão Dậu) nếu không kết hợp thành một cách riêng biệt như hội hợp với Đồng Âm, tính chất hình khắc nặng hơn, đáng ngại nhất là Dậu rồi đến Mão.
    Riêng với nữ Mệnh có Kình Dương dù miếu địa cũng phải xem là “mỹ trung bất túc” vì nữ mệnh đều an định êm đềm trong đời là chủ yếu. Kình Dương gặp Nhật Nguyệt trai khắc vợ, gái khắc chồng. Kình Dương gặp Liêm Trinh Hỏa Tinh ắt có ám tật hoặc tứ chi bị thương.
    Sách vở Trung Quốc có mấy câu đáng để ta suy ngẩm: Thiên Tứơng hãm phùng Dương Mẫn, nữ nhân thi lụy nghĩa là nam mạng Thiên Tướng đóng hãm địa gặp sao Kình Dương thường bị đàn bà làm khổ (vì tình mà khổ). Hồng Loan Dương Nhẫn vì tình đoạn trường nghĩa là số gái Hồng Loan gặp Kình Dương dễ đi vào cảnh buồn đoạn trường vì tình.
    Đà La thủ Mệnh biểu hiện qua đôi mắt lớn, lồi, đắc địa ánh mắt từ tường, hãm ánh mắt mờ đục, răng dễ bị hư nếu vào hãm địa. Đà La đắc địa ở các cung mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) làm việc giỏi dắn, dám làm và thành công.
    Đà La hãm nơi Dần Thân Tỵ Hợi tính giảo quyệt ưa phá hoại, cô đơn. Đà đắc địa tứ mộ can đảm thâm trầm, lắm mưu mô thủ đoạn.
    Đà la gặp Riêu Cái Tuế ở Mệnh có tật nói ngọng, nóilắp. Đà hãm gặp Linh hỏa Không Kiếp Kỵ Hình, đau yếu tật nguyền dễ lâm vào cùng khốn.
    Đà La Kình Dương hội Thất Sát thường gặp tai hoạ lớn. Đà gặp Thiên hình ở vận hạn đưa đến kiện tụng, ẩu đả. Đà gặp Hỏa ở vận hạn đau ốm. Đà gặp Thiên Mã tại Mệnh rất không ngoan nhưng cũng rất mưu mô.
    Đà La Sửu Mùi tốt nhất, thứ đến Mùi, Thìn vượng địa, Tuất bình hòa. Đà La hội với Tham Lang dễ biến thành con người ham mê chơi bời rượu chè.
    Đà La gặp Hỏa Tinh hay bị thương tật hoặc bệnh lâu không khỏi. Đà La Mệnh, Kình Dương Thân thì hình khắc dữ dội hơn nữa
    Đà La vào Tật ách có bệnh phổi, xuất huyết ở phổi, mặt có sẹo, tê thấp, bệnh ngứa làm lột da. Kình Đà vào cung Tật ách của số nữ phải để phòng bệnh bướu tử cung đưa đến giải phẩu
    Kình với Đà kể về mặt hung họa tác hại ngang nhau. Nhưng với Kình thì rõ rệt, mọi người có thể biết. Còn với Đà La thì ngấm ngầm ít ai hay. Đó là điểm khác biệt giữa Kình với Đà cũng như “Hỏa Minh Linh Ám” vậy.
    Đà La đứng bên Tham Lang khi Tham Lang ở cách ‘phiếm thủy đào hoa” tức Tham Lang đóng Hợi có thể đưa đến tình trạng “mê hoa luyến tửu dĩ vong nhân” chết vì trác táng do nghèo hay bệnh.
    Đà La đứng với Tham Lang ở Dần cách gọi bằng “phong lưu thái trượng” lại là con người hào hoa phong nhã dễ bị lừa gạt bởi đam mê, không trác táng. Cách “phiếm thủy đào hoa” với “phong lưu thái trượng” khác nhau như vậy.
    Kình Đà có một cách nhất định gây họa hại, ấy là khi Lộc Tồn đứng với hóa Kị, đương nhiên Kình Đà hiệp Mệnh, cổ nhân gọi bằng cách Kình Đà hiệp Kị. Cách này đưa đến cái họa bần bệnh giao gia (vì bệnh tật mà nghèo túng, đã nghèo túng còn bệnh tật). Sao Lộc Tồn đứng với Hóa Kị như thế thật xấu.
    Kình Đà cũng không hợp với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc, nhưng Kình Đà mà hiệp sao Thiên Tướng hạm thì họa hại mạnh hơn hết. Cách Tham Hỏa là cách tốt nhưng có Đà Kình vào hỏng đi.
    Cự Môn Kình Dương không hại lắm, hể có thêm Hỏa Tinh vào thì phiền. Nhưng Kình đắc địa đứng với Hỏa lại hay.
    Ngoài ra không phải cứ thấy Kình Đà xuất hiện là tuyệt đối xấu. Kình Đà hung hiểm nhưng mặt khác nó cũng tạo nên điều cát lợi mạnh mẽ không kém
    Đà La đứng với sao Thái Âm tại Mệnh, số nữ tính dục cực vượng thịnh đến mức loại dâm bất kể Thái Âm đắc địa hay hãm địa. Trường hợp hãm thì loạn kèm theo tiện, trường hợp đắc sang trọng phong lưu
    Có một thuyết cho rằng Kình Dương tượng trưng bộ sinh thực khí của đàn ông và Đà La tượng trưng bộ sinh thực khí của đàn bà. Từ thuyết này mà Thái Âm Đà La mới loạn dâm, ý chí sức mạnh tình dục lên đến cực điểm. Cổ nhân không nhắc đến sự kiện Kình Dương gặp sao nào thì sức mạnh tình dục vượng, dĩ nhiên không phải là Thái Dương rồi.
    Qua kinh nghiệm cho thấy Kình Đà vào Mệnh cung thường là con người thông minh. Kình Đà đi cùng Xương Khúc khiến cho cái chất văn của Xương Khúc tăng lên gấp bội. Như vậy thì Kình Đà liên quan tới sức mạnh tình dục là đúng.
    Qua phân tâm học của Frued thì sức mạnh tình dục (pulsion sexuelle) đưa lên cao thành văn chương, đẩy xuống thấp thành trác táng, truy hoan. Đà La đứng cùng Thiên Hình Đào Hoa vì tình mà mang họa cũng là bởi sự liên quan đến tình dục nói trên.
    Kình Đà còn một cách cục khác mà sách Tử Vi Đẩu Số không nói riêng ra là: Kình Dương độc thủ và Đà La độc thủ. Mệnh không có chính tinh (mệnh vô chính diệu) có Đà Kình tọa thủ là Kình Đà độc thủ.
    Kình Dương độc thủ có thể ở Tí Ngọ Mão Dậu có thể ở Thìn Tuất Sửu Mùi. Kình Dương độc thủ chỉ tốt khi nó đứng ở Thìn Tuất Sửu Mùi và Sửu Mùi đẹp hơn Thìn Tuất, còn Tí Ngọ Mão Dậu kể là xấu gây hung họa.
    Kình Dương độc thủ vào số trai hợp cách hơn số nữ. Đà La độc thủ vào số nữ hợp cách hơn số trai. Tuy nhiên số nữ mà Kình Đà độc thủ theo quan niệm của người xưa đều không coi như một cách cục tốt đẹp. Thời bây giờ thân phận nữ đã khác đi nhiều thì Đà La độc thủ được kể như cách cục hay nhưng không xem là tốt .
    Tại sao hay mà không tốt? Hay chỉ khả năng giỏi dắn, thành công khi toan tính việc gì. Nhưng không tốt vì cuộc sống bôn ba thăng trầm gay go quyết liệt, thiếu an định êm đềm. Kình Dương độc thủ với nam mạng hễ đã thành công lớn vượt thiên hạ, nhưng lúc chưa đạt vất vả và gian lao cũng dữ dội. Kình Dương độc thủ vào binh nghiệp, kinh doanh lớn, chính trị để sáng tạo sự nghiệp.
    Đà La độc thủ với nam mạng đắc địa sự thành công thường không qua chánh đạo mà hễ đã bại thì xuống đến tận cùng, cơ sự nghiệp mất, thanh danh cũng tiêu luôn. Trong khi Kình Dương độc thủ có bại vẫn giữ được danh thơm.
    Số nữ Đà La độc thủ đắc địa có thể thành công to, nhưng tình duyên dang dở, bất mãn và luôn luôn là con người cô đơn vì quá giảo quyệt nên bị xa lánh. Đà La độc thủ chỉ tốt khi đứng cung Thìn Tuất Sửu Mùi, độc thủ Dần Thân Tỵ Hợi kể như xấu.

    Những câu phú về Kình Dương Đà La:
    - Kình Dương cư Tí Ngọ Mão Dậu hãm địa, tác họa hưng ương hình khắc thậm
    (Kình Dương đóng Tí Ngọ Mão Dậu gây ra tai họa hình khắc)

    - Kình Dương nhập miếu gia cát, phú quí thanh dương
    (Kình Dương miếu địa gặp cát tinh, giàu sang dương thanh)

    - Kình Dương Hỏa Tinh hãm vi hạ cách
    (Kình Dương đứng cùng Hỏa Tinh ở hãm địa là hạ cách)

    - Kình Dương thủ mệnh, Thất Sát Phá Quân xung chủ hình khắc

    - Dương Đà Hỏa Linh phùng cát phát, hung tắc kị
    (Dương Đà Hỏa Linh với cát tinh phấn phát thêm hung tinh rất xấu)

    - Kình Dương đối thủ tại Dậu cung, tuế điệt Dương Đà Canh mệnh hung
    (Kình Dương đóng Thiên Di, gặp hạn lưu Kình Đà người tuổi Canh nguy biến)

    - Dương Đà hiệp Kị vi bại cục
    (Kình Dương Đà La hiệp Hóa Kị là cách thất bại)

    - Kình Dương trùng phùng lưu niên, Tây Thi vẫn mệnh
    (Kình Dương mệnh gặp lưu niên hạn Kình Dương Tây Thi uổng mạng)

    - Dương cư Đoài Chấn, lục Mậu lục Giáp phúc nan toàn
    (Kình Dương xung chiếu Mệnh tư Dậu hoặc Mão, người tuổi Mậu Giáp cuộc đời lắm tai ương)

    - Kình Dương gặp Âm Đồng (Tí hay Ngọ) thêm Phượng Các, Giải Thần uy danh lừng lẫy

    - Dương Đà Quan Phủ ư hãm địa loạn thuyết chi nhân
    (Mệnh có Kình Đà hãm địa đứng bên Quan Phủ ưa nói bậy, nói quá kỳ thực, nói lung tung)

    - Dương Linh tọa mệnh, lưu niên Bạch Hổ tai thương
    (Mệnh Kình Dương Linh Tinh, vận lưu niên gặp Bạch Hổ tai họa)

    - Thân nội Tuế phùng Đà Kị mạc đạo phồn hoa
    (cung Thân có Thái Tuế đi với Đà La Hóa Kị là người thô lỗ quê mùa)

    - Tật Ách kiêu Đà Nhẫn phản mục tật sầu
    (cung Tật Ách bị Kình Đà dễ đau mắt)

    - Đà La lâm phụ vi, bất tu Quả Tú diệc tăng bi
    (Phu cung xuất hiện sao Đà hãm không cần Quả Tú cũng thành chia xa)

    - Mệnh Dương Đà gia Kiếp thọ giảm
    (Mệnh Kình Đà thêm Địa Kiếp không thọ hung)

    - Kình Hư Tuế Khách gia lâm, mãn thế đa phùng tang sự
    (Mệnh Kình Dương, Thái Tuế, Điếu Khách hội tụ cuộc đời lắm tang tóc buồn rầu)

    - Luận Mệnh tất suy tính thiện ác
    Cự Phá Kình Dương tính tất cương
    (Cự Môn Kình Dương, Phá Quân Kình Dương tính tình cứng rắn)

    - Dương Nhẫn bất nghi Nhật Nguyệt bệnh tật triền miên
    (Kình Dương gặp Nhật Nguyệt lâm bệnh trong người hoặc có bệnh lưu cứu không khỏi)

    - Riêu Đà Kị kế giao họa vô đơn chí
    (Mệnh hội tụ Diêu, Đà, Kị lận đận tai ương hoài)

    - Đà Kị Nhẫn thủ ư Phu vị
    Hại chồng con chước quỉ ghê thay

    - Dương Hình Riêu Sát cung Phu
    Lại gia Linh Hỏa vợ lo giết chồng

    - Dương Đà bệnh ấy phòng mòn
    Tuế Đà vạ miệng xuất ngôn chiêu hiềm

    - Đà ngộ Kị chẳng lành con mắt
    Kỵ phùng Dương mắt hẳn thanh manh

    - Đà Không lâm thủ Điền Tài
    Luận rằng số ấy sinh lai nghèo hèn

    - Dương Nhẫn phùng Tuyệt Linh chốn hãm
    Công cù lao bú mớm như không
    (Cung Tử Tức có Tuyệt Linh Tinh và Dương Nhẫn, khó nuôi con, hoặc con cái có cũng bằng không)

    - Kình Riêu Hoa Cái Thai Đà
    Vận phùng năm ấy đậu hoa phải phòng

    - Tứ hung ngộ quí nơi Thân Dậu
    Đến Phật Đài cầu đảo mới xong
    (Vận đến Dậu Kình Đà Hỏa Linh gặp Tử Vi, Thiên Phủ phải làm việc thiện để mà tránh tai họa)

    - Đào Hồng mặt mũi xinh tươi
    Kỵ, Hình, Đà, Nhẫn là người tật thương

    - Thái Dương đóng chốn thủy cung
    Gặp Kình hay Kỵ yểu vong hoặc mù
    (Thái Dương ở Hợi Tí Kị Hình. Theo kinh nghiệm thì chỉ bị tật ở mắt, mắt kéo màng, chứ không phải yểu vong với mù)

    - Hỏa Dương Tham Tướng Tị cung
    Hoặc là tứ mộ nổi danh tướng tài

    - Sát Phá Liêm Tham lâm vào
    Kình Đà Kị ấy trách nào bạo hung

    - Ngọ cung tam Hóa hợp Kình
    Người sinh Bính Mậu biên đình nổi danh

    - Dương Linh thủ Mệnh mấy ai
    Lại gặp Bạch Hổ họa tai đao hình

    - Kị Đà Thái Tuế họp bài
    Cảnh đời nào được mấy người thong dong

    - Tuế Đà Cự Kị vận nghèo
    Một thân xuống thác lên đèo chẳng yên

    - Kiếp Không Hình Kị Đà Dương
    Gian nan bệnh tật mọi đường khảm kha.

    - Phủ Đà Tuế đóng Tỵ cung
    Cuồng ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày

    - Hình Kình cư Ngọ đồng gia
    Sát Kiếp lại chiếu ắt là ngục trung

    - Thìn Tuất Thất Sát xem qua
    Hình Kình hội ngộ ắt là đảo điên

    - Nguyệt hãm Đà Hổ Tuế xung
    Hại thay điềm mẹ thoát vòng trần gian

    - Dương Đà Thất Sát phải hay
    Chiếu thủ Thân Mệnh tháng ngày khổ đau
    (Tâm tư không mấy vui, bi quan)

    - Mấy người đông tẩu tây trì
    Phá Quân Thiên Việt hợp về Kình Dương

    - Thất Sát hãm thật đáng kinh
    Vận niên gặp phải lưu Kình sợ thay

    - Kỵ Liêm Phá Vũ xấu xa
    Giáp cùng Không Kiếp Kình Đà sao nên

    - Hóa Kị thi rớt lắm khi
    Dương phùng Kiếp Sát học gì cho xong

    - Đà Tham tửu sắc la đà.
    Tuế Đà miệng lưỡi ắt là sai ngoa
    (Đà La Tham Lang vào Thê ăn chơi. Tuế Đà vào Thê cung vợ chua ngoa)

    - Dương Đà Kỵ Nhật Nguyệt xung
    Chim cưu thói ấy vợ chồng chán nhau
    (Dương Đà Kị vào cung Phối vợ chồng khó ăn ở trọn vẹn)

    - Kình Dương mà gặp Thiên Hư
    Hữu sinh vô dưỡng âu lo một đời
    (Kình Dương Thiên Hư ở cung tử tức)

    - Kình Đà Không Kiếp Khốc Hư
    Sinh con điếc lác ngẩn ngơ thêm buồn

    - Đà Không nghèo khó tai ương
    Lưỡng hao tài tán bốn phương thêm phiền
    (Đà La Thiên Không ở cung Tài Bạch)

    - Đà La độc thủ tốt sao
    Phúc cung chánh diệu đệ bào tiệm hưng
    (Đà La độc thủ ở cung Huynh Đệ không bị các hung sát tinh khác)

    - Đà La Không Kiếp án ngăn
    Đẹp gì trong họ ắt rằng suy hao
    Hỏa Linh hình khắc cô đơn
    Kình Đà cha mẹ cùng con bất đồng
    (Kình Đà đóng vào cung Phụ Mẫu mà là Kình Đà hãm địa)

    - Kình Dương Tham Lang đồng cung tại Ngọ thủ mệnh uy chấn biên cương
    (Kình Tham đóng Ngọ có quyền có thế)

    - Kình Dương Nhật Nguyệt đồng cung nam khắc thê nhi nữ khắc phu
    (Kình Dương đứng cùng Thái Âm Thái Dương, trai khắc vợ gái khắc chồng)

    - Kình Dương Mão Dậu thủ Mệnh yểu triết hình thương
    (Mệnh đóng Dậu Mão có Kình Dương thủ hay bị tai nạn)

    - Kình Dương thủ mệnh, Hóa Kị Kiếp Không xung phá ly tổ khắc thân
    (Kình Dương thủ Mệnh nơi đất hãm gặp Kị Hỏa Linh xung phá lưu lạc cô đơn)

    - Kình Đà Linh Hỏa phùng cát phát tài, hung tắc kị
    (Kình Đà Linh Hỏa đắc địa, gặp sao tốt thì phát bị hung lại kém hay)

    - Kình Dương trùng phùng lưu niên hung
    (Kình Dương ở đại hạn, lưu niên gặp Kình Dương là hung)

    - Đà La hội Nhật Nguyệt Kị tinh nam nữ đa khắc, hữu mục tật
    (Đà La đứng với Hóa Kị và Nhật Nguyệt khắc vợ khắc chồng, bị tật nơi mắt)

    - Đà La hãm hội Cự Môn Thất Sát hình khắc lục thân
    (Đà La đóng hãm cung gặp Cự Môn Thất Sát khó gần người thân)
     
  4. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ ĐỊA KHÔNG ĐỊA KIẾP

    Không Kiếp tên gọi tắt của hai sao Địa Không Địa Kiếp. Có người cho rằng Địa làm sao Không, vậy thì Thiên Không Địa Kiếp đi một cặp. Lý luận này sai vì Thiên Không là một sao riêng biệt. Địa Không Địa Kiếp là một cặp.
    Thiên Không so với Địa Không nhu hòa hơn và có tác dụng khác hẳn. Tính chất Địa Không theo cổ nhân viết: ”Tác sự hư không, bất thành chính đạo thành bại đa đoan” (làm việc coi thường, không theo chánh đạo, thành bại theo nhau)
    Nói tóm lại Địa Không chẳng làm điều gì phải, với Địa Kiếp cổ nhân viết “Tác sự cơ cuồng” (làm việc bừa bãi)
    Thực tế kinh nghiệm cho thấy Không Kiếp không hẳn như những lời phê trên đây. Không Kiếp phải tùy thuộc chính tinh chúng đi cùng để mà luận đoàn.
    Có rất nhiều trường hợp nhờ Không Kiếp mà tốt, biến ra một cách cục kỳ lạ. Tỉ dụ: Thái Dương Thiên Lương gặp sao Xương Khúc Không Kiếp phải đoán là con người có tư tưởng mới lạ, táo bạo nhưng vững vàng, thànhc ông qua nghiên cứu học thuật, đem những điều tân kỳ cho tư tưởng nếp nghĩ. Vậy thì Không Kiếp đâu có xấu.
    Cổ nhân ngại Không Kiếp bởi lẽ Không Kiếp ưa làm đảo lộn, đột biến không hợp với xã hội bảo thủ nền nếp. Nhưng hiện tại xã hội luôn luôn chuyển dịch, bảo thủ an định có nghĩa là không phát triển thành trưởng, Không Kiếp hẳn nhiên khả dĩ mang đến lợi ích để thoái khỏi tình trạng thiếu tiến bộ
    Địa Không thuộc âm hỏa chủ về phiêu lưu mạo hiểm, lên thác xuống ghềnh. Tâm tính bất định, thích biến đổi, đôi lúc mơ tưởng đến mức ảo tưởng, thích khác người, không chấp nhận ý nghĩ gì được coi làm khuôn vàng thước ngọc sẵn sàng dấn thân, chấp nhận gian khổ.
    Địa Kiếp thuộc Dương hỏa chủ bôn ba, lúc cát lúc hung. Tính tình ngoan cố, cô độc, hỉ nộ vô thường, dám làm dám hành động không do dự và toàn làm những ivệc trái khoáy không cần biết thành hay bại, thành thì vui, bại không buồn.
    Không Kiếp đều khởi từ cung Hợi mà tính đi để đặt định vị trí. Địa Kiếp theo chiều thuận. Địa Không theo chiều nghịch. Hợi là giờ cuối cùng của một này. Tới Hợi là thời gian của ngày hôm ấy chấm dứt mọi sự mọi vật đều thành bảo ảnh, thành không hư. Không Kiếp tự chỗ không hư ấy mà dấy lên.
    Hợi cung thuộc thủy. Không Kiếp thuộc hỏa. Thủy chủ trí, hỏa cùng chủ trí. Thủy Hỏa giao chiến tất cả đều hủy diệt thành Không, đều hết Kiếp để chuyển hoán thành một tình thế mới tuyệt đối. Nếu không xong thì Kiếp Không qui ẩn tu hành như Chiêu Lý Phạm Thái sau khi thất bại với mưu đồ phù Lê, sau khi Tương Quỳnh Như đã chết
    Không Kiếp là hai sao của thành bại, chứ không phải chỉ có bại thôi. Câu phú:”Mệnh lý phùng Không Kiếp, bất phiêu lưu tất chủ bần khổ” sai, chỉ luận đoán mới có một chiều
    Địa Không tác sự hư không, hư không đây là thái độ chống đối phủ định ẩn chứa cái can trường muốn thay cũ, đổi mới, mưu vọng này phần bại nhiều hơn phần thắng là lý đương nhiên. Thời xưa quyền lực bảo thủ cực mạnh, không ưa tư tưởng hay hành động có tính cách chống lại truyền thống cho nên nhìn Địa Không bằng con mắt hiềm thù bảo là tác sự hư không
    Địa Kiếp tác sự sơ cuồng, hành động của con người không câu nệ tiểu thuyết, tư tưởng đi ngược với trào lưu thời thượng, dĩ nhiên quyền lực bảo thủ không mấy bằng lòng mà gọi bằng sơ cuồng điên điên chẳng ra đâu vào đâu
    Như vậy những hình dung gán cho Không Kiếp “hư không” và “sơ cuồng” ta nên hiểu theo cái nghĩa “phản truyền thống”, “phản trào lưu” của những hành động không thích ứng với xã hội đã thiết lập trật tự đâu vào đó.
    Người có tư tưởng triết học, có khí chất nghệ thuật ngay cả những người trong lĩnh vực khoa học nếu có được Không Kiếp mới thành công đến mức sáng tạo.
    Những luận bàn về Tử vi đời nhà Thanh đưa ra thuyết :” Kim Không tắc minh, Hỏa Không tắc phát” nghĩa là Kim gặp Không như chuông đồng rỗng tạo âm thanh, Hỏa gặp Không như lửa được dưỡng khí bốc cháy mạnh. Thuyết này không xuất hiện vào đời Minh. Có thể nó xuất phát từ thời kỳ động loạn của Minh mạt chăng?
    Kim có người cho rằng Kim tứ cục và Hỏa là Hỏa lục cục. Không đúng. Các nhà Tử vi đời Thanh muốn nói về những sao Kim Hỏa gặp Địa Không đó.
    Như Vũ Khúc, Thất Sát thuộc Kim hội với Địa Không thường là những số mạng cuộc đời gian khổ cuối cùng thành đạt phấn phát.
    Như Liêm Trinh, Thái Dương, Thất Sát (Thất Sát vừa Hỏa vừa Kim) gặp Địa Không do nhẫn nại phấn đấu mà nên công
    Chỉ nói ngộ “Không” tắc minh, tắc phát không nói đến ngộ Kiếp, rõ ràng Địa Kiếp không cùng một tác dụng ảnh hưởng như Địa Không. Điều trên cũng chứng minh rằng cuộc đời nhiều lúc bị tỏa triết, bị đẩy vào chỗ cùng cực đến phải thay đổi lại thành hay về sau, như thi không đậu rồi đi lính mà nên tướng nên tá
    Về Địa Kiếp có những trường hợp nó rất hợp với Tham Lang Hỏa Tinh. Địa Kiếp đem đến biến động đảo lộn để Tham Linh ứng phó mà phấn phát, hoặc Tham Hỏa cũng thế. Đừng câu nệ hay thành kiến, cứ thấy Không Kiếp là đã mang ngay ấn tượng không tốt. Một trường hợp khá đặc biệt: Phúc Đức có Không Kiếp mà Mệnh cung Tham Hỏa hay Tham Linh vẫn kể làm số phát mau
    Không Kiếp đồng cung hay Không Kiếp hội tụ vào Mệnh, hay Không Kiếp giáp Mệnh ảnh hưởng ngang nhau về tốt xấu
    Câu phú Không Kiếp giáp Mệnh vi bại cục không nhất định là với số nào cũng đúng. Câu phú “Sinh lai bần tiện Không Kiếp lâm Tài Phúc chi hưởng” không nhất định với số nào cũng thế. Tuy nhiên Tài Bạch mà bị Kiếp Không thì thật hiếm trường hợp tốt vì tính chất keo bẩn.
    Địa Không Địa Kiếp có ba thế: a) Đồng cung b)giáp c)hiệp. Không Kiếp đồng cung chỉ thấy ở Tỵ hay Hợi, còn giáp hiệp thì ở mọi chỗ.
    Có câu phú:”Không Kiếp Tỵ hợi phản vi giai luận nghĩa là Mệnh có Không Kiếp kể là tốt. Tốt mức nào còn tùy chúng hội hợp với những chính tinh nào? Kiếp Không thường ăn ý với hung tinh hơn cát tinh.
    Qua kinh nghiệm rồi qua chứng dẫn sách vỡ, nhiều trường hợp hai sao Liêm Trinh Tham Lang ở Hợi hay Tỵ mà đứng cùng Không Kiếp rất thành công khi vào lĩnh vực nghệ thuật. Liêm Tham vốn là hai sao đào hoa, Tham là chính đào hoa, Liêm là phó đào hoa, trong khi Không Kiếp lại biểu tượng cho những tư tưởng khác lạ mà nên vậy. Nhưng Thiên Riêu, đào hoa, Mộc Dục mà đứng với Không Kiếp lại không biến hoá như trên
    Xin nhắc lại Không Kiếp tuy hơi giống nhau trên tính chất, nhưng có một điểm khác khá tinh tế ấy là : Địa Kiếp chủ về phản trào lưu, Địa Không chủ về phản truyền thống; Địa Không dễ được tiếp thu hơn Địa Kiếp.
    Riêng với nữ mệnh mà bị Không Kiếp, nếu đứng trên quan niệm Nữ chủ an định thì Không Kiếp thành phiền vì Không Kiếp vốn gây sự điêu linh do chất phản trào lưu, phản truyền thống ít hợp với đời sống nữ.
    Không Kiếp Tỵ Hợi gặp Tướng Mã và hóa Khoa là người can trường, có mưu cơ, công danh càng tốt vào đất loạn thời loạn, Không Kiếp Dần Thân cũng tương tự nhưng không bằng Tỵ Hợi
    Không Kiếp Dần Thân gặp Tử Phủ tất làm hại Tử Phù. Không Kiếp đứng cùng Tả Hữu ở Mệnh, tâm ý thích lừa gạt. Không Kiếp hãm gặp Hỏa Linh Tuế Kị dễ bị trộm cướp. Không Kiếp Hồng Đào vào số nữ thường gian truân với duyên tình.
    Không Kiếp đứng với Hóa Quyền trắc trở công danh. Tại sao đứng với Hóa Quyền lại vậy. Vì tính chất của Hóa Quyền là tích cực và ổn định. Ở đâu có Hóa Quyền thì tính tích cực và ổn định tăng cao. Tính chấp Không Kiếp ngược lại làm thành sự mâu thuẫn với Hóa Quyền.
    Dưới đây là những câu phú nói về Địa Không Địa Kiếp:
    - Địa Kiếp độc thủ thị kỳ phi nhân
    (Mệnh Địa Kiếp đứng một mình luôn luôn cho ý mình là phải. Địa Kiếp độc thủ làm tăng tính phản trào lưu đến mức quá lạm mà nên thế)

    - Dần Thân Không Kiếp nhi ngộ quí tinh thăng trầm vô độ
    (Mệnh Dần Thân Không Kiếp thủ chiếu đứng cùng với cát tinh như Tử Phủ Đồng Lương Khôi Việt, Xương Khúc thường lên voi xuống chó)

    - Tỵ Hợi Kiếp Không nhi phùng Quyền Lộc hoạnh đạt tung hoành
    (Kiếp Không Tỵ Hợi có Quyền Lộc tài giỏi nghênh ngang nhưng cũng lại rất bôn ba, mau phát mau tàn chóng)

    - Sinh sứ Kiếp Không thủ Mệnh do như bán thiên triết sỉ
    (Kiếp Không thủ Mệnh ở Tỵ Hợi Dần Thân là nơi của sao Tràng sinh lên như diều gặp gió, xuống như chúi vào bùn đen).

    - Kiếp Cơ ngộ Hỏa tất ngộ hỏa tai
    (Mệnh Thiên Cơ Địa Kiếp gặp Hỏa Tinh xung chiếu hoặc đồng cung hay gặp hỏa hoạn)

    - Nhan Hồi yểu tư do hữu Kiếp Không Đào Hồng Đà Linh tọa thủ
    (Thầy Nhan Hồi chết yểu chỉ vì Mệnh có Kiếp Không Đà Linh toạ thủ. Số thầy Nhan Hồi làm sao mà biết chính xác thế. Chẳng qua chỉ mượn cái chết yểu của một người tương đối tiếng tăm để đặt cách cho các sao thôi, vì vậy cũng có câu khác:”Căn Xương hãm ư Thiên thương Nhan Hồi yểu triết”)

    - Kiếp Không Phục Binh phùng Dương nhẫn lột thượng kiếp đồ
    (Mệnh Kiếp Không Phục Binh Kình Dương làm côn đồ kẻ cướp)

    - Địa Kiếp chi đan tâm phương lẫm
    (Địa Kiếp thủ Mệnh với nhiều quí tinh thì lòng dạ sắt son, với thị kỷ phi nhân gần nhau, lòng dạ sắt son đôi lúc cũng vì thị kỷ mà ra)

    - Mệnh cung ngộ Kiếp Tham lãng lý hành thuyền
    (Mệnh Địa Kiếp đứng cùng Tham Lang cuộc đời nổi trôi bất định. Kiếp Tham Ngọ Tí Mão Dậu không phải là Tỵ Hợi)

    - Mệnh Không Thân Kiếp lại hội song Hao ư chính diệu, thiểu học đa thành mạc ngộ Phúc Âm, Hao tinh niên thọ nan cầu vượng hưởng
    (Mệnh Không Thân Kiếp thêm song Hao mà Mệnh không chính tinh thì học giỏi. Nhưng Mệnh Không Thân Kiếp lại tối kị gặp Đồng Lương. Phá Quân hãm thì khó thọ)

    - Mệnh Thân dù có lâm Không Kiếp
    Gia Triệt Tuần chẳng khiếp tai nguy.

    - Kiếp Không Hình Kỵ Đà Dương
    Gian nan bệnh tật mọi đường lo âu

    - Tử cung Không Kiếp trùng gia
    Binh phùng huyết tán, thai bảo phù hoa
    (Cung tử tức có Không Kiếp khó khăn khi sanhnở)

    - Phúc cung hãm ngộ Kiếp Không
    Họ hàng lắm kẻ hành hung ở ngoài

    - Kiếp Không tan sạch ra tro
    Đề phòng kẻo phải lộ đồ nam kha
    (Vận hạn gặp Kiếp Không hãm phải thận trọng không thì bao thành quả đã tạo dựng mất mát hát)

    - Phu Thê Không Kiếp trùng xung
    Trải hai ba bộ mới xong cửa nhà.

    - Kiếp Không ai nấy khá ngừa
    Lâm vào huynh đệ đơn sơ một mình
    (Thiếu anh em hoặc xa cách anh em)

    - Đà La Địa Kiếp chiếu phương
    Gặp Hỏa Linh nạn bất tường chẳng sai

    - Tử phùng Không Kiếp hiển gian
    Hoặc là tứ sát trong làng gian phi

    - Không Kiếp Tỵ Hợi đồng sang
    Công danh hoạnh phát phải tường cơ vi

    - Mấy người thu ấn triệt hồi
    Bởi sao Không Kiếp đứng ngồi không yên

    - Cung Quan mừng được Đào Hồng
    Thiên di tối kị Kiếp Không lâm vài

    - Kìa ai tiền phú hậu bần
    Bởi chưng Không Kiếp chiếu tuấn vận sau

    - Đất Tí Ngọ Sửu Thân bó Lộc
    Hội Kiếp Không là gốc tàn suy

    - Lộc ngộ Không Kiếp đồng qui
    Cũng là vô dụng hóa vi cơ hàn.

    - Tuế ngộ Không Kiếp vận suy
    Cứu tinh Mệnh có Tử Vi mới lành

    - Hồng Đào Không Kiếp đồng danh
    Ấy phương yểu tử đã dành một hai
    (Hồng với Kiếp Không khó công danh phú quí. Đào Hoa Không Kiếp lận đận tình duyên không phải yểu tử)

    - Quyền Hao Không Kiếp chớ màng
    Kẻ trên biếm loại khỏi đàng công danh

    - Địa Kiếp với Hồng sanh phu vị
    Cung Mệnh hay duyên ấy trăm năm

    - Mệnh xấu duyên dứt tơ tằm
    Sinh ly sẽ định loan phòng mười năm

    - Triệt Tuần Không Kiếp giao lâm
    Mối mang dang dở ba lần mới nên
    (Triệt Tuần Không Kiếp vào cung phối)

    - Thiên Di Không Kiếp khốn sao
    Hồn qui dặm liễu gặp nào người thân.

    - Không Kiếp Thiên Tướng gian truân
    Khoa tinh niên thiếu giữ tuần đăng khoa
    (Đây là Không Kiếp đóng cung Quan Lộc cùng với Thiên Tướng)

    Qua những câu phú, qua những luận bàn của sách vở thì Không Kiếp chỉ tốt khi đóng đúng cách và hội hợp đúng cách mệnh cung, còn đóng các cung khác Tài quan Thê Tử Phúc và hiện lên qua vận hạn hoặc giáp hiệp thì không mấy tốt đẹp
     
  5. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO THIÊN KHÔNG

    Thiên Không bị kể vào hàng tạp diệu (sao cấp ba) nhưng tác dụng của nó vào số lại mang nhiều kỳ bí. So với Địa Không cùng một tính chất Không nhưng nhu hòa và mềm dẻo, uyển chuyển và thủ đoạn hơn.
    Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có ghi một câu ở mục Thái Vi phú chú giải: “Không vong định yêu đắc dụng, Thiên Không tối vi khẩn yếu” nghĩa là tác dụng không vong mạnh hơn hết là Thiên Không. Nhưng trong Bí kinh lại ghi mấy câu:
    Giá tiền nhất vị thị Thiên Không
    Thân Mệnh nguyên thị bất khả phùng
    Nhị chủ Lộc Tồn nhược phùng thủ
    Diêm Vương bất phạ, hưu anh hùng
    Nghĩa là: trước Thái Tuế một cung là Thiên Không, Thân với Mệnh không nên gặp nó. Tử Vi Thiên Phủ hay Lộc Tồn mà gặp Thiên Không thì kể như đi vào đất chết.
    “Thân Mệnh nhược phùng tứ Không. Phi tăng tất đạo. Tứ không giả: Thiên Không, Triệt Không, Địa Không, Tuần Không” nghĩa là:
    Thân với Mệnh không nên hội bốn Không. Bốn Không gồm có: Thiên Không, Triệt Không, Tuần Không và Địa Không, nếu gặp chúng thì chẳng đi tu cũng cô đơn khốn cùng.
    Những lời phê trên về tứ Không là võ đoán không đúng và mang tính cách trói voi bỏ rọ. Các sao trong Tử Vi khoa không nông cạn xốc nổi như thế qua những luận về Không Kiếp đã chứng minh rồi. Bây giờ ta đi vào ý nghĩa biến ảo của Thiên Không.
    Thiên Không là “mục không nhất thiết” theo lời giải của Vương Đình Chi. “Mục không nhất thiết” nghĩa là không màng chuyện đời hoặc không coi chuyện đời ra gì nhưng khi đảo ngược lại thật tha thiết với chuyện đời để chuyển thành thủ đoạn mưu chước.
    Thiên Không có lúc đại lượng vô cùng với tấm lòng mở rộng như hang núi, lại có lúc chặt chẽ chu mật đáng sợ như hai mặt của đồng tiền. Thiên Không cũng mang căn bệnh nặng là ưa thiên về ảo tưởng. Đại lượng, mưu chước hay ảo tưởng tùy thuộc khi nó đi cặp với sao nào.
    Khi Thiên Không đứng cùng với Hồng Loan thì tính chất không màng chuyện đời tăng đến mức tuyệt đỉnh, muốn tìm nơi vắng vẻ mà tu ẩn, hoặc một mình sống với nội tâm mình, đóng cửa đọc sách, thích sống cô quạnh hoặc cũng tự đặt mình vào tình cảnh cô quạnh ấy.
    Nhưng lúc Thiên Không đứng với Đào Hoa thì khác hẳn, có nhiều suy tính kế mưu. Trường hợp Thiên Không hội hợp cả Đào lẫn Hồng thì sao? Thì cuộc đời sau khi phấn đấu hăng say rồi chán mà qui ẩn hoặc ngay cả đang khi làm việc mà tâm tư vẫn u uất quạnh hiu. Thiên Không đứng với Hồng Đào mang cả Nho lẫn Đạo ở trong người.
    Thiên Không gặp Thiên Tướng đắc địa là kẻ có quyền uy trên võ nghiệp với khả năng quân sự hơn người.
    Câu phú: “Thiên Không thủ ư Thân Mệnh, chủ nhân tác sự hư không, bất thành chính đạo, thành bại đa đoan, bất tụ tài” nghĩa là: sao Thiên Không đóng tại Mệnh Thân cung con người làm việc khó hiểu, không theo chánh đạo nên thành bại nhiều lần, tiền tài không tụ.
    Căn cứ nghĩa của câu phú trên đây thấy rõ bản chất mưu lược kế sách của Thiên Không, vậy thì chất “mục không nhất thiết” phải có hai mặt chính phản, không chỉ phiến diện. Gặp Thiên Tướng thành mưu lược, đứng cùng Đào Hoa thành thủ đoạn.
    Thiên Không không ồn ào như Không Kiếp và biết tiến thoái hơn Không Kiếp ở điểm “tác sự hư không bất thành chính đạo”. Người Mệnh có Thiên Không khó hiểu hơn Mệnh Không Kiếp.
    Có câu phú thường thấy ở bất cứ sách Tử Vi nào là: “Kiếp Không hạn lâm Sở Vương táng quốc Lục Châu vong” và “Hạng Vũ anh hùng, hạn chí Thiên Không nhi táng quốc”. Hai câu nói về lý do Hạng Vũ thất bại vì hạn gặp Không. Câu trên nói Kiếp Không, câu dưới nói rõ Thiên Không. Vậy thì Kiếp Không có thể là Địa Không chứ không phải Thiên Không. Tuy hai câu khác nhau nhưng khả dĩ kết luận hễ vận hạn gặp Không thì Không nào cũng gây khó khăn cả.


    Vài điểm cần chú ý:
    a. Thiên Cơ Cự Môn thủ Mệnh hay Thiên Đồng Thiên Lương đóng Mệnh, gặp Hỏa Tinh (Cơ Cự) gặp Thiên Mã (Đồng Lương) không nên có Thiên Không. Thiên Không ở các trường hợp trên thêm chất phù động thiếu thực tế.
    b. Mệnh Xương Khúc, Hoa Cái mà gặp Thiên Không thì tính chất ảo tưởng trở thành tư tưởng triết lý
    c. Tham Lang đóng Tí gặp Thiên Không số nữ tình duyên rắc rối vì thiếu chuyên nhất. Cự Môn đóng Sửu Hợi gặp Thiên Không lận đận công danh

    Sau đây là những câu phú liên quan đến Thiên Không:
    - Thiên Không liệt ư Mệnh viên chung thân phong hoa ách
    (Mệnh gặp Thiên Không suốt đời vướng tai ách về trai gái. Phải chăng là Thiên Không đứng cùng với Hồng Loan thì vậy?)

    - Mệnh Không, hạn Không vô cát tấu công danh tắng đằng
    (Mệnh Không lại đến hạn Không mà thiếu hẳn các sao tốt ắt công danh lận đận)

    - Thiên Không, Hóa Kị tối Quan cung, nhi phùng Âm Dương phản bối công danh vãn tuế tất thành
    (Thiên Không Hóa Kị gây phiền khi vào cung Quan Lộc, nhưng nếu chúng gặp Nhật Nguyệt hãm thì về già lại thành công thành danh. Không Kị ở đây đã làm đảo lộn tình trạng phản bối của Thái Âm, Thái Dương)

    - Thìn Tuất Tướng ngộ Thiên Không
    Cát tinh gia hội uy trong quyền ngoài

    - Việt Đà tiếng nói khoan thai
    Đồng Không Hư Nhẫn lắm lời thị phi

    - Mệnh vô chính diệu tam Không
    Nhật Nguyệt giao chiếu dự phần công danh

    - Sinh lại đoán hãy khắc xung
    Hễ là Địa Kiếp Thiên Không chẳng nhiều
    (cung bào huynh thấy Địa Kiếp Thiên Không thì ít anh em)

    - Tứ Không ngộ Mã chẳng bàn
    Có chồng còn bỏ theo làng bướm hoa
    (Một trong bốn sao Không xuất hiện ở cung Phối mà gặp Thiên Mã)


    LUẬN VỀ TUẦN TRIỆT

    Tuần với Triệt đều có chung một tác động gọi bằng không vong, gọi tắt là Triệt Không và Tuần Không, mà nguyên tên là Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong. Tuần và Triệt khi chấn đóng đều đứng liền hai cung.
    Với Triệt không thì cung dương là chính và cung âm là phụ với người tuổi dương can. Với người tuổi âm can thì cung âm là chính và cung dương là phụ. Chính thì tác động mạnh hơn, phụ tác động yếu hơn.
    Bản chất Triệt không gồm có không hư và ảo tưởng giống như Thiên Địa Không. Nhưng nó còn mang đến những chướng ngại đột nhiên, điểm này mới là chủ yếu; gọi bằng Triệt lộ ví như người đang đi đường mà đường bị sụt xuống hoặc có núi lở ngăn chặn Triệt mất đường đi lối về.
    Triệt gây hại nhất đối với Lộc Mã, mệnh có Lộc Mã hoặc vận có Lộc Mã mà gặp Triệt thì kể như không Lộc Mã. Triệt có thêm lưu niên Triệt nữa chứ không chỉ có Triệt đóng chết trên lá số.
    Thường thấy phổ biến lý luận rằng sau ba mươi tuổi thì ảnh hưởng Triệt không còn. Chẳng có gì để chứng minh điều này là đúng. Qua kinh nghiệm thì bất cứ lúc nào Triệt cũng gây hại hoặc làm cho đỡ hại trước hay sau ba mươi gì cũng như nhau. Có thể suy ra rằng sau ba mươi tuổi tác đã chín chắn, có phần nào kinh lịch thì sự tai hại bớt đi chăng?
    Luận cứ Triệt đáo kim cung sẽ giúp cho những sao ở hai cung này tốt đẹp hơn không đúng. Cung Thân (Kim) mà có Lộc Mã bị Triệt vẫn bị hỏng như thường.
    Triệt kị nhất đối với sao Thiên Tướng rồi mới đến Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Thiên Lương, nói chung thì Triệt hãm hại cát tinh nhiều hơn hung tinh. Mệnh Thiên Tướng gặp Triệt dễ bị tai nạn lớn nguy hại cho tính mạng, càng đắc địa càng nặng. Có câu ca rằng:
    Thiên Tướng miếu địa gặp ngay
    Triệt Không án ngữ thân nay khó toàn
    Hoặc vì súng đạn đao gươm
    Tứ chi đầu mặt tật thương đó mà
    Triệt chỉ đem lại lợi ích khi nó gặp Thái Âm, Thái Dương hãm, như Âm ở Dần Mão Thìn Tỵ, Dương ở Dậu Tuất Hợi Tí; hoặc nó gặp các hung sát tinh bất lợi cho Mệnh cho vận.
    Sách Tử Vi Đẩu Số tinh diệu tổng đàm viết: Mệnh Thiên Đồng Thiên Lương đứng cùng Hóa Kị mà gặp Triệt Không án ngữ thành ra người tuyệt đối chủ quan.
    Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư không nói gì đến cách Mệnh Vô Chính Diệu gặp Triệt Tuần Thiên Địa Không tức tam Không hoặc tứ Không, nhưng tập Thần Kế Định Số của Lê Quí Đôn thì có đề cập đến ảnh hưởng tốt của Triệt khi vào cung Mệnh VCD qua các câu phú:
    - Mệnh vô chính diệu hoan ngộ tam Không hữu song Lộc phú quí khả kì
    (Mệnh không có chính tinh rất mừng có tam Không giàu sang khi có cả song Lộc)

    - Mệnh Triệt Thân Tuần tu cần vô hữu chính tinh vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi
    (Mệnh bị Tuần, Thân gặp Triệt được Mệnh không chính tinh lúc vào luống tuổi đời mới tốt đẹp)
    Trở lại với sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư ta thấy lời chú ghi bên dưới câu phú về Thiên Không như sau: “Mệnh cung Kim Không tắc phát nhị hạn nên gặp phúc, nếu Thủy Không sẽ lan tràn ngập lụt, Mộc Không ắt là gẫy đổ, Thổ Không thì đất sụt”
    Phải chăng Triệt đáo kim cung và Tuần cư hỏa địa căn cứ vào câu phú trên đây? Nó đòi hỏi phải Mệnh vô chính diệu mới thật toàn bích? Nếu vậy thì Mệnh VCD chỉ ở cung Kim cung Hỏa mới hay?
    Nói sang Tuần Không toàn danh của nó là Tuần trung không vong. Tuần cũng phân ra chính với phụ như Triệt. Tuần sức công phá của tính chất “triệt lộ” không bằng Triệt, bởi vậy Thiên Tướng sợ Triệt gây nguy hại hơn Tuần. Triệt phá hoại đột nhiên từ hoàn cảnh. Tuần lại trễ nải tự nơi mình. Cho nên mới có cái cách Thìn Tuất Phá ngộ Tuần Khoa lại nên hay. Nhờ Tuần khiến tự mình sửa lại cho ngay ngắn bản chất xông xáo bừa bãi của Phá Quân. Sự khác biệt căn bản giữa Tuần với Triệt là thế.
    Nói tóm lại Tuần công phá nhẹ hơn Triệt chứ không phải Tuần kéo dài sự phá hoại còn Triệt thì sau ba chục tuổi thì hả hơi đi.
    Về tính không tưởng, ảo tưởng, Tuần Triệt kém Thiên Không ở điểm: Thiên Không khi thành tư tưởng triết lý có thế hệ tổ chức hơn Tuần Triệt. Tuần Triệt tư tưởng triết chỉ đột nhiên thôi. Bởi vậy Thiên Không gặp Xương Khúc hay hơn Xương Khúc bị Tuần Triệt.
    Sao rất kị với Triệt khác là Thiên Mã. Thiên Mã ngộ Triệt gọi bằng Triệt túc Mã, ngựa gẫy chân. Mã đứng với Lộc bị Triệt làm ăn thất bại. Mã đứng một mình không cần Lộc dễ bị té ngã thương tích (đã bàn đến luận ở Lộc Mã)

    Tìm hiểu thêm về Tuần Triệt qua các câu phú:
    - Tam Không độc thủ phú quí nan toàn
    (Mệnh vô chính diệu chỉ có tam Không mà thiếu Khoa Quyền Lộc Lộc Tồn thì giàu sang không lâu bền)

    - Tuần Triệt ngộ Thiên Hình tha hương cách lý
    (Mệnh có Tuần Triệt gặp sao Thiên Hình thường xa quê hương bản quán)

    - Tuần Triệt bất khả ngộ Lộc Tồn tư cơ phá hoại
    (Tuần Triệt không nên gặp Lộc Tồn cơ nghiệp không giữ được)

    - Tuần Triệt án ngữ trạch điền
    Tư cơ cha mẹ không truyền đến cho

    - Tam không hội Văn Xương ư thê cung thiềm cung triết quế
    (cung thê không chính tinh có Văn Xương với tam Không thì lấy vợ con nhà danh giá)

    - Triệt Tuần ngộ Mã hành thê vị
    Vợ bỏ chồng đào tị tha hương

    - Cung huynh đệ Triệt Tuần xung củng
    Chim đầu đàn bay bổng xa khơi

    - Tam Không chiếu hội tao cát diệu
    Lại dưỡng tinh có đạo con nuôi
    (cung tử tức không chính tinh gặp tam Không và sao Dưỡng)

    - Không phùng Phá Tử phối vào
    Vợ chồng trắc trở ba tao mới thành
    (Cung Phu Thê có Tử Phá bị Tuần Triệt)

    - Triệt Tuần xung khắc chẳng sai
    Thiên Hư bất chính cả hai vợ chồng

    - Phúc hữu chính tinh kị ngộ Triệt Tuần hoặc gia sát diệu lai ngộ Kiếp Cự thủy nịch tử
    (Cung Phúc sao chính sợ gặp Triệt Tuần lại thêm Kiếp Cự dễ chết đuối)

    - Tam Không xung sát hạnh Triệt khả bằng
    Tứ chính giao phùng kị Tuần trực đối
    (Vận hạn bị các hung sát chiếu mà cung vận hạn có Triệt sẽ đỡ, vận hạn có nhiều sao tốt chiếu mà cung vận hạn có Tuần trở thành vô ích)

    - Thân cư Thê vị, Triệt Tuần lai xâm thiếu niên ai lệ nãi thất tình
    Gia lâm cát tú lương duyên mãn kiếp
    (Thân đóng Thê bị Tuần Triệt tuổi trẻ thất tình, có cát tinh phò trợ thì luống tuổi được duyên lành)

    - Thân cư Quan Lộc nhược kiến Triệt Tuần Kiếp Kị nam nhân phong vân vị tế, hựu phùng cát diệu vũ lộ thừa ân khả dãi quá trung tuần dĩ hậu
    (Thân đóng cung Quan Lộc bị Triệt Tuần Kiếp Kị tuổi trẻ danh phận bôn ba, có cát tinh hội tụ ngoài tuổi năm mươi mới được hưởng ơn mưa móc)

    - Thân tại Quan cung gia sát diệu Triệt Tuần, nữ mệnh nan bảo thân danh
    Gia kiến Bạch Tang thân cô trích ảnh, nghi gia vãn tuế tất thành
    (Thân đóng Quan Lộc gặp sát tinh và Triệt Tuần, số gái khó bảo toàn danh tiết lại thêm Bạch Hổ Tang Môn thì cô đơn phải muộn tuổi mới lấy chồng)


    - Triết túc Đà Mã sum vầy
    Tử Mã Tuần Triệt đêm ngày khảm kha
    (Mã bị Tuần Triệt là ngựa chết cuộc đời khảm kha)

    - Mệnh vô chính diệu tam Không
    Nhật Nguyệt giao chiếu dự phần công khanh

    - Cái ngộ Mộc gái nào đoan chính
    Mã gặp Không thì tính tang bồng
    (Triệt Không và Địa Kiếp)

    - Tam Không ngộ Dưỡng đinh ninh
    Nuôi con nghĩa tử giúp mình yên vui

    - Dưỡng Thai Triệt Vượng thấu vào
    Trong anh em có dị bào chẳng không

    - Tang Môn Hư Khốc chẳng hay
    Tuần Triệt viễn phối họa may mới thành
    (Đây là những sao đóng ở cung Phu Thê)
     
  6. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ LONG TRÌ PHƯỢNG CÁC

    Trong Tử Vi khoa, hai sao Long Trì Phượng Các đi song song như Tả Hữu, Xương Khúc, Kiếp Không, Quang Quí, Thai Phụ…
    Giống như Xương Khúc về tính chất tương đồng lại có sự khác biệt. Cả Long lẫn Phượng đều chủ về tài nghệ nhưng Long Trì nặng chất “nghệ” hơn bởi vậy khi Vũ Khúc đứng với Long Trì thường là tay thợ giỏi.
    Trên mặt khác Long Trì giỏi võ và Phượng Các giỏi văn. Trường hợp Long Phượng đồng cung ở Sửu Mùi thì văn vũ kiêm tư. Văn hay vũ hay nghệ còn tùy thuộc chủ tinh mà chúng đứng cùng
    Long Trì thuộc dương thủy còn Phượng Các thuộc dương thổ. Phượng Các chủ “tài”, Long Trì chủ “nghệ”. Phượng Các một mình đứng với Thiên Tài, Xương Khúc, hợp cùng Hóa Khoa rất tốt.
    Long Phượng cùng đứng theo thế hiệp giáp làm thành con người thông tuệ. Long Phượng cũng đem cho nữ mạng nhan sắc phong thái diễm lệ yêu kiều và uy nghi. Long Phượng đứng với Khôi Việt Xương Khúc khiến nam mạng thành tài trí thông minh có tiếng tăm.
    Long Phượng đi cùng những sao Liêm Trinh, Tham Lang, Đào Hoa thì chế giảm bớt tính trăng hoa. Long Phượng vào vận hạn chủ về tin vui, cưới hỏi, tài lộc, mưu sự
    Long Phượng gặp Diêu Hỉ càng tăng thêm điều vui. Long Phượng gặp Hoa Cái, Bạch Hổ làm thành bộ “tứ linh” có nhiều may mắn thành tựu.
    Long Trì hội Thai Phụ dễ thăng chức, gặp Mã Sinh Vượng đẻ con. Riêng Long Trì hội Không Kiếp hay Mộc Dục thì đề phòng sông nước gây tai nạn hoặc thành ra băng huyết cho nữ mạng. Trong khi Phượng Các mà hội Không Kiếp lại thường bị người oán trách cừu hận.
    Sách Tử Vi Đẩu Số Tinh Diệu Tổng Đàm viết: “Tại Tật Ách cung mà Thất Sát đứng với Long Trì thì bị chứng âm hư, tai điếc, cũng cung này Thất Sát Phá Quân gặp Phượng Các thì lo bệnh nơi con mắt”
    Những câu phú về Long Trì Phượng Các:
    - Nữ Mệnh Long Phượng ôn lương
    (Số nữ có Long Phượng tính tình ôn lương)

    - Nữ Mệnh Long Phượng dị đắc quí nhân phối
    (Mệnh nữ có Long Phượng dễ lấy chồng sang quí)

    - Phượng hàm Thư nhi phùng Nhật Nguyệt, tam kỳ lai nhập tử
    Sinh nam tất uy bá quyền danh, nữ tất danh đằng xương vũ
    (cung Tử Tức có Phượng Các đứng với Tấu Thư, Nhật Nguyệt và Tam Hóa đẻ con trai nên danh phận, con gái tăm tiếng trên nghệ thuật)

    - Long Phượng giáp Quan, thân cư cẩm thất
    (Cung Quan giáp Long Phượng là người có chức tước)

    - Mệnh Quan nhi giáp Phượng Long thanh danh sủng ái
    (Cung Mệnh cung Quan giáp Long Phượng thường được đời nghe danh và mến chuộng)

    - Phượng Long Tả Hữu Mệnh viên chung thân phú quí
    (Mệnh có Tả Hữu Long Phượng lúc nào cũng sang cả)

    - Phượng Long Mão Dậu ấy ai
    Trước sau vinh hiển trong ngoài nổi danh

    - Long Trì Phượng Các gồm hai
    Đoài Đông Phụ Bật mấy ai một chồng
    (Cung Phu có Long Phượng Phụ Bật số nữ khó lòng một đời chồng)

    - Phượng Long Mão Dậu đôi miền
    Vượng thì kim bảng chiếm tên ở đầu

    - Phượng Long nhan sắc dịu dàng
    Khúc Xương Tả Hữu ấy làng tài hoa
    (đây là nói về cung Phối ngẫu)
    - Khúc Xương Long Phượng phát văn
    Vũ Tham Sát Phá lại rằng võ công

    - Tứ Linh Cái Hổ Phượng Long
    Công danh quyền thế lẫy lừng một phen

    - Giáp Long giáp Phượng đôi nơi
    Tả Hữu Thai Tọa lầu đài thiếu niên

    LUẬN VỀ ẤN QUANG THIÊN QUÍ
    Ấn Quang Thiên Quí là hai tạp diệu.Quang thuộc Mộc, Quí thuộc Thủy. Quang Quí gần với Long Phượng ở điểm thông minh, đem tin mừng và giải trừ bớt cái nguy về bệnh là điểm khác với Long Phượng.
    Ấn Quang theo cổ nghĩa là ân huệ đặc biệt. Ngày xưa chế độ thi cử cứ ba năm một lần thi hội, ba năm một lần thi hương. Bất chợt có một khoá đặc biệt gọi bằng “ân khoa”. Như vậy sao Ấn Quang chủ về sự đỗ đạt ân sủng thuộc quí chứ không phải phú. Ấn Quang cần Xương Khúc Khôi Việt đi bên mới hay. Vận gặp Thiên Khôi Ấn Quang lại thêm cả Lộc Tồn Hóa Lộc thì nhờ quí nhân đề bạt mà có tiền tài.
    Thiên Quí đem đến cả quí lẫn phú. Nó hợp với Văn Xương nhất, thứ nhì mới tới Văn Khúc rồi sau là Khôi Việt, tăng gia khả năng thông tuệ. Thiên Quí vào Thê cung nhờ vợ mà được chức. Thiên Quí hợp Thái Âm và sợ Thái Dương hãm. Còn Ấn Quang ngược lại hợp Thái Dương và sợ Thái Âm hãm. Trường hợp cả Âm lẫn Dương hội lại cùng Quang Quí Khôi Việt thì lại chuyển thành cách rất tốt, tay trắng nên công danh phú quí.
    Luận cứ cho rằng Quang Quí cũng như Long Phượng khả dĩ giải được tính trăng hoa của Đào Hoa, Thiên Riêu là sai. Trái ngược hẳn, nữ Mệnh đã có đào hoa tinh rồi còn gặp Quang Quí thì tính hư ngụy phù hoa quan hệ với nhiều người đàn ông. Chỉ có những kĩ nữ mới quen thuộc các đại quan quí nhân (tức Ấn Quang Thiên Quí đó). Quang Quí gặp Thai Phụ, Phong Cáo gọi bằng cách “tứ vinh” càng hanh thông trên hoạn lộ.
    Quang Quí đứng với Tả Hữu, Thanh Long, Khôi Việt, Hoa Cái, Hồng Loan tại Mệnh hoặc chiếu rất tốt cho cả nam mạng lẫn nữ mạng.
    Quí Ân Thanh Việt Cái Hồng
    Trai cận cửu trùng gái tác cung phi
    (Cung phi là nói về địa vị sang cả, chứ không phải cứ cung phi là tốt. Cung phi trong Cung oán ngâm khúc chỉ là một thứ nô lệ thời phong kiến)
    Quang Quí đóng hai cung Sửu Mùi thật đẹp, nếu Mệnh hay Quan mà gặp được thì công danh thi cữ dễ dàng.
    Quí Ân Mùi Sửu hạn cầu
    Đường mây gặp bước ân sâu cửu trùng
    Quang Quí gặp Đào Hồng ở cung Điền Trạch thường có may thừa kế di sản, ruộng vườn
    Quí Ân ngộ Đào Hồng Điền Trạch
    Cô dì lưu tài bạch ruộng nương

    LUẬN VỀ THAI PHỤ PHONG CÁO
    Thai Phụ Phong Cáo có tác dụng vào mệnh số giống như Tả Phụ, Hữu Bật. Có Tả Hữu còn thêm Thai Phong càng đắc lực. Nhưng chỉ Thai Phong thôi mà thiếu Tả Hữu thì Thai Phong là hư sức bề ngoài có khi còn thành dương dương tự đắc và vô dụng.
    Thai Phụ cũng hay khi gặp Khôi Việt, Xương Khúc, Hóa Khoa trợ lực cho chuyện thi cử, cũng hợp cả với Tử Vi, Thái Dương Thiên Lương.Thai Phụ gặp các sao thuộc phú cách thì đỡ giàu bẩn. Thai Phụ Phong Cáo đi với các đào hoa tinh tạo ảnh hưởng làm dáng làm điệu.
    Sách Phi Tinh Đẩu Số viết: Thai Phụ thuộc dương thổ là sao đài các, Phong Cáo thuộc âm thổ là sao hư trương
    Hai sao này tuyệt đối phải dựa vào những sao khác, đứng chơ vơ là hết tồn tại

    LUẬN VỀ THIÊN QUAN THIÊN PHÚC
    Thiên Quan Thiên Phúc cộng với Thiên Tài Thiên Thọ gọi bằng “tứ thiện diệu” (bốn sao thiện). Tứ thiện diệu mang bốn tác dụng: Phúc, Lộc, Thọ và Tài Hoa. Thiên Quan là sao về quí nên cần hội với Tử Vi, Thái Dương, Thiên Lương nhất là Thiên Quan đứng gần các sao tiền tài, trước có tiền sau nên danh, kiểu giàu có rồi ứng cử dân biểu nghị sĩ chẳng hạn.
    Thiên Quan gặp Xương Khúc, Hóa Khoa học giỏi nổi tiếng. Nói tóm lại Thiên Quan đóng vai phụ giúp cho những quí tinh đã sẵn sàng thành công.
    Thiên Phúc chủ phúc cho nên đóng cung Phúc Đức tốt nhất khiến tinh thần thư thái, tâm ý hoan lạc, không quan hoài đến giàu nghèo, tiền bạc nhiều ít. Giàu mà đau ốm, giàu mà không vui không hạnh phúc kể như “phú ốc bần nhân” (nhà giàu người nghèo). Khi cung Phúc Đức gặp Thiên Phúc nhiều khó khăn trên tinh thần cuộc sống được giải cứu.
    Thiên Phúc rất hợp với sao Thiên Đồng. Thiên Đồng bị Hóa Kị nhờ Thiên Phúc đỡ giảm nhẹ phiền não. Thiên Đồng cùng Thiên Phúc cuộc đời không tai nạn họa hại.
    Thiên Phúc đứng với Tham Lang Hóa Lộc lại thành con người thiên về lối sống vật chất; đứng với Liêm Trinh Hóa Lộc thì nặng với sinh hoạt tình cảm. Thiên Phúc cùng Thiên Thọ đóng vào Mệnh, vào Phúc Đức hay Tật Ách đều tốt đẹp. Thiên Phúc tại Mệnh tinh thần thoải mái, tại Phúc Đức ít tai ách, tại Tật Ách không bị bệnh nặng hay cố tật, chết êm đềm. Mệnh có Thiên Phúc thủ từ tâm, mộ đạo.

    LUẬN VỀ THIÊN THỌ THIÊN TÀI
    Thiên Thọ đắc địa nơi Thìn Tuất Sửu Mùi. Nếu bốn cung trên ứng vào Mệnh hay Tật Ách mới hay, làm cho tuổi thọ tăng, tật bệnh giảm, ít phiền luỵ vì tai nạn bệnh hoạn.
    Thiên Thọ gặp Thiên Lương lại ra một cách đặc biệt, tối thiểu trong đời phải bị một bận cửu tử nhất sinh mà thoát hiểm.
    Thiên Thọ đóng cung phối ngẫu (Phu thê) thì vợ chồng tuổi chênh lệch rõ rệt, trên cả mười tuổi nếu chồng già vợ trẻ, trên bốn năm tuổi nếu vợ già chồng trẻ.
    Thiên Thọ đóng cung huynh đệ, anh với em cách xa tuổi, như anh tám tuổi em hai tuổi (nói về anh em liền chứ không phải cả với út)
    Thiên Thọ đóng các cung khác không đáng kể. Sao Thiên Tài cũng như ba thiện diệu trên cần phụ vào chính tinh nào đó, Thiên Phúc cần Thiên Đồng, Thiên Thọ cần Thiên Lương, còn Thiên Tài thì cần sao Thiên Cơ. Thiên Cơ gặp Thiên Tài thông minh tài trí tăng gấp bội, đa học đa năng. Thiên Tài khả dĩ cải thiện những khuyết điểm của Thiên Cơ.
    Thiên Tài cũng thuận với các sao Xương Khúc, Long Phượng để tăng gia kỹ năng, Thiên Tài đi với Thiên Thọ đóng Mệnh thì Thiên Thọ có tác dụng tạo tính cẩn thận, ẩn trọng, chấn tĩnh.
    Thiên Tài gặp những chính tinh mang tính phù đãng phiêu lưu lại trở thành thông minh mà khinh bạc kiểu phong lưu tài tử, coi mọi sự là trò đùa, càng thông minh càng kém phúc.
    Thiên Tài cần Thiên Phúc đứng bên để bớt rông rỡ. Thiên Tài đóng Thìn Tuất là lạc hãm, tác dụng tài hoa không còn nữa.

    LUẬN VỀ TAM THAI BÁT TỌA
    Thai Tọa theo các lý thuyết gia Trung Quốc mang một đặc điểm phải tựa vào sao khác thì mới thành lực lượng, nếu đứng một mình vô giá trị. Giá trị của Thai Tọa là làm cho địa vị tài sản sự nghiệp thêm danh vọng và ổn định.
    Thai Tọa cần Xương Khúc,Quang Quí, Long Phượng, Thai Phụ, Phong Cáo và tựa vào Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương (cho người sinh ban ngày), Thái Âm (cho người sinh ban đêm). Thai Tọa gặp lưu niên Thái Tuế tạo ra thanh thế cho năm ấy
    Tam Thai hội hợp cùng cát diệu
    Thời một phen dưỡng dục nên người
    Giáp Thai giáp Tọa thanh phận tảo vinh
    (Mệnh giáp Thai Tọa thành công sớm, câu này không lấy gì làm chính xác)
    - Thai Tọa Phong Cáo hiển ấm thừa quang
    (Mệnh có Thai Tọa Phong Cáo thì được hưởng phúc lộc của tổ phụ)
    Ngoài ra còn hai câu phú:
    a. Mộ trung Thai Tọa văn mưu vũ lược kiêm ưu (Thai Tọa đứng thủ Mệnh ở các mộ cung thì văn võ song toàn)
    b. Bát Tọa hướng Dương, thị tụng ư cung cấm (Bát Tọa gặp Thái Dương ở Mệnh là người phục dịch nơi cung cấm)
    Hai câu này không mang một luận cứ nào vững chắc, qua kinh nghiệm thấy không đúng.

    LUẬN VỀ THIÊN ĐỨC NGUYỆT ĐỨC
    Thiên Đức Nguyệt Đức và Long Đức với Phúc Đức gọi bằng bốn sao đức của Tử Vi khoa. Thiên Đức rất tốt khi đóng vào cung Phụ Mẫu lại gặp được Thái Dương, Thiên Lương miếu địa thì con dòng cháu dõi hoặc được sự chăm lo chu đáo nâng đỡ từ tổ phụ.
    Thiên Đức gặp Khôi Việt là dấu hiệu báo có những cơ hội thuận lợi. Thiên Đức không có khả năng làm giảm bệnh tật hoặc những khó khăn về mặt pháp luật, vậy thì đừng coi Thiên Đức như một sao tiêu tai giảm nạn.
    Thiên Đức Nguyệt Đức có tác dụng chế giảm tính trăng hoa của Đào Hoa. Nguyệt Đức cũng như Thiên Đức, nhưng Nguyệt Đức biểu tượng nữ tính, vào cung Phụ Mẫu ắt có mẹ hiền đức. Cung Phu Thê có Nguyệt Đức đứng cùng Xương Khúc nhờ bên nhạc gia mà thành danh phận.
    Nguyệt Đức đứng với Xương Khúc ở Mệnh thì dễ được nữ phái mến chuộng, mến chuộng đây không nhất định là tình ái, có thể làm nghề nữ trang quần áo hoặc viết văn mà phái nữ ưa thích
    Thiên Nguyệt Đức ngộ Đào tinh
    Trai lấy vợ đẹp gái lành chồng sang
    Khi Mệnh có đủ bộ tứ đức thì giảm được nhiều tai ách

    LUẬN VỀ THIÊN KHỐC THIÊN HƯ
    Thiên Khốc Thiên Hư là hai cặp đối tinh (đi cặp), đứng đồng cung ở Tí Ngọ, còn ở các cung khác thì theo giáp, hiệp. Khốc chủ về thương tâm nhỏ nước mắt nếu ở cung lục thân: anh em, bố mẹ, con cái. vợ chồng. Khốc chủ về tổn thất khi nó đóng ở các cung Điền, Tài. Khốc chủ về tâm trạng bi quan khi nó đóng cung Phúc Đức.
    Sách Tử Vi bên Trung Quốc luận Khốc Hư rất đơn giản hầu như không có gì. Trong khi các sách Tử Vi ở Nhật ở Việt Nam thì Khốc Hư lại gây nhiều ảnh hưởng khác biệt.
    Khốc Hư cũng có miếu hãm. Khốc Hư miếu ở Tí Ngọ. Hư chủ về hư hao. Hư vào Mệnh không giữ được nghiệp nhà. Hư vào Tật Ách vì bệnh tật mà nghèo. Hư vào Phụ Mẫu thất lạc hoặc khuyết cha mẹ. Nói tóm lại là Hư với Khốc theo các lý thuyết gia Trung Quốc không đem lợi lộc gì hết. Không phải vậy. Khốc Hư có những tác dụng tốt của nó nên mới phân chia miếu hãm như các sao khác
    Có câu phú: Tí Ngọ Khốc Hư tịnh thủ nhất thế xưng hùng nghĩa là Mệnh ở Tí hay Ngọ có Khốc Hư anh hùng xuất thế. Khốc Hư Tí Ngọ cần gặp Hóa Quyền mới khả dĩ xuất thế xưng hùng. Khốc Hư Tí Ngọ lời nói đanh thép có uy, chí phấn đấu cao, nhưng lúc trẻ thăng trầm bôn ba. Cho nên mới thêm câu: Khốc Hư Tí Ngọ tiền bần hậu phú
    Khốc Hư ưa đứng với các hung tinh như Phá Quân, Thất Sát. Khốc Hư gặp Thiên Hình vào võ cách hợp, thêm Thiên Mã càng hay như vậy là Khốc Hư Dần Tuất hoặc Thân Thìn.
    Khốc Hư gặp Lộc Tồn Hóa Lộc làm giàu mau (khác với chữ hư theo cái nghĩa hư hao). Khốc Hư Dần Thân được sao Đà La làm chính trị gan góc và có tài.
    Khốc Hư rất kị gặp sao Thiên Cơ đưa con người tới căn bệnh khó chữa, ở Mệnh còn nặng hơn ở Tật Ách. Khốc Hư gặp Khoa Quyền thường nổi danh trong lĩnh vực mình theo đuổi. Khốc Hư vào cung Tử Tức khó về đường con cái.
    Khốc Hư lại gặp Dưỡng thần
    Sinh nhiều nuôi ít gian truân xiết nào

    Dưới đây là những câu phú về hai sao Khốc Hư:
    - Nữ Mệnh Thiên Khốc Thiên Hư táo bạo

    - Khốc Khách Kiếp Phù mạc ngộ Cự Kình chung thân đa lệ
    (Mệnh có Kiếp Sát, Bệnh Phù, Thiên Khốc, Điếu Khách lại gặp Cự Môn, Kình Dương hội tụ suốt đời phiền muộn vì những tang thương)

    - Khốc Hư phùng Tang Hỏa phối cung, phu cung lưỡng mục bất minh
    (Trong cung phu thê có Khốc Hư gặp Tang Môn Hỏa Tinh, vợ chồng có tật nguyền nơi mắt)

    - Khốc Hư cư Tí Ngọ vì
    Quan cung ra dấy thiếng thì gần xa

    - Khốc Kình Hình Hổ tử cung
    Tới già chưa thấy tay bồng con thơ

    - Khốc Hư Tang Mã chẳng lành
    Hại người hại của dễ sinh lo lường

    - Khốc Hư gặp Cơ chẳng màng
    Bệnh kia hãy phải lo toan lấy mình

    - Đẹp thay Tả Hữu một phường
    Khốc Hư quanh mắt thường thường tròn thâm
    (Người có Khốc Hư ở Mệnh thường thấy túi mắt rất rõ)

    - Đẩu gặp Tồn khá tiền tài
    Khốc Hư lạc hãm miệt mài gian truân

    - Khốc Hư Tí Ngọ đồng bài
    Tiền bần hậu phú chớ sai lẽ bàn

    - Phá Quân duyên nợ ít toàn
    Cô Quả Tang Hổ Khốc thường tóc tang

    - Đồng Nguyệt Tí gái hoa dung
    Gặp Tang Riêu Khốc khóc chồng có phen
    (Nữ Mệnh Đồng Âm tại Tí nhan sắc, nhưng bị Tang Riêu Khốc thì duyên tình dở dang)

    - Kình Dương mà gặp Thiên Hư
    Hữu sinh vô dưỡng âu lo một đời
    (Khốc Hư với Kình Dương ở cung Tử tức)
     
  7. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ THIÊN HÌNH
    Thiên Hình chủ hình khắc, từ tụng, tranh đoạt. Trên mặt hình khắc sao này không nên đóng ở các cung thuộc về lục thân (sáu người thân) như phụ mẫu, tử tức, phối ngẫu. Đối với nữ mạng, Thiên Hình tại Mệnh cũng đưa đến hình khắc. Nó không hợp với những loại sao sát kị dễ gây ra tai nạn.
    Kình Dương hóa khí là hình, bởi vậy không nên đứng cùng Thiên Hình nữa, khiến cho tranh chấp, từ tụng, khẩu thiệt gay gắt hơn. Thiên Hình cũng không hợp với những sao hao (Đại Tiểu Hao) tạo nên phá bại tốn kém, phá hoại.
    Ở trên là mặt xấu của nó, và sau đây là những tính tốt đẹp của Thiên Hình. Thiên Hình bản chất dũng mãnh sát phạt có uy quyền. Hình nghĩa chữ là lưỡi kiếm. Thiên Hình thuộc hỏa, đắc địa tại các cung Dần Thân Mão Dậu.
    Mệnh đóng Dần được Thiên Hình phò trợ cho một chủ tinh đắc địa nào đó, được hình dáng như con cọp ngậm kiếm (vì Dần cung là cọp) dễ phát về võ công. Rồi Thân và Mão Dậu cũng tạo oai hách.
    Hình đi cùng với các sao Tướng Quân, Quốc Ấn, Phục Binh gọi gộp là cách Binh Hình Tướng Ấn, cách này làm ra con người uy dũng có khả năng võ nghiệp, luật pháp, chính trị.
    Hình gặp Lộc Riêu học ngành giải phẫu hợp. Hình sợ Tuần Triệt vì Hình đang ở thế đắc cách mà bị Tuần Triệt khác nào như thanh gươm bị bẻ gẫy. Hình đứng với Khốc Hư đắc địa càng thuận lợi hơn
    Các sách tử vi Trung Quốc nói: ở tình trạng Liêm Tham đứng cùng mà có Thiên Hình thì tính kỷ luật của Thiên Hình có thể chế giảm bớt tính rông rỡ của Liêm Tham.
    Trong khi lý luận Việt thì Liêm Tham có Hóa Kị sẽ đỡ hẳn phần xấu. Thái Dương Thiên Lương được Thiên Hình Mão Dậu vào ngành pháp luật ra tranh thương sẽ đắc lực. Thiên Hình không bị Sát Kị và đứng đúng chỗ biến thành phấn đấu và kỷ luật.
    Hãy đọc những câu phú về Thiên Hình:
    - Thiên Hình Thất Sát cương táo nhi cô
    (Mệnh có Thất Sát tọa thủ đắc địa gặp Thiên Hình càng nóng nảy sát phạt nên ít bạn bè, khó ở với vợ con)

    - Thiên Hình Dần Thân Mão Dậu anh hùng

    - Thiên Hình thủ, hôn lại chi nhân, Kị Đà lâm bất nhất khiếm hòa
    (Thiên Hình đóng hãm cung đầu óc thiếu minh mẫn thêm Kị Đà ưa gây gỗ)

    - Triệu Tử phù Hán thị ư Hình Quyền Tướng Ấn
    (Triệu Tử Long một dũng tướng đời Hán, Mệnh có Hình Quyền Tướng Ấn)

    - Hình Sát hội Long thần định giáng
    (Mệnh Thất Sát, Thiên Hình đắc địa vẻ người oai nghiêm)

    - Hình Hổ cư Dần, Hổ đới kiếm hùng tượng, phùng Đế cách Giáp Kỷ nhân vũ uy chấn động
    (Hình Hổ đóng Dần như cọp ngậm kiếm lại đứng với Tử Phủ thì người tuổi Giáp Kỷ thành công rạng rỡ võ nghiệp)

    - Hình Hỏa Kị phần Thiên Mã
    (Hình Hỏa Kị gặp Thiên Mã thì đốt cháy Thiên Mã, hạn gặp phải xấu)

    - Hình Riêu phận gái long đong
    Nếu chẳng hại chồng thì cũng phản phu.

    - Ngộ Hình gặp Quí dám đâu
    Cũng là Tử Phủ một màu chính chuyên
    (Số nữ có Quí Hình Tử Phủ đoan chính vượng phu)

    - Hình Đào Sát đáng chê cung Phối
    Hoặc Tài Điền Tử Tức long đong

    - Thiên Hình Dương Nhẫn Ngọ vì
    Lại thêm Thất Sát có khi ngục tù

    - Phù Hình Không Kiếp khá chê
    Kẻ thù người oán phải dè mình thay

    - Hình lâm Quan lộc cư Đông
    Quan binh chức trọng ơn cùng quân vương
    (Thiên Hình ở Quan Lộc tại Mão)

    - Hình Riêu Tấu Vũ một đoàn
    Làm nghề thợ mộc khôn ngoan ai tầy
    (câu phú này không biết xuất xứ)

    - Hình Riêu số gái long đong
    Nếu không kế thất lộn chồng mà thôi.

    - Phu cung Riêu Sát Hình Dương
    Hội giao Linh Hỏa gái toan giết chồng
    (Phu cung có Riêu Sát, Hình, Dương (Nhận) hãm địa, sát phu, phản phu)

    - Cung Giải mà gặp Khôi Hình
    Số người mắc phải pháp đình đau thương

    - Phục Binh Thái Tuế Thiên Hình
    Cùng người tranh cạnh tâm tình chẳng vui
    (Những sao trên đóng vào Thiên Di)

    - Hình Riêu Cơ Tấu Vũ cùng
    Khéo nghề thuyền thợ vững đường sinh nhai

    LUẬN VỀ THIÊN RIÊU
    Thiên Riêu thuộc thủy là một trong những đào hoa tinh diệu của Tử Vi. Riêu lãng mạn đĩ thõa hơn, nhưng khi ở đắc địa cũng hào hoa, tài hoa hơn. Thiên Riêu dễ bắt với tình và thường tùy tiện, người Trung Quốc có mấy chữ để tả tính chất Thiên Riêu: “Chiêu thủ thành thân” nghĩa là “ngoắc tay gọi vào để bắt tình” rất đột ngột và thật ngẫu nhiên. Bởi vậy khi Thiên Riêu đóng vào cung phối ngẫu hay đưa tới tình trạng không hạn mà kết hợp.
    Nếu Riêu gặp Xương Khúc lại càng ướt át dâm tình, Riêu đứng với Đào Hồng thì lẳng lơ bất chính. Như có câu phú:
    Đào Riêu số gái ai hay
    Chồng ra khỏi cửa dắt tay trai vào
    Ở hãm địa Riêu càng mê đắm tình dục, tửu sắc. Riêu đắc địa ở Dần Mão Dậu Tuất Hợi. Riêu đắc địa gặp Long Phượng có hy vọng hưng vượng lợi danh..
    Riêu đắc địa đứng cùng Tràng Sinh, Đế Vượng tài hoa, tao nhân mặc khách. Riêu gặp Lưu Hà thông minh hoạt bát làm việc lẹ làng trôi chảy.
    Riêu đứng với Tả Hữu lại chuyển ra sao mối lái, vào Mệnh Tài Quan thì làm ăn với người khác phái phấn phát tiền tài, tạo dựng sự nghiệp. Nhưng Riêu gặp Hóa Kị, Văn Khúc mà ở mệnh nam thì lại dễ khổ tình, mất tiền cho gái.
    Thiên Riêu đứng với Phá Quân hãm lại có cả Thiên Mã dễ thành du đãng, hoặc tâm tính bội bạc khó chơi. Thiên Riêu đứng với Thiên Đồng ở Phu Thê cung là có cuộc tình tay ba, ngoại tình.
    Trong chương Đẩu số phát vi luận của Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư viết: “Huyên uẩn (một tên gọi khác của Thiên Riêu) tam cung (cung đứng thứ ba là cung Thê) tắc tà dâm nhi đan tửu” nghĩa là: sao Thiên Riêu đóng cung thứ ba thì tà dâm và mê luyến. Câu này không mấy nhắc tới Thiên Đồng.
    Tuy nhiên theo kinh nghiệm thì phải có Thiên Đồng mới tà dâm ngoại tình như câu: Đồng Riêu đoán ắt ngoại tình chẳng sai. Chỉ Thiên Riêu không thôi thì bất chính cả hai.
    Riêu đi cùng sao Âm Sát (sao này sẽ nói riêng vì khoa Tử Vi Việt không nhắc tới bao giờ) là con người nhiều âm mưu thủ đoạn. Riêu gặp Bạch Hổ dễ bị thú vật cắn.
    Những câu phú về Thiên Riêu có:
    - Riêu tại Hợi vi minh mẫn
    (Thiên Riêu đóng Mệnh ở Hợi con người minh mẫn)

    - Riêu Đà Kị đi liền ba cung mà có cung Mệnh Thân ở một trong ba cung ấy thì luôn luôn gặp họa

    - Hạn phùng Riêu Hỉ Đào Hồng
    Gái trai tơ tưởng những lòng dâm phong

    - Hạn phùng Riêu Hổ khá ngừa
    Những loài ác thú tránh xa chớ gần

    - Riêu Xương Mộc Kình Sát ư lão hạn loạn dâm Võ Hậu
    (Về già, hạn gặp Riêu Xương, Mộc Dục, Kình Dương và những sát tinh khác thì lòng vẫn còn nghĩ những chuyện dâm đãng như bà Võ Hậu)

    - Thiên Riêu cư Tài Bạch họa đổ sinh ương
    (Thiên Riêu đóng vào cung Tài ham cờ bạc mất nghiệp)

    - Thiên Riêu, Thiên Hỉ đa chiêu quái dị chi tai
    (Thiên Riêu đứng với Thiên Hỉ hay có những rủi ro lạ lùng)

    - Vũ Riêu Toái ngọng lẽ thường
    Lại thêm Việt Kị ắt phường điếc câm
    (Mệnh có Vũ Khúc, Thiên Riêu, Phá Toái bị ngọng, nói lắp)

    - Thiên Riêu Tài Mệnh sinh ương
    Không mê cờ bạc cũng phương rượu chè
    .
    - Tham Lang những thích ăn sang
    Riêu Kị tửu sắc lắm đàng ngả nghiêng

    - Phá Quân Riêu Mã hợp vào
    Ắt phường du đãng ai nào dám thân

    - Mấy người hiếu sắc hoang tình
    Vì Xương Khúc đóng bên mình Riêu Y

    - Đào Hồng Riêu Hỉ trong ngoài
    Lại thêm Binh Tướng gái trai hoang đàng

    - Số Riêu Hỉ tai bay vạ gió
    Mệnh Không Kiếp lắm độ gian truân

    - Xương Riêu đáng sợ thay là
    Ấu nhi mà đã bôn ba dâm loàn

    - Tham Liêm hãm mệnh gian tà
    Hồng Đào Riêu Hỉ ắt là dâm bôn

    - Đào Riêu hội bên mình khá rõ
    Không quí tinh Tử Phủ ngoại dâm

    - Dương Đà điếc lác thế âu
    Thiên Riêu mộng hiện lại sầu mộng tinh
    (Thiên Riêu vào cung Tật Ách)

    - Thiên Riêu Hóa Kị ra ngoài
    Đa chiêu nhục mạ chẳng ai yêu mình

    - Hồng Riêu Cơ Tấu Vũ Đào
    Làm nghề ca xướng tiến vào nhà Quan
    (Nói những sao trên đóng cung Quan Lộc, phần nhiều là nữ mạng)

    LUẬN VỀ KIẾP SÁT
    Kiếp Sát là một tạp diệu. Theo lý luận của các nhà Tử Vi Trung Quốc thì Kiếp Sát gây ảnh hưởng mạnh nếu nó đi với sao Âm Sát.
    Kiếp Sát gặp Thiên Lương, Thiên Thọ trở nên vô hiệu. Kiếp Sát ảnh hưởng vào Tật Ách mạnh hơn cả, có Kiếp Sát ở cung này dễ bị các bệnh hiểm nghèo khó chữa.
    Kiếp Sát gặp song Hao ở vận hạn tiền bạc hao tán nặng. Kiếp Sát gặp Thiên Hình làm cho tranh tụng dữ dội. Kiếp Sát gặp Văn Khúc, Hóa Kị hay bị lừa gạt.
    Những sao Hoa Cái, Giải Thần, Thiên Thọ, Thiên Lương có sức hóa giải sao Kiếp Sát hơn Tả Hữu Hóa Khoa. Kiếp Sát bị Tuần Triệt hoặc các sao Không trở thành vô hiệu, sức phá hoại của nó bị hủy diệt.
    Kiếp Sát thuộc hỏa đóng ở Mệnh cung nóng tính hay làm ẩu. Kiếp Sát đi với các sao đào hoa vào vận hạn tăng thêm những khó khăn cho tình duyên.

    LUẬN VỀ CÔ THẦN QUẢ TÚ
    Cô Thần với Quả Tú là hai sao đi cặp (đối tinh). Hai sao trên không bao giờ xuất hiện ở Mão Dậu và Tí Ngọ, doanh trại cố định của Đào Hoa. Nhưng theo thế tam hợp nó vẫn gây ảnh hưởng cho các sao ở Tí Ngọ Mão Dậu. Cô Thần Quả Tú đều chủ về hình khắc cô đơn, phân ly. Nó tác động mạnh đối với các cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử tức. Nhưng khi Cô Thần vào cung Phúc Đức thì cá tính mạnh mẽ thích tự lập, không dựa dẫm, tùy thuộc.
    Cô Thần vào Điền Trạch được kể là tốt đẹp, dễ gầy dựng cửa nhà. Nhưng Quả Tú có ảnh hưởng vào cung phối ngẫu hơn Cô Thần vì có những cung vị chỉ chịu ảnh hưởng xung chiếu của một trong hai sao này. Phu Thê mà có những sao này mang tính phù động như Thiên Cơ, Cự Môn gặp Quả Tú vợ chồng khó ở, khó gần nhau.
    Quả Tú vào Phụ Mẫu, mà Mệnh Thân lại thấy Thái Âm, Hóa Kị ắt xảy đến tình trạng “tùy nương cải giá” nghĩa là có bố dượng. Quả Tú đứng với Vũ Khúc ở cung phối ngẫu vợ chồng càng dễ hình khắc phân ly vì lý do chẳng ai chịu nhường ai, ai cũng muốn lấn quyền.
    Hồng Loan đứng với Cô Quả chuyện hình khắc phân ly nặng hơn có thể sát hại.
    Hồng Loan Cô Quả chẳng hay
    Quả phu có kẻ tháng ngày cô đơn
    Hóa Lộc, Lộc Tồn có thể làm giảm ảnh hưởng của Quả Tú được

    LUẬN VỀ PHÁ TOÁI
    Phá Toái là sao phá ngang làm trở ngại công việc. Nhưng sao Phá Toái chỉ gây ảnh hưởng dữ khi nó gặp những sao nào mà nó toa rập được Phá gây trở ngại nhất khi nó đi cùng, Cự Môn Hóa Kị làm thành những đột biến bất ngờ từ nguồn gốc ngấm ngầm, cùng một ảnh hưởng khi nó đứng với Đồng Kị
    Phá Toái gặp Thiên Đồng Hóa Kị ở cung Phúc Đức thường bị thất tình sầu khổ. Phá Toái có Linh Tinh trợ lực càng phá hoại mạnh. Phá Toái đi vào Tài Bạch, Quan Lộc hay gặp rắc rối nhỏ nhặt gây phiền nhiễu. Phá Toái làm giảm bớt cái tốt của Khoa, Quyền.
    Phá Toái đứng với Kình Đà Hóa Kị, Thiên Riêu có tật nói ngọng nói lắp. Phá Toái gặp Hỏa Linh dễ mắc bệnh hiểm nghèo. Phá Toái gặp sao Lưu Hà trở nên tốt khi vào võ nghiệp (điều này qua kinh nghiệm không thấy đúng)

    LUẬN VỀ LƯU HÀ THIÊN TRÙ
    Lưu Hà sách Tử Vi Trung Quốc không nhắc đến. Nó đi cùng với Thiên Trù và được an theo hàng can của năm sinh tỉ dụ Giáp niên kê sà tàng (tuổi Giáp Lưu Hà ở Dậu, Thiên Trù ở Tỵ)
    Lưu Hà tính chất thâm trầm gian hiểm sát phạt. Lưu Hà cũng như phần lớn các tạp diệu khác gây độc hại khi gặp những sao đã sửa soạn đất phá hoại cho nó. Lưu Hà đóng Mệnh nữ cẩn thận khi sanh đẻ. Lưu Hà đứng với Cự Môn, Hóa Kị dễ bị nạn sông nước. Lưu Hà chỉ gặp sao Thanh Long như rồng gặp nước (nói theo hình tượng) tạo sự hanh thông cho công việc.
    Về sao Thiên Trù, phái Trung Châu bên Tàu dùng để luận đoán khả năng ẩm thực. Với chính tinh thì Phá Quân có liên quan đến ăn uống, bằng tạp tinh là Thiên Trù. Trù đây mang nghĩa nhà bếp. Phá Quân đóng Phúc Đức mà gặp Hỏa Tinh, Trung Châu phái bảo nên kinh doanh hàng ăn tốt, xin nhắc là chỉ vào Phúc Đức thôi.
    Thiên Trù đóng Mệnh gặp Hỏa Tinh hoặc ở Tài Bạch hoặc Quan Lộc là người có nghề nấu bếp, thích nấu bếp và nấu bếp giỏi, hãy theo ngành hàng ăn để rồi sau kinh doanh.
    Thiên Trù ở Mệnh, ở Phúc Đức mà không Hỏa Tinh thì chỉ là con người sành ăn, hoặc mở quán ăn nhưng không phải là tay sành nghề bếp núc. Nếu Thiên Trù, Hỏa Tinh lại thêm cả Long Phượng nữa thì nghệ thuật nấu tuyệt vời.
    Các nhà tử vi gia Việt luận về sao Thiên Trù cho là sao thích ăn thịt, lời giải này nông cạn và khôi hài, vậy có sao nào thích ăn rau với muối mè không?


    LUẬN VỀ QUÔC ẤN
    Quốc Ấn thuộc thổ, chủ về thi cử, công danh, quyền tước và chức vị. Sao này chỉ đi với Thiên Tướng, Thiên Hình và Phục Binh làm thành bộ Binh Hình Tướng Ấn, bộ này tạo ra uy quyền được người vì nể.
    Nhưng Quốc Ấn mà gặp Triệt kể như ấn tín bị vỡ mẻ công danh không thuận đạt Thiên Tướng hoặc Tướng Quân gặp Quốc Ấn đều hay cả. Như có câu phú:
    Nhật Lộc Mã tại Tỵ cung
    Tràng Sinh, Phụ Bật hợp cùng phú vinh
    Bằng gặp Tướng Ấn Binh Hình
    Hễ thời loạn thế là thành công to

    LUẬN VỀ GIẢI THẦN THIÊN KHỐ
    Có những sách nói Giải Thần phân ra Thiên Giải và Địa Giải. Có những sách nói Giải Thần phân ra Niên Giải và Nguyệt Giải. Lại có những sách không phâ chia, chỉ đưa ra một sao Giải Thần. Dĩ nhiên là cách an khác nhau, không có trọng tài để biết hư thực.
    Tác dụng của Giải Thần là “tiêu tai giải nạn”. Giải Thần mà đứng với Thiên Thọ ở cung Tật Ách tốt nhất suốt đời không bị bệnh nặng.
    Giải Thần một mặt tiêu hủy tai nạn, mặt khác nó cũng tiêu hủy luôn cả điều tốt. Bởi vậy cung phối ngẫu mà có Giải Thần thì là triệu chứng ly hôn đấy. Giải Thần gặp Thiên Riêu ở đây tình hình còn phức tạp gấp bội. Đó là một luận đoán không mấy ai lưu tâm.
    Sao Thiên Khố chủ về tiền bạc. Đóng cung Tài Bạch và cung Mệnh là người quản thủ tiền bạc giỏi. Sinh năm Giáp Kỷ mà có sao Thiên Khố dễ gây dựng của cải (điều này không mấy chính xác). Chỉ thấy có câu phú nôm ghi rằng:
    Hỏi ai Giáp Kỷ mấy người
    Gặp sao Thiên Khố tiền rời bạc muôn

    LUẬN VỀ HỒNG LOAN THIÊN HỈ
    Hồng Loan,Thiên Hỉ cặp saonày tuy là tạp diệu nhưng lại rất trọng yếu trên lá số, nhất là Mệnh Hồng Loan cung xung chiếu Thiên Di Thiên Hỉ.
    Trên nguyên tắc Hồng Loan chủ về hôn nhân và Thiên Hỉ chủ về sinh dục nhưng hai sao quan hệ mật thiết nên Thiên Hỉ cũng ảnh hưởng đến hôn nhân và Hồng Loan cũng ảnh hưởng đến sinh dục
    Hồng Loan hợp với Xương Khúc, Xương Khúc làm tăng ảnh hưởng về hỉ sự cho Hồng loan. Hồng Loan lấy niên chi làm căn cứ, cái chất của niên chi chủ về hình hài, Hồng loan Thiên Hỉ biểu tượng cho thân thể đã đi vào giai đoạn thành thục.
    Hồng Loan khởi từ Mão tính đi. Tại sao khởi từ Mão? Vì Mão là lúc xuân tiết ấm áp nhất cho hoa cỏ nở bừng, lúc này mặt trăng cũng đã trong sáng lên khác hẳn tình cảnh lạnh lẽo âm u của đông tiết. Bởi vậy Mão mới là tháng của hoa nguyệt.
    Trong khi Thiên Riêu lại tính theo tháng những chu kỳ của nguyệt kinh lại khởi từ Sửu là thời điểm âm dương giao hoán. Bởi vậy Hồng Loan là chân thiện mỹ. Mà Thiên Riêu là nhu cầu nhục thể. Hồng Loan khi vào yêu đương với tấm lòng chân thiện mỹ. Thiên Riêu khi vào yêu đương thường với tâm tình dâm đãng.
    Do những lý lẽ trên khi Hồng Loan bị Không Kiếp cổ nhân mới gọi là cách lãng lý hành châu ví như con thuyền nhỏ đi trong sóng lớn, ví như người con gái với cái lòng yêu thiện chân của mình mà bị đối đáp bởi bọn sở khanh lưu manh, bị lừa gạt. Gặp Tham Lang cũng thế.
    Hồng Loan yêu thương qua nhu yếu tình dục nhất thời. Con gái Hồng Loan khó quên tình sầu, con gái Thiên Riêu xem tình ái là trò rỡn.
    Thiên Hỉ đi cặp với Hồng Loan, Thiên Hỉ chủ sinh dục nên người nữ Hồng Hỉ sau khi sanh con rồi nét quyến rũ nam phái vẫn còn đậm đà.
    Hồng Đào Thiên Hỉ Đào Hoa là những hoa thảo sở dĩ không hợp khi vận về già. Về già thấy Hồng Đào Hỉ là thấy tang sự chết chóc, trong khi lúc trẻ là làm đám cưới, là những cuộc tình, hoa thảo về già hoa tàn cỏ nát nên vậy.
    Hồng Loan Thiên Hỉ là tin vui, nếu gặp Hóa Lộc Lộc Tồn thì vì tình ái mà hao tốn tiền bạc, nặng ắt khuynh gia bại sản, cổ nhân gọi bằng “đào hoa phá tài”.
    Hồng Loan ở nam mạng thì sao? Vẫn căn cứ vàonhững ý tượng trên để luận đoán. Tỉ dụ Hồng Loan Không Kiếp mà vào nam mạng thì truân chuyên với danh phận, tiền tài. Cho nên mới có câu phú: Mệnh trung Hồng ngộ Kiếp Không mạc đàm phú quí (Mệnh có Hồng Loan, Không Kiếp thì đừng nói chuyện giàu sang)
    Hồng Loan ngộ Kiếp Không đồng thủ
    Xá bàn chi bần lũ yểu vong
    Hồng Loan gặp các văn tinh Xương Khúc thì học hành giỏi, nhất là lại thêm Thiên Khôi, vì Khôi sáng giá trên thực tế hơn Xương Khúc.
    Hồng Khôi Xương Khúc phù trì
    Sân rồng dâng trước, trong thì thanh cao
    Hồng Loan thủ mệnh nữ mà có một vài sát tinh đi kèm thường hai đời chồng, nhất là Hồng Loan đứng bên Cô Thần Quả Tú.
    Hồng Loan vào số nữ là người đàn bà khéo, nhưng nếu gặp sao Tướng Quân, Phục Binh thì cuộc đời lại lắm phiền nhiễu về tình duyên.
    Hồng Loan may vá cửi canh
    Hiềm phùng Binh Tướng ắt sinh tai nàn
    Hồng Loan đóng cung Phu Thê phải có một bận khắc chồng, căn cứ vào câu phú: “Hồng Loan cư phu thê tiền khắc”, nhưng lại có những sách khác bàn rằng Hồng Loan đóng Phu Thê chỉ ở những cung Thìn Tuất Sửu Mùi mới khắc thôi.
    Phu cung đóng ở miền tứ mộ
    Gia Hồng Loan ấy số khóc chồng
    Bằng vào kinh nghiệm thì chuyện khắc vợ khắc chồng của Hồng Loan nặng với Mệnh nữ hơn Mệnh nam. Hồng Loan hội Hóa Kị thì đàn bà bỏ chồng đi lấy chồng khác
    Hồng Loan ngộ Kị Phu cung
    Tơ hồng đã dứt má hồng còn vương
    Hồng Loan đóng cung Tí tại Mệnh sớm đạt công danh (cho nam mạng) theo cổ nhân viết: “Hồng Loan cư Tí, thiếu niên định chiếm khôi nguyên”. Hồng Loan đứng với Địa Kiếp ở Phu cung, mệnh tốt thì trăm năm đầu bạc, mệnh xấu thì không quá bảy tám năm (Hồng Loan phùng Địa Kiếp ư Phu Quân, mệnh hảo chi bách, bất hảo chi thập)
    Hồng Loan Thiên Hỉ mà gặp Đào Hoa gọi chung bằng bộ tam minh, thường ăn nói có duyên dễ gần người khác phái và khi ra đời phấn đấu cũng hay gặp những may mắn. Hồng Loan Đào Hoa tuy không là đối tinh nhưng dễ gặp làm thành một cặp mà Thái Âm vẫn gọi Đào Hồng
    Trong đoạn Đẩu Số Phát Vi Luận có câu phú: “Dâm bôn đại hạnh, Hồng Loan tu phùng Tham Tú”, nghĩa là Hồng Loan hội Tham Lang đàn bà rất dâm. Tham Lang gặp Đào Hoa thì dâm loạn. Phải chăng Hồng Loan gặp Tham Lang cũng dâm như thế? Chỉ khác Tham Đào lộ liễu mà Tham Hồng kín đáo (dâm ngầm)

    LUẬN VỀ SAO ĐÀO HOA
    Cách sách Tử Vi bên Trung Quốc không có nói đến một sao Đào Hoa đứng tách riêng như khi khoa này truyền qua Việt Nam. Trung Quốc gọi Tham Lang là sao mang tính chất đào hoa bởi vậy khi Tham Lang đứng với Tử Vi họ cho như thế là Đào hoa phạm chủ.
    Vậy xuất xứ của sao Đào Hoa ở đâu? Khoa Tử Bình ghi rõ tên Đào hoa tinh theo niên chi là Dần Ngọ Tuất mà gặp nguyệt chi, nhật chi hay thời chi có Mão; niên chi Hợi Mão Mùi gặp các chi kia là Tí; niên chi Thân Tí Thìn gặp các chi kia là Dậu; niên chi Tỵ Dậu Sửu gặp các chi kia là Ngọ. Theo Tử Bình thì một lá số có thể nhiều sao Đào Hoa. Tỉ dụ niên chi Ngọ gặp tháng Mão, ngày Mão chẳng hạn.
    Đào Hoa mà khoa Tử Vi Việt vẫn dùng cũng căn cứ vàoniên chi rồi theo các cung Tí Ngọ Mão Dậu mà an, nếu niên chi Dần thì an Đào Hoa tại Mão, niên chi Tỵ thì an Đào Hoa ở Ngọ…
    Theo sách vở Trung Quốc mang cái tên “hàm trì” (tên khác của Đào Hoa) nó đựơc tính theo vòng Tướng Tinh cùng mười hai sao như vòng Thái Tuế vòng Trường Sinh và Lộc Tồn.
    Theo vòng Tướng Tinh thì “Hàm Trì” bao giờ cũng vào bốn cung Tí Ngọ Mão Dậu chắc cổ nhân Thái Âm đã không dùng vòng Tướng Tinh mà chỉ chọn ra sao Đào hoa cùng với sao Hoa Cái.
    Vòng Tướng Tinh gồm có: Tướng Tinh, Phan An, Tuế Dịch, Tức Thần, Hoa Cái, Kiếp Sát, Tai Sát, Thiên Sát, Chỉ Bối, Hàm Trì, Nguyệt Sát, Vong Thần.
    Chọn ra thấy dản lược hơn, những sao kia hơi thừa. Những sao này sẽ luận sau. Trở lại sao Đào Hoa, sách Tử Vi Đẩu Số Tinh Diệu Tổng Đàm viết: “Hàm Trì là sao thuộc vòng Tướng Tinh, tính theo hàng chi của năm, sao này cũng có lưu niên nữa, trường hợp “Hàm Trì” trên lá số lại gặp lưu niên Hàm Trì thì ảnh hưởng tăng cường.
    Hàm Trì là sao của sắc tình. Nó không nên đi cùng sao Mộc Dục gây ra sự việc vì sắc tình mà hao tốn phiền lụy. Hàm Trì đi với Tham Lang thành ra cách “Phiếm thủy đào hoa” con người ăn chơi bả lả. Trong khi khoa Tử Vi Việt thì Tham Lang đóng cung Tí không gặp Đào Hoa cũng kể như “phiếm thủy đào hoa”
    Nguyên cục hay lưu niên sao Hàm Trì không nên gặp Vũ Khúc, Hóa Kị hoặc Văn Xương Hóa Kị đưa đến tình trạng người phối ngẫu bất trung.
    Các sách Tử Vi Việt giảng rằng: Đào Hoa thuộc Mộc chủ về sự hoan lạc đa tình mà không nên hiện lên khi vận về già chuyển ra buồn thương. Đào Hoa lúc trẻ là đỗ đạt, đám cưới, lúc già là bệnh tật chia ly và đám tang.
    Đào Hoa cần Hồng Loan. Đào Hồng vào cung Quan Lộc hanh thông trên hoạn lộ hoặc trên cuộc phấn đấu gầy dựng cơ nghiêp.
    Đào Hồng gặp Nhật Nguyệt đa tình phong lưu. Đào Hồng gặp Không Kiếp Đà Kình khó khăn trên duyên tình không muộn vợ muộn chồng thì cũng hai đời chồng vợ.
    Đào Hồng đứng với Địa Kiếp dễ bị đắm thuyền và dễ vào vòng tình lụy. Đào Hồng gặp văn tinh thì ra văn nhân tài tử. Đào Hồng đóng cung Thiên Di xuất ngoại lập nghiệp.
    Hạn có Đào Hồng Hỉ Riêu thì vương vấn tình. Đào Hoa đứng với Thiên Riêu Đà La Hóa Kị vào số nữ là người đàn bà dâm loạn khó toàn danh tiết.

    Những câu phú về Đào Hồng:
    - Đào Hồng ngộ Thiên Cơ, đoãn vi sảo họa
    (Thiên Cơ gặp Đào Hồng, có hoa tay nhiều năng khiếu nghệ thuật)

    - Lãng lý Đào Hoa gia Địa Kiếp tam canh tư tưởng giai nhân
    (Đào Hoa Địa Kiếp như hoa đào trôi trên sóng, luôn luôn tơ tưởng tình ái, số trai ăn chơi số gái lẳng lơ)

    - Đào Hoa ngộ Phi Liêm, Nguyễn Tịch tấn triều vi túy khách
    (Sao Đào Hoa đứng với Phi Liêm Nguyễn Tịch lúc nào cũng say khướt)

    - Đào Hoa thủ Mệnh quả thê
    (Đào Hoa thủ Mệnh thường xa vợ hoặc hai đời vợ)

    - Thân hữu Đào Hồng kiêm Thai Tọa nhi công danh khả tất
    (Cung Thân có Đào Hồng Thai Tọa sớm muộn rồi cũng công thành danh toại)

    - Đào Hoa phùng Thiên Mã túng khách vô môi?
    (Đào Hoa gặp sao Thiên Mã không mối lái cũng theo người?)

    - Đào Tang ở Mệnh cung sau trước
    Gái lẳng lơ nhỡ bước cầu ô

    - Đào Riêu số gái ai hay
    Chồng ra khỏi cửa dắt tay trai vào

    - Thiên Nguyệt Đức gặp Đào tinh
    Trai lấy gái đẹp, vợ lành chồng sang

    - Khéo nghề kim chỉ vá may
    Hồng Đào Tấu Vũ ở đầy Mệnh cung

    - Mệnh Đào Thân lại Hồng Loan
    Vận phùng Thái Tuế khả hoàn thấy chi

    - Đào Hồng Thai Hỉ trong ngoài
    Ngoài gia Binh Tướng gái trai ngang tàng

    - Đào Hồng cùng Thiên Hình tụ hội
    Gái tiết trinh hiền nội tề gia

    - Quan cung hỉ ngộ Đào Hồng
    Thiên Di tối kị Không Kiếp lâm vào

    - Thai tinh lại gặp Đào Hoa
    Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng

    - Vợ chồng viễn phối tha hương
    Đào Hồng len lỏi vào hàng Thiên Di

    - Kìa nữ mệnh xem tường sau trước
    Tử Phá Tham hội ước đa dâm
    Thêm Đào Hoa ắt gian truân
    Duyên may khó sớm dự phần phượng loan

    - Tham Đào số nữ thường dâm loạn
    Ở hãm cung hãy đoán cho tường
    Tí Ngọ Mão Dậu ấy phường
    Nếu có Tuần Triệt lại phường đoan trinh

    - Mệnh Đào Thân lại Hồng Loan
    Hạn phùng Tuế Kiếp phụng hoàng rẽ duyên

    - Sao Tả Hữu đồng cung gặp gỡ
    Mệnh Đào Hoa trước dở sau hay.

    - Đào Hoa Thai Hỉ trong cung
    Phá Quân Tướng Phục chiếm xung ở ngoài
    Có chị em gái theo trai
    Say mê đến nổi hoang thai bỏ mình
    (Đây nói về cung bào huynh)

    - Trong thời Tướng Phá Phục Binh
    Ngoài thì Hoa Cái liên minh Đào Hồng
    Bản cung đối chiếu tinh tường
    Anh em có kẻ tư thông hẳn là
    (đây là cung bào)

    - Phu Đào Kị Kiếp Khốc Hư
    Hại chồng mưu kế dễ hầu biết sao.

    - Đào Hoa nhi nữ dâm tàng
    Tử Phủ nhi nữ lại làng đồng lương
    (Đào Hoa vào cung tử tức có gặp Không Kiếp Riêu Hình hoặc các hung sát tinh thì con cái mới dâm tàng, nếu không thì Đào Hoa thành đông con và con cái đẹp xinh)

    - Nô cung Hoa Cái Đào Hồng
    Cùng với Phụ Bật chiếu vào cho nên
    Chính thê thứ thiếp tiền duyên
    Khác nào giây cát sánh bên cõi cù

    - Đào Hoa Nô lại tương phùng
    Vong phu mắc tiếng bất trung ưu phiền

    - Cung Quan mà gặp Đào Hồng
    Thiếu niên đã thỏa tang bồng chí trai

    - Đào Hồng lại gặp Quí Ân
    Cô dì để lại có phần phong lưu
    (Cung Điền Trạch có Hồng Đào, Ấn Quang, Thiên Quí được hưởng tiền bạc của người thân để lại cho)

    - Đào Hồng Tang ngộ sao Thai
    Tôn thân có kẻ tính bài loạn phong
    (Nói về cung Phúc Đức thấy những sao trên)

    - Đào Thai hội hợp chớ vương
    Phúc cung có gái tìm đường gió trăng

    - Đào Hồng Hoa Cái nhập môn
    Ắt rằng có gái đẹp khôn khác thường
    (Những sao này xuất hiện tại cung Phúc Đức)

    Khi luận về Đào Hoa Riêu Hỉ Mộc Dục đừng nên có thái độ võ đoán hễ cứ thấy chúng là chê, là xua tay lắc đầu. Quân tử có hai loại chân quân tử và ngụy quân tử thì tiểu nhân cũng có hai loại chân tiểu nhân và giả tiểu nhân. Bởi vậy Đào Hoa Thiên Riêu hay Hoa Cái Mộc Dục còn phải tham bán tìm hiểu coi xem là chân hay giả đã.
    Tham bán tìm hiểu cùng với các sao khác, tham bán với cung Phu, cung Tử và cung Phúc Đức. Tỉ dụ câu phú: Cự Cơ Mão Dậu chung vi phá đãng. Số nữ thủ mệnh Cự Cơ cung Mão Dậu sớm muộn cũng thành con người phá đãng là tại sao? Tại vì cung Phúc Đức có sao Thiên Lương hãm ở Tỵ Hợi. Nếu như Cự Cơ Mão Dậu còn kèm theo Đào Hoa Thiên Riêu hoặc Đào Hoa Mộc Dục nữa thì tính phá đãng tăng gấp bội.
     
  8. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ HOA CÁI
    Hoa Cái thuộc kim, chủ về vẻ uy nghi cùng với lợi ích công danh. Hoa Cái tượng trưng chiếc lọng như ta nói Tiền Mã Hậu Cái nghĩa là đằng trước ngựa đằng sau lọng che chỉ một hình tượng thành đạt.
    Hoa Cái đứng với Tả Hữu Khoa Quyền công danh thuận lợi. Hoa Cái gặp Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ thành ra bộ “tứ linh” giúp cho sự thành công dễ dàng.
    Hoa Cái đứng với Tấu Thư thì văn mặc thanh cao. Hoa Cái đi cùng Xương Khúc Khôi Việt Khoa Quyền thi cử, xuất sĩ hanh thông.
    Hoa Cái ở mệnh nữ ưa làm dáng. Hoa Cái vào cung Thiên Di ra ngoài thường được quí mến. Có câu phú: “Hoa Cái cư Di xuất ngoại cận quí là thế”
    Hoa Cái đứng với Mộc Dục, Thiên Riêu đàn bà đa tình dâm đãng. Hoa Cái đi với Kình Đà Không Kiếp thì khó hưởng của cải ông bà cha mẹ.
    Các sách Tử Vi Trung Quốc khi nói về sao Hoa Cái thấy khác hẳn. Tử Vi Đẩu Số Tinh Diệu Tổng Đàm viết: Hoa Cái là tinh diệu của tôn giáo tín ngưỡng. Hoa Cái gặp các Không diệu tại Mệnh cung mang tâm ý thiên về triết lý và tôn giáo. Hoa Cái có tác dụng làm tiêu đi những rắc rối quan tụng hình pháp. Hoa Cái hợp với Khôi Việt, mệnh Khôi Việt Hoa Cái không bao giờ có nỗi lo về quan tụng.
    Qua kinh nghiệm cho thấy rằng Hoa Cái không dính dấp chỉ đến tôn giáo triết lý như các lý thuyết gia Tử Vi khoa bên Trung Quốc đã đề cập, nhưng cũng không triệt tiêu hình ngục.
    Khoa Tử Vi Việt giảng về Hoa Cái chính xác hơn, nhất là Hoa Cái đi bên sao Mộc Dục và câu phú: Cái ngộ Mộc gái nào đoan chính. Hoa Cái ưa làm dáng khi lâm mệnh vị nữ nhân.
    Rồi đến bộ tứ linh Long Phượng Cái Hổ thấy nhiều phần ứng nghiệm. Còn cách Tiền Mã Hậu Cái e rằng là vẽ rắn thêm chân.


    NÓI VỀ VÒNG TƯỚNG TINH
    Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư không hề nhắc đến vòng sao Tướng Tinh. Nhưng nhiều sách Tử Vi bên Trung Quốc có ghi vòng Tướng Tinh. Khoa Tử Vi Việt chịu ảnh hưởng của Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư nên không có vòng sao này. Tuy nhiên vì vòng Tướng Tinh trong đó có Hoa Cái, Đào Hoa (Hàm Trì) và Kiếp Sát nên cũng cần hiểu qua về vòng sao này ra sao?
    Trước hết là cách an sao Tướng Tinh. Tướng Tinh thuộc sao của niên chi chỉ tính theo thế tam hợp.
    Dần Ngọ Tuất Tướng Tinh an ở Ngọ
    Thân Tí Thìn Tướng Tinh an ở Tị
    Tỵ Dậu Sửu Tướng Tinh an ở Dậu
    Hợi Mão Mùi Tướng Tinh an ở Mão
    Tướng Tinh chỉ đi theo chiều thuận như vòng Thái Tuế. Lần lượt đến Phan An, Tuế Dịch, Tức Thân, Hoa Cái, Kiếp Sát, Tai Sát, Thiên Sát, Chỉ Bối, Hàm Trì, Nguyệt Sát, Vong Thần.
    Chỉ có ba sao của vòng Tướng Tinh xuất hiện trong lá số Tử Vi Việt là: Đào Hoa (Hàm Trì), Hoa Cái, Kiếp Sát. Vị trí y hệt vị trí an bài qua vòng Tướng Tinh, nghĩa là Đào Hoa ở bốn cung Tí Ngọ Mão Dậu. Hoa Cái ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi, Kiếp Sát ở bốn cung Hợi Tí Dần Thân.
    Phan Án có hai ý nghĩa cơ bản:
    a. Làm tăng thanh thế, tác dụng giống như Bát Tọa, chỉ khác ở điểm Phan Án có lưu niên trong khi Bát Tọa thì không. Bởi vậy Thai Tọa làm tăng thanh thế cho cả một đời, còn Phan Án tăng thanh thế cho một năm.
    b. Gần cận người cao sang quyền thế, hay nói khác đi là dễ gặp quí nhân. Phan Án rất hợp với Thiên Khôi, Thiên Việt. Có Khôi Việt đứng bên thì quí nhân chiếu cố, nhưng chỉ là hữu danh vô thực kiểu nhân sĩ tư vấn vớ vẩn.
    Tuế Dịch được xem như một loại lưu niên Thiên Mã và tính chất là một. Lưu Lộc mà có Tuế Dịch thì cũng kể làm Lộc Mã giao trì, vào Mệnh vào Tài Bạch Quan Lộc hay Thiên Di đều chủ về sự tấn tài tấn lộc.
    Tuế Dịch gặp Lộc Tồn cố định trên lá số thì lại không kể làm Lộc Mã giao trì, chỉ gặp lưu Lộc mới kể. Nếu lưu Lộc đứng cùng, đối xung với Lộc Tồn cố định mà thêm cả Tuế Dịch nữa gọi bằng hiện tượng “động” đưa đến đi xa hoặc thay đổi công việc lâu dài.
    Tức Thần mang ý nghĩa thiếu xung động trì trệ nằm ỳ một chỗ. Tức Thần vào cung Phúc Đức tâm tư tiêu cực dễ bi quan, luôn luôn nghĩ đến thất bại thành ra kém nỗ lực phấn đấu.
    Tức Thần không nên đứng cùng sao Thiên Cơ ở Mệnh hay Phúc Đức hễ làm việc mà thấy hơi khó là bỏ. Tức Thần hợp với sao Thiên Lương, đứng cùng Thiên Lương thì giỏi tùy hòa mà thành ra đắc lực.
    Tức Thần gặp Hàm Trì (Đào Hoa) dễ thuận chịu an bài của mệnh vận, nhất là đối với duyên tình, thiếu ý chí mạnh, gặp sao hay vậy.
    Tai Sát trên cơ bản tính chất là tai nạn thường đem hung hiểm tới. Cần phối hợp với các sao khác để đo trình độ hung hiểm.
    Tai Sát bao giờ cũng đóng ở cung Tí Ngọ Mão Dậu nếu nó gặp Đào Hoa Mộc Dục hoặc Văn Xương Hóa Kị mà lưu niên lưu nguyệt thấy luôn các sát kị xung hội hẳn nhiên là có tai họa vì tình, bị gái lừa trai gạt, hoặc bị đánh đập vì ghen tuông
    Tai Sát vào cung Tật Ách làm tăng thêm sự trầm trọng của hung hiểm. Tai Sát chỉ gây hung hiểm khi nó đến cung nào, toa rập với các hung sát tinh khác, trường hợp cung đó cát tường thì tai sát vô lực.
    Thiên Sát tính chất ngược với Thiên Đức. Thiên Đức đem thuận lợi cho quan hệ với người trên, bố mẹ hoặc người hơn chức vị mình. Thiên Sát gây khó khăn cho quan hệ này. Thiên Sát ở mệnh hay vận hạn khó được thượng ty nâng đỡ hoặc bị người thân ghét bỏ.
    Chỉ Bối là sao hay bị người nói xấu, nó cùng chất với Phi Liêm. Chỉ Bối đi cặp với văn tinh Khoa, Xương Khúc thì hay bị người ghen với tài học mà phỉ báng.
    Nếu Chỉ Bối đứng cùng Phi Liêm thì tình trạng bị dèm pha càng nặng, hoặc gặp Thiên Cơ cũng vậy. Chỉ Bối đứng với Thiên Lương Hóa Lộc là con người vì tham lợi việc gì cũng làm. Chỉ Bối kị đóng ở Mệnh cung, Huynh Đệ và Nô Bộc.
    Nguyệt Sát na ná Thiên Sát nhưng tai ách thường đến một cách âm thầm. Nguyệt Sát ảnh hưởng mạnh với số nữ hơn nam mạng.
    Nguyệt Sát phải có sự trợ lực của sao mà nó đứng cùng thì mới gây rắc rối mạnh. Nguyệt Sát vào cung Tật Ách là có bệnh khó phát hiện rõ ràng. Nguyệt Sát gặp Văn Khúc Văn Xương Hóa Kị cũng có thể gặp họa trên tình ái.
    Vong Thần mang tính chất phá hoại bất ngờ, công việc đang trôi chảy đột nhiên bị phá hoặc do đối thủ hoặc hoàn cảnh thay đổi làm cho mất tiền của, hao tốn tài lộc.
    Vong Thần là chuyện thất bại bất ngờ, nhưng nó cũng còn mang ý nghĩa lãng phí nếu nó đứng với Hình, Hao hay Không Kiếp thành ra con người thiếu khả năng quản thủ tiền bạc.

    LUẬN VỀ VÒNG TRÀNG SINH
    Vòng Tràng Sinh là quá trình phát triển của sinh mệnh chia ra 12 giai đoạn. Vòng Tràng Sinh đứng mỗi cung một “sao”. Theo các sách Trung Quốc thì số nam đi theo chiều thuận, số nữ đi theo chiều nghịch. Khoa Tử Vi Việt thì Dương Nam Âm Nữ đi theo chiều thuận, và Âm Nam Dương Nữ đi theo chiều nghịch.
    Vòng Tràng Sinh có một khúc mắc ấy là sao Mộ (hay giai đoạn phát triển Mộ) chỉ có theo chiều thuận thì Mộ mới đóng ở Thìn Tuất Sửu Mùi là cung Mộ khố mà thôi, theo chiều nghịch sao Mộ không đóng ở bốn cung đó.
    Vậy thì Thìn Tuất Sửu Mùi vốn vẫn là tứ Mộ hay còn có sao Mộ nữa. Nếu phải có sao Mộ vào Thìn Tuất Sửu Mùi thì chuyện thuận nghịch của vòng Tràng Sinh không tồn tại nữa và vòng này chỉ có một chiều thuận mà thôi cho nam hay nữ, dương hay âm.
    Câu phú: Phu cung đóng ở miền tứ Mộ. Gia Hồng Loan ấy số khóc chồng.
    Dịch từ câu: “Sở ai giả, Hồng Loan tứ Mộ liệt Phu quân chi vị” sẽ phải luận đoán thế nào? Hồng Loan ở Thìn Tuất Sửu Mùi hoặc đứng với sao Mộ? Muốn gỡ nút rối này thì chỉ có một con đường chấp nhận vòng Tràng Sinh đi theo một chiều như vòng Thái Tuế.
    Rõ ràng câu phú trên chỉ vào chỗ đứng Thìn Tuất Sửu Mùi của sao Hồng Loan vì ở Thìn Tuất Sửu Mùi Hồng Loan thường gặp Cô Thần Quả Tú. Cô Thần Quả Tú không bao giờ đứng ở các cung Tí Ngọ Mão Dậu. Trong khi Tràng Sinh đi nghịch thì Mộ lại ở Tí Ngọ Mão Dậu.

    LUẬN VỀ TRÀNG SINH
    Tràng Sinh là giai đoạn mở đầu của nhân sinh. Nó không phải là giai đoạn mà sinh mệnh lực mạnh mẽ nhất, nhưng lại là giai đoạn mà sinh mệnh lực nung đúc chứa chất đầy đặn nhất. Cung nào trong lá số có sao Tràng Sinh thì trường cửu, tích lũy và đầy đặn. Như Mệnh cung gặp Tràng Sinh thì sinh mệnh lực mạnh mẽ, cung Huynh Đệ có Tràng Sinh thì anh em thân thiết đắc địa, bạn bè tri kỷ, cung Phụ Mẫu có Tràng Sinh thì được hưởng phúc lộc mẹ cha, sự giúp đỡ của quí nhân; Tràng Sinh vào cung Tài Bạch thì tài sản tích tụ…
    Chỉ duy có Mã gặp Tràng Sinh thì vất vả ngược xuôi vì Thiên Mã chủ “động” nên mới có câu phú:Mã ngộ Tràng Sinh chung thân bôn tẩu. Hoặc Mã hoặc Tràng Sinh vừa đủ, cả Mã lẫn Tràng sinh là thái quá.

    LUẬN VỀ MỘC DỤC
    Mộc Dục là giai đoạn thứ hai của nhân sinh. Người sinh ra trước hết cần tắm rửa cho sạch đi những huyết ô của bào thai. Tính chất Mộc Dục tiếp tục là tích lũy, nhưng lại đoán định qua tác dụng đào hoa. Khi Mộc Dục đi theo chiều thuận của Tràng Sinh thì sẽ nằm ở Tí Ngọ Mão Dậu mà cặp với sao Đào Hoa ở độ làm thành cách Đào Hoa Mộc Dục. Nếu theo chiều ngược Mộc Dục sẽ nằm ở Thìn Tuất Sửu Mùi không gặp sao Đào hoa nữa. Đào Hoa đứng bên Mộc Dục tính dục vượng thịnh hẳn đến độ dâm đãng.
    Như vậy thì Tràng Sinh phải có chiều nghịch chiều thuận chứ không thể chỉ một chiều thuận, cứ theo chiều thuận không thôi thì Đào Hoa luôn luôn gặp Mộc Dục đàn bà con gái thành mất nết hết còn gì. Mộc Dục vào Thìn Tuất Sửu Mùi chất đào hoa của nó bị triệt tiêu.
    Mộc Dục không phải là chính đào hoa chỉ coi như thiên đào hoa thôi, bởi vậy chất đào hoa của nó có phần bất lương, bất chính.
    Mộc Dục gặp Lộc Tồn Hóa Lộcthì chất đào hoa biến thành tài lộc khả dĩ nhờ người khác phái mà phấn phát. Tỉ dụ nam mạng Mộc Dục gặp Lộc đi buôn bán quần áo phấn son hoặc làm ca kịch sĩ… rất hợp.
    Mộc Dục gặp Đào Hoa, Thiên Riêu, Thiên Hình, Hồng Loan, Thiên Hỉ thì chỉ phát triển chất đào hoa mà thôi. Mộc Dục gặp Xương Khúc Hóa Kị vì tình mà hết nghiệp. Mộc Dục gặp Tham Lang Hóa Kị trăng hoa chim vợ cướp chồng. Mộc Dục đứng với Long Trì cẩn thận tai nạn sông nước. Mộc Dục đứng ở Mệnh cung vô chính diệu thì học hành dở dang. Mộc Dục gặp Đào Riêu Hoa Cái là người đam mê sắc dục.

    LUẬN VỀ QUAN ĐỚI
    Quan Đới là đệ tam giai đoạn bắt đầu trưởng thành, quan đới nghĩa đen là mũ mão thắt lưng. Khi luận đoán thì Quan Đới là sự trưởng thành, đứng cung nào đều mang tính chất chín chắn, phát triển.
    Quan Đới vào Quan Lộc tượng trưng cho hy vọng phát triển sự nghiệp, vào cung Phúc Đức là đầu óc tư tưởng đã thành thục. Quan Đới đứng với các sao Không và Hoa Cái là có khuynh hướng triết lý.
    Quan Đới vào các cung Phụ Mẫu, Huynh Đệ, Nô Bộc trợ giúp cho các sao tốt đã sẵn có ở các cung này. Quan Đới gặp Long Trì Phượng Các, Thiên Tài, Văn Xương, Văn Khúc thì gia tăng thông minh và tài nghệ.
    Quan Đới đứng với Thái Tuế, Địa Kiếp lại thành ra gia nhân nhà quyền thế. Quan Đới gặpnhiều sát bại tinh biến thành cái tròng lọng, hay một sợi dây câu thúc vì công danh mà khổ.

    LUẬN VỀ LÂM QUAN
    Lâm Quan là giai đoạn thứ tư, khi đã trưởng thành rồi tất phải ra đời phấn đấu, xã hội xưa việc xuất sĩ được gọi là lâm quan (ra làm quan) phục vụ. Lâm Quan gặp Đào Hoa thì ưa phục vụ người khác phái, công việc liên quan với người khác phái đưa đến phát đạt.
    Thất Sát Phá Quân đứng với Lâm Quan tạo thành tâm lý thích làm nhiều công chuyện khác, lắm nghề. Lâm Quan gặp Thiên Cơ Thiên Đồng thì công việc thường bị thay đổi. Lâm Quan gặp được Khôi Việt là người có chức vụ tương đối cao. Lâm Quan có tính hay khoe khoang và ăn nói kiêu kỳ. Lâm Quan gặp các hung sát tinh dễ rắc rối phiền lụy vì công việc chức vụ.

    LUẬN VỀ ĐẾ VƯỢNG
    Đế Vượng là giai đoạn cực thịnh của sinh mệnh lực, nó đã lên đến tối cao điểm và khi đến đây rồi thì chỉ còn một nước tiếp theo là suy thoái. Khỏe nhất mà cũng nhiều nguy cơ hơn hết.
    Đế Vượng vào cung Quan Lộc tốt nhất, nếu có thêm Tả Hữu càng hay. Đế Vượng đứng với Tham Lang Hỏa Tinh, Linh Tinh bạo phát, bạo tàn. Tử Vi có Đế Vượng tăng hẳn sự tôn quí.
    Thiên Phủ, Thái Dương, Thái Âm cũng vậy, với điều kiện Thái Dương đắc địa cho người sinh ngày, Thái Âm đắc địa cho người sinh đêm và Thiên Phủ miếu vượng có Đế Vượng khả năng lãnh đạo tăng lên

    LUẬN VỀ SUY
    Đây là giai đoạn của sinh mệnh lực chuyển từ vượng đến nhược. Nó vào cung Phụ Mẫu khiến cho quan hệ thân thiết với cha mẹ thành nhạt xa. Vào Mệnh Thân cung thì chí phấn đấu không bền. Vào Tài Bạch cung thiếu lòng tự tin. Vào Quan Lộc không hăng hái với việc lập công danh, an phận. Suy lưu niên, lưu nguyệt tác dụng mạnh hơn Suy cố định trên lá số. Suy đóng cung Phúc Đức dòng họ phân ly sơ tán.
    Suy mà đóng vào Mệnh Thân cũng làm cho con người cùn nhụt chí phấn đấu làm việc đầu voi đuôi chuột. Vào cung Tài Bạch thì cái tự tín tâm kiếm tiền thiếu mạnh mẽ không thể kinh doanh buôn bán. Vào cung Quan Lộc cung chuyện công danh quyền chức dễ bị đẩy qua thế yếu.

    LUẬN VỀ BỆNH
    Bệnh là cung giai đại biểu một giai đoạn phát triển trong quá trình nhân sinh. Vượng rồi suy, suy rồi bệnh, nhưng không phải bệnh mang cái nghĩa là đã suy đến cùng cực.
    Bệnh vào Mệnh cung không thể bảo rằng người ấy mắc bệnh, sẵn sàng mang bệnh. Nó chỉ nói lên cái lực sinh mệnh không vững vàng. Vào Phụ Mẫu, Huynh Đệ thì duyên phận với người thân bất túc. Vào Tài Bạch ý chí tìm tiền bạc nhược, thiếu đầu óc thực tế, nếu gặp Hóa Kị cùng các sát tinh khác thì do bệnh tật mà hao tốn tiền tài. Vào Quan Lộc cung ở trường hợp có cả Thiên Lương thì nên theo đuổi nghề thuốc (thầy lang, y tá), vào những ngành cần một cá tính quyết liệt không mấy hay.
    Sao Bệnh cố định ảnh hưởng không nặng bằng ảnh hưởng vào vận hạn lưu niên. Bệnh đóng cung Tật Ách sức khỏe kém.

    LUẬN VỀ TỬ
    Tử không thể giảng theo lề lối vọng văn sinh nghĩa cho là sự chết chóc. Bệnh đến độ cùng cực là tử, một giai đoạn yếu nhược hoàn toàn của sinh mệnh.
    Tử vào Phụ Mẫu, Huynh Đệ thân thuộc sơ ly, nếu nó gặp Kị Hình ở cung này thì không được cả sự che chở nuôi dưỡng của bố mẹ.
    Tử đứng cung Phúc Đức, con người tâm ý tiêu cực, không bao giờ thành chủ động, an phận, tùy thuộc. Tử đóng cung Tài Bạch cái lòng ham kiếm tiền nguội lạnh. Có khuynh hướng dành dụm cất dấu hơn là xoay sở phát triển.
    Tử vào Mệnh cung tính thâm trầm kín đáo, pha ít nhiều bi quan, dễ buồn. Cũng như các sao khác thuộc vòng Tràng Sinh, Tử ảnh hưởng vào vận hạn lưu niên lưu nguyệt lưu nhật mạnh hơn.

    LUẬN VỀ MỘ
    Ba sao trọng yếu của vòng Tràng Sinh là: Tràng Sinh, Đế Vượng và Mộ gọi tắt bằng Sinh - Vượng - Mộ. Sinh là sinh ra và lớn lên, Vượng là cường tráng thành thục, Mộ là tiềm tàng.
    Vậy thì không có nghĩa là chôn đi sinh mệnh hoàn toàn đoạn tuyệt. Mệnh Thân cung không nên đứng vào chỗ có sao Mộ, sự khai triển thành công sẽ khó khăn vất vả hơn.
    Mộ vào cung Tài Bạch lại hay vì dễ tích súc của cải hơn, dù số nghèo cũng không đến nỗi khổ, số giàu thì bền. Hóa Lộc đóng cung Mộ tiền bạc thiếu linh động phát triển.
    Đến đây lại gặp phải nghi vấn khi các lý thuyết gia nêu ra nguyên tắc: Lộc Tồn không bao giờ đóng vào cung Mộ
    Nếu Tràng Sinh đi theo chiều nghịch đương nhiên Mộ vào cung Tí Ngọ Mão Dậu. Lộc Tồn có mặt ở đây đối với tuổi Ất, Đinh, Kỷ, Tân và Quí. Như vậy Mộ cung Thìn Tuất Sửu Mùi không liên quan đến các sao Mộ của vòng Tràng Sinh?
    Áp dụng nguyên tắc này thì vòng Tràng Sinh chỉ có một chiều đi thuận mà thôi. Nhưng mà rành rành Tử Vi Đẩu Số lại ghi vòng Tràng Sinh thuận và nghịch hai chiều tùy theo Dương Nữ hay Âm Nam hoặc tùy theo nữ mạng nam mạng.
    Qua kinh nghiệm thì tất cả những cung Mệnh nào đóng vào tứ Mộ cuộc đấu tranh cho sự thành đạt thường khó khăn vất vả hơn như Tử Phá, Tham Vũ, Thiên Phủ, Thiên Tướng…

    LUẬN VỀ TUYỆT
    Tuyệt là giai đoạn xấu nhất. Tử với Mộ còn có sinh nhưng Tuyệt là tuyệt diệt. Cho nên Tuyệt đóng Phụ Mẫu, Huynh Đệ hay Phu Thê kể là tuyệt đối xấu. Tuy nhiên đây chỉ là tạp diệu thôi, còn cần phối hợp với các sao khác ở cung này để quyết đoán, không chỉ căn cứ vào một sao Tuyệt.
    Tuyệt vào cung Tật Ách có tốt như Triệt Tuần không? Căn cứ vào nghĩa tuyệt của nó? Không và trái lại. Tuyệt vào Quan Lộc và Tài Bạch là cho ý chí kém cỏi, ưa nản, thiếu hăng hái chiến đấu.
    Các sách Trung Quốc không thấy nói về cách Tuyệt Hỏa tức Tuyệt gặp Hỏa Tinh. Nhưng Tử Vi Việt có Tuyệt gặp Hỏa Tinh khi Mệnh cung đóng Hợi thì lại là con người quật khởi hiên ngang. Vận có chúng thì dễ xoay chuyển thời cơ, như con ngựa Đích Lưu của Lưu Bị nhảy qua Đàn Khê, sắp cùng khốn mà lại vượt lên.
    Tuyệt Hỏa đi cùng Thất Sát thành ra người tàn nhẫn, phải chăng là vì tâm ý bị dồn nén đến cùng độ mà phản công mạnh trở lại?
    Cung Tỵ Sát ấy là đẹp quá
    Nếu chẳng may Tuyệt Hỏa cùng ngồi
    Ấy phường tàn nhẫn đó thôi
    Ấy phường khát máu tanh hôi sá gì

    LUẬN VỀ THAI
    Sau khi tuyệt diệt thì đến một sinh mệnh khác khai mở. Nhưng Thai đại biểu cho yếu nhược, non nớt chưa có một sức mạnh nào cả. Vậy thì Thai đóng Mệnh cung thì ý chí lực còn non kém, nhưng đồng thời nó cũng đại biểu một hy vọng.
    Theo sách vở Trung Quốc, Thai đứng với Nhật Nguyệt Thiên Lương ở Tài Bạch, Quan Lộc chỉ vào một kế hoạch lâu dài để phát triển cơ sự nghiệp? Tử Vi Việt nói về sao này nhiều hơn.
    Thai đóng cung Tử Tức gặp thêm nhiều quí tinh thì con đông, dễ đẻ dễ nuôi, nếu gặp nhiều sát tinh thì ngược lại. Thai đóng Mệnh mà gặp Khôi Việt Hồng Loan là bậc văn chương?
    Thai đi với Kình Đà Linh Hỏa thì lại ra ngu dốt. Cung Phu Thê có Đào Thai vợ chồng dễ đưa đến tình ngoại hôn. Số nữ mà Mệnh cung hay Phu cung có Thai Đào tiền dâm hậu thú. Đại tiểu hạn Thanh Long Thiên Hỉ dễ đạt ước nguyện về con cái.

    Có những câu phú về sao Thai như sau:
    - Thai phùng Sát Dục tu phòng sản phụ
    (Số nữ ở Tật Ách hay Tử Tức có Thai gặp Kiếp Sát Mộc Dục sanh đẻ khó khăn)

    - Nữ mệnh Thai Đào phùng Kiếp gián đoạn tử cung
    (số nữ có Thai Đào Kiếp Sát có gì không ổn về bộ phận sinh đẻ)

    - Thai tinh ngộ Thái Âm cung Tử
    Tất là con cầu tự mới sanh

    - Thai phùng Tả Hữu Hợi cung
    Nam nhân ắt có con dòng thiếp thê
    (Ở cung Tử Tức)

    - Tử cung Thai ngộ Hỏa Linh
    Đào Thai những giống yêu tinh muộn phiền

    - Thai phùng Đào Hỉ vận này
    Vợ chồng mừng đã đến ngày nở hoa.

    LUẬN VỀ DƯỠNG
    Dưỡng là nuôi, kết thai rồi thì phải nuôi dưỡng nên Dưỡng với Mộ bao giờ cũng ở hai cung đối chiếu nhau trên lá số. Dưỡng cũng như Mộ đều mang ý nghĩa tiềm tàng ẩn phục. Nhưng Mộ thì ẩn tàng khi đã vào thời kỳ suy tàn còn Dưỡng thì ẩn tàng của giai đoạn chưa hoàn toàn thành thục mà dịch kinh gọi bằng “tiềm long vật dụng” (rồng ẩn trong ao). Dưỡng rất hợp cho thời kỳ sửa soạn để phát động.
    Dưỡng vào cung Tật Ách là bệnh đã xâm nhập tiềm tàng. Dưỡng vào Quan Lộc làm việc gì cũng cần suy tính có kế hoạch chu đáo không thể cứ làm bừa.
    Đối với Tử Vi Việt thì Dưỡng đại biểu tính chất cẩn thận và hợp với nghề chăn nuôi. Dưỡng vào cung tử tức thì nuôi con người hoặc con riêng. Dưỡng vào cung Huynh Đệ thì có anh em nuôi.
    Tam Không ngộ Dưỡng đinh ninh
    Nuôi con nghĩa tử giúp mình yên vui
    Khốc Hư ngộ Dưỡng không lành.
    Tướng Binh xung phá hẳn đành hoang thai
    (Nói về những sao trên đóng vào cung Tử Tức)
    Vòng Tràng Sinh là quá trình sinh ra, lớn lên, già nua và tuyệt diệt của một hành thì từng “sao” không có ngũ hành sở thuộc nữa. Có một vài sách Tử Vi Việt ghi: Tràng Sinh thuộc Thủy, Mộc Dục thuộc Thủy, Quan Đới thuộc Kim là sai đến như Tử mà thuộc Thủy nữa thì là cả một chuyện khôi hài.

    LUẬN VỀ VÒNG BÁC SĨ
    Vòng Bác Sĩ cũng có tên gọi khác vòng Lộc Tồn vì Bác Sĩ đứng cùng một cung với Lộc Tồn, gồm mười hai sao mỗi sao an một cung trên lá số: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỉ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
    Vòng này an theo hai chiều thuận nghịch âm dương, cũng như vòng Tràng Sinh Tử Vi Việt an theo chiều thuận đối với Dương Nam Âm Nữ và nghịch đối với Âm Nam Dương Nữ.
    Có câu quyết về sao Bác Sĩ rằng: “Bác Sĩ thông minh, Lực Sĩ quyền”. Câu này bất túc, không hẳn là như thế. Bác Sĩ phải có Tả Hữu thì mới phát huy đặc tính tốt kể trên.
    Bác Sĩ gặp Xương Khúc mới thông minh, hội Khôi Việt mới vinh dự được người đề đạt, đồng cung với Phụ Bật mới có người thưởng thức nâng đỡ.
    Nếu không Phụ Bật, không Xương Khúc, không Khôi Việt thì Bác Sĩ trở nên vô dụng. Có thuyết cho rằng lưu niên Bác Sĩ đi cùng Xương Khúc khả dĩ hóa giải được cái xấu do Hóa Kị mang đến.
    Bác Sĩ đóng cung Phúc Đức mà gặp Cô Quả thì cô đơn, trầm lặng, ít người thân thích và không ưa giao du. Bác Sĩ thuộc Thủy.

    LUẬN VỀ LỰC SĨ
    Lực Sĩ chủ quyền lực đóng vào sinh niên mệnh cung tác dụng khác hẳn. Tỉ dụ sinh năm Ngọ mà Mệnh lập tại Ngọ cung gặp Lực Sĩ.
    Không phải cứ có Lực Sĩ là có quyền. Lực Sĩ là một tạp diệu nó chỉ phụ giúp cho những sao trên cấp để mà thể hiện tính chất. Như Vũ Khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền mà được thêm Lực Sĩ là chứng triệu nắm quyền tài chánh. Như Thiên Cơ Thiên Lương mà đứng bên Lực Sĩ là chứng triệu nắm quyền về kế hoạch.
    Lực Sĩ bởi vậy cần đi bên Hóa Quyền mới thành Quyền. Nếu Hóa Quyền ấy phụ giúp cho Phá Quân, Thái Dương, Tham Lang, Vũ Khúc càng tốt lắm.
    Lưu niên Lực Sĩ cũng cần lưu niên Hóa Quyền, nếu lưu niên Lực Sĩ lại đứng đối xung với Lực Sĩ cố định thêm sao Hóa Quyền sức mạnh tăng hơn.
    Lực Sĩ kị hội ngộ hung sát tinh nhất là sao Kình Dương căn cứ vào câu phú: Kình Dương ngộ Lực Sĩ Lý Quảng bất phong (Mệnh hạn thấy Kình Dương Lực Sĩ như tình cảnh Lý Quảng ngày xưa bị giáng chức). Lực Sĩ thuộc Hỏa.

    LUẬN VỀ THANH LONG
    Có câu quyết: “Thanh Long hỉ khí, Tiểu hao tiền”. Sao Thanh Long thường mang tin vui. Thanh Long cùng Hồng Loan Thiên Hỉ chủ tin mừng về hôn nhân, về sanh con.
    Thanh Long gặp Khôi Việt, Thiên Quí, Thiên Quan, Thiên Phúc chủ thăng chức. Thanh Long có khả năng hóa giải hung họa do Bạch Hổ gây ra như quan tụng, tang sự. Thiên Phủ Thanh Long Hóa Khoa đóng vào cung Tài Bạch thì lấy vợ hoặc gặp hỉ sự mà phát tài (vớ được vợ giàu chẳng hạn)
    Khoa Tử Vi Việt đưa thêm nhiều tác dụng của Thanh Long:
    - Thanh Long ở Mệnh mà không bị sát tinh thì có tài biến hóa công việc.
    - Thanh Long gặp Lưu Hà giống như rồng vào biển khơi có lợi cho thi cử công danh
    - Thanh Long bị Đà Kị Khốc Hư Không Kiếp hãm lại thành con người hèn nhát
    - Thanh Long đứng với Hóa Kị ở Thìn Tuất Sửu Mùi như rồng ẩn trong mây có thể dễ xoay chuyển thời cơ. Thanh Long thuộc Thủy
    LUẬN VỀ TIỂU HAO
    Tiểu Hao chủ về hao tổn, mất mát. Tiểu Hao gây cho tâm ý điều hối hận, tiếc thương. Tiểu Hao kị gặp Văn Khúc và Hóa Kị, nếu thấy những sao này hội tụ vào Mệnh, Tài Bạch hoặc Phúc Đức thì cả cuộc đời hay mất mát những đồ vật đã mua sắm, nhất là lơ đễnh để mất những đồ vật lặt vặt.
    Tiểu Hao đi với Phi Liêm thì mua sắm mà chẳng suy tính, mua rồi mới hối tiếc. Khoa Tử Vi Trung Quốc đối với sao Đại Hao với cùng hai lập luận riêng biệt. Trong khi khoa Tử Vi Việt lại bàn luận Song Hao làm một thể (sẽ nói khi tới sao Đại Hao). Tiểu Hao thuộc Hỏa

    LUẬN VỀ TƯỚNG QUÂN
    Có câu quyết: “Tướng Quân uy vũ Tấu Thư phúc”. Do hai chữ uy vũ trên đây nên Tướng Quân rất cần gặp Hóa Khoa, nhất là Tử Vi Hóa Khoa, Thái Dương Hóa Khoa, Vũ Khúc Hóa Khoa, hay Văn Xương Hóa Khoa.
    Những sao trên mà đóng Quan Lộc thì phong quan vinh dự tăng thêm. Tướng Quân đứng với Hóa Kị sẽ đưa đến tình trạng vì có thời đắc ý mà dương dương tự đắc đưa đến hiềm thù ghét bỏ.
    Tướng Quân tính chất can trường, nếu đứng cùng Thiên Tướng đắc địa gọi bằng cách lưỡng Tướng, có quyền tất hiển hách. Tướng Quân đứng với Thiên Hình, Quốc Ấn, Thiên Mã, Thiên Khốc theo võ nghiệp tốt. Số nữ mà có Tướng Quân hay Thiên Tướng tính hay ghen và thích đoạt quyền chồng. Tướng Quân thuộc Mộc.

    LUẬN VỀ TẤU THƯ
    Tấu Thư là sao mang phúc trạch đến, nhưng đồng thời nó cũng liên quan đến văn mặc từ chương, ăn nói, hùng biện. Tấu Thư đứng ở cung Phúc Đức, Quan Lộc giỏi về viết lách, nhưng đứng với Hóa Kị thì thiên hướng về công kích phê bình.Tấu Thư đóng Mệnh bên cạnh Hồng Loan số nữ ăn nói thật có duyên. Tấu Thư có tài về từ tụng đi cùng Khôi Việt Hóa Khoa dễ thắng trong việc tranh cãi mà không gây oán hận.
    Tấu Thư đứng cùng bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương làm “đao bút lại” đắc lực. Tấu Thư đứng với Bạch Hổ từ tụng ngôn luận đanh thép. Tấu Thư có thêm Xương Khúc ăn nói thuyết phục hay. Tấu Thư nói giỏi người theo ngay về là vậy. Tấu Thư thuộc Kim

    LUẬN VỀ PHI LIÊM
    Có câu thuyết rằng: “Phi Liêm khẩu thiệt Hỉ Thần diên”. Vậy thì Phi Liêm chủ về cái vạ miệng. Bởi thế khi Phi Liêm gặp Thiên Hình dễ xảy ra kiện tụng. Sách Trung Quốc có hai sao Phi Liêm lận, mà cả hai đều chung một tính chất. Như vậy là thừa, một sao Phi Liêm là đủ.
    Có nhiều sách Tử Vi Việt cho rằng Phi Liêm chủ sự vui vẻ, nhanh nhẹn, điều này sai. Rồi lại nói Phi Liêm gặp Bạch Hổ ví như cọp mọc cánh, gặp Long Phượng như rồng phụng lên cao càng sai nữa. Vì không phải chữ Phi mang nghĩa bay mà mang nghĩa loại côn trùng mối mọt.
    Phi Liêm trước sau chỉ là cái họa nhỏ gây thành khẩu thiệt tranh tụng. Phi Liêm không nên gặp Hóa Kị Văn Khúc sinh lắm chuyện. Câu phú: Đào Hoa ngộ Phi Liêm Nguyễn Tịch Tấn triều vi túy khách thì Phi đây chính là con sâu rượu đấy. Phi Liêm thuộc Hỏa.

    LUẬN VỀ HỈ THẦN
    Hỉ Thần không phải chỉ là dấu hiệu của vui mừng qua nghĩa chữ. “Hỉ Thần diên” trong câu quyết ý nói tình trạng kéo dài, lần khần, không dứt khoát. Nó cũng là mừng vui với điều kiện gặp các sao khác như Mệnh cung đứng với Xương thì cuộc đời dễ vui, những may mắn nho nhỏ như người khác lo cả cho mình. Tỉ dụ vợ quán xuyến, anh em phù trì. Nhưng nếu nó gặp Văn Khúc ở Mệnh thì những chuyện mừng vui thường bị hoãn, kéo dài, việc hôn nhân cứ lần lữa, càng nặng nếu thấy luôn cả Hóa Kị. Hỉ Thần gặp Phượng Các đem đến tin vui cho mưu sự, thi cử.
    Hỉ Thần Hoa Cái tốt ghê
    Khẩu thiệt thường đoản mọi bề đảm đang
    Hì Thần thuộc Hỏa
    LUẬN VỀ BỆNH PHÙ
    Bệnh Phù chủ bệnh, đau yếu. Bệnh Phù tuyệt đối không nên đứng với Hóa Kị ở Mệnh cung và Tật Ách cung. Bệnh Phù gặp Đào Riêu ở Tật Ách thì suy nhược vì sắc dục quá độ.
    Bệnh Phù gặp Thiên Cơ Tham Lang có bệnh về gan. Bệnh Phù gặp Liêm Trinh, Hóa Kị bệnh về thận. Bệnh Phù lại có Thiên Hình thường đưa đến giải phẫu. Bệnh Phù vào Tài Bạch buôn bán ngành dược có lợi. Bệnh Phù Hình Kị phong, sang. Không Kiếp cung Tật mọi đàng huyết hư. Bệnh Phù thuộc Thổ đới Mộc.

    LUẬN VỀ ĐẠI HAO
    Theo lý luận của các sách Trung Quốc thì Đại Hao có hai sao. Một an theo năm sinh và một an theo lưu niên. Đại Hao an theo năm sinh mang nhiều tính chất đào hoa, còn ăn theo lưu niên thì chỉ thuần túy là hao tán thôi.
    Lý luận này rườm rà không cần thiết. Vì Đại Hao gặp Đào Hoa (Hàm Trì) thì dự hao tổn mang tính chất đào hoa rồi. Đại Hao đi với Liêm Trinh, Tham Lang, Xương Khúc hoặc mấy sao Kị cũng vì tửu sắc mà hao tổn.
    Đại Hao ở Mệnh mà Thiên Hư ở cung Phụ Mẫu thì không được hưởng của cải mẹ cha. Đại Hao ở cung Tử Tức mà Tài Bạch có Thiên Hư thì con cái phá của.
    Sách Tử Vi Trung Quốc mới đưa ra nguyên tắc: “Đại Hao không nên có hàng xóm là Thiên Hư”. Ở cung vận hạn nào thấy Hao với Hư đứng chung thì sự hao tổn tăng thêm.
    Khoa Tử Vi Việt có cái nhìn khác về song Hao mà không thấy ở các sách Trung Quốc không rõ xuất xứ từ đâu. Trên ngũ hành sở thuộc hai sao Hao đều là Hỏa.
    Song Hao đắc địa Mão Dậu, Dần Thân hãm địa Tí Ngọ. Hãm với đắc không thấy ghi trên các sách Trung Quốc. Mệnh song Hao dáng dấp nhỏ nhắn, bộ tiêu hóa không khỏe mạnh.
    Mệnh song Hao theo Việt thì tính tình khôn ngoan ưa hưởng thụ, dễ đam mê (cờ bạc, tửu sắc). Hao gặp Tuyệt đồng cung là người khôn ngoan nhưng không trung thực (chỉ Đại Hao thôi)
    Song Hao gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh thường mắc nghiện thuốc sái. Song Hao đi với Phá Quân dễ lâm túng thiếu. Song Hao Mão Dậu gọi bằng cách chúng thuỷ triều Đông như trăm con sông đổ vể biển Đông làm ăn tiền bạc có lúc như nước, thêm Cự Cơ Mão Dậu càng tốt nữa.
    Cách này tuyệt đối không hề thấy sách Tử Vi nào của Trung Quốc đề cập song Hao gặp Thiên Hình, Địa Kiếp vào vận hạn thì mất trộm. Cách chúng thủy triều đông đã nói ở phần đầu sách này nhưng ý nghĩa khác hẳn.

    Những câu phú về song Hao:
    - Mão Dậu Cự Cơ rất hay
    Công danh vinh hiển lại tay hoang tàn
    Gặp song Hao là làng quán thế

    - Lao đao sớm một tối ba
    Đại Hao Hóa Kị đồng gia mệnh vì

    - Lưỡng Hao Cự Vũ Hóa Quyền
    Chiếu sai trấn thủ giặc phiên bên ngoài

    - Song Hao Tỵ Hợi nhi ngộ Sát Hình
    Giáp Canh dương nữ thủ cách yểu bần
    (Người dương nữ mệnh đóng Hợi tuổi Giáp Canh mà gặp song Hao thủ Mệnh đứng với sát tinh, và Thiên Hình thì nghèo hoặc yểu)

    - Hao ngộ Tham Lang tài sinh dâm tình ư tinh đế
    (Tham Lang gặp Hao ở Mệnh thì dâm ngầm)

    - Lưỡng Hao thiết kị ư Điền Tài
    (Hai sao Hao không nên đóng vào các cung Tài, Điền)

    - Tài Phúc nhi phùng Hao Kiếp cô bần
    (cung Tài cung Phúc xuất hiện Hao, Kiếp thường cô đơn và nghèo)

    - Thân cư Tài Bạch lai kiến song Hao, Lộc Quyền, Kiếp Hóa tất thành thương nghiệp
    (Thân ở Tài Bạch có song Hao Lộc Quyền và Kiếp Hóa buôn bán hoạnh phát nhưng cũng phải đề phòng hoạnh phá)
     
  9. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ PHỤC BINH
    Phục Binh đứng với Thiên Riêu ở Mệnh là người quyền thuật âm mưu nhiều thủ đoạn. Đứng một mình thì chỉ xảo trá vặt mà hay phản bội. Bởi thế mới có nguyên tắc Tướng Quân ở Mệnh, Phục Binh ở Thiên Di là hay vì nội Tướng ngoại Binh, ngược lại nội Binh ngoại Tướng chỉ không lớn mà hay man trá hoặc làm việc bằng mẹo vặt.
    Nếu Phục Binh hay Phục Binh Thiên Riêu mà đứng vớinhiều sao bất lợi cho Mệnh cung thì lại là nạn nhân của thủ đoạn quyền thuật. Phục Binh gặp Đà La mọi chuyện mưu tính cứ kéo dài không xong.
    Phục Binh gặp Linh Tinh Địa Kiếp dễ rơi vào phiền lụy mắc bẫy. Phục Binh gặp Quan Phù chiếu xung có rắc rối khẩu thiệt quan tụng. Phục Binh gặp Bệnh Phù đồng cung hoặc chiếu xung thì bệnh tật triền miên.
    Có những câu phú về Phục Binh như sau:
    - Đào Hồng Diêu Hỉ trong ngoài
    Lại gia Binh Tướng gái trai ngang tàng

    - Đào Hoa Thai Hỉ trong cung (Huynh Đệ)
    Phá Quân Tướng Phục chiếu xung ở ngoài
    Có chị em gái theo trai
    Say mê đến nỗi hoang thai bỏ mình

    - Trong thời Tướng Phá Phục Binh
    Ngoài thời Hoa Cái liên minh Đào Hồng
    Bản cung đối chiếu tinh tường
    Anh em có kẻ tư thông hẳn là
    (Ở cung Bào)

    - Vợ chồng nay thuận mai hòa
    Phục Binh Hóa Kị đóng tòa Phối cung

    - Binh Hình gặp Hóa Kị xung
    Đêm ngày cư xử ra lòng bạc đen

    - Khốc Hư ngộ Dưỡng không đành
    Tướng Binh xung phá hẳn danh hoang thai
    (Ở cung Tử Tức)

    - Tử cung Thai Tướng Phục Binh
    Vợ chồng ắt hẳn tư sinh thủa nào

    - Gian tà Kiếp Sát Phục Binh
    Khúc Xương Thái Tuế mưu sinh tảo tần
    (Ở cung Tài Bạch)

    - Cự Kị nên tránh đò sông
    Phục Binh Hình Việt mắc vòng gươm đao
    (Ở cung Tật Ách)

    - Phục Binh Thái Tuế Thiên Hình
    Cùng người tranh cạnh tâm tình chẳng vui
    (Ở cung Phối)

    - Phúc cung có kẻ chiến chinh
    Tướng Binh Đế Tuyệt đóng thành ba phương

    - Tướng Binh Tử Tuyệt phải là
    Có người tử trận phương xa thuở nào
    (Ở cung Phúc Đức)
    Sao Phục Binh trong khoa Tử Vi Việt phong phú hơn hẳn
    LUẬN VỀ QUAN PHỦ
    Vòng Thái Tuế có sao Quan Phù, đây là Quan Phủ. Quan Phủ vĩnh viễn sẽ đứng với Kình Dương hay Đà La (Như vậy thì vòng Tràng Sinh lại tiếp tục có nghi vấn nghịch thuận vì nếu đi thuận thì chỉ có đứng với Đà La thôi)
    Quan Phủ chủ khẩu thiệt thị phi không nên gặp thêm Hóa Kị hoặc Thiên Hình càng rắc rối nhất là đối với vận hạn. Không gặp Hình Kị tự nó vô lực. Có câu phú:
    Quan Phủ Thái Tuế một miền
    Đêm ngày chầu chực cửa công mỏi mòn
    Căn cứ vào câu phú trên đây thì gặp Thái Tuế còn nặng hơn Hình Kị. Quan Phủ thuộc Hỏa

    LUẬN VỀ VÒNG THÁI TUẾ
    Vòng Thái Tuế cũng có sự khác biệt giữa sách vở Trung Quốc và Việt Nam. Sách vở Trung Quốc với mười hai sao như sau: Thái Tuế, Hối Khí, Tang Môn, Quán Sách, Quan Phù, Tiểu Hao, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Thiên Đức, Điếu Khách, Bệnh Phù.
    Sách vở Việt với mười hai sao: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.
    Hai sao Thiếu Dương và Thiếu Âm là Hối Khí và Quán Sách. Sao Thiên Đức thành Phúc Đức. Sao Bệnh Phù thành Trực Phù
    Không biết Trực Phù của sách Việt xuất xứ ở đâu nhưng hai vòng Tràng Sinh và Thái Tuế của Trung Quốc không hợp lý.
    Đến như sao Tiểu Hao của vòng Thái Tuế trong sách vở Trung Quốc trong khi vòng Tràng Sinh đã có Tiểu Hao rồi là điều không hợp lý thứ hai.
    Ngược lại sách Việt cũng có hai sao trong vòng Thái Tuế đáng coi là không hợp lý: Thiếu Dương và Thiếu Âm với những lời giải không dứt khoát, trong khi Hối Khí và Quán Sách với lời giải vững và rõ hơn.

    LUẬN VỀ THÁI TUẾ
    Những sao của vòng Thái Tuế chỉ đi theo chiều thuận dù nam hay nữ, âm nam dương nữ hay dương nam âm nữ. Thái Tuế gặp các sao tốt mọi sự êm ả, nếu gặp hung sát tinh hay lưu niên Sát Kị tinh ắt sinh lắm phiền nhiễu.
    Thái Tuế rất sợ gặp Thái Dương hãm Hóa Kị và Cự Môn Hóa Kị. Thái Tuế cũng không nên đứng vào cung tiểu hạn đối xung với Mệnh cung sách Trung Quốc gọi bằng “phạm Thái Tuế”. Có những lá số mà Thái Tuế lúc nào cũng đối xung với Mệnh cung thì thường bị những khó khăn trở ngại luôn luôn.
    Thái Tuế thuộc dương, lợi cho người sinh năm âm và ngược lại. Như vậy lý luận gọi bằng âm dương điều hòa nếu có gặp Sát Kị thì họa hại cũng giảm.
    Thái Tuế bản tính lạnh lùng, xét đoán và lý luận. Có câu phú: “Thân cư Thái Tuế dữ nhân quả hợp” Thái Tuế gặp Xương Khúc Khoa Quyền văn chương đanh thép. Thái Tuế gặp Tấu Thư ăn nói biện thuyết. Mệnh phùng Tuế Tấu nói bằng sấm vang.
    Thái Tuế gặp Hóa Kị, Đà La bất lợi cho công danh, dễ bị tai tiếng kiện cáo tranh giành. Thái Tuế đứng với Thất Sát miếu địa là con người vừa trí vừa dũng.
    Thái Tuế đứng với Hoa Cái ở Mệnh cung giọng lưỡi kiêu kỳ. Thái Tuế đi với Tham Lang nói không thực, lòng không thành thật:
    Tham lâm Thái Tuế một miền
    Trong ngoài cơ trí đảo điên khó lường

    Thái Tuế gặp Quan Phủ là có chuyện kiện tụng:
    Sát Hình cô độc tính ương
    Quan Phủ Thái Tuế đến thường công môn

    Thái Tuế gặp Không Kiếp làm ăn suy vi:
    Tuế ngộ Không Kiếp vận suy
    Cứu tinh Mệnh có Tử Vi mới lành
    Dậu cung Hình Tuế cùng ngồi
    Tai bay vạ giá do người gây ra

    Thái Tuế kị gặp sao Bệnh Phù: Bệnh Phù Thái Tuế dở thay

    Mệnh Thân Hồng Đào vận hạn đến Thái Tuế Kiếp Sát thì vợ chồng chia ly:
    Mệnh Đào Thân lại Hồng Loan
    Hạn gặp Tuế Kiếp phụng hoàng rẽ duyên

    Thiên Phủ, Đà La, Thái Tuế thủ. Mệnh cung nơi cung Tỵ là người hay nói càn nói rỡ:
    Phủ Đà Tuế đóng Tỵ cung
    Thiềm ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày

    Vận đến sao Thái Âm hãm mà bị Đà La Bạch Hổ, Thái Tuế xung chiếu thì dễ có tang mẹ:
    Nguyệt hãm Đà Hổ Tuế xung
    Hãi thay điềm mẹ thoát vòng trần gian

    Cung bào huynh Thái Tuế đi với Xương Khúc có người anh em nổi danh:
    Khúc Xương Thái Tuế cung Bào
    Có người anh trưởng thấp cao tung hoành

    Thê cung Đà La Thái Tuế thì vợ chua ngoa:
    Đà Tham tửu sắc la đà
    Tuế Đà miệng lưỡi ắt là sai ngoa

    Cung tử tức Thái Tuế đứng với Xương Khúc thêm Long Phượng thì con cái vẻ vang:
    Tử cung Long Phượng sang giàu
    Khúc Xương Thái Tuế thập hầu tặng phong

    Nhưng sao Thái Tuế vào cung Tài Bạch lại thường không đắc thế lắm. Hãy đọc những câu phú sau đây:
    Gian tà Kiếp Sát Phục Binh
    Khúc Xương Thái Tuế mưu sinh tảo tần
    Quan Phủ Thái Tuế đa đoan
    Thiên Cơ Thái Tuế gian nan mọi đường

    LUẬN VỀ THIẾU DƯƠNG
    Thiếu Dương thuộc hỏa tượng trưng cho mặt trời thứ hai, tính chất thông minh nhân hậu. Thiếu Dương đứng cùng Thái Dương đắc địa làm tăng sự sáng sủa hưng vượng. Thiếu Dương có khả năng làm giảm nhẹ những tai họa bệnh tật nhỏ.
    Cái mặt trời thứ hai cũng như mặt trăng thứ hai là Thiếu Âm có vẻ gượng ép. Trong khi các sách Trung Quốc lại viết đi sau Thái Tuế là sao Hối Khí, tính chất hoàn toàn tương phản với Thiếu Dương.
    Hối Khí tượng trưng tình trạng tối ám ngưng trệ. Hối Khí đóng Mệnh cung thì tâm tính ác liệt, có Hình Kị càng khó chơi, vào vận hạn thì gặp tranh đoạt oan khuất.
    Hối Khí đóng cung Tài Bạch hay Quan Lộc vì tiền vì chức vị mà tâm tính độc hại hoặc lo phiền. Hối Khí đóng Phúc Đức có thêm Hóa Kị tinh thần gò bó trầm trệ.
    LUẬN VỀ TANG MÔN
    Tang Môn đứng đối cung với Bạch Hổ. Tang Môn thuộc Mộc. Tang Môn chủ về tang tóc. Khoa Tử Vi Việt nói: Tang Môn đắc địa ở Dần Thân Mão Dậu. Khoa Tử Vi Trung Quốc không thấy đề cập sao này đắc địa ở những cung nào.
    Mệnh có Tang Môn tính lầm lì, đàn bà nét mặt phảng phất buồn. Tang Môn vào vận hạn mà gặp Xương Khúc Hóa Kị là có tang chế. Vận gặp Tang Môn Điếu Khách ắt có chuyện buồn thương.
    Tang Môn đắc địa nam mạng có tài, ham hoạt động chính trị và đầu óc xét đoán sắc bén. Luận Tang Môn cần đi theo Bạch Hổ vì là hai sao đi cặp.
    LUẬN VỀ BẠCH HỔ
    Bạch Hổ thuộc Kim, đắc địa Dần Thân Mão Dậu. Bạch Hổ nếu ở đất hãm là triệu chứng hung họa tang tóc. Bạch Hổ đi cùng nhiều sát tinh thì tính tình bạo ngược dễ đưa đến khắc vợ khắc chồng.
    Nhiều sách Việt viết Bạch Hổ đứng với Thiên Hình, Kình Dương là người có chí lớn. Sách Trung Quốc lại cho rằng Bạch Hổ gặp Thiên Hình là có cái họa quan tụng mất tiền mất của . Bạch Hổ gặp Tham Lang tại Dần không nên nuôi thú hay ham săn bắn vì dễ bị thú vật cắn.
    Cách Bạch Hổ đứng với Tấu Thư được gọi bằng Hổ mang hòm sắt là văn chương lỗi lạc, cách này không đúng. Rồi đến cách Bạch Hổ Phi Liêm gọi bằng hổ mọc cánh công danh bạo phát lại càng sai, bịa đặt. Vì như đã nói Phi này không phải là bay.
    Những câu phú về Tang Hổ đáng chú ý như sau:
    - Bạch Hổ kiếp Tướng Quân Đào Tiềm qui ẩn
    (Mệnh cung có Bạch Hổ đứng kèm sao Tướng Quân thì như Đào Tiềm xưa chẳng nên xông xáo vào công danh hãy qui ẩn mới an toàn, hoặc có tâm ý không màng danh lợi)

    - Nữ mệnh Hổ Riêu đa sự quả ưu
    (số đàn bà Bạch Hổ Thiên Riêu trắc trở rắc rối mà không biết lo)

    - Tang Môn thậm khổ ư Thiên La, hung thuyên lãnh đạm
    (Cung Mệnh tại Thìn thấy Tang Môn tâm chất luôn sầu khổ ngay cả trong chỗ vui)

    - Hổ Tang Riêu Bệnh vị chi tứ hung, hạnh ngộ Đồng tinh hóa cát
    (Mệnh có bốn sao hung, Hổ Tang Riêu Bệnh nhưng được sao Thiên Đồng lại thành hay)

    - Bạch Hổ Tang Môn bất nghi ư Điền Trạch
    (Hai sao Tang Hổ không nên đứng vào cung Điền Trạch)

    - Khả úy hàm kim chi Bạch Hổ
    (Bạch Hổ đóng Dậu thủ Mệnh là người có oai)

    - Nữ mệnh ách địa hiềm Thai phùng Bạch Hổ
    (cung Tật Ách của nữ mạng rất kị có Thai và Bạch Hổ bị băng huyết)

    - Tang Hổ Kiếp Hình cư nhập Tử. Ám Kị lai xâm hữu tật nguyền
    (Cung tử tức thấy Tang Hổ Kiếp hình, hay Cự Môn Hóa Kị con cái tật nguyền)

    - Riêu phùng Bạch Hổ ác thú tương tàn
    (Cung Mệnh hay cung Tật có Thiên Riêu Bạch Hổ hãy đề phòng thú vật)

    - Phúc cung ngộ Tang, Đào, Hồng, Tú
    Trong họ hàng ắt có quả phu

    - Hổ Đà Kị Nhật toan tân
    Hùm thiêng chó dữ lánh thân mới toàn

    - Tang Môn, Mã, Nhẫn hội cùng
    Hạn phùng năm ấy bò trâu chẳng lành
    - Đồng Nguyệt Tí gái hoa dung
    Gặp Tang Riêu Khốc khóc chồng có phen

    - Tham Đà đóng Dần cung hưởng lạc
    Hoặc Ngọ Dần có ác tinh vô
    Hợi cung Tang Hổ âu lo
    Hoặc sét đánh nạn to đợi chờ

    - Hổ mà gặp Tấu đồng cung
    Công danh thi cử nên công dễ dàng
    Hổ mà gặp Phi đồng sàng
    Ấy hổ mọc cánh mọi đàng hanh thông

    - Lục Châu thủa lầu hồng phải ách
    Bởi Tuế Tang Điếu Khách cùng hòa

    - Dương Linh tọa thủ mệnh ai
    Lại gặp Bạch Hổ họa tai đao hình

    - Hạn phùng Riêu Hổ ưu phiền
    Những loài ác thú chớ nên đến gần

    - Sát phùng Phù Hổ sao nên
    Dã Tràng thuở trước ưu phiền ngục trung

    - Phá Liêm Tang Đẩu củng lò
    Từ cao ngã xuống chờ giờ họa tang

    - Tứ Linh Cái Hổ Phượng Long
    Công danh quyền thế lẫy lừng một khi

    - Tham Vũ đóng đất Võng La
    Gặp loài Tang Điếu một nhà cát hung
    (Tham Vũ Tuất Thìn hội Tang Môn Điếu Khách là xấu)

    - Hạn hành Vũ Khúc Tham tinh
    Tang Khốc Thái Tuế lâm Thìn Tuất cung
    Khuất Nguyên xưa phải trầm vong
    Tuổi Canh ấy phải đề phòng tử sinh

    - Hãm cung Tang Tuế Cơ Lương
    Ấy người kém phúc vợ con biếng chiều

    - Khốc Hư Tang Mã chẳng lành
    Hại người hại của phận đành tai ương

    - Đào Tang đóng ở Mệnh cung
    Lẳng lơ gái ấy phụng loan dứt tình

    - Tật cung Thai Hổ huyết băng
    Tấu Thư Hoa Cái mệnh phùng thanh cao

    - Tử Tang Tả Hữu cùng ngồi
    Có chị em gái duyên ôi chẳng lành
    (Ở cung Bào)

    - Tang Môn Hư Khốc chẳng hay
    Tuần Triệt viễn phối họa may mới thành

    - Phá Quân duyên nợ ít hoàn
    Cô Quả Tang Hổ Khốc thường tóc tang
    (Ở cung Phu Thê)

    - Hổ Tang Không Kiếp tương gia
    Sinh con yểu triết những ba bốn lần (Ở cung Tử Tức)
    - Tuế, Hổ, Phù hợp Khúc Xương
    Có tài hùng biện văn chương anh tài
    (Ở cung Mệnh hay Quan Lộc)

    - Cô Thần nếu giữ Điền cung
    Tang Môn Ấn Lộc của mong tổ truyền
    (Ở cung Điền Trạch. Câu này mâu thuẫn với câu Tang Hổ bất nghi ư Điền Trạch, có lẽ nếu thêm Ấn Quang Hóa Lộc cho nên vậy chăng?)

    - Hao Không vườn ruộng được bao
    Tang Môn Linh Hỏa lâm vào hỏa tai

    - Tang Môn Bạch Hổ chẳng lành
    Cửa nhà đủ chỉ náu mình mà thôi
    (Ở cung Điền Trạch)

    - Tang Môn Cô Quả chẳng hay
    Quả Phu có kẻ tháng ngày cô đơn
    (Ở cung Phúc Đức)

    - Tang Môn Linh Hỏa chớ bàn
    Thường sinh hỏa hoạn trong hàng tộc tôn
    (Ở cung Phúc Đức)

    LUẬN VỀ THIẾU ÂM
    Cùng tính chất như Thiếu Dương là mặt trăng thứ hai. Trong khi khoa Tử Vi Trung Quốc thay bằng sao Quán Sách. Sao này được coi là một tạp diệu trọng yếu. Quán Sách làm chuyển biến một số sao mà nó gặp.
    Quán Sách gặp Tả Hữu thì người mà mình mong tới giúp lại dùng dằng chậm trễ hoặc bỏ cuộc, hoặc phạm sai lầm mà hỏng việc.
    Quán Sách gặp Kình Dương Thiên Hình bị ngăn trở bởi luật pháp, hoặc bệnh tật khiến công việc không tiến. Quán Sách không nên đóng ở Mệnh cung và Tài Bạch sẽ bị người khiên chế bằng quyền lực tiền bạc
    Quán Sách vào Quan Lộc dễ bị cách chức, hoặc do chức nghiệp mà bị đẩy vào hình pháp. Như vậy khác hẳn với tính chất tốt đẹp phù trợ của Thiếu Âm. Cũng như Thiếu Dương sự luận đoán tính chất về sao này lờ mờ. Xét ra Quán Sách hợp lý hơn

    LUẬN VỀ QUAN PHÙ
    Quan Phù theo nghĩa chữ là một mệnh lệnh cấm chế ngày xưa thuộc quan ty hình pháp. Quan Phù thuộc Hỏa. Quan Phù đứng một mình vô lực. Nó đứng theo thế tam hợp với Thái Tuế Bạch Hổ.
    Nếu có thêm Sát Kị đứng với Thái Tuế thì Mệnh vận có Quan Phù mới tác hại. Quan Phù phạm Kị Sát mà gặp luôn cả Hỏa Tinh thì càng phiền dữ cách gọi bằng “Hỏa thôi Quan Phù” hung sự tới dồn dập và bất ngờ.
    Quan Phù gặp Xương Khúc Thái Tuế không có Sát Kị tinh thì lại là người biện thuyết giỏi hợp với nghề thầy kiện. Hội với Tuế Đà Kị là rắc rối. Gặp Liêm Tang Hổ tai nạn thị phi.

    LUẬN VỀ TỬ PHÙ
    Tử Phù thuộc Hỏa. Tử Phù tính chất u ám buồn thảm gây cản trở cho công việc, phá rối những niềm vui. Luận cứ về sao này không mấy rõ rệt vững vàng.

    LUẬN VỀ TUẾ PHÁ
    Tuế Phá là sao đối xung với Thái Tuế. Tỉ dụ Thái Tuế ở Tí thì Tuế Phá ở Ngọ. Nó chống phá Thái Tuế. Tuế Phá không nên đóng ở cung Tài Bạch, đóng đây mà gặp Hỏa Linh Vũ Khúc thì vấn đề tài chánh đột nhiên phát sinh tranh chấp. Tuế Phá cố định không gây hại bằng Tuế Phá lưu niên mà thông thường ta vẫn gọi là năm xung tháng hạn.
    Nếu Tuế Phá rơi vào cung Phụ Mẫu mà những sao khác ở cung này cũng xấu thì sẽ có nỗi lo tang chế. Tuế Phá chủ về chống đối phá phách. Tuế Phá thuộc Hỏa.

    LUẬN VỀ LONG ĐỨC PHÚC ĐỨC
    Long Đức Phúc Đức cùng một tính chất giải trừ tai nạn đau ốm, quan tụng. Sách vở Trung Quốc đưa sao Thiên Đức vào vòng Thái Tuế và không có Phúc Đức cho vòng này. Sách vở Việt thì Thiên Nguyệt Đức tính riêng theo năm sinh khởi từ hai cung Tỵ và Dậu.
    Long Đức, Phúc Đức gặp được Thiên Thọ khả năng giải trừ đau ốm càng mạnh. Long Đức, Phúc Đức, Thiên Đức, Nguyệt Đức hội tụ vào Mệnh cung là cách tứ đức. Có bốn sao này thì tính dâm đãng của Đào Riêu Hồng Kiếp bị chế ngự không rông rỡ nữa. Phúc Đức thuộc Thổ
    LUẬN VỀ ĐIẾU KHÁCH
    Điếu Khách tượng trưng cho bộ quần áo tang (hiếu phục). Điếu Khách chỉ ảnh hưởng xấu khi vào vận hạn mà lưu niên Điếu Khách đến cung có Tang Môn cố định hoặc Thiên Hình, Thái Tuế. Điếu Khách đóng mệnh cung thường hay nói khoác, ba hoa.
    Khoa Tử Vi Việt có cách Điếu Khách đi cùng Thiên Mã Thiên Khốc gọi tắt bằng Mã, Khốc, Khách. Cách này làm ra hình tương cưỡi ngựa có kẻ hầu có nhạc loa là hình tượng mọi sự tốt đẹp thành tựu.
    Mã Khốc Khách vào vận hạn cũng như vào Mệnh hay Thân đều hay.
    Tuấn Mã Khốc Khách hợp bài
    Ngựa kia có nhạc anh tài lên yên

    LUẬN VỀ TRỰC PHÙ
    Vòng Thái Tuế của Trung Quốc không có hai sao Tử Phù và Trực Phù. Theo các sách Việt thì Tử Phù và Trực Phù đều thuộc Hỏa, tính chất tối tăm buồn bã gây rắc rối cho công việc, gây tang thương cho quan hệ giữa người với người.
    Qua kinh nghiệm không thấy được ảnh hưởng rõ rệt của hai sao này. Chúng đáng kể như một nhược điểm của khoa Tử Vi, hoặc vì tam sao thất bản mà thành ra thiếu sót.

    NÓI VỀ NGŨ HÀNH SỞ THUỘC CỦA CÁC TẠP DIỆU
    Không rõ căn cứ vào đâu hầu hết tạp diệu của Tử Vi Việt đều ghi ngũ hành sở thuộc trong khi tạp diệu ở cách sách Trung Quốc không thấy ghi.
    Có thể mình đã vẽ rắn thêm chân? Qua vòng Tràng Sinh thì rõ cái chuyện vẽ rắn này. Như ta gọi sao Thai thuộc Thổ, sao Dưỡng thuộc Mộc, sao Lâm Quan Đế Vượng thuộc Kim thì thật vô lý.
    Vì sao? Vì vòng Tràng Sinh là quá trình sinh ra lớn lên của một hành nếu theo số Tử Bình, còn Tử Vi thì tính Tràng Sinh căn cứ theo hành cục, như Thủy nhị cục, Hỏa lục cục…
    Khi luận đoán tạp diệu gần như chẳng bao giờ đặt vấn đề ngũ hành. Nếu tạp diệu mà cũng ngũ hành thì luận đoán sẽ đi vào màn khói mù.

    LUẬN VỀ SAO ÂM SÁT
    Tử Vi khoa Việt không có sao Âm Sát. Nhưng Tử Vi khoa Trung Quốc lại rất chú trọng đến sao này. Âm Sát an thế nào? Âm Sát là sao thuộc nguyệt hệ, an theo tháng sinh như sau:
    Sinh tháng 1 Âm Sát đóng Dần
    Sinh tháng 2 Âm Sát đóng Tí
    Sinh tháng 3 Âm Sát đóng Tuất
    Sinh tháng 4 Âm Sát đóng Thân
    Sinh tháng 5 Âm Sát đóng Ngọ
    Sinh tháng 6 Âm Sát đóng Thìn
    Sinh tháng 7 Âm Sát đóng Dần
    Sinh tháng 8 Âm Sát đóng Tí
    Sinh tháng 9 Âm Sát đóng Tuất
    Sinh tháng 10 Âm Sát đóng Thân
    Sinh tháng 11 Âm Sát đóng Ngọ
    Sinh tháng 12 Âm Sát đóng Thìn
    Như vậy sao Âm Sát chỉ có mặt ở các cung Dần, Tí, Tuất, Thân, Ngọ, Thìn thôi không vào các cung khác. Âm Sát tính chất là nghi tâm. Âm Sát vào quan hệ giao tế là tiểu nhân.
    Âm Sát vào tư tưởng tâm lý là ảo giác thiên về những điều quái dị. Sao Âm Sát qua luận đoán của những vị tu hành (Phật giáo) là sao thuộc về linh giới.
    Một nhà tướng số Trung Quốc tên Trịnh Giá Học có viết nguyên một cuốn sách về Âm Sát cả mấy trăm trang, nhưng thâu tóm lại ta có thể đưa thẳng ra những nguyên tắc của một trang cũng đủ, mấy trăm trang chẳng qua chỉ là những dẫn chứng rườm rà.
    Sau đây là tác động của Âm Sát đối với các cung. Âm Sát vào Mệnh hay gặp tiểu nhân, bản tính nghi hoặc nên dễ bị phiền não vô ích, nếu thấy luôn cả Đà La, Hóa Kị Không Kiếp hãm thì dễ dàng đi đến ảo giác, suy nghĩ vớ vẩn, hoặc vì ma túy mà ra con người đầu óc lơ mơ.
    Âm Sát ở cung Thiên Di, con người cô độc, ít hợp, khó hòa đồng hay ngại ngùng nghi kị, mê muội với sự vật hư ảo.
    Âm Sát ở Tật Ách thêm những sát tinh khác, tư tưởng hành động thiếu thăng bằng bệnh tâm trí
    Âm Sát ở Phụ Mẫu ưa những vọng tưởng không thực về gốc gác mình
    Âm Sát ở Nô Bộc hay uất ức với bè bạn, với một công việc hợp tác, nghi kị. Âm Sát ở Huynh Đệ thường bị phản từ nội bộ
    Âm Sát ở Phối cung đau khổ ngẩn ngơ vì người thương yêu mất đi do sinh ly hay tử biệt.
    Âm Sát ở cung Quan Lộc làm một việc mê muội mà hại đến sự nghiệp,mê vợ mê tình nhân, hoặc cả tin vào bạn, người dưới quyền, người trên mà khốn khó.
    Âm Sát ở cung Tài Bạch vì tự cao tự đại vì tham mê mà phá sản.
    Âm Sát ở cung Phúc Đức tâm lý tư tưởng quá khích, cuồng tưởng, vọng tưởng, cuồng tính, gặp thêm các sát kị tinh có thể thành điên.
    Âm Sát ở cung Tử Tức con người rất chủ quan, lại hay đi vào tín ngưỡng tôn giáo đồng bóng, tuyệt đối tin rằng con cái mình giỏi hơn, đáng kính đáng yêu hơn bất cứ ai khác.
    Âm Sát ở cung Điền Trạch thường gặp những nhà cửa có ma quỉ, hoặc vì vợ mất đi, con chết mà cứ lởn vởn thấy linh hồn vợ con phảng phất.

    QUAN PHỦ VÀ QUAN PHÙ
    Vòng Bác Sĩ và vòng Thái Tuế có hai sao tính chất gần giống nhau dễ làm cho người ta lầm lẫn ấy là sao Quan Phủ thuộc vòng Bác Sĩ và sao Quan Phù thuộc vòng Thái Tuế. Giống nhau ở điểm cả hai đều có thể gây ra chuyện dính dấp đến luật pháp.
    Sao Quan Phù của vòng Thái Tuế bao giờ cũng đứng thế tam hợp với Thái Tuế, cứ có Thái Tuế là phải có Quan Phù hội hợp. Còn Quan Phủ của vòng Bác Sĩ thì lại không có chuyện tam hợp như Quan Phù của Thái Tuế.
    Câu phú:
    Quan Phủ Thái Tuế một cung
    Đêm ngày chầu chực cửa công mỏi mòn
    Nếu Quan Phủ của câu này mà đổi thành Quan Phù thì ai cũng sẽ rơi vào vòng lao lý hết sao? Thế nhưng Quan Phù của vòng Thái Tuế cũng có tính chất của mệnh lệnh cấm chế thời xưa thuộc quan ty hình pháp. Như vậy hai sao này đã gây nên một nghi vấn. Do tam sao thất bản, hay do tối nghĩa?




    MỤC LỤC


    Trang
    LUẬN VỀ CÁC SAO TỬ VI
    - Lời nói đầu 3
    - Lời dẫn
    - Các cách sao
    - Luận về sao Tử Vi
    - Luận về sao Thiên Cơ
    - Luận về sao Thái Dương
    - Luận về sao Vũ Khúc
    - Luận về sao Thiên Đồng
    - Luận về sao Liêm Trinh
    - Luận về sao Thiên Phủ
    - Luận về sao Thái Âm
    - Luận về sao Tham Lang
    - Luận về sao Cự Môn
    - Luận về sao Thiên Tướng
    - Luận về sao Thiên Lương
    - Luận về sao Thất Sát
    - Luận về sao Phá Quân

    NHỮNG SAO CẤP HAI
    - Luận về sao Văn Xương
    - Luận về sao Văn Khúc
    - Luận về Xương Khúc
    - Luận về Tả Phụ, Hữu Bật
    - Luận về Thiên Khôi Thiên Việt
    - Luận về Tam Thai, Bát Tọa
    - Luận về Lộc Mã
    - Luận về Hỏa Tinh Linh Tinh
    - Luận về Kình Dương Đà La
    - Luận về Địa Không Địa Kiếp

    NHỮNG SAO CẤP BA
    - Luận về sao Thiên Không
    - Luận về Tuần Triệt
    - Luận về Long Trì Phượng Các
    - Luận về Ấn Quang Thiên Quí
    - Luận về Thai Phụ Phong Cáo
    - Luận về Thiên Quan Thiên Phúc
    - Luận về Thiên Tài Thiên Thọ
    - Luận về Tam Thai Bát Tọa
    - Luận về Thiên Đức Nguyệt Đức
    - Luận về Thiên Khốc Thiên Hư
    - Luận về Thiên Hình
    - Luận về Thiên Riêu
    - Luận về Kiếp Sát
    - Luận về Cô Thần Quả Tú
    - Luận về Phá Toái
    - Luận về Lưu Hà Thiên Trù
    - Luận về Quốc Ấn
    - Luận về Giải Thần Thiên Khố
    - Luận về Hồng Loan Thiên Hỉ
    - Luận về sao Đào Hoa
    - Luận về Hoa Cái
    - Nói về vòng Tướng Tinh
    - Luận về vòng Tràng Sinh
    - Luận về Tràng Sinh
    - Luận về Mộc Dục
    - Luận về Quan Đới
    - Luận về Lâm Quan
    - Luận về Đế Vượng
    - Luận về Suy
    - Luận về Bệnh
    - Luận về Tử
    - Luận về Mộ
    - Luận về Tuyệt
    - Luận về Thai
    - Luận về Dưỡng
    - Luận về vòng Bác Sĩ
    - Luận về Lực Sĩ
    - Luận về Thanh Long
    - Luận về Tiểu Hao
    - Luận về Tướng Quân
    - Luận về Tấu Thư
    - Luận về Phi Liêm
    - Luận về Hỉ Thần
    - Luận về Bệnh Phù
    - Luận về Đại Hao
    - Luận về Phục Binh
    - Luận về Quan Phủ
    - Luận về vòng Thái Tuế
    - Luận về Thái Tuế
    - Luận về Thiếu Dương
    - Luận về Tang Môn
    - Luận về Bạch Hổ
    - Luận về Thiếu Âm
    - Luận về Quan Phù
    - Luận về Tử Phù
    - Luận về Tuế Phá
    - Luận về Long Đức Phúc Đức
    - Luận về Trực Phù
    - Nói về ngũ hành sở thuộc của các tạp diệu
    - Luận về sao Âm Sát
    - Quan Phủ và Quan Phù
     
  10. cabachlong

    cabachlong New Member

    Tham gia ngày:
    20 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    1,152
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    TỨ HÓA

    LỘC –QUYỀN – KHOA – KỴ



    Định nghĩa chữ HÓA

    Lộc Quyền Khoa Kỵ đều có chữ HÓA ở trước. Hóa là chuyển biến, chuyển động, chuyển hóa. Cho nên Tứ hóa không thể xem là một tinh diệu và tứ hóa chỉ là hiện tượng biến hóa. Tỉ dụ, Liêm Trinh đứng với Hóa Lộc, làm Hóa Lộc có thể làm biến hóa khí chất của Liêm Trinh.

    Cũng như năng lượng mặt trời ra 4 mùa xuân hạ thu đông. Tứ hóa lấy thứ tự xuân hạ thu đông vì vậy chúng đi theo thứ tự Lộc – Quyền – Khoa – Kỵ, không thể đặt lộn Kị Khoa Quyền Lộc.



    Luận về Hóa Lộc

    Hóa Lộc thuộc Mộc ví như mùa xuân hướng ra bốn phía mà phát triển. Xuân là mùa sinh sôi nảy nở, vậy thì Hóa Lộc tương trưng mùa xuân cũng sinh sôi nảy nở.

    Xuân tượng vạn vật đều phát triển, mọi sự tốt tươi nên Hóa Lộc cũng mang tính hài hòa, tiêu đi những tranh chấp, chế hóa tai nạn.

    Sách viết: “Hóa lộc, thực lộc bất khuyết, phát triển thuận lợi” vậy nên đặc tính cơ bản của Hóa Lộc là phát triển. Người Hóa Lộc ko nhất định là thông tuệ chỉ có khả năng hài hòa phát triển cũng không nhất định là người tài hoa.

    Luận về Hóa Quyền

    Hóa quyền thuộc Hỏa đới Thổ, ví như mùa hè, như lửa bốc, tính chất mãnh liệt. Mùa hè ngũ hành thuộc Hỏa, vạn vật đến hè thì xanh tốt vinh vượng.

    Mùa xuân mới chỉ là mầm mống, nếu không đủ sức sống tất nhiên bị đào thải, còn tồn tại tức là sức mạnh. Bởi thế, Hóa quyền chủ về tự tín và làm việc đắc lực. làm việc đắc lực đi đôi với vất vả gian khổ cho nên Hóa quyền cũng tượng trưng cho vất vả chiến đấu. Ngoài ra, đôi khi Hóa quyền trở thành tự phụ vì tự tín tâm quá cao.

    Mùa hè nắng chói chang, quang minh do đó tính tình Hóa quyền chính trực. Hỏa chủ Lễ cho nên Hóa quyền khi đối xử tỏ ra lịch lãm, khuôn phép tuy nhiên cũng lại dễ xung động.



    Luận về Hóa khoa

    Hóa khoa thuộc Kim, mùa thu là mùa của thâu liễm với ý nghĩa nội liễm hàm súc mang ý vị văn chương và trí tuệ, tài hoa tiềm ẩn mà ko lộ, bởi vậy nên tâm cơ không gian trá.

    Hóa khoa tượng thu Kim trong ngũ thường là chữ Nghĩa. Bởi vậy, người có Hóa Khoa thường liêm khiết, một lòng một dạ, khuynh hướng bảo thủ nên ít khi hoạnh phá, nhưng được kính nể.



    Luận về sao Hóa kị

    Hóa Kị trong ngũ hành là Thủy, tượng về sự tuyệt diệt của vạn vật trong thời kỳ phải ẩn tàng. Hóa kị ví như mùa đông, bề ngoài cây cối trơ trụi nhưng bên trong là sức sống mãnh liệt để tạo biến đổi, thay thế đợi mùa xuân tới bung ra. Hóa kị là lúc phải chịu sự thanh toán triệt để, thoát thai hoán cốt. Vì phải biến hóa nên thông minh linh xảo.

    Mùa đông ngũ hành thuộc thủy. Thủy chủ về trí tuệ. Mùa đông chủ về ẩn tàng. Trí tuệ mà ẩn tàng thì ý nghĩ khó đoán ra, bởi vậy người Hóa kị thường hay mưu mô, đôi lúc gian trá, đầu óc quyền biến vô thường. Thủy chủ động nên thường xuyên xoay chuyển, xoay chuyển quá độ thành ra bội phản.



    Tác động của Tứ Hóa
     
  11. cabachlong

    cabachlong New Member

    Tham gia ngày:
    20 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    1,152
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    TÁC ĐỘNG CỦA TỨ HÓA

    Tứ Hóa tác dụng rất lớn đối với các chủ tinh đến mức có thể làm biến đổi luôn tính chất của chủ tinh mà chúng đứng cùng. Thái dương đi với Hóa Quyền khác hẳn Thái dương đứng với Hóa Khoa hay Hóa Lộc. Trên lá số có Tứ Hóa cố định.

    Nhưng tiểu hạn mỗi năm cũng phải tính cả ảnh hưởng phụ của Tứ Hóa do hàng can của năm tiểu hạn. Như vậy, người Trung Quốc cũng tính luôn cả lưu Tứ Hóa.

    Hóa Lộc trong tử vi khoa kể như một sao trọng yếu về tiền bạc dù nó đứng với sao nào thì tính chất tài lộc vẫn thế, chỉ thay đổi theo mức độ hơn kém nhiều ít.

    Sao tiền bạc còn có Lộc Tồn nữa, được Lộc Tồn thành ra “Điệp Lộc” hay “Song Lộc”, tiền bạc thêm sức lưu thông để phấn phát, nếu chỉ Hóa Lộc không thôi thì chỉ là tích súc.

    Hóa Quyền mang tính chất quyền lực, quyền lực ưa đi đôi với địa vị, có địa vị rồi mới có quyền lực. Địa vị ở đây xin đừng hiểu đơn thuần như chức vị.

    Hóa Quyền ở đại hạn, hay Hóa Quyền ở tiểu hạn, hay Hóa Quyền ở mệnh cung mà được thêm Hóa Quyền lưu thêm tiểu hạn càng tốt.

    Hóa Quyền ngoài tính chất quyền lực còn có tác dụng gây chí phấn đấu, tạo tính tích cực và tính ổn định. Tỉ dụ, Thiên Cơ vốn là sao hiếu động không ổn định nhưng một khi gặp Hóa Quyền thì tình trạng động trên giảm hẳn thành ra linh hoạt phát huy với kế hoạch rõ ràng.

    Hóa Quyền cũng mang đến khả năng quản lý vững chắc. Hóa Quyền hợp với Hóa Lộc, Hóa Khoa. Hóa Quyền đứng với Hóa Kị dễ bị chiêu oán ganh ghét.

    Trường hợp có thêm những sao khác để biến ra quyền uy tuyệt đối dù kẻ ganh ghét oán hận cũng chẳng làm gì được lại khác.

    Hóa Khoa cơ bản tính chất là danh dự và tham vọng. Vì thế Hóa Khoa cần Văn Xương Văn Khúc để thành cái thế “Khoa danh đồng hội” bảng vàng ghi tên, nhất là đối với xã hội ưa chuộng khoa bảng.

    Còn xã hội thương nghiệp thì Thái Âm Hóa Khoa hay Vũ Khúc Hóa Khoa hay Thiên Phủ Hóa Khoa cũng tạo nên thanh vọng. Xã hội thương nghiệp, những tài tinh Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ đứng bên Hoá Khoa đẹp hơn Xương Khúc.

    Hóa Khoa ở một vị thế nào đó hoặc một sự kết hợp với các sao khác có thể chỉ là hư danh và tự mãn thôi. Hóa Kị trong tử vi khoa tính chất rất phức tạp, Hóa kị có 2 mặt tốt và xấu rõ rệt và khi tác dụng cũng ác liệt. Tỉ dụ Thái Dương dễ gây tiếng tăm, nổi đình nổi đám nhưng đứng với Hóa Kị thì sự ganh ghét đố kị cũng thật ghê gớm.



    TÁC ĐỘNG CỦA HÓA LỘC VỚI CÁC CHỦ TINH

    Hóa Lộc – Liêm Trinh

    Liêm Trinh mang sắc thái xung đột giữa cảm tình và lý trí. Liêm Trinh tình cảm hơn Phá Quân. Liêm Trinh lý trí hơn Tham Lang. Khi đoán về Liêm Trinh đứng cùng Hóa Lộc, cần phải coi các sao phụ làm tăng phần lý trí hay cảm tình của Liêm Trinh trước đã.

    Nếu Liêm Trinh có Đào Hoa Hóa Khoa kèm bên thì phần cảm tình nặng. Nếu Liêm Trinh gặp Hỏa Linh Phụ Bật đồng hội, độ phần lý trí nặng hơn.

    Liêm Trinh Hóa Lộc mà phần cảm tình nặng, vấn đề tích tụ tài sản khó hơn. Liêm Lộc mà phần lý trí nặng thì con người duy lợi với nhiều thủ đoạn kiếm tiền.

    Như vậy, Liêm Lộc hợp với các cung Mạng Tài Quan. Đóng vào cung Phúc thành ra ý hướng chỉ ham hưởng thụ, phá của hơn làm ra của.

    Trường hợp Liêm Lộc đứng thế hãm mà gặp các sao Sát Hỏa Linh Không Kiếp lại khiến cho vì tiền bạc ma hệ lụy, tỉ dụ có bạn phản, đam mê cờ bạc hút sái, sắc tình để bị phá sản.

    Liêm Lộc lạc hãm đóng cung Tật ách. Liêm Trinh chủ phế bệnh và thận bệnh. Khi tâm thần bất giao còn gây ra thần kinh bệnh.

    Liêm Lộc vào cung Phụ mẫi không nhất định là cha mẹ giàu có mà nhất định quan hệ tình cảm với bố mẹ đầy đặn.

    Liêm Lộc đóng phối cung thì Phu Thê đắc lực cùng nhau gây cơ nghiệp. Liêm Lộc vào cung Bào hay Cung Nô thì anh em hay bạn bè đắc lực nếu không ở thế hãm.

    Liêm Lộc phải nhất diện đảo, không nên đứng với vừa cát tinh vừa hung tinh gây thành tình trạng xung đột giữa cảm tình với lý trí cung cách xử thế vì vậy mà lắm khuyết điểm.

    Liêm Lộc không nên hội xung với Vũ Khúc Hóa Kị (Tỉ dụ nguyên cục Vũ Kị gặp đại hạn Liêm Lộc) gây ra hao tài tốn của vì tình cảm hoặc vì tranh chấp tiền bạc mà mất cảm tình.

    Trái lại Liêm Lộc sẽ tốt hơn nếu gặp Tham Lang Hỏa Tinh, làm cho Tham Hỏa bạo phát. Nhưng phải coi chừng Không Kiếp vì có cả Không Kiếp tất bạo phát với bạo bại đi đôi. Bạo phát do may mắn rồi bạo bại lại do rủi ro. Trí tuệ và tài năng không tham dự bao nhiêu.

    Liêm Trinh Hóa Lộc hay hơn hết là thất Lộc Mã giao trì. Nguyên cục Liêm Lộc tới vận giao trì Lộc Mã dễ làm giàu, với điều kiện không bị Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp nhảy vô phá.




    Hóa Lộc – Thiên Cơ

    Thiên Cơ là sao mang tính phù động, dù gặp Hóa Lộc, tính chất động ấy vẫn nguyên vẹn. Lộc là sao tiền bạc, mà tiền bạc cần chuyển động luân lưu, cho nên Cơ gặp Lộc kể làm tốt.

    Có Lộc đóng Mệnh hay Tài Bạch cho người Thiên cơ khả năng kinh thương cao. Ở thời đại này, Cơ Lộc khả dĩ phục vụ cho những việc liên hệ đến kinh doanh tài chánh, với bổng lộc cao không nhất thiết phải chính mình đứng chủ kinh doanh.

    Điểm chú ý: Cơ Lộc không phải là số cự phú, không thể tuyệt đối độc lập, cần dựa vào thế lực hậu trường, đầu cơ thế lực, nghe ngóng cơ hội.

    Thiên Cơ bản sắc biến động, bởi vậy có những trường hợp Cơ Lộc nói lên một sự thay đổi mới, nhờ cơ hội mới mà phấn phát hơn.

    Cơ Lộc gặp Tả Phụ thường đuợc kiêm chức. Lại thêm Quyền Khoa thì chức vụ mở đường cho sự hanh thông trong tương lai.

    Thiên Cơ Hóa Lộc tối kị gặp Hỏa Linh, Hỏa Linh tất làm tăng tính phù động của Thiên Cơ, nhờ Hóa Lộc sở dĩ phấn phát nhưng rất mau tiến vào thất bại.

    Cơ Lộc bị Không Kiếp cũng thế, càng trèo cao càng ngã đau. Mở ra năm bảy tiệm đùng một cái vỡ nợ vì thiếu hoặc vì căng ra quá mà đứt vỡ.

    Cơ Lộc cùng gặp một lúc cả hung lẫn sát tinh vây bọc thì nên giữ thái độ “Bất cảm vi thiên hạ tiên” đứng xuống hàng hai để tránh xung sát đưa đến kết quả bất toàn.

    Cơ Lộc mà Cơ đi cùng Thái Âm bén nhậy hơn trong công chuyện làm ăn. Cơ Lộc mà đi với Thiên Lương dễ gặt hái tín nhiệm khi vào kinh doanh. Cơ Lộc mà Cơ đứng với Cự Môn không bị hung sát tinh có thể làm giàu nhưng thường không bền.



    Hóa Lộc – Thiên Đồng

    Thiên Đồng là phúc tinh, ngụp lặn trong lãnh vực tinh thần. Đồng đứng với Hóa Lộc thường được dễ có cuộc sống thoải mái với con người tri túc, Đồng Lộc đi với nhau không đưa đến phú quý. Cái tri túc giống như một con ngừơi đã trải trăm cay ngàn đắng. nay có cuộc sống đầy đủ bình ổn.

    Bởi lẽ trên, Thiên Đồng Hóa Lộc phát muộn, tuổi về già mới an định hoặc phấn phát lên, còn tuổi trẻ gian lao vất vả thành bại vô thường.

    Thiên Đồng Hóa Lộc bị Không Kiếp hay các sát diệu khácthì gian lao vất vả hơn lúc già sự an định hay phấn phát chỉ tương đối.

    Vì Thiên Đồng chủ về tình tự, nên hay gặp cái vui đột nhiên tỉ dụ đánh canh bạc được kha khá, mua sổ số trúng vừa vừa.

    Đồng Lộc được thêm Lộc Tồn xung chiếu hay tam hợp thì tài khí vượng hẳn, đột nhiên biến đổi từ nghịch sang thuận. Có cả Tả Hữu Khôi Việt nữa càng hay, cơ hội trợ lực càng nhiều và phấn phát không nhỏ.

    Đồng Lộc tối kị đồng cư với Không Kiếp, cũng đột biến nhưng mà thuận sang nghịch, dễ dàng vỡ nợ. Trường hợp vừa có Tả Hữu Khôi Việt lại vừa có cả Không Kiếp thì sao? Tả Hữu Khôi Việt không thể địch lại Không Kiếp.

    Thiên Đồng Hóa Lộc cũng đừng nên hội với Đào Hoa, nhất là còn thấy thêm cả Xương Khúc nữa thì phiền, sớm muộn gì rồi cũng thành phong lưu đãng tử. Không thiếu tiền, nhưng tiền bao nhiêu rơi vào đĩ bợm hết. Nói khác đi, đây là số công tử con nhà giàu hoặc là ngừơi làm cái nghề “ăn chơi”. Có số này nên mở quán rượu nhà nhảy, nhà tắm hơi hợp cách. Có điều là không bao giờ giữ được của.

    Thiên Đồng Hóa Lộc Đào Hoa Xương Khúc vào cung tật ách, trai gái dễ mắc bệnh phong tình. Thiên Đồng Hóa Lộc đóng thê cung trước đắm thắm, sau nhạt tình.



    Hóa Lộc – Thái Âm

    Thái Âm là tài tinh, Hóa Lộc chủ về điền tài. Như vậy, Âm Lộc kể là đồng khí. Hóa Lộc tăng cường lực lượng cho Thái Âm với điều kiện Thái Âm phải đứng ở miếu địa. Hóa Lộc được Thái Âm miếu khiến cho thuận toại về tiền bạc mạnh hơn.

    Nếu Thái Âm đứng thế hãm, thường chỉ mãn nguyện trên tinh thần chứ không trên thực chất nghĩa là phong lưu vui sướng mà không có nhiều tiền.

    Hóa Lộc Thái Âm khác với Hóa Lộc Thiên Đồng ở điểm không bị đột biến rơi vào nghịch cảnh. Nói khác đi, Đồng Lộc thường gian truân hơn Âm Lộc.

    Hóa Lộc Thái Âm lúc khá giả, tính trên con số thì không hơn thiên hạ nhưng tâm tình cung cách hưởng thụ hơn hẳn Đồng Lộc, ngay cả lối kiếm tiền cũng ung dung thanh thản hơn.

    Thái Âm là sao tiền bạc, Vũ Khúc cũng vậy, nhưng Thái Âm chủ tĩnh - thiên về tiềm tàng kiếm tiền bằng kế hoạch cho nên không sôi nổi bôn ba như Vũ Khúc.

    Khi Thái Âm đóng hãm cung, lại kèm bên sát diệu hoặc đứng với Không Kiếp thì dù có Hóa Lộc kế hoạch cũng thường bị hư, hoặc chỉ nói thôi mà chẳng làm vẽ rồng vẽ rắn, thực tế chỉ là số không, tính giỏi mà không xong.

    Âm Lộc đương nhiên cung Phúc có Cự Môn Hóa Kị, bởi vậy Âm Lộc không bao giờ được đặt vào tình cảnh đột biến từ nghịch sang thuận để hoạnh tài (được bạc hay trúng số).

    Cũng như Đồng Lộc, Âm Lộc không nên đứng với Đào Riêu Xương Khúc sẽ vì mê đắm sắc tình bê trễ làm ăn. Âm Lộc vào cung Tật đứng thế hãm hay mắc bệnh trên bộ phận tiêu hóa, tỳ vị và ruột.



    Hóa Lộc – Tham Lang

    Tham lang giỏi về giao tế thù ứng, thủ đoạn tròn chặn, đối với người thường sẳn sàng giúp đỡ những ân huệ nhỏ. Tham Lang không có tài lãnh đạo nhưng có tài qui tụ. Tham Lang đi với Hóa Lộc khả năng giao tế càng tốt hơn, nhất là giao tế để tìm ra cơ hội kiếm tiền.

    Tham Lang Hóa Lộc có Đào Hoa Thiên Riêu, Đại Hoa Mộc Dục kèm bên, chuyển ra con người đam mê tửu sắc, khách quen của vũ trường, hoan trường, thường do rượu chè trai gái mà mắc thị phi.

    Tham Lang Hóa Lộc đứng với Tả Hữu, bạn bè đông mà toàn bạn bè được việc. Nhưng Tham Lang Hóa Lộc đứng với Kiếp Sát, Thiên Hư, Tai Sát, Chỉ Bối, Âm Sát thì chỉ gặp toàn kẻ tiểu nhân phản bội, kéo bè kết đảng.

    Tham Lang không Hóa Lộc gặp những sao trên, thị phi phản bội nhẹ hơn. Tham Lang được Hỏa Linh đồng cư hay xung chiếu gọi là Tham Hỏa, Tham Linh thêm Hóa Lộc thì hoạnh tài, tiền bạc vào tay bất ngờ và được mất đều mau chóng, Tham Hỏa hay Tham Linh rất sợ gặp Không Kiếp phải đề phòng đột nhiên phá bại, phú quý chỉ như đoá hoa đàm mà thôi.

    Bản chất Tham Lang ưa cạnh tranh (đánh bạc cũng là một tâm tính ưa cạnh tranh). Tham Lang Hóa Lộc vào cạnh tranh dễ có lợi. Thêm sát tinh thì cạnh tranh gian khổ hơn. Công việc sắp thành gặp đột biến phải gắng công một lần nữa rồi mới được như ý nguyện. Sát thì Đà la mạnh nhất rồi đến Kình Không Kiếp.

    Tham Lộc đứng với sát tinh đang thắng chuyển thành bại, nhưng mặt khác lại đang bại chuyển thắng. Bởi vậy ở tình trạng thất cơ lỡ vận nên liều, đã ăn nên làm ra rồi thì hết sức thận trọng.

    Tham Lộc ở Mệnh, Tài đẹp hơn ở Quan lộc, vào Quan lộc chức nghiệp thăng giáng luôn.

    Tham Lộc đóng cung Phu/Thê không mấy hay, nếu gặp cả Đào Hoa Xưong Khúc ở đấy thì người phối ngẫu không trung trinh. Nhưng lại thấy cả sao Thiên Hình hay Tuần Triệt thì phải đoán là người phối ngẫu ở trong giới nghệ sỹ, hoặc có công việc dính líu đến hoan trường chứ không nhất định là bất trung bất trinh.

    Tham Lộc đóng vào Tật ách về gia hay suy kiệt, số nữ thường mắc bạch đới đường kinh lộn xộn.



    Hóa Lộc – Vũ Khúc

    Vũ là tài tinh, gặp tài tinh Hóa Lộc, xông xáo nhiệt tâm phấn đấu kết quả đắc tài. Đồng Lộc, Âm Lộc thường có may mắn thừa hưởng, riêng Vũ Lộc phải đổ mồ hôi của chính mình.

    Vũ Khúc Hóa Lộc không bị Sát Kị Hình Hao lại có Tả Hữu Khôi Việt, Thai Tọa, Quang Quý thông qua chức quyền mà có tiền. Vũ Khúc gặp Sát Kị Hình Hao thì sự thành công trên tiền bạc phải kinh qua vất vả gian truân, nhất là đối với nữ mạng.

    Tài tinh rất ngại Không Kiếp, Vũ Lộc cũng thế. Vũ Lộc bị Không Kiếp đồng hội, quá trình làm ăn tiền bạc bất ngờ hao tán làm mất luôn thăng bằng dự đoán của mình, gặp Văn Khúc Hóa Kị cũng vậy.

    Câu phú:

    Văn Khúc Vũ Khúc rất hay

    Gặp Khoa Quyền Lộc là tay anh tài.

    Câu này có lẽ là Văn Xương chứ không phải Văn Khúc, Vì Vũ Khúc không hợp với Văn Khúc, nhất là Văn Khúc đi cùng Hóa Kị.

    Vũ Khúc gặp Văn Khúc biến Vũ khúc thành hư phù hữu danh vô thực có chức danh nhưng không quyền hành, có tiền lương cao, lộc to lời lớn nhưng không bền lâu. Với Văn Xương thì không vậy.

    Vũ Khúc không sợ Hỏa Linh Dương Đà, trái lại những sao này còn trợ lực cho ý chí phấn đấu của Vũ Khúc, tất nhiên phải gặp nghịch cảnh, gặp khó khăn thì mới cần trợ lực, nhưng kết quả là thành, chỉ mất nhiều công sức thôi, không bị phá hao như Văn Khúc Hóa Kị gây ra.

    Vũ Khúc Hóa Lộc Tham Lang đứng chung tuy không được Hỏa Linh vẫn phát đạt (như đã nói ở chương trên). Trường hợp gặp Hỏa Linh thì bạo phát, bạo bại khi đối đầu Sát Kị Hình Hao kể cả gặp trên vận hạn.

    Vũ Lộc đóng cung Tật làm giảm đi những hung hiểm của bệnh tật. Vũ Lộc đóng cung Phối, nhất là Vũ Tham đưa đến tình trạng vợ chồng đột nhiên sinh biến, nếu thấy luôn những tinh diệu đào hoa ắt hẳn có kẻ thứ ba xâm nhập.



    Hóa Lộc – Thái Dương

    Thái Dương chủ quý không chủ phú, nên dù gặp Hóa Lộc thì tiền bạc không đến từ cuộc phấn đấu kinh doanh mà đến từ địa vị xã hội như người xưa nói “Tiền quí hậu phú !”.

    Tính chất của Thái Dương là phát tán tựa ánh dương quang chiếu tỏa chứ không thâu liễm góp nhặt. Hóa Lộc đứng bên càng khiến cho phát tán tăng cường.

    Thái Dương Hóa Lộc cùng một lúc phải được cả Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc thì mớ toàn hảo, cục diện mới lớn lao. Chỉ độc Thái Dương Hóa Lộc thôi dễ bị ganh ghét đố kị, để trở thành cô lập tứ diện thọ địch khó bề phát triển mạnh.

    Trường hợp Thái Dương Hóa Lộc gặp Không Kiếp thì tình trạng cô lập lại trở nên tuyệt đối lại phát sinh ý đồ lỗi lạc vượt hẳn thiên hạ trong tình cảnh nhiễu nhương tao loạn, nhất là Thái Dương hãm địa (Hợi, Tuất) với điều kiện không gặp sao Hóa Kị.

    Vì tính chất Thái Dương phát tán nếu đứng vào cung làm cho sự phát tán rực rỡ quá, tỉ dụ Tị hay Ngọ, địa vị rõ ràng khiến người chói mắt mà sinh bực bội ngứa mắt. Cách “Nhật lệ trung thiên hữu chuyên quyền chi quí “ mang khuyết điểm này, đôi khi rực rỡ bên ngoài quá mức lại chỉ là hữu danh vô thực.

    Mặt trời ban mai, mặt trời hoàng hôn quang huy phát tán không quá mạnh khiến con mắt người đời thoải mái hơn mà không bị đố kị cô lập, quyền chức vẫn cao, tiền vẫn đến chẳng ai hay. Trường hợp này Thái Dương không cấp thiết cần Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt nữa.

    Thái Dương Hợi Tuất là Thái Dương phản mục, thất huy nhưng vẫn có trong nó ánh sáng tiềm ẩn khả dĩ âm thầm xây dựng quyền lực địa vị bằng tựa vào địa vị nói nôm na là số cận quý để gây cơ dựng nghiệp.

    Chuyên quyền chi quí của cách Nhật lệ trung thiên đưa đến kết quả chức lớn quyền trọng rút cục không tiền. Thái dương Hóa lộc vào cung tật ách nếu ở Tị Ngọ Thìn hay bị chứng nhức đầu.




    Hóa lộc – Cự Môn




    Cự Môn là ám diệu, nếu hung thành lao lực, cát thành lao tâm. Có Hóa Lộc đứng bên, tính chất ám diệu không thay đổi.

    Bởi thế Cự Môn - Hóa lộc phải cần Tả Hữu Khôi Việt để mà giảm bớt gian lao. Xương khúc chỉ làm tăng tài trí chứ không làm giảm bớt gian lao.

    Cách Ngọc ẩn trong đá càng rất cần Hóa lộc để làm giàu. Cự môn Hóa lộc khi thành công phải khiêm tốn thì mới bớt tai họa do người đời ganh ghét mà đánh phá.

    Cự Lộc hội được với Thái dương Hóa quyền ví như gấm thêm hoa, làm ăn với người nước ngoài thành công. Đời nay giao thương quốc tế phồn thịnh nên số Cự Lộc Dương Hóa quyền rất hợp thời.

    Cự Lộc mang một nhược điểm: hay bị suy hao do thiếu lỳ lợm gan góc trong chuyện làm ăn. Tỉ dụ: mua cổ phiếu chưa cao giá lắm đã bán, bán xong giá lên mạnh lại hốc hận mua vào lúc giá cao, mua rồi giá lại xuống dốc.

    Cự Lộc có một sở trường: “Khẩu thiệt sinh tài” ăn nói ra tiền giỏi thương thuyết. Nhưng nếu Cự Lộc mà gặp Văn Xương Hóa Kị lại thành phản cách, tính tình bất lương và dễ bị phá bại, không thể kinh doanh và cẩu thả trong giao tế.

    Cự Lộc nhất là Cự Nhật Lộc ở miếu vượng vào các cung Phụ, Bào, Tử tức rất hợp, đưa đến sự thân ái với lục thân, đồng thời được trợ lực của họ, có thêm 3 sao Đức hay Tả Hữu càng hay; trường hợp bị Sát Kị, cái tốt của Cự Lộc giảm hẳn.

    Cự Lộc vào cung tật ách thường gây khó cho cơ quan hô hấp, phổi hay khí quản, bị bệnh thận hay bệnh dạ dày thì không nặng.



    Hóa lộc – Thiên lương

    Thiên lương hóa khí là “ ấm ”, ấm có nghĩa là được bóng che của phúc đức. ấm đặt trên hai nghĩa:

    <!--[if !supportLists]-->a) <!--[endif]-->Phúc ấm cha mẹ

    <!--[if !supportLists]-->b) <!--[endif]-->Che chở của quý quyền.

    Thiên lương có Hóa Lộc thường là phúc ấm của mẹ cha không phải che chở quyền quý. Bởi vậy Lương Lộc lợi nhất là nên theo đuổi tổ nghiệp hoặc làm cho cơ sở kinh doanh đã có tiếng tăm.

    Lương lộc không bao giờ tự mình sáng cơ lập nghiệp, chỉ nên rào cây táo, ăn trái táo và hưởng bóng mát của cây táo.

    Ý nghĩa của ấm là nương vào thế lực, phục vụ xã hội để có địa vị danh dự rồi tài lộc do đó mà nên. Các cung Mệnh Tài Quan xuất hiện Lương Lộc vào ngành hành chánh xí nghiệp hay chính phủ khả dĩ có một địa vị cao. Ý nghĩa “ấm” là phục vụ để đến địa vị rồi tài lộc từ đấy mà tới.

    Thiên lương Hóa Lộc không nên xoay sở về mặt tài lợi sẽ gặp phiền, chỉ nên hưởng bổng lộc do phục vụ xã hội, cơ quan thôi.

    Thái độ tròn trịa ôn hòa là thái độ của Lương Lộc. Trường hợp Thiên lương Hóa lộc đóng cung Thiên di mà gặp Thiên mã lại khác, đó là số buôn bán với nước ngoài, có thêm Lộc tồn thì làm giàu.

    Các cung về lục thân như cung Bào, Phụ, Tử tức, Phu thê, Nô bộc không nên thấy Thiên lương Hóa lộc vì sẽ đưa đến phân tranh tiền bạc, càng gay gắt hơn nếu có cả Thiên hình.

    Lương Lộc đóng Tật ách thì bị trọng bệnh rồi được giải cứu nhưng hao tán tiền của.



    Hóa Lộc – Phá Quân

    Phá Quân, sao của biến hóa đột ngột. Phá quân đứng một mình vấn đề biến hóa không đáng ngại. Phá quân đứng cùng Hóa lộc bất cứ biến hóa nào cũng bắt đầu từ tình trạng bị đẩy vào thế bí, rồi vượt qua mọi nỗi khó khăn để mà bước sang một cảnh ngộ tốt đẹp hơn.

    Phá quân Hóa lộc thấy luôn cả Không Kiếp sự biến đổi còn gian nan hơn nhưng cuối cùng cũng đạt thành quả.

    Phá quân đứng với Hóa Lộc tại mệnh hoặc gặp Hóa lộc theo thế tam hợp khi làm ăn hãy hợp tác với những người khác thì có thể giảm trừ được biến hóa. Bởi vậy Phá quân Hóa lộc có Tả Hữu sẽ hay đẹp hơn.

    Phá quân Hóa Lộc cũng cần phối hợp với Nô cung và Bào cung để đoán định sự hơn kém của thành công. Lý do: Trợ lực từ những người cộng tác vững mạnh ắt kết quả sáng sủa hoặc ngược lại.

    Phá quân Hóa lộc cần làm nhiều công việc khác nhau cùng một lúc hoặc kiêm nhiệm chức vụ hay hơn là ôm lấy một nghề, một việc, một chức.

    Phá quân vào số nữ vì những lý do trên không tốt bằng vào mệnh nam. Lộc Phá của người nữ thường vất vả bôn ba.

    Trường hợp Phá Lộc đóng cung bào huynh phải luận đoán theo hai ý nghĩa tương phản:

    <!--[if !supportLists]-->a) <!--[endif]-->Hợp tác với người để kiếm tiền

    <!--[if !supportLists]-->b) <!--[endif]-->Đồng thời từ hợp tác ấy mình phải chịu một sự khống chế nào đó.

    Trường hợp Phá Lộc đóng vào Nô bộc cung, cổ nhân gọi đây là hiện tượng: “Ác nô khi chủ” thì phải cẩn thận vì dễ bị phản bội vì tiền bạc.

    Trường hợp Phá Lộc đóng cung Tật ách thì phải đề phòng lúc vào đại vận ấy bị một chứng bệnh nguy hiểm đột nhiên xuất hiện.
     
  12. cabachlong

    cabachlong New Member

    Tham gia ngày:
    20 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    1,152
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    Anh Capuccino và chị Thiên Đồng thật kỳ công, em chỉ copy thôi mà cũng ngại huống là gõ.
     
  13. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    TÁC ĐỘNG CỦA HÓA QUYỀN VỚI CÁC CHỦ TINH

    HÓA QUYỀN - CỰ MÔN
    Trong Đẩu Số, Cự Môn là “ám” diệu. Nó cần được Thái Dương miếu địa chiếu mới thật hay. Thiếu Thái Dương miếu thì dù Hóa Lộc hay Hóa Quyền kể là khuyết điểm. Cự Môn Hóa Lộc nặng tham vọng lợi lộc, vừa ham của lại vừa ganh của. Cự Môn Hóa Quyền nặng tham vọng chức vị quyền binh, vừa ham quyền lại vừa ganh quyền. Đứng với Hóa Lộc đôi lúc còn mềm dẻo biết lùi. Nhưng đứng với Hóa Quyền không biết thoái nhất bộ cứ hăm hở tiến tới một cách kém thực tế, tất phải gặp phản ứng và đố kị đưa đến tai họa phiền nhiễu.
    Cự Môn Hóa Quyền kèm bên những sát tinh đừng bao giờ xuất đầu lộ diện sẽ nguy hiểm vào thân danh. Cự Môn Hóa Quyền kèm bên những sát tinh nên giữ thái độ “bất tranh” rồi thì quyền chức tự đến.
    Cự Quyền đóng cung Phúc Đức cũng đi đến tình trạng như trên. Các sách vở Trung Quốc đưa ra luận đoán sau đây:
    Cự Môn Hóa Quyền đóng cung Tài Bạch thì cung Tử Tức (con cái) có Thiên Tướng thủ. Thiên Tướng phía trước là Thiên Lương, phía sau là Cự Môn. Nếu cung con ấy hội tụ nhiều sát tinh ắt sẽ bị “phá gia chi tử” con cái phá của. Sát tinh là: Linh Hỏa, Xương Kị, Kiếp Không.
    Cự Môn có tài ăn nói, Hóa Quyền làm tăng cái tài ấy hơn Hóa Lộc. Cự Môn Hóa Quyền học luật pháp hợp cách nhưng đừng cậy vào tài ăn nói để mà lấn át sẽ chỉ gây oán ghét bất lợi.
    Cự Môn vào cung lục thân thường xảy ra tranh cãi bất hòa, nhưng hễ có thêm Hóa Quyền thì những bất hòa tranh cãi kia không còn nữa mà lục thân khả dĩ là những thế lực trông cậy được.
    Tỉ dụ như cung Phu Thê có Cự Môn khó thuận hòa, nhưng được Hóa Quyền thì vợ lại là con người đắc lực chẳng những với chồng còn với con nữa.
    Cự Môn đứng với sát kị tinh ở Tật Ách, bệnh hay sinh từ thực đạo, dạ dày, ruột hoặc phổi, gặp Hóa Quyền giảm hẳn.

    HÓA QUYỀN - VŨ KHÚC
    Vũ Khúc Hóa Quyền ở Mệnh tự tay gầy dựng, do hành động của chính mình mà nên công; tiền bạc cũng như chức vị nghề nghiệp. Vũ Khúc Hóa Quyền không phải là số nương tựa dựa dẫm. Có thể được đề bạt lên chức cao để phải làm nhiều hơn. Vì vậy Vũ Khúc Hóa Quyền thường là con người lịch lãm từng trải tân khổ, từ việc to đến việc nhỏ đều qua tay. Phối hợp với Phúc Đức cung thấy nhiều sát tinh thì điều từng trải lịch lãm tân khổ càng tăng cao.
    Vũ Khúc Hóa Quyền khó nhọc thật nhưng cũng nắm thực quyền. Vũ Khúc Hóa Quyền vào võ chức hay mật vụ trị an hợp cách.
    Vũ Khúc Hóa Quyền không hay bằng Vũ Khúc Hóa Lộc. Vì đi với Hóa Lộc làm giàu, tiền bạc dư, đi với Hóa Quyền gánh vác công việc nhiều. Vũ Quyền cần có Lộc Tồn thì mới hội đủ điều kiện cho một phú cách.
    Vũ Khúc Hóa Quyền gặp sát tinh vào ngành máy móc kỹ nghệ rất hợp, nhất nghệ tinh nhất thân vinh.
    Vũ Khúc Hóa Quyền đóng Thê cung thường bị vợ đoạt quyền, nếu lại thêm sát tinh nữa thì vợ chồng chia tay, đôi khi người có số này bị mọc sừng như chàng Võ Đại Lang chồng Phan Kim Liên trong truyện Thủy Hử.
    Nhưng Vũ Khúc Hóa Quyền đóng cung Thê mà lại có Lộc Tồn thì lấy vợ giàu hoặc vợ gây dựng cơ nghiệp của cải nhưng riêng mình vẫn ở trong cảnh thân lươn chẳng quản lấm đầu.
    Vũ Khúc Hóa Quyền với hung sát tinh hội tụ vào cung Tử Tức thường có con hai dòng. Vũ Quyền đóng Bào Huynh với Không Kiếp anh em bất thuận.

    HÓA QUYỀN - TỬ VI
    Tử Vi là đế tinh có Hóa Quyền ví như nắm thực quyền đó là ưu điểm tuy nhiên vẫn ẩn một khuyết điểm. Ưu điểm là giỏi quyết đoán lãnh đạo lực cao để có thể gánh vác trách nhiệm. Khuyết điểm là dễ rơi vào tư tâm và chủ quan, quyết định quá khích không vì người vì việc mà vì mình. Bởi vậy Tử Vi Hóa Quyền rất cần Tả Phụ Hữu Bật là hai gián quan hai vị phò tá giỏi để gánh bớt trách nhiệm, cản ngăn không để ông vua phạm sai lầm.
    Tử Vi Hóa Quyền cần có Lộc Tồn thì mới thật hay. Vì thủ Mệnh Tử Vi Hóa Quyền tất nhiên cung Tài có Vũ Khúc Hóa Kị nếu vô Lộc ắt quyền uy thiếu thực chất. Tử Vi Hóa Quyền hội tụ với nhiều hung sát tinh lại càng cần thận trọng ví như ôg vua ưa hội tụ với tiểu nhân, nếu như không đủ sức trị nổi đám tiểu nhân có ngày uổng mạng. Trường hợp này, người mang số chớ nên ham quyền chức, vạ vào thân.
    Tử Vi Hóa Quyền cần Văn Xương Văn Khúc để thêm thông minh tài trí. Nhưng quá thông minh tài trí mà không được Tả Hữu thì đôi khi cái thông minh lại dễ đem đến lầm lỡ như sách nói “Thông minh phản bị thông minh ngộ”
    Tử Vi Hóa Quyền đóng cung lục thân thì những người thân trở nên chủ quan. Như vậy tối bất lợi khi vào cung Thê, nếu gặp cả Thất Sát Phá Quân nữa càng khốn, bị vợ coi như cỏ rác.
    Tử Vi Hóa Quyền tọa lạc ở Tử Tức, con cái thành đạt nhưng bất hiếu nếu thấy cả hung sát tinh hội tụ. Tử Vi Hóa Quyền vào Nô Bộc hay Bào Huynh thì hãy kính nhi viễn chi, xuề xòa ăn uống thôi đừng cộng tác mà có ngày lâm vào cảnh cưỡi voi chung với đức ông.
    Tử Vi Hóa Quyền đóng Tật Ách cung xuất hiện với sát tinh nhất là sao Thiên Hình, bệnh đến cấp kỳ và bị giải phẫu. Số nữ ưa bị ám tật.

    HÓA QUYỀN - THÁI DƯƠNG
    Thái Dương đứng với Hóa Quyền tốt hơn đứng bên Hóa Lộc. Thái Dương Hóa Lộc tiền bạc đến nhờ quyền chức địa vị, có cuộc sống xa hoa. Nhưng Thái Dương Hóa Quyền mới là người thành công gây sự nghiệp.
    Thái Dương Lộc Quyền Cự Môn là cách “dị tộc sinh tài” ra nước ngoài phấn phát. Dương Lương Xương Lộc được Hóa Quyền càng nhiều sáng kiến hay khi vào việc.
    Thái Dương Thiên Lương không Văn Xương mà được Hóa Quyền là con người có uy vọng trong lãnh vực nào đó. Thái Dương Hóa Quyền đứng với Văn Xương lại gặp Hóa Kị, người làm việc xốc nổi, thiếu suy nghĩ chín chắn để thất bại. Thái Dương Hóa Quyền có khả năng khai sáng, nhưng bị khuyết điểm là thích người tâng bốc mình.
    Thái Dương Hóa Quyền đóng Mệnh cung, tâm ý không chịu được tịch mịch cứ phải họp quây quần đông người, cho nên hay vội vã. Đáng lẽ nên thoái ẩn thì lại chường ra để mà bị phiền.
    Thái Dương hãm địa được Hóa Quyền giảm đi những bất lợi, nếu đóng cung Thiên Di thì hãy rời khỏi quê hương bản quán để mà phát triển.
    Thái Dương Hóa Quyền thủ Mệnh, tốt bụng thích giúp người khác nhưng nếu có luôn cả Văn Xương Hóa Kị thì mọi hành động thi ân đều chẳng đem lại lợi ích gì cho mình, chúng vay rồi quịt luôn.
    Thái Dương đắc địa đứng với Hóa Quyền đóng cung lục thân dễ có trợ lực của các người thân thuộc nam tính. Vào Thê, vợ chồng xa cách. Vào Phu, có chồng xứng đáng trên phong thái, trên khả năng và tư cách. Vào Bào Huynh, có anh em trai trợ lực. Vào Phụ Mẫu hợp với bố.
    Thái Dương Hóa Quyền đóng Tật Ách thường bị máu cao, thấy Hóa Kị Thiên Hình thì đề phòng bệnh mắt.

    HÓA QUYỀN - THAM LANG
    Tham Lang chủ về giao tế, có Hóa Quyền lợi cho công tác giao tế nắm quyền chủ động. Tham Lang đứng cùng Vũ Khúc và Hóa Quyền Hóa Lộc là đẹp nhất, miễn không bị Kiếp Không phá rối.
    Tham Lang Hóa Quyền mà vô Lộc thì hành động giao tế thiếu hào sảng, chăm chú vào tiểu lợi khó thành việc lớn. Bởi vậy Tham Lang Quyền Lộc phải đi cùng mới đắc lực.
    Đến như cách Tham Hỏa Tinh hay Linh Tinh thì Hóa Lộc lại cần hơn Hóa Quyền. Thiếu Lộc chỉ có Quyền không thôi thành ra cách có tiếng không có miếng, hoặc bề ngoài phong quang sáng chói thanh thế đáng nể mà kho túi rỗng không, còn thêm nhọc mệt với công việc bộn bề, được người trọng vọng ngoài mặt thôi.
    Tham Lang Hóa Quyền đi với Đào Hoa đứng chủ chốt ngành nghề trình diễn, như nhạc hội, nhà nhảy, quán rượu dễ thành công.
    Tham Lang Đào Hoa ở cung con thường có con tư sinh, gặp Hóa Quyền thì chuyện tư sinh là công khai, không Hóa Quyền thành âm thầm.
    Tham Lang Đào Hoa đóng Phụ Mẫu cung, mình là con của dòng thứ, nhưng Tham Lang Hóa Quyền không Đào Hoa ở Phụ Mẫu lại là tốt. Tham Lang Hóa Quyền bị sát tinh đóng Tật Ách bệnh ở gan, không Hóa Quyền bệnh ở mật.

    HÓA QUYỀN - THIÊN ĐỒNG
    Thiên Đồng ưa Hóa Lộc hơn Hóa Quyền vì có Hóa Lộc đời sống an định êm ấm hơn gặp Hóa Quyền phải bươn chải khó nhọc. Nhưng tốt hơn Thiên Đồng nếu gặp được cả Lộc lẫn Quyền.
    Thiên Đồng vốn là phúc tinh không chịu nổi những xáo trộn do Hóa Quyền gây ra, phải có Hóa Lộc chế hoá để cuộc phấn đấu thành tựu.
    Thiên Đồng Hóa Quyền rất ngại thấy Cự Môn Hóa Kị đứng đối xung, hoặc Không Kiếp đứng cùng hay theo thế tam hợp. Quyền trong trường hợp này chỉ làm cho tai họa gay gắt mà thôi, chẳng giúp chi cho Thiên Đồng để chống đỡ. Trừ trường hợp cả Quyền Lộc Khoa hội tụ mới mong giải cứu.
    Thiên Đồng đứng bên Thiên Lương mà gặp Hóa Quyền tốt hơn Thiên Đồng đứng một mình. Thiên Đồng chủ về tình tự, có Hóa Quyền tình tự trở nên đậm sắc, nó có hai phản ứng trái ngược tùy thuộc các sao cát hung đi kèm. Thiên Đồng Hóa Quyền đi với cát diệu thì tình tự ổn định, gặp việc có thể trầm tĩnh đối phó cho nên ung dung thanh thản.
    Thiên Đồng Hóa Quyền đi với sát kị hoặc Kiếp Không thì tình tự thiếu hẳn ổn định, ứng phó đầu voi đuôi chuột hoặc lần khần bất quyết, đầu óc vớ vẩn.
    Đồng Quyền ở Mệnh hay ở Phúc Đức cũng vậy, trừ trường hợp đi bên cạnh sao Thái Âm thì tình tự tương đối ổn định dù có bị kèm bởi hung sát kị.
    Thiên Đồng Hóa Quyền vào Tài Bạch hay Quan Lộc có cát tinh thì cơ sự nghiệp tương đối hanh thông, gặp hung sát kị thường bất đắc chí, bất phùng thời, lắm lúc tính sảng lao vào những cơ hội viễn vông.
    Thiên Đồng tình tự nhu nhược được Hóa Quyền cá tính vững lên, cả trên tình ái lẫn xử thế giao du. Số nữ Thiên Đồng Hóa Quyền hội với Đào Hoa Xương Kị hay Cự Môn Hóa Kị thì cuộc sống tình cảm duyên tơ rất lận đận.
    Thiên Đồng cặp với Thái Âm và Hóa Lộc có thể xem là một phú cách, thêm Khôi Việt càng hay lắm nhưng làm giàu qua chức nghiệp dễ thành hơn làm giàu qua doanh thương.
    Thiên Đồng Hóa Quyền mà gặp Tả Phụ Hữu Bật dễ được trợ lực từ bên ngoài. Thiên Đồng sợ thấy Đà La, hễ Đà La đứng bên, sự nghiệp cũng như nhân duyên bị khó khăn.
    Thiên Đồng vào cung lục thân mà thấy cả Thiên Mã không thể hợp nhau dù là cha con hay anh em. Đến như vợ càng vô duyên. Thiên Đồng bản chất đã là canh cải vô thường rồi, nay Thiên Mã đến để khuấy động tình trạng canh cải vô thường ấy lên nữa.
    Thiên Đồng Hóa Quyền bị Cự Môn Hóa Kị, bạn bè mới chơi thì thân sau thành thù, vợ chồng cho đến hết đời không yên dù lấy mấy bận, anh em sơ tán, con cái chia lìa.
    Đồng Quyền Cự Kị vào cung Tật Ách dễ bị thần kinh, bệnh điên, gàn, dở hơi. Có Thiên Hình hay Không Kiếp mà không Cự Kị thì mang cái lo về thận bệnh.

    HÓA QUYỀN – THIÊN CƠ
    Thiên cơ bản chất phù động, giỏi biến hóa, có Hóa Quyền khả năng biến hóa càng linh hoạt. Thiên cơ cần Hóa Quyền hơn Hóa Lộc. Đứng với Hóa Lộc dễ có tiền nhưng tiền tài cũng hay biến hóa nay ở mai đi.
    Đứng với Hóa Quyền vẫn xoay sở ra tiền nhưng tiền bạc không bền bỉ. Thiên cơ là con người mưu lược, được Hóa Quyền, năng lực mưu lược tốt hơn, nếu có cả Văn Xương Hóa Khoa nữa thì mưu lược lên cao hẳn. Bởi vậy, khi Thiên Cơ đồng cung với Thiên Lương mà hội Xương Khoa Hóa Quyền chính là số của một chiến lược gia trên thực tế cũng như trên tư tưởng.
    Cách Cự Cơ Đồng Lương mà Cơ cùng Hóa Quyền, Đồng có Hóa Lộc, rồi gặp Xương Khoa có thể làm cố vấn, hay trở thành nhân tài trong đám mạc liêu (Bộ tham mưu). Thiên Cơ Hóa Quyền kị gặp Linh Hỏa đứng cùng, bị Linh Hỏa kế hoạch như mất nền móng thành ra múa may thiếu thực chất.
    Nhưng Thiên Cơ Hóa Quyền mà có Không Kiếp đắc địa lại như rồng gặp mây kế hoạch mưu lược thiên biến vạn hóa khiến người nể sợ.
    Thiên Cơ Hóa Quyền đóng Tài bạch hay Quan lộc thường thấy mình kiêm chức kiêm nghề khác với lề lối kiêm chức của Phá Quân Hóa Lộc ở điểm Thiên Cơ nhàn nhã thong dong hơn Thiên Cơ Hóa Quyền mang đặc điểm giỏi đầu cơ nghĩa là bắt nhanh những cơ hộikho6ng những chỉ trên kinh tế thị trường mà còn trên chính trị ngoại giao.
    Thiên Cơ bản chất tinh xảo nên nó hết sức nhạy ứng với những sao đứng chung, cát hay hung càng đậm nét. Thiên Cơ một mình bên Hóa Quyền gặp Không Kiếp đắc địa mới tốt, nếu có cả Hóa Khoa Hóa Lộc nữa thì Không Kiếp lại thành hung.
    Cơ Lương đóng Phu Thê yêu nhau mà không kết hợp, nhưng có Hóa Quyền thì chuyện quyết ý lấy nhau phải thành, hoặc xa nhau rồi gương vỡ lại lành.
    Thiên Cơ đóng Tử tức hãm địa khó thuận với con cái, nhưng có Hóa Quyền thì con cái lại thuận tòng. Thiên Cơ Hóa Quyền vào Phối cung gặp Tả Hữu thế nào cũng thành cuộc tình tay ba, có Đào Hoa nữa càng rõ rệt điều này.
    Cự Cơ Hóa Quyền ở Phối cung, hôn nhân hôn nhân mỹ mãn nếu không bị sát kị. Thiên Cơ Hóa Kị thủ chiếu Tật ách, gan nóng, hoặc thần kinh suy nhược.

    HÓA QUYỀN – THIÊN LƯƠNG
    Thiên Lương là sao thanh quý, cần Hóa Quyền hơn Hóa Lộc. Hóa Quyền đem cho Thiên Lương khả năng chỉ huy, quản trị. Nhưng Thiên Lương trên căn bản vẫn hài hòa với Hóa Khoa trên hết.
    Thiên Lương Hóa Quyền mang một khuyết điểm: Dễ thành chủ quan đôi lúc ra cố chấp. Thiên Lương rất lợi nếu có Thái Dương đắc địa chiếu, Hóa Quyền nhờ thanh thế của Thái Dương mà mạnh hơn. Thêm Tả Hữu, Xương Khúc, Thai Tọa, Quang Quý càng hay nữa.
    Thiên Lương chủ danh không chủ lợi. Nhưng ở trường hợp Thiên Lương đóng Thiên di cùng với Hóa Quyền Hóa Lộc và Thiên Mã thì đi xa, đi ra nước ngoài lập nghiệp khả dĩ làm giàu. Bởi khi Thiên Lương đồng hành với Thiên Mã lại ra cách ly hương, ly hương mà có Quyền Lộc ắt được người nơi xa thưởng thức.
    Thiên Lương Hóa Quyền làm việc thành công nhờ lòng thành tín không phải nhờ thủ đoạn mưu chước. Thiên Lương ngoài tính chất “Ấm” còn mang theo tính chất “Hình” bởi vậy nên vào lục thân đưa đến cô khắc nhất là lại có thêm Hóa Quyền. Thiên Lương mà mang tính chất “Hình” là căn cứ vào lý luận của Tử Vi gia Trung Quốc đưa ra luận cứ của Nho gia bảo rằng: “Dĩ hình pháp ấm, trị bách tính” nghĩa là lấy hình pháp để răn đe và che chở trăm họ. Vậy cho nên “Ấm” (che chở) phải đi với “Hình”.
    Thiên Lương vào thê cung người Trung Quốc cho rằng nếu vợ hơn hai ba tuổi thì tốt, có Hóa Quyền tuổi tác càng cách vời.
    Thiên Lương đóng Tử tức mà gặp Linh Hỏa thường hay bị tiểu sản, có Hóa Quyền điều trên còn nặng hơn. Thiên Lương vào Tật ách đi với Hóa Quyền dễ mắc chứng tê thấp hay thần kinh thống không hiểm nguy nhưng kéo dài khó khỏi. Thiên Lương hay bị cảm mạo, nhưng Hóa Quyền lại chống lại cảm mạo bởi vậy không đau ốm vặt, nay sổ mũi mai nhức đầu bệnh vớ vẫn.

    HÓA QUYỀN – THÁI ÂM
    Thái Âm là tài tinh rất lợi cho công việc kế hoạch tài vụ, quản lý tài vụ được Hóa Quyền khả năng kể trên tăng gấp bội. Thái Âm Hóa Quyền không nhất thiết là người giàu có lớn, mà là người quản lý tài vụ, vận dụng tiền tài, tính toán thị trường.
    Thái Âm Hóa Quyền nếu gặp Thiên Cơ Hóa Kị vất cả hơn hoặc không tự mình làm nhiều tiền chỉ tính toán tiền bạc cho người khác. Thái Âm Hóa Quyền được Hóa Khoa nhàn thân.
    Thái Âm Hóa Quyền thủ mệnh theo các nhà Tử Vi Trung Quốc khi luận đoán cần phải phối hợp với cung Phúc Đức. Họ nêu lý do sau đây:
    Thái Âm có Hóa Quyền cung Phúc mà thấy Cự Môn Hóa Kị, hoặc Thiên Cơ Hóa Kị những sao này ảnh hưởng đến toàn cục lá số khiến cho khi điều khiển tài vụ vì cố chấp thiên kiến không thực tế mà hỏng việc.
    Thái Âm Hóa Quyền hội chiếu Thái dương Hóa Khoa do nổ lực mới lên địa vị khác khác với Thái Âm Hóa Khoa hội chiếu Thái Dương Hóa Quyền. Nhưng thiếu Hóa Lộc thì vẫn không thể giàu.
    Thái Âm Hóa Quyền vào lục thân ảnh hưởng mạnh đối với thân thích thuộc nữ hơn nam. Nếu vào cung con mà thấy cả Không Kiếp Linh Hỏa sẽ bất thuận hoặc bị phiền lụy về con gái, vào cung Bào huynh Phụ mẫu cũng suy luận tương tự.
    Thái Âm Hóa Quyền đóng thê đắc địa vợ giỏi và nắm quyền gia đình, nhưng hãm mà có Hỏa Linh Không Kiếp cuộc sống lứa đôi không trọn vẹn. Thái Âm Hóa Quyền đóng tật ách dễ bị chứng suy nhược, thần kinh quá mẫn mà ưa lo sợ vô cớ

    HÓA QUYỀN – PHÁ QUÂN
    Đặc điểm của Phá Quân là sức mạnh khai sáng nhiều khả năng đột phá hiện trạng. Có Hóa Quyền sức mạnh và khả năng trên sung mãn hơn. Sự đột phá của Phá Quân thường do bị thúc bách của hoàn cảnh không thể không biến. Đứng với Hóa Quyền thì đột phá và khai sáng thành ra chủ động, đã thành công, đã yên ổn nhưng vẫn tiếp tục đi tìm những thành công mới. Bởi thế Phá Quân không thể nhàn.
    Phá Quân đóng mệnh hay Quan lộc người xưa bảo hợp với nghiệp võ. Phá Quân Hóa Quyền đứng với Khôi Việt, Tả Hữu, Thiên hình, Thai Tọa, Quang Quý vinh thân qua võ nghiệp.
    Thời nay Phá Quân cũng lợi vào chuyện theo đuổi công nghiệp, chỉ huy cơ xưởng. Phá Quân không chủ phú, nên có Hóa Quyền thì danh vẫn hơn lợi.
    Phá Quân vốn ưa mạo hiểm, Phá Quân đi cùng Hóa Quyền và những hung sát tinh khác thường đắc lực với những công tác nguy hiểm. Tỉ dụ công tác “Lực lượng đặc biệt” chẳng hạn.
    Phá Quân Hóa Quyền không gặp hung sát có thể hợp với chính trị. Phá Quân Hóa Quyền được Liêm Trinh Hóa Lộc lại có cả Tả Hữu thì hoạnh phát sớm chiều về mặt tiền bạc.
    Phá Quân Hóa Quyền đóng cung Phúc đức bản chất con người mạo hiểm, thêm Không Kiếp nữa càng xông pha, không những trên hành động mà trên cả tư tưởng.
    Phá Quân Hóa Quyền đóng cung Phối, lúc yêu thương hết sức đằm thắm tưởng như chẳng bao giờ rời, rồi đùng một cái đột biến phân ly, có Địa Kiếp càng mau rã gánh.
    Phá Quân Hóa Quyền đóng cung con, khắc con, thêm Địa Kiếp con cái bất hiếu. Phá Quân Hóa Quyền đóng tật ách gặp Thiên Hình dễ bị giải phẩu do bạo bệnh
    TÁC ĐỘNG CỦA HÓA KHOA VỚI CÁC CHỦ TINH

    HÓA KHOA - VŨ KHÚC
    Vũ Khúc là tài tinh chủ về hành động tìm đến với tiền bạc cho nên khi gặp Khoa để hóa với hai đặc điểm:
    a. Nổi danh về ngành nghề, khả năng nào đó rồi qua sự nổi danh ấy mà kiếm tiền. Tỉ dụ một nhà kinh tế gia được mời cai quản, tính thị trường cho hãng sản xuất
    b. Nếu tự tay kinh doanh thì đã nổi tiếng với một hai vụ làm ăn rồi từ đấy có đà phát triển
    Nói tóm lại Vũ Khúc Hóa Khoa kể là cách danh lợi song thâu. Nhưng danh ở Vũ Khoa khác với danh ở Thiên Cơ Hóa Khoa, Thái Dương Hóa Khoa hay Tử Vi Hóa Khoa không phải danh trên văn chương, trên thế lực mà là cái danh của thực tế kiếm tiền.
    Nếu Vũ Quyền gặp Liêm Lộc thường qua danh mà thâu lợi bất ngờ. Đã Vũ Khúc Hóa Khoa thì đương nhiên Thái Dương đứng với Hóa Kị (như người tuổi Giáp tứ Hóa an theo tuần tự: Liêm Phá Vũ Dương. Người xưa thâm ý muốn nhắn bảo phải cẩn thận khi đi vào vận Thái Dương Hóa Kị, danh cao bổng hậu cho người oán ghét ắt tai họa cũng gần chứ không xa.
    Vũ Khúc Tham Lang đồng cung mà Vũ Khúc đứng bên Hóa Khoa cùng lúc lại có cả Linh hay Hỏa Tinh thì hoạnh phát mau hơn nhưng cũng lại vì dương danh vô lối mà thất bại chóng hơn.
    Các nhà Tử Vi Trung Quốc chủ trương Vũ Khúc Hóa Khoa nên thành công qua nghề chuyên môn hơn là xông vào doanh thương, đỡ kẻ thù đỡ kẻ ghét.
    Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Thê, vợ đoạt quyền chồng nhưng đồng thời cũng phù trợ chồng chứ không đoạt quyền để lăng loàn. Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Tử Tức không đông con và có nhiều khả năng con hai dòng nhưng con cái đa năng.
    Vũ Khúc đơn độc đóng Phụ Mẫu dễ xung khắc với cha mẹ. Nhưng có Hóa Khoa không những bớt khắc mà còn sinh trưởng từ một gia đình uy danh. Cung Tật gặp Vũ Khúc Hóa Khoa gặp Hỏa Tinh phải coi chừng phổi nhiệt, khí quản viêm.

    HÓA KHOA - TỬ VI
    Tử Vi rất hợp với Hóa Khoa, nếu cả Thiên Phủ đứng cùng càng hay vì khi có Thiên Phủ tất nhiên phải kèm Thiên Tướng như vậy kể là tạm đủ văn võ triều đình.
    Ở trường hợp không Phủ Tướng mà lại thấy tứ Sát Hình Hao hội tụ thì Hóa Khoa vô dụng. Tuy nhiên về mặt học vấn vẫn xem là con người có học, ít nhiều đến được với khoa bảng.
    Tử Vi Hóa Kị đứng với Xương Khúc Khôi Việt, Long Phượng thì đa tài đa nghệ theo đuổi một ngành nghề khả dĩ thành công.
    Tử Vi Hóa Khoa có một điểm dở là bạn hữu, phần lớn Tử Vi Hóa Khoa đi với nhau ở cung Nô thường xấu. Tỉ dụ Tử Vi Hóa Khoa đóng Tí, cung Nô Bộc Thái Âm ở Tỵ đứng cùng Hóa Kị không bao giờ được sự đắc lực của thủ hạ hay bạn bè. Cung Nô cũng gây ảnh hưởng luôn với cung Bào Huynh. Như vậy Tử Khoa không có thể cộng tác với ai, cộng tác chỉ bị thiệt. Trường hợp sinh ban đêm hay Thái Âm đắc địa sẽ giảm những khó khăn trên. Tỉ dụ số nữ mà Tử Vi đóng Ngọ cung, Thái Âm ở Hợi đứng với Hóa Kị mà lại sinh ban đêm thì thuộc hạ bằng hữu thật hữu dụng.
    Tử Vi Hóa Khoa tính tình khoan hậu, nhưng tính cách này lại rất dễ biến thành chủ quan, yêu ghét giận mừng một cách chủ quan khiến cho lòng khoan hậu vì thiện từ mà đâm phiền, có khi lại thành đố kị.
    Cho nên Tử Khoa nếu vào vận Hình Sát ắt đưa đến tình trạng hoài tài bất ngộ, vào vận hanh thông lại dễ bị đố kị. Thà đừng Hóa Khoa thì cuộc sống yên hơn.
    Các cung lục thân mà Tử Vi Hóa Khoa đều kể làm tốt. Tỉ dụ cung Huynh đệ Tử Khoa, anh em ruột thịt nâng đỡ, vào Phụ Mẫu được cha mẹ che chở, vào Thê cung dễ gặp vợ hơn tuổi nhưng đảm đang, vào cung Nô Bộc mà thấy cả văn tinh thì tài năng kém thuộc hạ, cần phải biết sử dụng khéo thì tình thế này mới hay. Tử Khoa đóng Tật Ách phải săn sóc hệ thống bài tiết nhất là nhiếp hộ tuyết.

    HÓA KHOA - THÁI DƯƠNG
    Thái Dương bản chất là tán phát nên không thật thoải mái với Hóa Khoa. Hóa Khoa làm tăng thêm tính phát tán ấy cho nên dễ thành ra tiếng nhiều mà miếng ít. Bị người chú ý quá mức dù là ngưỡng vọng thì cũng phiền. Như quẻ dịch gọi bằng “Khang long hữu hối” là thế.
    Thái Dương miếu địa đứng với Khoa không bằng đứng với Lộc, Quyền trên thực tế thâu hoạch tốt. Thái Dương Hóa Khoa cũng cần bách quan tề tựu mới thành đại sự, nếu chỉ gặp Sát Hình thì là hư danh hư lợi thôi, có khi còn bị thiên hạ lợi dụng nữa.
    Nói về bách quan tề tựu cũng có hai hình thái khác biệt. Thái Dương Hóa Khoa nhất định là nổi danh, người đời chú ý từ cử chỉ đến lời nói, nếu được văn tinh Xương Khúc chế giàm tục khí ngôn hành văn nhã, thiếu văn tinh sẽ thô lỗ, ẩu tả cho người đời đàm tiếu. Thái Dương hãm địa hoặc bị Tuần Triệt sự ẩu tả đậm nét hơn.
    Có Xương Khúc rồi thêm Lộc Tồn càng đẹp. Cách Dương Lương Xương Lộc đóng vào Mão tốt nhất, trường hợp này Hóa Khoa sẽ đắc lực hơn Quyền Lộc nếu vào học thuật văn chương, nhưng lại không thành giàu có.
    Thái Dương Hóa Khoa chỉ thành phú cách nếu xung chiếu bởi Hóa Quyền và cung Quan có Hóa Lộc. Được Thiên Mã Tả Hữu sẽ rất sớm thành công nếu như không bị Hỏa Linh Không Kiếp.
    Dương Khoa có Cự Môn đứng cùng hay chiếu, ăn nói lý luận cứng cỏi vào ngành ngoại giao hay pháp luật hợp cách. Thái Dương Hóa Khoa ở hãm cung mà bị Không Kiếp sẽ vì danh vọng hão mà mang họa vào thân.
    Dương Khoa đóng cung lục thân đều hay trừ cung Nô Bộc. Dương Khoa đóng Bào Huynh, Phu Thê, Phụ Mẫu những người thân ấy đều có danh vọng. Đóng vào Nô Bộc, thuộc hạ sẽ lợi dụng danh mình hoặc tựa vào mình mà vượt trội lên hơn mình.
    Dương Khoa vào lục thân cung nếu bị Đà La Không Kiếp lại thành ra bị lục thân bóc lột. Thái Dương Hóa Khoa đóng Tật Ách dễ bị bệnh ở buồng gan, can khí nhiệt uất bốc lên mặt làm thành bệnh mắt.

    HÓA KHOA - THIÊN CƠ
    Thiên Cơ bản tính phù động, đứng với Hóa Khoa tính năng động ấy sẽ thành kế hoạch, giỏi về giao tế, thuyết phục thiên hạ. Khoa đi với Cơ tốt hơn Lộc đi với Cơ.
    Khoa Cơ luôn luôn đeo đẳng một điểm phiền là gặp Hóa Kị đứng với Cự Môn (người tuổi Đinh tứ Hóa an theo thứ tự Âm Đồng Cơ Cự). Cự Kị đương nhiên này không tuyệt đối thành cặp hung thần nếu không bị hung sát tinh khác. Hễ có hung sát tinh hội tụ để trợ giúp Cự Kị lập tức sinh phiền nhiễu do vạ miệng, do những lời phê bình sắc bén mà gây thù oán ảnh hưởng cho công việc làm.
    Thiên Cơ Hóa Khoa càng thông tuệ, có điều Thiên Cơ đa học nhưng lại bất chuyên. Bởi vậy Cơ Khoa ít hy vọng thành một chuyên gia thật giỏi. Cơ Khoa sẽ chịu ảnh hưởng nhiều từ Cự Kị khi vận đi xuống. Bởi thế Cơ Khoa lúc đắc thời đắc thế cần thận trọng.
    Ông Vương Đình Chi đưa ra lập luận sau đây: “Thiên Cơ đóng Mệnh rất ngại sao Thiên Lương đóng Phúc Đức (đó là cách Cự Cơ Mão Dậu đấy) sẽ đưa đến tình trạng tự thị thông minh mà rơi vào lầm lẫn to tát, khiến cho khả năng quyền biến thành hư ngụy, hoặc ra con người khinh bạc khó thành đại sự”
    Cơ Khoa đóng Huynh Đệ, anh em bất hòa thường trực, hoặc bằng mặt mà chẳng bằng lòng, anh em cộng tác với nhau mà mỗi người lại tính toán riêng. Thà không Hóa Khoa còn hơn, có Hóa Khoa vào Huynh Đệ không chỉ ảnh hưởng đến anh em mà còn ảnh hưởng đến cả bè bạn. Có Hóa Khoa tóm lại khó lòng gặp được người cộng tác trung thực.
    Cung Tật Ách thấy Cơ Khoa can hỏa vượng thịnh, khó ngủ vì tâm thần bất giao do sự hun nóng của lá gan đưa đến thần kinh suy nhược.

    HÓA KHOA - VĂN XƯƠNG
    Xương Khúc tuy là phụ tinh nhưng cũng dự phần vào chuyện an tứ Hóa. Một phụ tinh nữa dự phần tứ Hóa là sao Hữu Bật. Xương Khúc chủ văn chương nên gặp Hóa Khoa kể như hữu lý.
    Một phái hệ Tử Vi bên Trung Quốc không chấp nhận Hữu Bật đứng với Hóa Khoa, nhưng đấy chỉ đặt vấn đề thôi, không được giải quyết.
    Thời xưa do khoa cử mà nên công danh (dĩ nhiên cũng không thiếu gì người qua dị lộ mà có công danh). Bởi vậy khi chuyển vào số mà chủ trương Mệnh hay Thê cung mà có Xương Khoa rất đáng mừng. Vận gặp Xương Khúc Hóa Khoa cũng thuận lợi cho công danh.
    Đời bây giờ Xương Khoa không còn sức mạnh để đạt công danh như ngày trước, chỉ xem là giành được phần khoa bảng thôi.
    Văn Xương chủ về văn thư khế ước, viết sách nổi tiếng, hoặc có văn bằng mà thành danh giá. Xương Khoa Hóa Lộc đi cùng khả dĩ nhờ một khế ước mà có tiền.
    Xương Khoa cần có thêm Tấu Thư càng dễ nêu cao danh vọng. Xương Khoa cũng là dấu báo của một tin vui. Xương Khoa là một con người giỏi thích ứng với cuộc sống, yêu đời.
    Xương Khoa vào vận hạn hay các cung lục thân mà gặp nhiều hung sát tinh thì lại không tiếp tục mang tính chất mừng vui hỉ khánh nữa mà có thể ra tang lễ. Tại sao? Vì Xương Khoa chủ về lễ nhạc kèn trống tế lễ.
    Thê cung thấy Xương Khoa đi cùng Đào Hoa vào cổ thời là con người ưa lấy vợ lẽ thiếp hầu, ở thời này thường xảy ra những cuộc tình ngoại hôn. Xương Khoa vào cung Tật Ách mà có Hỏa hay Linh thì bệnh tật để lại vết sẹo, như giải phẩu hoặc nám da.

    HÓA KHOA - THIÊN LƯƠNG
    Thiên Lương chủ quí nên cần gặp Hóa Khoa để mà danh dự. Cơ Lương đi cặp đứng cùng Hóa Khoa là con người quản trị giỏi. Thiên Lương Hóa Lộc dễ được người tin cậy.
    Cách Cơ Cự Đồng Lương được Hóa Khoa là một cán bộ hành chánh cừ khôi, hoặc là loại chuyên viên có hạng. Cao thấp còn tùy sao bản mệnh.
    Lương Khoa trên tính tình là con người từ ái, chuộng nghĩa khinh tài. Lương Khoa mà gặp Văn Khúc Hóa Kị đối xung thì sức lực bị giảm hẳn, gây thù chuốc oán vì cái tính bới lông tìm vết xét nét tiểu tiết nhỏ nhặt.
    Lương Khoa có Tấu Thư học vào ngành viết diễn văn, làm đổng lý phụ tá đắc lực. Lương Khoa đi cùng Thiên Đức Giải Thần học thuốc dễ thành công.
    Thiên Lương Thiên Đồng hễ có Hóa Khoa thì không sợ thấy Thiên Mã, không Khoa chỉ có Thiên Mã thôi Đồng Lương sẽ ra lãng đãng, bông lông.
    Đồng Lương Hóa Khoa có Thiên Mã thành ra con người giao du rộng rãi “tứ hải văn danh”. Ngay cả Thiên Lương Tỵ Hợi mà được Khoa cũng giảm bớt chất phiêu bồng thêm Khôi Việt nữa thì qua cơn phiêu lãng trải nhiều kinh hiểm khả dĩ nên công. Lương Tỵ Hợi vào Thê cung dù có Khoa cũng vẫn không đẹp.
    Lương Khoa đóng Phụ Mẫu hay Tử Tức đều tốt, được ân đức cha mẹ và con cái thành đạt. Thiên Lương đóng Tật Ách gặp Không Kiếp dễ bị tê thấp đau nhức, có Hóa Khoa càng nặng.
    Nữ mệnh Thiên Lương Hóa Khoa đóng Tật Ách gặp Linh Hỏa bị lưu sản, bệnh lộn xộn đường kinh. Từ trước tới giờ người ta nghĩ Hóa Khoa vào Tật Ách là giải hết bệnh hoạn, điều này qua kinh nghiệm không đúng

    HÓA KHOA - THÁI ÂM
    Thái Âm là tài tinh, khi đã hóa thành Khoa khiến cho tài nguyên thuận lợi. Thái Âm Hóa Khoa vào kinh doanh hợp cách, dễ tạo thanh danh cho công việc kinh doanh mà sinh lợi. Tỉ dụ một tiệm ăn nổi tiếng, tiệm quần áo nổi tiếng….
    Thái Âm khác Thái Dương ở điểm: Thái Dương trải ánh sáng đi, tán quang trong khi Thái Âm lại liễm ánh sáng tới. Bởi thế nên sự thành danh cũng khác với thành danh của Thái Dương. Thái Dương mở rộng ra quần chúng, Thái Âm lại cần hạn hẹp với lợi ích bản thân.
    Thái Âm Hóa Khoa tạo tính lạc quan, dễ sống, thích nghi hưởng thụ. Thái Âm Hóa Khoa đóng Phúc Đức quan niệm sống thoải mái với hưởng thụ nhân sinh. Do đó mới có luận cứ rằng: Âm Khoa đóng Mệnh đắc địa không hay bằng đóng Phúc Đức trên mặt nhàn nhã hưởng thụ. Vì Âm Khoa ở Mệnh thì cung Phúc Đức có Cự Môn thường đưa đến tình trạng đam tâm thái quá dễ mệt mỏi tinh thần.
    Âm Khoa vào Tài Bạch cung thì cung Mệnh sẽ là sao Thiên Lương thủ. Tiền bạc không do tự tay mình tung hoành mà nhờ thanh vọng chức tước sẵn có để hưởng bổng lộc. Thái Âm đóng hãm cung mà có Hóa Khoa càng vô duyên với những vụ đầu tư, hãy theo đuổi chức nghiệp thì hơn.
    Thái Âm hãm đứng với Hóa Khoa ở Tật Ách chủ về bệnh âm hư. Âm Khoa đắc địa vào cung lục thân Phụ Mẫu Tử Tức xem là tốt đẹp kể luôn cả Thê cung, nhưng nếu lạc hãm thì ngược lại.

    HÓA KHOA - VĂN KHÚC
    Xương hay Khúc đều là văn tinh cho nên đương nhiên cần Hóa Khoa. Thời xưa cho rằng Văn Khúc không bằng Văn Xương vì Văn Khúc mang khuynh hướng dị lộ công danh. Văn Khúc Hóa Khoa cùng với Ấn Quang Thiên Quí tốt hơn Văn Khúc chỉ với một Hóa Khoa, như vậy mới thành cách “Ân Khoa”. Cách này dễ được đề bạt vào chức vị.
    Văn Khúc sao có tài ăn nói nếu gặp Cự Môn Hóa Lộc thì nói ra tiền, hoặc vì giỏi ngôn từ mà được người đời tin cậy. Văn Khúc cũng chủ về thuật số đứng với Khoa và Cơ Âm học về thuật số khả dĩ nổi danh.
    Văn Khúc Hóa Khoa chịu ảnh hưởng nhiều từ các sao mà chúng đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi Thất Sát không ưa Văn Khúc Hóa Khoa lắm. Tử Sát chủ về quyền lực, Khúc Khoa không làm tăng tấn quyền lực, đôi khi còn làm trở ngại cho khả năng quyết đoán.
    Vũ Khúc có thể cần Văn Khúc thôi, nhưng không cần Văn Khúc với Hóa Khoa vì Khoa chen vào tạo thành mâu thuẫn đáng lẽ cần tham, quyết định thì là dùng dằng mà hỏng việc. Nhưng Thiên Cơ Thiên Lương thì tuyệt đối cần Văn Khúc Hóa Khoa. Cơ Lương có được Khúc Khoa thanh vọng tăng lên, nhưng đồng thời cũng mang một khuyết điểm là nhiều lý thuyết hơn hành động.
    Cự Môn Hóa Lộc đứng với Văn Khúc Hóa Khoa tài ăn nói hơn người với điều kiện đừng có Sát Kị tinh. Gặp Sát Kị sẽ bị họa do ngôn từ. So Xương với Khúc thì Văn Xương thiên về tư tưởng, Văn Khúc lại ngả về hành động. Văn Xương khi suy tư rất sáng nhưng vào hành động lại vụng về, trong khi Văn Khúc suy tính không tinh sảo nhưng hành động đắc lực.
    Khúc Khoa vào cung Phúc Đức ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời. Khúc Khoa đóng Mệnh mà Thê cung lại thấy Văn Xương Hóa Kị thì trước khi có vợ đã có thiếp. Nữ mệnh mà như thế lúc lấy chồng không còn là con gái nữa. Nó không rõ rệt như Tham Đào nhưng là ngấm ngầm.

    HÓA KHOA - THIÊN PHỦ
    Thiên Phủ ưa nhất Lộc. Khoa đối với Phủ chỉ là thứ yếu. Thiên Phủ thiếu Lộc mà gặp cả Sát tinh như Triệt Tuần, Linh Hỏa, Không Kiếp sách gọi bằng: “Phủ khố không lộ” (kho thủng, kho không cửa ngõ). Khoa vào chẳng giúp ích được gì.
    Thiên Phủ Hóa Khoa không bị sát tinh là người quản thủ tiền bạc giỏi. Thiên Phủ Hóa Khoa gặp Sát tinh nên học một nghề cho tinh để vinh thân.
    Phủ Khoa thành một cách đặc biệt nếu gặp Thiên Riêu đứng bên. Hễ có Riêu thì không sợ các sát tinh. Thêm Sát tinh càng tốt, biến ra con người nhiều mưu chước kinh doanh tài chánh, hoàn cảnh càng biến hóa càng lên cao. Phủ Khoa Riêu không Sát tinh thì chỉ là con người gây được tín nhiệm của thiên hạ nhưng coi chừng tâm tư người này quá lớn.
    Tử Vi Thiên Phủ đồng cung hoặc đối xung thì Thiên Phủ Hóa Khoa kể làm tốt nhất là với người tuổi Nhâm vì còn hội thêm với Quyền Lộc. Phủ Khoa trong trường hợp trên đem lại khả năng lãnh đạo và được người tin cậy miễn đừng thấy Hóa Kị đứng bên Vũ Khúc. Có Vũ Kị biến ra lý tưởng quá mức mà đưa đến không tưởng.
    Phủ Khoa đóng lục thân, có thể tin cậy trong mọi công việc làm ăn. Tỉ dụ vào cung Bào hãy cộng tác với anh em ruột thịt. Phủ Khoa đóng Thê cung hay Phu cung luận đoán phức tạp hơn. Vì Phủ ở Thê thì Mệnh là Tham Lang. Phủ Khoa như vậy người phối ngẫu sẽ chỉ phúc hậu với điều kiện hơn tuổi (vợ già hay chồng già). Phủ Khoa gặp Sát tinh đóng Tật Ách thường bị bệnh ở bộ phận tiêu hóa: dạ dày, ruột.





    TÁC ĐỘNG CỦA HÓA KỊ VỚI CÁC CHỦ TINH

    HÓA KỊ - THÁI DƯƠNG
    Thái Dương Hóa Kị làm những nghề dính líu đến thị phi quan tụng hoặc gây dư luận ồn ào thì chính mình mới đỡ trở thành nạn nhân của thị phi quan tụng và đàm tiếu phê bình. Tỉ dụ: Thầy kiện, quan tòa, cảnh sát mật vụ, thông tin báo chí, quảng cáo viên. Làm những nghề thông thường dễ bị chiêu oán đả kích.
    Thái Dương Hóa Kị dở, hay cũng còn tùy thuộc những sát tinh đi kèm. Thái Dương Hóa Kị không gặp sát tinh lại được Tả Hữu thì gian lao phấn đấu mà nên đại nghiệp như làm chính trị hoặc phấn phát mạnh rồi nhiều kẻ ganh ghét. Còn như gặp nhiều sát tinh kèm vào thì phiền lắm. Chẳng những thị phi chiêu oán mà còn bị họa nạn.
    Cách Cự Nhật có Hóa Kị không phải là dở nếu được Lộc Tồn đứng cùng, vào ngành ngoại giao pháp luật, làm quảng cáo, bán hàng càng cạnh tranh càng thành công.
    Trường hợp Thái Dương Ngọ cung dù có Lộc Tồn mà thấy Hóa Kị thì cao danh vọng lắm đầy gian nan nhiều, bị vận xấu xuống đến đất đen.
    Thái Dương đứng với Hóa Kị nếu có Không Kiếp Tuần Triệt đi rao giảng tôn giáo sẽ gây thanh vọng. Thái Dương Hóa Kị mà bị Kình Dương Thiên Hình hay bị kiện tụng hoặc bị chạm chán với luật pháp.
    Thái Dương Hóa Kị vào cung lục thân đều không hay, nhất là đối với người sinh vào ban đêm, nếu có cả sát tinh nữa thì sinh ly tử biệt. Mệnh nữ mà có Thái Dương Hóa Kị ở Phu phải mấy bận dỡ dang, bị cướp chồng hay đi cướp chồng người, thêm Đào Hoa điều trên nặng nữa.
    Cung Phụ mẫu xuất hiện Thái Dương Hóa Kị không thuận với cha mẹ, hoặc hay bị kẻ trên nghi ngờ và chèn ép. Thái Dương Hóa Kị vào Tật ách bệnh về thận, về đường tiểu hoặc bệnh mắt. Thái Dương Hóa Kị đóng mệnh cũng thấy Riêu Hình nếu Thái Dương hãm có thể bị mù. Thái Dương Hóa Kị hãm cung vào Tật ách của số nữ hoặc đóng cung Tử tức có trở ngại trong vấn đề sinh sản.

    HÓA KỊ - LIÊM TRINH
    Liêm Trinh là máu huyết, là tinh thần hưởng thụ. Liêm Trinh là sao của những biến đổi đột ngột. Liêm Trinh Hóa Kị dễ đưa đến một tai nạn có đổ máu thường thấy như giải phẫu, tai nạn xe cộ, tên bay đạn lạc, nhất là đứng cùng sao Thất Sát ở Sửu Mùi.
    Liêm Trinh Hóa Kị gặp Đào Hoa nhiều phiền lụy trên luyến ái. Nữ mạng Liêm Trinh Hóa Kị có cả Xương hay Khúc ắt phải rỏ lệ thương tâm
    Liêm Trinh Hóa Kị đứng cung Tài bạch là triệu chứng tiêu hao tiền bạc do một quan hệ tình duyên. Tỉ dụ vợ ly dị phải chia của. Tỉ dụ: Vì lấy vợ mà bị rút một phần của cải gia tài. Như vậy, ngay ở cả Tài bạch, Liêm Trinh vẫn dính líu đến vấn đề huyết duyên. Bởi thế, thấy Liêm Trinh Hóa Kị thì hãy cứ đặt căn bản trên huyết duyên mà luận đoán.
    Liêm Kị đóng vào cung lục thân thì luôn luôn bất hòa, với bố mẹ, với anh em, với bạn bè, với vợ con. Liêm Trinh không Hóa Kị mà có Xương Khúc vào vận hạn có thể đoán là một tin vui như đẻ con, phục hồi sức khỏe, việc lấy vợ lấy chồng của những người thân. Liêm Trinh Hóa Kị đóng Tật ách khi bệnh hoạn dễ đưa đến giải phẩu.

    HÓA KỊ - THÁI ÂM
    Thái Âm không ngại Hóa Kị như Thái Dương. Vì lẽ Thái Âm chủ ẩn tàng cùng chất với Hóa Kị. Thái Âm gặp Hóa Kị không bị tình cảnh oán ghét như Thái Dương. Có thể mang một tâm trạng đau buồn nào đó, không do áp lực từ bên ngoài. Khi chỉ là chuyện nội tâm thì cũng dễ khắc phục.
    Thái Âm đắc địa ở Dậu có Hóa Kị lại biến thành đám mây ngũ sắc. Nhưng Thái Âm ở Mão hãm không tốt. Nhất là bị Kình Đà hiệp Kị nguy hiểm. Thái Âm Hóa Kị ở hãm cung đóng Tài bạch đầu tư thường thua thiệt do thiếu sáng suốt, tính toán không kỹ.
    Riêng Thái Âm Hợi mà có Hóa Kị thì ban đầu dù khó khăn nhưng cuối cùng lại hết sức thuận lợi bởi những đột biến không ngờ. Thái Âm chủ ẩn tàng có khuynh hướng tinh thần hơn Thái Dương chỉ chú ý đến bộc lộ thực tế.
    Thái Âm Hóa Kị nếu thêm sát tinh thành ra một khuyết hãm trên tinh thần. Cho nên Thái Âm Hóa Kị không nên đóng cung Phúc Đức nhất là đối với nữ mạng. Thái Âm Hóa Kị tại Phúc đức, người con gái ý chí yếu đuối dễ bị đường mật dụ dỗ lường gạt mà một lần sa chân thành thiên cổ hận.
    Thái Âm Hóa Kị ở cung Phúc lại thấy cả Xương Khúc Đào Hoa có thể đoán là số hồng nhan bạc mệnh. Thái Âm tại Tị vào đất hãm gặp Cự Đồng cung Sửu, tình tự càng bối rối có thể vì xung động nhất thời mà ảnh hưởng đến cả một đời.
    Thái Âm Hóa Kị nếu có họa thì thường do mình khởi lên, khác với Thái Dương Hóa Kị là bị ngoại cảnh người đời ganh ghét. Thái Âm Hóa Kị ở thế hãm đóng lục thân cung mà lại là người sinh ban ngày thì hoàn toàn vô duyên với lục thân.
    Các nhà Tử Vi Trung Quốc bảo: Thái Âm Hóa Kị đóng cung Thân (Mệnh thân) là mẹ hay cha mất sớm từ lúc còn nằm nôi, nếu có cả Linh Hỏa càng mau. Thái Âm Hóa Kị đóng cung Nô bộc bị hại ngầm bởi bạn bè, người trên, người đồng liêu, thủ hạ. Thái Âm Hóa Kị đóng tật ách hay mệnh ở hãm địa phải đề phòng đôi mắt.

    HÓA KỊ - CỰ MÔN
    Cự Môn chủ khẩu thiệt gặp Hóa Kị càng tăng thêm cái phiền cái họa về khẩu thiệt còn đưa đến kiện tụng cò bót. Cự Môn Hóa Kị mệnh cung thành cặp hung thần làm cho bị thương, bị giải phẫu.
    Cự Kị đóng mệnh thêm sát tinh ngay từ lúc nhỏ đã thấy, đã gặp những điều đắng cay như mồ côi, bố mẹ phân ly… Cự Kị Hồng Đào, vợ chồng chia lìa. Cự Kị đóng Tài bạch làm ông giáo, làm người bán hàng mà có thêm Hóa Lộc thì nhờ nói mà ra tiền.
    Mệnh cung Cự Kỵ không thêm sát tinh, có Quyền Lộc không nên xuất đầu lộ diện đừng thích hư danh sẽ yên ổn mà ngấm ngầm tiến tới thành công. Cự Môn tuy là cái miệng nhưng hễ thấy Hóa Kị thì đừng nên làm kịch sỹ hay ca sỹ để hứng chịu la ó của khán thính giả.
    Cự Kị đắc địa được Hình Quyền làm thầy kiện đắc lực, hoặc điều khiển cơ quan mật vụ cũng hay. Tất cả chỉ vì Cự Môn là ám diệu mà Hóa Kị lại chủ ẩn mật tiềm tàng.
    Cự Kị đóng Phụ mẫu gặp Hình hay Đà không thể gần gũi hòa hợp với cha mẹ. Cung Phu thê rất ngại thấy Cự Môn Hóa Kị thế nào cũng tan vỡ. Có cả Đào Hoa nữa thì thành tình tay ba.
    Cung Bào huynh Cự Kị khó lòng hợp tác với ai mà yên lành. Cự Kị vào cung Tật ách bị bệnh thần kinh hay xương tủy. Cự Môn cũng là ống thực quản từ miệng trôi vào dạ dày cũng đưa đến bệnh về yết hầu.

    HÓA KỊ - THIÊN ĐỒNG
    Nói đến Thiên Đồng với Hóa Kị lại phải nhắc đến hai chủ trương khác nhau trên tuổi Canh. Một phe chủ trương Đồng là phúc tinh thì không Hóa Kị, một phe chủ trương Đồng Kị là tình trạng có phúc mà không được hưởng.
    Một phe đứng giữa bảo: Tuổi Ất Tứ Hóa đã an theo Cơ Lương Vi Âm nghĩa là Hóa Kị đã một lần đứng với Thái Âm rồi, sao qua tuổi Canh lại an theo Nhật Vũ Đồng Âm để Thái Âm đứng với Hóa Kị thêm một lần nữa ?
    Lập luận trên có phần nào ngã theo lập luận Hóa Kị phải đứng với Thiên Đồng ở tuổi Canh, nhưng đặt căn bản trên sự hợp lý của an sao. Không hẳn vì đã vững vì tứ Hóa không một Hóa nào được an với Thất Sát, trong khi an bốn lần với Vũ Khúc, một lần với Thiên Phủ, hai lần với Tử Vi…, Xương Khúc đi với Tứ Hóa hai lần, mà Tả Hữu một bận sánh vai với Hóa Khoa trong khi Thái Âm có mặt bốn lần bên Tứ Hóa, nếu kể thêm cả tuổi Canh là năm. Vậy rõ ràng Tứ Hóa không an theo lối chia đều. Thật ra ta không tìm thấy được lý do tại sao cổ nhân căn cứ vào đâu mà an Tứ Hóa cho thập can như vậy ?
    Khi Thiên Đồng phải đi với Hóa Kị thì không bao giờ Thiên Đồng còn đi với Hóa Khoa nữa. Ở đây tôi vẫn biên chép những luận cứ về Đồng Kị kèm với Đồng Khoa để độc giả tự phán xét lấy. Ngoài ra nếu đưa Thiên Đồng đến bên Hóa Kị thì Thái Âm sẽ có hai bận đứng chung với Hóa Khoa thì sao ?
    Đồng Kị đóng mệnh luôn luôn tâm ý thống khổ. Đồng Kị vào Phúc đức cung cũng vậy, tâm ý phiền muộn. Nhưng Thiên Đồng Hóa Kị cung Phúc đức mà có Không Kiếp lại biến ra cách khác hẳn, có những sáng kiến độc đáo, mưu chước khôn lường. Nếu lại có cả Âm Sát Thiên riêu sẽ thành một tay đại gian hùng.
    Đồng Kị đóng lục thân không cung nào được xem là tốt đẹp. Đồng Kị vào tật ách bệnh kéo dài khó khỏi, ảnh hưởng đến sự hưởng thụ cho cuộc sống.

    HÓA KỊ - THIÊN CƠ
    Thiên Cơ là sao của mưu tinh kế hoạch, Hóa Kị chủ ẩn tàng và âm thầm. Thiên Cơ Hóa Kị kể là thái quá thành ra mưu thâm họa diệc thâm. Trong sách Hồng Lâu Mộng có câu:
    “Cơ quan toán tận thái thông minh
    Toán khứ liễu khanh đích mệnh.”
    Nghĩa là tính toán âm thầm bằng trí tuệ cao siêu, rút cuộc đưa đến cái chết cho chính mình. Bởi thế Cơ Kị đóng mệnh hay phúc đức nếu vào doanh thương có ngày nhầm chỉ một lần mà mất hết cơ nghiệp.
    Người Cơ Kị hay sống thanh thản bình thường, mọi sự phó thác cho số mệnh ung dung mà thành công. Nói tóm lại là đừng dùng mưu kế nhiều. Cái ưu điểm của Thiên Cơ là quyền biến, nhưng khuyết điểm cũng nằm trong quyền biến ấy. Vì quá thông minh quyền biến nên đôi lúc thành ra kẻ hoạt đầu khiến người nghi kị. Như Nguyễn Hữu Chỉnh trong bụng đầy mưu cơ cuối cùng bị Tây Sơn bỏ rơi mà chết giữa biển.
    Kị ứng với Cơ khiến Cơ càng bị nghi kị hơn. Cơ Kị thường bị người đời tranh cạnh nói xấu nói vu, bất cứ vào lãnh vực nào cũng luôn luôn phải chống đỡ, cuộc sống mệt mỏi.
    Nữ mạng Thiên Cơ Hóa Kị mà gặp Hỏa Linh các Tử Vi gia Trung Quốc cho là số có khuynh hướng tự sát. Cổ xưa, về làm dâu mà số như thế sẽ bị cả nhà chồng lẫn chồng ghét bỏ không lối thoát mà tự sát.
    Thiên Cơ Hóa Kị đóng lục thân nói lên điều sơ ly khó thân ái lâu bền, nhưng trước khi sơ ly lại rất đằm thắm bởi vậy sự sơ ly của Cơ Kị thường đem tới tâm lý tuyệt vọng. Cơ Kị làm cho chuyện bé xé thành chuyện to, chuyện chẳng ra sao mà nên thù hận.
    Thiên Cơ Hóa Kị đóng Tật ách hay bị mất ngủ, thần kinh suy nhược, mất trí nhớ. Thiên Cơ Hóa Kị cũng dễ bị bệnh gan, ưu tư suy nghĩ nhiều ắt gan hư.

    HÓA KỊ - VŨ KHÚC
    Vũ Khúc là tài tinh. Vũ Khúc Hóa Kị đi với nhau là làm ăn dung dị phấn phát, nhưng kèm theo sự phấn phát là những phiền lụy. Tỉ dụ sa thải người mà bị người oán; phải cạnh tranh mà mất lòng người; làm việc mà đồng liêu ganh ghét; vùi đầu vào công tác quên cả vợ con khiến vợ con xa cách.
    Vũ Kị đóng Mệnh hay Tài bạch chỉ có làm chuyên viên giỏi nghề nghiệp là yên ổn. Vũ Kị sợ thấy Không Kiếp làm cho hao tổn tiền tài qua lừa gạt.
    Vũ Khúc Hóa Kị mà gặp Linh Tinh Văn Xương Đà La thành ra cách Linh Xương Đà Vũ thêm Kị xấu gấp bội. Cách này sẽ vì tự cao tự đại mà thất bại nặng, sụp đổ cả một cơ, sự nghiệp.
    Cách Vũ Kị Linh Xương Đà đóng Phúc đức cung đưa đến tư tưởng cực đoan làm hỏng đời mình kiểu Robespierre của Cách mạng Pháp.
    Vũ Kị vào cung Lục thân mà có cả hình sát tinh nữa thì những người thân có ai bị phá sản. Riêng đóng Thê cung, vợ phá của. Vũ Kị đóng Tật ách thường bị bướu mà phải giải phẫu.

    HÓA KỊ - THAM LANG
    Khi Tham Lang đứng với Hóa Kị thì đương nhiên Phá Quân đứng cùng Hóa Lộc (cho người tuổi Quý). Nhờ vậy Hóa Kị không tác hại nhiều vì lẽ Phá Quân rất ăn ý với Hóa Lộc.
    Tham Lang Hóa Kị đắc địa lại hội thêm được cát tinh, đôi khi chỉ nói bâng quơ mà ra cơ hội, chỉ làm chơi mà ăn thiệt, chỉ ném hạt cam xuống đất không có ý trồng mà nên cây.
    Tham Lang Hóa Kị đứng với Linh Tinh hay gặp Linh Hỏa dễ hoạnh phát bạo phát. Không sát tinh mọi chuyện hanh thông như trò giỡn. Có sát tinh bạo phát bạo tàn. Sát như Kình Đà Không Kiếp, Thiên Hình.
    Tham Lang Hóa Kị ở cung Tí hay Tỵ mà số nữ rất không nên, gái bạc tình. Tham Lang Hóa Kị đóng Phu thê hôn nhân thất bại. Tham Lang Hóa Kị trên căn bản là tranh đoạt. Tranh đoạt mang hai hình thế: Bị động hoặc chủ động. Gặp Hình Sát thì ở thế bị động, gặp nhiều cát tinh thành thế chủ động.
    Tham Kị đi với Đào Hoa Văn Xương tạo thành tranh đoạt trên tình trường. Nữ mạng mà bị đặt vào sự tranh đoạt ở tình trường thì chẳng có thể nào mà tốt lành được.
    Trường hợp Hóa Kị đứng với Tham Lang mà bị giáp Kình Đà hoặc tam hợp Kình Đà thành ra cách Dương Đà Kiếp Kị ra đời luôn luôn ở vào bị động, có danh có chức chăng nữa cũng chỉ là hư danh rồi một ngày nào đó rơi vào cảnh quyền rơm vạ đá.
    Tham Lang Hóa Kị đóng Phúc đức hay Phu thê cung trong lòng ẩn dấu nổi đau thương mà không nói ra được. Tham Lang Hóa Kị cùng Linh Hỏa vào lục thân chủ về phân ly trong một thời gian nào đó.
    Tham Lang Hóa Kị đứng với Đà La đóng Tử tức hay Bào huynh khó hòa hợp, tư tưởng nếp sống hoàn toàn bất đồng. Tham Lang Hóa Kị đóng Nô bộc hay bị tay chân thủ hạ phản bội hoặc cạnh tranh. Tham Lang Hóa Kị đóng Tật ách số nữ bệnh về bộ phận sanh đẻ.
     
  14. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    HÓA KỊ - VĂN XƯƠNG
    Với người tuổi Tân, khi Văn Xương gặp Hóa Kị thì Văn Khúc lại đứng với Hóa Khoa (an theo Cự Nhật Khúc Xương). Cả hai hội tụ mà vào mệnh tất gặp Cự Môn, Cự Kị gây cản trở nên dù có Xương Khúc Hóa Khoa học vấn cũng không thể thành công đến tuyệt đỉnh mà chuyển thành cách dị lộ công danh. Dị lộ đường đi quanh co vất vả hơn, cuộc đời lận đận hơn.
    Văn Xương Hóa Kị cũng đưa đến tình trạng không tựu được vào khoa danh để dành quyền chức. Hoặc thành tựu một nấc khoa danh nào đó mà chẳng được dùng đến. Đỗ Luật, đỗ Văn chương rồi động viên làm cai đội. Chẳng đỗ gì đăng lính rồi lên tướng.
    Xương Kị đứng với Không Kiếp hay gặp Không Kiếp rất không tốt khi vào Tài bạch cung, chổ dung thân thường bị phá sản, hoặc do nhầm lẫn của chính mình mà gây thành sự phiền hà trên tiền bạc.
    Người Xương Kị cũng thường bị thất ước, cho người vay mượn mà người không trả mình, vay mượn của ai mà mình nhỡ nhàng không trả nổi hay không trả được đúng định kỳ.
    Xương Kị là sự thất ước, đứng với Đào Hồng, nam hay nữ hay bị lừa gạt trên tình ái. Xương Kị vào vận hạn, mong ngóng một tin tức, một lời hứa đều bị cuội.
    Xương Kị đóng lục thân chủ sơ ly, nếu lưu niên vận hạn vào cung Phụ mẫu mà gặp Xương Kị lại thấy các sát tinh khác nữa thì có tang tóc.
    Xương Kị đóng Phu thê cung nên vợ nên chồng tự nhiên, không hôn lễ hoặc không được đồng ý của hai bên cha mẹ. Cung Nô có Xương Kị đứng cùng các sát tinh thường bị liên lụy vì kẻ dưới. Vào cung Bào anh em bất hòa.
    Xương Kị đóng tật ách hay bị loang, thẹo, đứng với Nhật Nguyệt có cườm mắt hay mắt kéo màng.

    HÓA KỊ - VĂN KHÚC
    Văn Khúc Hóa Kị cũng như Văn Xương Hóa Kị dễ bị thất hứa, nhưng Văn Khúc vốn chủ về lời không như Vũ Khúc vốn chủ về tờ chữ.
    Khúc Kị ưa ngôn quá kỳ thực, vận hạn vào Khúc Kị bị gạt gẫm bởi những lời hứa hảo, những kế hoạch ba hoa. Khúc Kị đóng cung Phúc đức thường vì thị tài mà thất bại. Cự Môn gặp Khúc Kị thì đôi khi lại vì tai tiếng mà nổi danh, mà danh tốt chứ không phải danh xấu.
    Khúc Kị vào các cung lục thân cũng như Văn Xương Hóa Kị kể là không tốt. Khúc Kị vào Phối cung hay xa chồng xa vợ, hoặc lúc cưới, chồng hoặc vợ vắng mặt. Khúc Kị cùng đóng cung Tật ách với Phá Quân số bị thủy ách. Thủy ách gồm có đi mưa mà sưng phổi, đắm thuyền, bơi lội đuối sức.
    Những lời luận đoán về Tứ Hóa trên đây là căn cứ vào bố trí đồng cung không phải tính qua tam hợp. Tỉ dụ Cự Môn đóng Tý mà đứng bên Hóa Kị ở Mệnh cũng Tí (hay Phúc đức, Quan lộc) thì Kị không thành hung thần, nhưng nếu Cự Môn Tí mà gặp Hóa Kị theo thế tam hợp hoặc xung chiếu thì lại phiền.





    NHỮNG CÂU PHÚ VỀ LỘC QUYỀN KHOA KỊ

    - Tam Hóa liên châu phúc tất trùng lai (có ba Hóa đi liền ba cung mà Mệnh hoặc Thân đóng một trong ba cung đó thì phúc đến miên trường)
    - Ngọ thượng Khoa Quyền biên cương nhậm trọng (Mệnh tại Ngọ hoặc Quan Lộc tại Ngọ mà có Khoa Quyền nắm quyền bính nơi biên ải)
    - Khoa Quyền củng bất như lâm viên (Khoa Quyền chiếu không bằng đóng tại Mệnh)
    - Khoa Quyền Lộc Mã tu phòng Không Kiếp ám xung (Mệnh Khoa Quyền Lộc Mã hoặc vận hạn Khoa Quyền Lộc Mã mà bị Không Kiếp xung thì ảnh hưởng tốt của Khoa Quyền Lộc Mã kém đi nhiều)
    - Khoa Quyền nhập Mệnh tuy lạc nhàn diệc hữu hiển danh (ở Mệnh có Khoa Quyền tuy Khoa Quyền ở nhàn cung thì vẫn có địa vị)
    - Hóa Khoa đồng văn diệu đề bảng chi vinh (Hóa Khoa đứng với Khôi Việt Xương Khúc học hành thành đạt)
    - Hóa Khoa tối vi kỳ; vật hướng Thiên Thương nhi ám hối (Hóa Khoa rất tốt, nhưng kị đóng vào cung Nô việc học hành lận đận)
    - Khoa Quyền nhân Khôi Việt dĩ thành công (Khoa Quyền cần Khôi Việt để thành công)
    - Khoa Quyền Lộc hợp phú quí (có Khoa Quyền Lộc thủ chiếu Mệnh không bị hung sát tinh tất giàu sang)
    - Khoa Mệnh, Quyền triều đăng dung giáp đệ (Khoa đóng Mệnh, Quyền xung chiếu dễ đỗ đạt cao)
    - Khoa danh hãm ư hung thần miêu nhi bất tú (Hóa Khoa bị Không Kiếp Kình Đà thông minh tài cán mà lận đận)
    - Khoa Quyền Lộc vọng, danh dự chiêu chương (thủ chiếu có Khoa Quyền Lộc nên danh nên giá)
    - Khoa Minh Lộc Ám vị liệt tam đài (Mệnh Hóa Khoa cung nhị hợp có Lộc là người chức vị)
    - Quyền Khốc đồng cung minh danh vu thế (Mệnh Hóa Quyền đứng cùng Thiên Khốc tại Tí hay Ngọ danh vọng hơn người)
    - Quyền Lộc đồng cung định tác cơ thương chi nghiệp (Quyền Lộc tụ vào Mệnh cung buôn bán làm giàu)
    - Quyền Lộc thủ Tài Phúc chi vị sử thế vinh hoa (Quyền Lộc đóng cung Tài cung Phúc cuộc đời vinh hoa)
    - Quyền Lộc cát tinh Nô Bộc vị, túng nhiên quan quí dã bôn ba (Quyền Lộc đóng cung Nô có làm quan cũng thăng trầm)
    - Xuất thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ Tài Quan chi vị (Quyền Lộc đóng Tài Bạch, Quan Lộc cuộc đời vinh hiển)
    - Mệnh phùng Hóa Lộc vô hung tinh, tài lộc phong dinh (Mệnh có Hóa Lộc mà không gặp hung sát tinh tiền tài sung túc)
    - Lộc Quyền Mệnh phùng, kiêm hợp cát oai quyền yếm chúng tướng vương triều (Mệnh có Lộc Quyền lại hội tụ các sao tốt khác thì chức cao quyền trọng)
    - Hóa Lộc hoàn vi hảo, hưu hướng mộ trung tàng (Hóa Lộc là tốt, nhưng đóng vào Thìn Tuất Sửu Mùi giảm tốt đi vì Lộc đóng những cung này ví như kho tàng còn chôn trong lòng đất)
    - Hóa Lộc cư Dần Mão cố thủ tham tài (Hóa Lộc đóng Dần hay Mão yêu tiền tham của và giữ của kỹ càng)
    - Hóa Kị văn nhân bất nại (Xương Khúc gặp Hóa Kị học giỏi nhưng lận đận công danh)
    - Hóa Kị Điền Tài phản vi giai luận (Hóa Kị đóng cung Tài Bạch, Điền Trạch được xem là tốt)
    - Mệnh cung Hóa Kị gia Thiên Không chung nhật hư tư hiền phụ (Mệnh Hóa Kị đứng với Thiên Không lòng không ngớt nghi ngờ vợ hiền)
    - Hóa Kị ngộ Phục Binh ư Thê Thiếp hốt oán hốt thân (cung Phu Thê có Hóa Kị Phục Binh nay giận mai hòa)
    - Kị ngộ Khoa tinh ư Hợi Tí ngôn hành danh thuận (Hóa Kị gặp Hóa Khoa ở hai cung Hợi Tí là người cẩn thận lời nói)
    - Hóa Kị Tí cung, Khoa Lương thủ chiếu quân dân sủng ái (Mệnh Hóa Kị đứng cùng Hóa Khoa hội chiếu Thiên Lương là người đức độ, liêm chính dễ được mến mộ)
    - Tam Kỳ giao hội mạc ngộ Kị Kình giáng lộ thanh vân (Mệnh hay Thân Khoa Quyền Lộc mà gặp luôn cả Hóa Kị Kình Dương thì lại thăng giáng vô thường)
    - Song Lộc cư nhi ngộ Cơ Lương phú gia dịch quốc (Mệnh Thiên Cơ Thiên Lương có Song Lộc giàu có lớn)
    - Mệnh vô chính diệu hoan ngộ Tam Không hưu song Lộc phú quí khả kỳ (Mệnh không chính tinh, được ba Không mà có cả hai sao Lộc là số phú quí)
    - Hóa Lộc Tí Ngọ vị thiên di, Phu Tử văn chương cái thế (Thiên Di đóng Tí Ngọ mà có song Lộc là người nổi tiếng về tài học)
    - Hóa Lộc hoàn vi hảo, nhược cư Mộ địa dị tăng bi (Hóa Lộc đóng ở các cung tứ Mộ kém hay)
    - Lộc triền ư nhược địa, Mệnh bất chủ tài (Hóa Lộc đóng với các chủ tinh trong thế hãm thì hoa nhi bất thực, trong đom đóm ngoài bó đuốc)
    - Song Lộc lưỡng ngộ, Thái công vũ lược siêu quần (Mệnh có song Lộc là người tài giỏi bất cứ vào lĩnh vực nào)
    - Số muộn màng gái trai ôm ẵm
    Vì Kị Đà len lỏi cung con

    - Kị Đà Thái Tuế Thân cung
    Khỏi nạn nào được ung dung mấy người

    - Mệnh Hóa Kị, Tật Mộc thần
    Âm nang sa thấp một phân chẳng nhầm

    - Đà Kị Tật Ách trùng gia
    Âm hư chứng ấy tất là hiếm con
    (Cung Tật Ách có Đà Kị)
    - Cự Kị Mộ cung nhi giao Đà Hổ xa mã hạn hành (Hạn đến Cự Môn Thìn Tuất Sửu Mùi mà gặp luôn cả Hóa Kị, Bạch Hổ, Đà La bị tai nạn xe cộ té ngã)
    - Quyền Lộc trùng phùng, sát tấu hư dự chi long (Mệnh có Quyền Lộc mà bị sát tinh kèm thì hữu danh vô thực
    - Hóa Quyền ngộ Dương Đà Không Kiếp, thính sàm di lụy, quan tai biếm chích (Hóa Quyền mà gặp Kình Đà Không Kiếp bị mất chức vì hay nghe lời nịnh hót vu oan giá họa)
    - Hóa Khoa hiềm phùng Triệt Không, Tuần Không, Thiên Không (Hóa Khoa không nên gặp Tuần Triệt Thiên Không)
    - Khoa Quyền đối củng dược tam cấp ư vũ môn (Khoa Quyền một thủ một xung chiếu, như cá hóa long công danh đằng đạt)
    - Hóa Kị tại Mệnh Thân cung nhất sinh bất thuận (Hóa Kị đóng Mệnh hay Thân cả đời khó toại chí)
    - Chư tinh tại miếu, vượng địa Hóa Kị bất kị (Chư tinh đóng miếu vượng gặp Hóa Kị ở vượng địa Hóa Kị không tác hại)
    - Thủy mệnh nhân phùng Hóa Kị bất kị (Người mạng Thủy mà Hóa Kị thủ Mệnh hay hạn gặp Hóa Kị không đáng ngại)
    - Thiên Đồng tại Tuất, Hóa Kị Đinh nhân hóa cát (Thiên Đồng đóng Tuất, gặp Hóa Kị người tuổi Đinh lại hay)
    - Cự Môn tại Thìn Hóa Kị, Tân nhân phản vi giai (Cự Môn thủ Mệnh tại Thìn có Hóa Kị lại thành hay)
    - Nhật Nguyệt miếu, Hóa Kị vi phúc (Nhật Nguyệt đắc địa có Hóa Kị lại chuyển tốt)
    - Nhật Nguyệt hãm Hóa Kị đại hung (Thái Âm Thái Dương đóng cung hãm mà có Hóa Kị rất hung)
    - Chư tinh tại hãm địa Hóa Kị thậm kị (Các sao chủ ở hãm địa mà gặp Hóa Kị càng kị)
    - Liêm Trinh tại hãm địa, Hóa Kị cánh kị (Liêm Trinh ở đất hãm bị Hóa Kị càng đáng ngại hơn)
     
  15. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    TẠP LUẬN VỀ CUNG CÁCH NGŨ HÀNH,
    NHỮNG CÂU PHÚ VÀ VẬN HẠN
    QUAN PHƯƠNG THẬP DỤ

    Phương là gì? Phương gồm có bản phương ngay tại cung mệnh. Đối phương là cung Thiên di (đối xung). Hợp phương là cung Tam hợp. Lân phương là hai cung giáp Mệnh. Cổ nhân đưa ra mười phương pháp:
    1. Bản phương tốt đẹp như sức lực tự mình (Do nội lực cường)
    2. Đối phương tốt đẹp như ví như được gió xuân thổi tới (Nghinh diện xuân phong)
    3. Hợp phương tốt đẹp ví như những nguồn giúp đỡ kèm bên (Tả Hữu phùng nguyên)
    4. Lân phương tốt đẹp ví như có phe cánh trợ lực (Lưỡng lân tương phù)
    5. Cung lẫn phương đều tốt đẹp ví như cả ngàn mau mắn chầu về (Thiên tường vân tụ)
    6. Bản phương hung xấu như rễ đã bị cắt (Tòng căn tự phạt)
    7. Đối phương xấu hung ví như giơ đầu chịu búa (Đương đầu ác bổng)
    8. Hợp phương xấu hung ví như bị đánh hai mặt (Tả Hữu thụ địch)
    9. Lân phương xấu hung giống như nhiều phe thù ghét (Luỗng lân tương vũ)
    10. Phương, cung đều hung xấu ví như khắp nơi bị công hãm (Tứ diện sở ca)
    Quan Phương Thập Dụ cổ nhân muốn nói đến nguyên tắc căn bản để cân đo luận đoán một lá số. Rồi người xưa lại đặt bài thơ như sau:
    Cát hung tối yêu tế phân minh
    Bản đối hợp lân hữu trọng khinh
    Tứ diện Sở ca chung tất bại
    Thiên tường vân tập tự nhiên hanh
    Tự cường tài thị hảo nhân gia
    Lân sá duy cung cẩm thượng hoa
    Nhược đáo phùng nguyên chân cảnh địa
    Xuân phong chỉ khả cảm tương sai
    Lưỡng lân tương vũ khởi vi tai
    Tự phạt tài giao đại khả ai
    Dị đóa đương đầu nhất côn bổng
    Nam phùng Tả Hữu tạp binh lai

    Ý bài thơ nói rằng: Khi vào thế Tứ diện Sở ca thì thế nào cũng thất bại. Số mà Thiên tường vân tập sớm muộn gì cũng thành công. Sức mạnh của lá số chủ yếu là tự cường (Mệnh cung đầy đủ lực lượng) trước đã, hợp phương có tốt chỉ là gấm thêm hoa. Những sao chiếu theo tam hợp và đối phương là những sức phò trợ đáng kể. Nhưng sức phò trợ ấy mà gặp mệnh bị mất rễ cũng vô ích. Các cung giáp mệnh dù cho xấu chăng nữa mà mệnh có nội lực tự cường thì chẳng sao. Nhược bằng mệnh ở tình trạng “Tòng căn tự phạt” thì dù có tránh được búc thì rồi cũng bị tràn ngập bị vây hãm hủy diệt mà thôi.
    Quan Phương Thập Dụ đặt trọng tâm luận đoán vào Mệnh cung. Trước nhất mệnh phải mạnh đã. Mệnh yếu dù các phương khác có hay cũng chỉ bình thường. Như vậy câu: Mệnh hảo bất như Thân hảo, Thân hảo bất như Vận hảo không toàn hoàn chính xác.
    Nếu mệnh xấu mà vận có thật tốt chăng nữa, mọi sự thành công cũng chỉ là hư hoa. Không ai Mệnh xấu, vận hay mà gây được cơ nghiệp đáng kể bao giờ.
    Mệnh cung tự cường, mới hưởng được cái tốt của Quan Lộc, Tài bạch. Chuyển sang vận thì vận chỉ tốt khi cung Đại vận có nội lực tự cường đã rồi mới tính đến tam hợp, hay đối phương hoặc lân phương. Tỉ dị vận đến cung có Cự Đồng, dù tam phương hay xung chiếu được Khoa Quyền Lộc cũng không hay bao nhiêu.
    Đến như quan hệ Mệnh với Thân, cũng vẫn tiếp tục phải kể mệnh làm chủ yếu. Mệnh mà tòng căn tự phạt thì dù Thân có Thiên tường vân tập cũng chẳng nên công trạng to tát.


    NHỮNG CÁCH CỤC
    Cách cổ nhân chia làm hai loại: hợp và bất hợp (hay – dỡ).
    Hợp cách gồm có:
    * Cự ưởng ly minh – Tử Vi đóng Ngọ cung có Tả Hữu và không bị sát tinh.
    * Tử Phủ đồng độ - Tử Vi Thiên Phủ tại Dần Thân không hung sát tinh hay Tuần Triệt.
    * Tử Vi triều viên, Tử Vi Thiên Phủ đắc địa chiếu mệnh.
    * Vũ Tham đồng độ - Vũ Khúc Tham Lang đồng cung hoặc một thủ, một chiếu. Cách này cần được Linh hay Hỏa mới hay.
    * Tướng tinh đắc địa – Vũ Khúc tại miếu vượng thủ mệnh.
    * Phủ Tướng triều viên – Thiên Phủ, Thiên Tướng đắc địa chiếu mệnh.
    * Cơ Lương gia hội – Cơ Lương Thìn Tuất gặp Lộc Khoa hay Lộc Quyền hay song Lộc.
    * Nhật chiếu Lôi môn – Thái Dương tại Mão thủ Mệnh mà sinh ban ngày.
    * Cơ Cự đồng lâm – Thiên Cơ Ngọ hay Tý Cự Môn xung chiếu hoặc Thiên Cơ Cự Môn đồng cung Mão Dậu.
    * Nguyệt lãng Thiên môn – Thái Âm thủ mệnh tại Hợi mà sinh ban đêm.
    * Nhật Nguyệt đồng minh – Mệnh Sửu Mùi Âm Dương Hợi Mão hoặc Tị Dậu.
    * Tam hợp Hóa Tham – Tham Lang đắc địa tam hợp gặp Hỏa hay Linh Tinh.
    * Thạch trung ẩn ngọc – Cự Môn Tý Ngọ không bị hung sát tinh.
    * Hóa tinh ngộ quý – Tứ Hóa hợp với sao thủ mệnh như Thiên Đồng tại Tuất mà tuổi Đinh – Cự Môn đóng Thìn mà tuổi Tân.
    * Thọ tinh nhập miếu – Thiên Lương đóng Ngọ không sát hung.
    * Thất Sát triều đẩu – Thất Sát đóng cung Thân hay Dần.
    * Anh tinh nhập miếu – Phá Quân thủ mệnh tại Tý Ngọ.
    * Văn Lương chấn kỷ - Thiên Lương Văn Khúc thủ mệnh tại vượng địa.
    * Văn tinh ám củng – Xương Khúc thủ mệnh hay chiếu mệnh.
    * Tả Hữu đồng lâm – Tả phụ Hữu Bật đồng cung tại mệnh.
    * Tam kỳ gia hội – Hội tụ vào Mệnh cung đủ bộ Khoa Quyền Lộc tức là tam hợp chiếu.
    * Tả Hữu Khoa viên – Mệnh Tả Hữu đứng bên Hóa Khoa hoặc Khoa chiếu.
    * Thiên Ất củng mệnh – Mệnh Khôi Việt thủ chiếu.
    * Văn quế Văn hoa – Mệnh Sửu Mùi gặp Xương Khúc đồng cung.
    * Lộc hợp uyên ương – Mệnh có song Lộc thủ hoặc thủ chiếu.
    * Song Lộc triều viên – Hai sao Lộc chiếu về mệnh.
    * Nhị diệu đồng lâm – Mệnh ở Mùi có Nhật Nguyệt từ Sửu chiếu hoặc mệnh đóng Sửu có Nhật Nguyệt từ Mùi chiếu.
    * Đan trì quế trì – Mệnh Thái dương ở Thìn Tị, Thái Âm Dậu Tuất xung chiếu.
    * Quyền lộc tuần phùng – Quyền Lộc thủ mệnh.
    * Giáp đệ đăng dung – Hóa Khoa thủ mệnh với các cát tinh khác.
    * Khoa danh hội Lộc – Hóa Khoa Hóa Lộc chiếu mệnh.
    * Phụ củng văn tinh – Văn Xương mệnh có Tả Hữu chiếu.
    * Quyền Sát Hóa Lộc cách – Kình Đà đắc địa, Linh Hỏa đắc địa đứng với Hóa Lộc.

    Bất hợp cách gồm có:
    * Cực cư Mão vị - Tử Vi Tham Lang ở cung Mão.
    * Mệnh Vô chính diệu.
    * Cự phùng Tứ sát – Cự Môn hãm gặp Dương Đà Linh Hỏa. Kể cả Cự Môn đắc địa cũng không tốt.
    * Văn tinh ngộ hiệp – Mệnh Xương Khúc bị Không Kiếp.
    * Mệnh võng Tị Hợi – Thiên Cơ thủ mệnh tại Tị hay Hợi mà đứng cùng hung sát tinh.
    * Khoa tinh phùng phá – Mệnh Hóa Khoa nhưng lại thấy Không Kiếp Kình Đà Linh Hỏa hãm xung phá.
    Những cách cục trên đây, cổ nhân chỉ nói cung Mệnh thôi. Vậy thì mệnh cung vẫn là chủ yếu cho việc luận đoán lá số. Cũng như khoa Tử Bình, Can Chi của ngày sinh được xem là trọng tâm cho sự xoay chuyển ngũ hành từ Năm Tháng Giờ.

    Qua những cách cục trên, ta thấy một vài điều không ổn sau đây:
    Cách mệnh Vô chính diệu bị liệt vào hàng bất hợp cách, theo kinh nghiệm mệnh Vô chính diệu là một cách hợp còn là cách tốt tùy thuộc phụ tinh nào đứng đó. Tỉ dụ Kình dương độc thủ hay Đà la độc thủ hoặc Linh Hỏa đắc địa độc thủ, đâu phải là cách dở hay bất hợp cách.
    Về cách Phủ Tướng triều viên không nói rõ ràng, vì Phủ Tướng đứng một mình thường chầu vào mệnh vô chính diệu. Phủ Tướng triều viên đây hẳn là Phủ đứng với Liêm và Tướng đứng với Vũ Khúc.
    Phủ Tướng đơn độc chầu mệnh chỉ là cách bình thường không đáng kể, tốt với nữ mạng hơn nam mạng. Phủ Tướng đứng riêng chầu mệnh thì đương nhiên cung Thiên di là Vũ Tham ở Mùi hay Sửu nếu có hay là do Vũ Tham có Hỏa Linh đi kèm.

    SỰ LIÊN HỆ CỦA THẬP NHỊ CUNG

    Lá số có mười hai cung, Mệnh rồi Bào rồi Thê… rồi Phúc đức và Phụ mẫu. Tuy chia cách biệt ra nhưng chúng lại có liên hệ khi luận đoán số.
    Người ta có thể tìm thấy ở mệnh cung sự thay vợ đổi chồng hay góa bụa nhưng những điều này cũng tìm thấy ở cả Thê cung nữa. Tỉ dụ người nữ Thiên Lương tại mệnh ở Hợi hay Tị mà gặp Thiên Mã dễ bỏ chồng. Những sao ấy chuyển qua cung Thê tình trạng tương tự.
    Câu phú:
    Thiên Lương ngộ Mã chẳng bàn
    Có chồng lại bỏ theo làng bướm hoa
    Khả dĩ áp dụng cho cả hai cung. Tuy nhiên, nếu chúng đóng mệnh thì phiền phức hơn là đóng Phối cung. Tỉ dụ câu Thất Sát đan cư Phúc đức (Sao Thất Sát hãm đóng cung Phúc đức) cũng ảnh hưởng đến thân phận người ta đưa đến lận đận chồng con.
    Tỉ dụ, cung Điền trạch có thể cho ta được những đoán định rằng con người mang số với cung Điền ấy phải bỏ nhà đi sớm không cứ phải qua mệnh cung mới đoán ra điều này.
    Tỉ dụ cung Phụ mẫu mà có Đào Hoa Cự Kị thì bố mẹ bất thuận chia tay. Nhưng nếu Đào Hoa Cự Kị tại Mệnh cũng có thể đoán như vậy, hoặc cho thấy mình là con tư sinh, hoặc chính mình đã bỏ vợ.
    Ngoài ra, cũng có thể tìm thấy ở cung Phúc tính tình đầu óc thân phận không nhất định cứ phải Mệnh cung mới thấy, tuy nhiên vẫn đừng nên quên Mệnh vẫn là cái gốc để suy đoán cùng với Phúc đức cung.

    NÓI CHUYỆN NGŨ HÀNH SINH KHẮC CHẾ HÓA
    Ngũ hành đặt trên hai cơ sở lý luận. Đơn giản chỉ có sinh khắc. Phức tạp ngoài sinh khắc phải có chế hóa. Đơn giản là logique. Phức tạp thành biện chứng (dialectique).
    Tử Vi khoa có sinh khắc chế hóa. Nhưng kho Tử Bình thì sinh khắc chế hóa linh động biến dịch hơn. Đơn giản sinh khắc là:
    - Kim sinh Thủy – Thủy sinh Mộc – Mộc sinh Hỏa – Hỏa sinh Thổ - Thổ sinh Kim.
    - Kim khắc Mộc - Mộc khắc Thổ - Thổ khắc Thủy – Thủy khắc Hỏa – Hỏa khắc Kim.
    Có câu phú viết: “Tinh lâm miếu vượng tái quan sinh khắc chi cơ” nghĩa là dù sao an được vào cung miếu vượng thì cũng còn phải xem cái lý của sinh khắc nữa. Tỉ dụ Kim nhập Hỏa hương sao thuộc Kim đứng cung Hỏa bị khắc không tốt, hoặc Hỏa nhập Thủy hương sao thuộc Hỏa đứng vào cung Thủy…
    Một câu phú khác: “Tuyệt sứ phùng sinh, hoa nhi bất bại” nghĩa là ở tuyệt địa mà gặp sinh thì không đến mức hoàn toàn thất bại. Tuyệt sứ phùng sinh là thế nào ?
    Như Thủy cục tuyệt ở Tỵ cung, nếu an Mệnh ở Tỵ là tuyệt địa, nhưng lại có Kim tinh ở đó, Kinh sanh Thủy thành ra Thủy không bị tuyệt.
    Tỉ dụ hai sao Thiên Cơ Cự Môn của cách Cự Cơ Mão hay Dậu, thì Cự Cơ ở Mão tốt hơn ở Dậu vì lẽ Thiên Cơ thuộc Mộc đứng cung Mộc lại có Cự Môn là Thủy nuôi dưỡng, trong khi cung Dậu thuộc Kim khắc Mộc Thiên Cơ, Cự Môn không đắc lực với sứ mạng nuôi dưỡng bằng ở cung Mão.
    Cũng sao Liêm Trinh đứng Dần tốt hơn đứng Thân vì Liêm Trinh thuộc Hỏa cung Dần Mộc sinh Hỏa, trong khi Thân là Kim, Kim với Hỏa tương khắc.
    Tác dụng của ngũ hành là vận động biến dịch và phát triển. Nếu chỉ đơn giản. Nếu chỉ đơn giản, e tác dụng kia vừa đủ. Ngũ hành trong khoa Bát tự với vận động biến dịch biện chứng kỹ càng hơn ngũ hành logique của Tử Vi.
    Sách Uyên Hải Tử Bình viết: “Kim vượng được Hỏa mới thành dụng cụ như sắt đưa vào lửa luyện nên thép. Thủy vượng được Hỏa thành hơi nước mạnh. Thủy vượng nhờ Thổ mà nên hồ ao. Thổ vượng đắc Mộc thì mới nên thì Thổ mới có chổ bám…”
    Như vậy, đôi khi khắc lại mang tác dụng rất cần thiết chứ không phải sinh hay mà khắc dỡ. Ngũ hành của Tử Vi khoa là ngũ hành đơn giản của sinh khắc.
    Sách Uyên Hải Tử Bình viết: “Kim nhờ Thổ sinh, nhưng nhiều đất quá thì Kim bị chôn vùi. Thổ nhờ Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều quá lửa bị tắc nghẽn, Mộc nhờ Thủy sinh, nhưng nước lụt thành cây trôi. Thủy nhờ Kim sinh, nhưng Kim nhiều quá, nước thành vẩn đục. Kim sinh ra Thủy, nhưng Thủy nhiều Kim chìm. Thủy sinh ra Mộc, Mộc nhiều Thủy cạn. Mộc sinh ra Hỏa, Hỏa nhiều Mộc bị cháy tiêu…”
    Như vậy, kể cả tình trạng “sinh” nếu theo biện chứng chưa chắc đã là tốt. Lối tính của Tử Vi khoa về ngũ hành, chỉ đơn giản thôi vì cổ nhân đặt định trên căn bản lý luận không phức tạp biện chứng.
    NHỮNG BÀI PHÚ
    Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có những bài phú sau đây:
    Thái Vi phú
    Tăng Bổ Thái Vi phú
    Đẩu Số Cốt Tủy phú
    Nữ Mệnh Cốt Tủy phú
    Đẩu Số Phát Vi luận
    Hình tính phú
    Đẩu Số chuẩn thằng
    Tử Vi Đẩu Số yếu quyết
    Bách Tự Thiên Kim quyết
    Tinh Viên luận
    Người đời sau còn nghiên cứu thêm và đặt ra phú Ma Thị, phú Huỳnh Kim và ở Việt Nam có phú nôm Thần Kê Định Số của Lê Quí Đôn. Những câu phú ghi tại những phần trên đều cắt từ những bài phú dẫn thượng. Dưới đây ghi thêm những câu chưa ghi vì còn cần những lời bàn riêng biệt.
    - Sinh phùng bại địa bát dã hư hoa (Mệnh đóng ở đất bại có phát cũng chỉ là hư hoa). Bại địa ở câu phú này không phải chỉ vào đất có sao Đào Hoa chấn đóng. Bại địa ở đây tính theo ngũ hành. Tỉ dụ năm sinh nạp âm là Thủy thì trường sinh của Thủy ở cung Thân mà Mệnh lại an ở Dậu thì Dậu chính là chỗ đất bại của Thổ của Thủy, thành ra có phát nhờ những sao tốt cũng không thật đẹp.
    - Tuyệt sứ phùng sinh hoa nhi bất bại (đã nói ở trên)
    - Không vong định yêu đắc dụng, Thiên Không tối vi khẩn yếu (Những sao Không vong đứng đúng vị khả dĩ đắc dụng, sao Thiên Không quan trọng hơn hết)
    Mệnh Thân có Thiên Không mà ở cung hỏa, cung kim hoặc đại tiểu hạn gặp Thiên Không ở các cung Hỏa Kim có thể phát phúc. Vì Kim gặp Không thành tiếng vang, Hỏa gặp Không bùng cháy. Nếu vào các cung Thủy cung Thổ cung Mộc thì Không sẽ tác hại vì Thủy gặp Không thì tràn ngập, Mộc gặp Không ắt bị gãy, Thổ gặp Không bị chuồi lở
    - Nhược phùng bại tuyệt chi địa, chuyên chước phù trì chi diệu khả hữu công (Mệnh Thân rơi vào bại tuyệt mà được Lộc Tồn, Hóa Lộc phù trì thì giảm hẳn khó khăn)
    - Hình tù hiệp ấn, hình trượng duy ty (Thiên Tướng có Liêm Trinh Kình Dương hay bị vạ quan tụng hoặc dễ mất chức)
    - Thái Âm cư Tí thủy trùng quế ngạc, đắc thanh chi chức trung gián chi tài (Mệnh lập ở Tí Thái Âm thủ mà sinh ban đêm khả dĩ giàu sang, tâm chất chính trực)
    - Văn Hao cư Dần Mão, chúng thủy triều đông (Sao Phá Quân gặp Văn Xương ở Dần Mão gọi bằng cách chúng thủy triều Đông). Cách này cả đời tân khổ trong khi khoa Tử Vi Việt lại nói song Hao Mão Dậu mới là chúng thủy triều Đông, cách này thường hoạnh phát. Không biết chúng thủy triều Đông của song Hao Mão Dậu đã căn cứ vào đâu? (Hao ở đây là Đại Hao, Tiểu Hao)
    - Hình ngộ Tham Lang hiệu vi phong lưu thái trượng (Hình chỉ sao Kình Dương mà đóng Mệnh hay Thân với sao Tham Lang thì con người thông minh và lúc nào cũng phong lưu). Sách khác lại nói Tham Đà mới phong lưu thái trượng, Đà La hóa khí là Kị, chỉ ở cung Dần không bao giờ ở Mão
    - Dương Linh hợp ư Mệnh cung ngộ Bạch Hổ tu đương hình lục (Mệnh Kình Dương Linh Tinhg gặp cả Bạch Hổ dễ tù tội)
    - Hình Sát đồng Liêm Trinh ư Quan Lộc, già nữu nan đào (Thất Sát Liêm Trinh đóng cung Quan gặp Kình Dương cũng bị hình ngục)
    - Sát cự tuyệt địa, thiên niên yểu triết Nhan Hồi (Thất Sát ở vào tuyệt địa tính theo nạp âm của niên sinh đối với một cung nào đó, không thọ. Xin đọc lại thế nào là tuyệt địa đã dẫn ở trên)
    - Bệnh Phù, Quan Phù giai tác họa, Tấu Thư Bác Sĩ dữ lưu Lộc tác trinh tường (Bệnh Phù, Quan Phù vào vận hạn đều gây họa, Tấu Thư Bác Sĩ và lưu Lộc vào vận hạn đều mang phúc đến)
    - Lực Sĩ Tướng Quân đồng Thanh Long hiển kỳ Quyền Lộc (Vận được Thanh Long Bác Sĩ Tướng Quân mưu cầu danh vị thuận lợi)
    - Quan Phù gia Hình Sát ư Thiên Di ly hương tao phối (Sao Quan Phù gặp Kình Dương Thất Sát ở Thiên Di thì phải ly hương lập nghiệp, lập gia đình)
    - Thiện Ấm thủ ư Không vị, Thiên Trúc sinh nhai (Mệnh Cơ Lương bị Triệt hay Thiên Không nên ẩn dật đỡ mang họa)
    - Kỵ Ám đồng cư Tật Ách, trầm khốn khuông doanh (Cự Môn Hóa Kị đóng ở Tật Ách thường có bệnh lâu khỏi)
    - Quân tử tại Khôi Việt, tiểu nhân tại Dương Linh (Mệnh Khôi Việt là người bao dung hào sảng, Kình Dương Linh Tinh tại Mệnh là người khó chơi)
    - Thân Mệnh tối hiềm Dương Đà Thất Sát ngộ chi vị miễn vi hung (Thân Mệnh Thất Sát gặp Kình Dương Đà La dễ bị hung họa)
    - Mệnh ngộ Khôi Xương đương đắc quí
    Hạn phùng Tử Phủ định đa tài
    (Mệnh có Khôi Xương dáng dấp thanh nhã, hạnh được Tử Phủ thì có tiền)
    - Nhược trị sát tinh định tam giá nhi tâm bất túc
    Phùng Dương Đà tu đề khốc nhi lệ bất can
    (Số nữ ở Phu cung nhiều hung sát tinh lấy nhiều chồng, gặp Dương Đà dễ thành góa bụa)

    - Liêm Lộc lâm Thân, nữ đắc thuần âm trinh khiết chi đức (Đàn bà Mệnh Thân có Liêm Trinh và Lộc thì trinh khiết)
    - Quân tử Mệnh trung diệc hữu Dương Đà Linh Hỏa. Tiểu nhân Mệnh nội khởi vô Khoa Quyền Lộc tinh (Mệnh người quân tử cũng có Dương Đà Linh Hỏa vậy. Mệnh kẻ tiểu nhân cũng có Khoa Quyền Lộc vậy. Vấn đề là miếu hãm mà thôi)
    - Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi tú
    Bất độc chi thư dã khả nhân
    (Mệnh có Xương Khúc, Thiên Khôi dù không được học cũng là người đắc lực)
    - Đa học thiểu thành, chỉ vị Kình Dương phùng Kiếp Sát. Vi nhân hiếu tụng; cái nhân Thái Tuế ngộ Quan Phủ (học nhiều mà chẳng đỗ đạt chỉ vì Kình Dương gặp Kiếp Sát. Tính người ưa kiện bởi lẽ Thái Tuế gặp Quan Phủ)
    - Ngụy trá phù hư – Dương Đà hãm địa (Kình Dương Đà La ở đất hãm thủ Mệnh con người ngụy trá, hay khoác lác)
    - Hóa Lộc hoàn vi hảo, hưu hướng Mộ trung tàng (sao Hóa Lộc đóng ở cung tứ Mộ giảm hẳn khí thế)
    - Cự Phá Kình Dương tính tất cương - Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo (Mệnh Cự Môn hội Kình Dương hay Phá Quân Kình Dương tính tình cương bạo. Có Phủ Tướng Đồng Lương thì hiền lành)
    - Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú sảo
    Âm Dương Tả Hữu tối từ tường
    (Mệnh Xương Khúc Lộc Cơ trông văn nhã và khéo. Âm Dương thêm Tả Hữu bao dung đại lượng)

    - Thân Mệnh vận hạn Kỵ tương phùng
    Cách kiêm Thái Tuế Quan phủ chí
    Quan phi khẩu thiệt tất bất không
    (Vận hạn có Đà Kị thêm Thái Tuế, Quan Phù khó tránh họa tranh tụng, khẩu thiệt)

    - Tử Vi đế tòa tại nam cực, bất năng thi công
    Thiên Phủ Linh Tinh cư nam địa, chuyên năng vi phúc
    (Tử Vi đóng Tí dễ thành vô dụng. Thiên Phủ đóng Tí với Linh Tinh được phúc)

    - Thiên Cơ tứ Sát đồng cung dã thiện tam phần
    Thái Âm Linh Hỏa đồng vị phản thành thập ác
    (Thiên Cơ dù đứng với tứ Sát thì cũng không đến nỗi, nhưng Thái Âm gặp Hỏa Linh lại thành phiền)

    - Tham Lang vi ác tú nhập miếu bất hung
    Cự Môn vi ác diệu, đắc viên vưu mỹ
    (Tham Lang Cự Môn ở chỗ hãm thành ác, được miếu địa thành hay)

    - Mệnh Thân tương khắc tắc tâm loạn nhi bất nhàn (Mệnh và Thân ở hai cung xung chiếu, tương khắc thì đa tư đa lự khó thảnh thơi)
    - Xương Khúc tại hung hương, lâm tuyền lãnh đạm (Xương Khúc vào đất hãm hay bị hung tinh phá hoại thường có hoài bão ở ẩn, ẩn dật vì khi vào cuộc phấn đấu luôn luôn bị chèn ép cản trở)
    - Khoa tinh cư hãm địa đăng hỏa tân cần (Hóa Khoa đóng đất hãm học hành phải cố gắng lắm mới nên)
    - Sát lâm tam vị, thê tử bất hòa (Sát tinh đóng cung Thê, vợ con bất hòa)
    - Cự đáo nhị vị tất huynh đệ vô nghĩa (Cự Môn vào cung Bào, anh em không thương nhau)
    - Hình Sát thủ Tử cung, tử nan phụng lão (Hình Sát vào cung Tử Tức, lúc già xa cách con cái)
    - Hung chiếu Tài Bạch tụ tán vô thường (Gặp hung tinh chiếu cung tài bạch, tiền bạc tụ tán vô thường)
    - Dương Đà Tật Ách, nhãn mục hôn manh (Kình Dương Đà La đóng Tật Ách, đề phòng bệnh mắt)
    - Hỏa Tinh đáo Thiên Di trường đồ tịch mịch (Hỏa Tinh đóng cung Thiên Di vào cuộc phấn đấu ít người trợ giúp)
    - Tôn tinh cư tiện vị, chủ nhân đa lao (Những sao quí mà đóng ở đất hèn, cuộc đời vất vả)
    - Điền Trạch ngộ Phá Quân tiên phá hậu thành (Cung Điền gặp Phá Quân, trước hư hoại sau mới thành)
    - Phúc Đức ngộ Kiếp Không bôn tẩu vô lực (cung Phúc Đức gặp Kiếp Không bôn tẩu cho lắm cũng bằng vô ích)
    - Liêm Trinh Phá Quân Hỏa Linh đồng cung, lang tâm cẩu phế (sao Liêm Trinh Phá Quân đứng cùng với Hỏa Linh là con người phản phúc)
    - Thiên Cơ Thái Âm đồng cung Dần Thân, nan miễn bạt thiệp tha phương (Thiên Cơ Thái Âm đóng Dần Thân thường có khuynh hướng phiêu lưu)
    - Nữ mệnh Thiên Cơ nhập miếu, tính cương, cơ sảo, quyền bính, trì gia (Mệnh nữ Thiên Cơ đắc địa, cứng rắn khôn khéo giỏi tề gia)
    - Thái Dương Dậu cung, quí nhi, bất hiển, tú nhi bất thực (Thái Dương tại Dậu đứng với Thiên Lương có thể làm lớn ví như cây to mà không có trái)
    - Thái Dương thủ Mệnh ư Mão, trú sinh nhân khả phú quí (Thái Dương ở Mão, đứng với Thiên Lương phải sinh ban ngày mới thật đẹp)
    - Thái Dương tại Thiên Di, di căn hoán diệp (Thái Dương vào cung Thiên Di thường không kế tiếp được tổ nghiệp, phải rời quê hương bản quán mới thành công)
    - Thái Dương hãm hội Dương Đà Hỏa Linh chủ mục tật, hình khắc phụ mẫu (Thái Dương đóng hãm địa gặp Dương Đà Hỏa Linh dễ đau mắt, hoặc hình khắc cha mẹ)
    - Thiên Phủ thủ Mệnh, Dương Đà Hỏa Linh hội hợp, gian trá (Mệnh có Thiên Phủ thủ, đứng cùng Dương Đà Hỏa Linh con người không ngay thẳng)
    - Tham Lang Vũ Khúc đồng cung, vô công đức tâm (Tham Vũ đi cặp, thủ Mệnh không có lòng công đức)
    - Nữ mệnh Thiên Tướng bất nghi đồng Xương Khúc (Số gái Thiên Tướng thủ, không nên đứng với Xương Khúc)
    - Phá Quân Vũ Khúc nhập Tài hương, đông thành tây bại (Vũ Phá đóng vào Tài Bạch, bôn ba thành bên này bại nơi khác)
    - Phá Quân Dương Đà Quan Lộc vị, đáo xứ khất cầu (Phá Quân vào cung Quan gặp Dương Đà, lận đận công danh)
    - Phá Quân Tài Bạch như thang nhiễu tuyết (Phá Quân hãm đóng cung Tài như lấy nước sôi đổ vào tuyết)
    - Phá Quân hãm tại Thiên Di bôn tẩu vô lực (cung Thiên Di Phá Quân hãm địa, bôn tẩu cũng vô ích)
    - Văn Xương Tham Lang đồng cung chính sự điên đảo (Văn Xương Tham Lang thủ mệnh làm việc lôi thôi, không đắc lực)
    - Văn Xương Liêm Sát Dương Đà trá nguỵ (Liêm Trinh Thất Sát đứng với Văn Xương gặp Kình Đà con người lắt léo)
    - Tả Hữu Trinh Dương vi đạo tặc (Liêm Trinh hãm gặp Tả Hữu Kình Dương có khuynh hướng đạo tặc)
    - Hóa Quyền ngộ Dương Đà Không Kiếp, thính sàm di lụy (Mệnh có Hóa Quyền mà gặp Không Kiếp Dương Đà vì nghe nịnh mà khốn khổ)
    - Thủy mệnh nhân phùng Hóa Kị bất kị (Sao Hóa Kị thường xấu, nhưng người thủy mệnh gặp nó không sao)
    - Cự Môn thủ Mệnh kiến Dương Đà, nam nữ tà dâm (Thủ Mệnh là sao Cự Môn, đứng với Kình hoặc Đà, nam nữ tà dâm)
    - Phá Liêm Mão Dậu ngộ Dương Đà Hỏa Linh quan phi, tật bệnh (Phá Liêm gặp Linh Hỏa Dương Đà bệnh hiểm nghèo, dây dính luật pháp)
    - Phá Quân Xương Khúc hình khắc lao bác (Phá Quân hãm gặp Xương hay Khúc thường hình khắc và bôn ba)
    - Tham Phá Lộc Mã nam lãng đãng, nữ đa dâm (Tham hay Phá thủ Mệnh mà gặp Lộc Mã, số trai phiêu bạt, số gái đa dâm)
    MƯỜI HAI CUNG

    Lá số Tử Vi có 12 cung như sau: Mệnh – Bào - Phối - Tử - Tài - Tật – Thiên di – Nô – Quan - Điền – Phúc - Phụ.
    Mệnh cung để biểu thị dung mạo, tài năng và thân phận (cơ sự nghiệp). Bào cung biểu thị anh em và quan hệ với anh em. Phối cung biểu thị người phối ngẫu tốt xấu, cát hung trên duyên phận, sinh hoạt lứa đôi.
    Tử biểu thị quan hệ với con cái, khả năng sinh dục. Tài biểu thị tình trạng kiếm tiền, khả năng quản thủ tiền bạc và những liên quan đến cơ nghiệp. Tật biểu thị thể chất, sức khỏe và bệnh tật.
    Thiên di biểu thị sự phấn đấu ngoài đời, khả năng hành động, lữ hành. Nô biểu thị quan hệ với người cộng sự, quan hệ bè bạn, quan hệ với thủ hạ. Quan biểu thị chức vị quyền hạn, công danh sự nghiệp.
    Điền biểu thị gia đình sinh hoạt, quan hệ bất động sản, cát hung ra sao. Phúc biểu thị bao quát những gì liên hệ, đến thân phận, tôn tộc, may rủi, yểu, tâm chất và những ảnh hưởng huyết thống, mô tả có tính cách hình nhi thọ thương.
    Trên đây là chỉ nói đại cương thôi. Vì các cung còn liên hệ với nhau, biến hóa khi luận đoán. Tỉ dụ sao Hóa Lộc vào Nô cung thường là con người ích kỷ, bo bo giữ tiền.
    Tỉ dụ nhiều sát tinh vào cung Tật ách có thể đưa đến kết quả không tốt vào cuối đời không phải do bệnh tật mà do một tình cảnh khó khăn như không được chôn cất tươm tất chẳng hạn.
    Tỉ dụ câu phú:
    Kiếp Không khốn khó mọi bề
    Hỏa Linh biển lận đáng chê vô cùng
    Hai sao Hỏa Linh hãm vào cung Tài bạch lại ảnh hưởng sang tính tình chứ không phải chỉ hiển hiện một tình trạng tài chính.
    Tỉ dụ câu phú:
    Đào Thai hội hợp chớ vương
    Phúc cung có gái tìm đường gió trăng
    Khi Đào Hoa và sao Thai đóng cung Phúc đức lại ảnh hưởng sang con cái, giả như Đào Thai vào cung Tử Tức thì chính mình có con ngoại hôn hoặc vợ mình có con ngoại hôn, hoặc có con trước rồi mới hợp thức hôn nhân sau.
    Tỉ dụ câu phú:
    Thất Sát đơn cư Phúc đức
    Nữ mệnh thiết kị, tiện vô nghi
    Sao Thất Sát hãm đóng vào cung Phúc rất ngại cho nữ mạng dễ đi vào những nghề nghiệp thấp kém, khó mà trở nên sang quý, hoặc có những hành động xấu hoặc tâm chất ưa làm những việc quái dị, coi thường dư luận
    Sau đây là bàn riêng từng cung.

    MỆNH CUNG

    Những chương ở trên đã có nói về sao và các câu phú vào mệnh cung ảnh hưởng thế nào ở đây biên thêm một số tạp luận. Những điều biên thêm chủ yếu là hình dáng và tính tình rồi đến những biến hóa mà các chương trên không đề cập vì lẽ để cho gọn ghẽ sự phân định mục thứ.
    Hình tính phú mở đầu bằng câu: “Tử Vi đế tòa sinh vi hậu trọng chi dung” nghĩa là người có sao Tử Vi thủ mệnh là người đầy đặn phương phi.
    Tử Vi mặt đỏ lưng dầy,
    Tính tình trung hậu, mặt đầy phương phi.
    Trường hợp Tử Vi đóng mệnh, đồng cung với nhiều hung sát tinh, trong khi cá tinh chỉ hội chiếu thì đây là tình trạng quân tử tại dã tiểu nhân tại vị (người quân tử đứng ngoài, tiểu nhân nằm bên trong) thì tính tình Tử Vi trở thành giả đạo đức ngoài mặt thiện mà trọng lòng gian trá. Ngụy quân tử còn đáng ngại hơn chân tiểu nhân.
    Tử Vi nữ mạng đứng với Đào Hoa Tả Hữu hay Tham Lang Tả Hữu và Tang Môn, tính lang chạ. Kể cả giáp Tả Hữu cũng vậy, Phụ Bật giáp Tham Đế ư ? Chức dù tôn trọng dâm ô cũng là.
    Thiên Cơ vào mệnh bản tính thiện lương thông tuệ thường có khuynh hướng ẩn dật lâm tuyền, hình dáng thân dài hơn chân. Thiên Cơ thuộc Mộc mình dài. Thiên Cơ gặp Xương Khúc thì mày xanh tóc tốt.
    Thiên Cơ số nữ tâm chất đa biến, khác hẳn với nam mạng, bởi thế Cơ Âm mới đa tình, Cự Cơ dậu mới phá đãng, thêm Đào Hoa càng phúng túng.
    Hình tính phú ghi: “Thiên Cơ vi bất trường bất đoản chi tư tình hoài hiếu thiện” nghĩa là sao Thiên Cơ hình dáng không cao không thấp, tâm địa hiếu thiện. Nhưng nếu Thiên Cơ đóng hãm địa vào nam mạng mà gặp Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì cũng có những cử chỉ hành động thấp kém.
    Như câu phú: “Thiên Cơ gia ác sát đồng cung, cẩu thâu thử thiết” Thiên Cơ ở trường hợp này dễ trở thành trộm đạo hoặc biển thủ lường gạt.
    Thái dương thủ mệnh, hình tính phú viết: “Thái dương tướng mạo hùn tráng diện phương viên mãn, thông minh từ ái, bất hiệu thị phi” nghĩa là dung mạo của Thái Dương trông hùng tráng (nhiều nam tính) mặt vuông góc cạnh, thông minh tốt bụng, nhưng không nhìn ra được kẻ xấu người tốt rõ ràng.
    Thái dương hãm địa thủ mệnh cũng có những nét đanh thép, nhưng không bảnh. Điểm đặc biệt của Thái Dương dù gặp hung sát hay không tinh thì tâm chất vẫn ngay thẳng chân thực. Nếu có hành động nào quấy bị coi như gian đạo đều vì bị động mà ra.
    Sát tinh cùng Nguyệt hãm cung
    Nam thì gian đạo, nữ dòng dâm bôn
    Thái Dương chủ về quyền quý, cần gặp Thiên Hình. Thái Dương hãm địa sống thời loạn đất loạn hợp hơn thời bình, đất bình.
    Nữ mệnh Thái Dương đắc hay hãm đều không kể là toàn hảo, đắc địa cũng vất vả mà hãm thường khắc chồng hay khắc cha. Thái Dương hãm thủ mệnh nữ tâm tình hon loạn không nhẫn nại kiên trì như câu phú: “Thái Dương nữ hãm chủ tâm hoang”. Thái Dương vào số nữ đắc địa hình vóc cứng cáp, hãm địa thì vẫn còn giữ được nét người nữ.
    Vũ Khúc đóng mệnh tâm tính rắn giỏi, cương nghị quả quyết, hình dáng xương xương, tiếng nói vang vang mang ý vị sát khắc, cử chỉ nhanh nhẹ, phản ứng mau.
    Vũ Khúc tướng tinh tính cương cường
    Hãm cung nữ mệnh tổng bất tường
    Vũ Khúc mà đi cùng Kiếp Sát hay Kình Dương là người nham hiểm. Nữ mệnh Vũ Khúc gặp Tứ sát xung phá trở bên cô khắc. Vũ Khúc đứng với Tham Lang tính nết khó chơi, ích kỷ.
    Thiên Đồng thủ mệnh Hình tính phú viết: ”Thiên Đồng phì mãn mục tú thanh kỳ” nghĩa là Thiên Đồng khổ người đầy đặn, mặt thanh tú. Tính tốt nhưng hay thay đổi bản tâm ôn hòa chính trực, nhưng cũng dễ bị ảnh hưởng. Bởi vậy Thiên Đồng thủ mệnh gặp Đào Riêu thường dễ bị dụ dỗ hoặc vì nghe người khác mà thay lòng đổi dạ.
    Thiên Đồng đắc địa thông tuệ. Thiên Đồng Thái Âm đa tình ở Tý hay Ngọ đều ham sắc dục. Đồng Âm nam mạng dễ gặp tình ngoại hôn, nữ mạng lắm người yêu.
    Thái Âm Thiên Đồng tọa mệnh cung
    Phong lưu nhan sắc dâm dục tùng
    Liêm Trinh đóng mệnh “Mi khoan khẩu khoát diện hoành, nhân bạo hiếu tranh” nghĩa là Liêm Trinh hình dáng mày rộng, mệng lớn mệnh góc cạnh, tính bạo ưa cạnh tranh.
    “Liêm Trinh hảo diệu thân trường”. Nhãn lộ, khẩu lộ da thường vàng xanh. Tính ưa táo bạo tương tranh, khi dữ khi lành du đãng phấn hoa. Liêm Trinh hãm bừa bãi phóng túng không lễ nghĩa. Đóng Quan lộc gặp Quyền Kị Tướng Quân có oai quyền. Nữ mệnh có Liêm Trinh đắc địa thành ra con người trung trinh. Liêm Trinh vào nam hay nữ mạng đều sợ Hỏa Tinh Không Kiếp.
    Thiên Phủ tọa Mệnh cung, Hình tính phú viết “Thiên Phủ thuần hòa chi thể, viên mãn, thanh kỳ”. Mình chắm, dáng sang, ngoài mặt nhu hòa nhưng trong lòng cương nghị (“Ngoại hòa nội cương”) làm việc hăng hái có chí phấn đấu mạnh.
    Thiên Phủ hợp với Thanh Long Xương Khúc và Tả Hữu nhất là Lộc Tồn. Thiên Phủ ngán Không Kiếp Triệt Tuần: “Không Kiếp Triệt Tuần ở bên, Ấy là cô độc chẳng nên kể gì”.
    Lộc Tồn Xương Khúc bên mình
    Hoặc là Tả Hữu hiển vinh anh tài.
    Triệt Tuần đứng ngán ngữ Thiên Phủ khiến cho vóc dáng trở thành dỏng cao chân dài hơn thân.
    Thái Âm đóng Mệnh cung khuôn mặt tròn hoặc vuông mà đầy đặn, thân hình mặt lẳn ngoại giao văn tĩnh (vẻ ngoài nhã và an tĩnh) hay thẹn nhưng nội tâm động. Nữ mạng Thái Âm đắc địa hay không nhan sắc ưa nhìn. Mạng Thái Âm khoái hưởng thụ, ít lý tưởng. Mạng Thái Âm hãm gặp nhiều hung sát tinh thì phiêu bạt.
    Thái Âm đi với Lộc rất hợp. Vì hóa khí của Thái Âm là tài phú. Phú có câu: “Thái Âm Linh Hỏa đồng vị phản thành thập ác” nghĩa là Thái Âm đóng cùng Hỏa hay Linh tính nết không mấy tốt.
    Hỏa Tinh xung phá Thái Âm giảo trá và hung bạo cố chấp. Linh Tinh xung phá Thái Âm lanh lợi nhưng độc địa. Hỏa minh Linh ám một lần nữa được chứng minh khi nó đi cùng Thái Âm.
    Thái Âm gặp Đà La tính dục mạnh. Thái Âm miếu vượng được Thiên Mã tài vận luôn luôn hanh thông.
    Thái Âm miếu Mã đứng chờ
    Thư hùng Mã ắt có cơ sang giàu.
    Thái Âm thuận lợi với nữ mạng hơn nam mạng.
    Tham Lang thủ mệnh Hình tính phú viết : “Tham Lang vi thiện ác chi tinh nhập miếu tất trường tủng, lạc hãm tất ngoan ngạo” (Tham Lang là sao vừa thiện ác tham bán, ở miếu vượng người cao lớn, vào hãm cung thành nhỏ bé.)
    Tham Lang miếu vượng chi cung
    Dáng người to lớn là dòng lược thao.
    Tham Lang gặp các cát tinh có sự nghiệp vững vàng gặp hung tinh tính nết hư phù (đa hư thiểu thực). Tham Lang dễ rơi vào khunh hướng đam mê cờ bạc, rược chè bài bạc. Tham Lang vào nữ mạng lòng yêu ghét thuờng cực đoan bởi vậy cổ nhân nói sao này là sao ghen tuông.
    Tham Lang đi với Hóa Lộc ở nam mạng râu rậm. Thiên Lương hội Đào Hoa ở số nữ dâm đảng nếu gặp Triệt thì bớt hẳn. Mệnh không chính tinh mà cung Phu thấy Tham Lang dễ rơi vào phận làm lẽ.
    Tham Lang đứng cùng Trường Sinh tuổi thọ cao: “Tham Lang gia cát tọa Trường Sinh, thọ khảo vĩnh như Bành Tổ” (Tham Lang đứng cung cát tinh ở cung có Trường Sinh, tuổi thọ bằng ông Bành Tổ).
    Cự Môn đóng Mệnh cung đắc địa, khổ người vuông vức, ở cung hãm nhỏ nhắn hơn. Tính đa nghi ưa dối trá. Nữ mạng đắc hay hãm địa thì cũng không hợp lắm với Cự Môn vì các chất thị phi của sao này về mặt thuận hợp với lục thân (bố mẹ, anh em, chồng con).
    Cự Môn làm việc lúc thế này, lúc thế khác, giao thiệp với người ban đầu tốt, càng về sau càng hoài nghi. Cự Môn khó hợp khó thân.
    Cự hãm tứ mộ đa ngôn
    Trong lòng nghi hoặc tính càng tối tăm
    Mão Dậu Cự Cơ cũng hay
    Tiền tài vinh hiển cũng tay hoang đàng
    Gặp song Hao vào hàng quán thế
    Tuổi Ất Tân buôn bán làm giàu.
    Thiên Tướng theo hình tính phú ghi: “Tinh thần tướng mạo trì trọng”. Người Thiên Tướng thủ mệnh hơi chậm, người nặng, mặt đầy đặn hơi vuông. Ở hãm cung hoặc gặp Tuần Triệt thì lại gầy nhỏ hơn.
    Theo sách Trung Quốc, sao này không có hãm cung. Sai! Thiên Tướng vào Mão Dậu hay Thìn Tuất phải xem là hãm nhàn mới đúng. Cho rằng Thiên Tướng chỉ ở chổ vượng hay ngược lại hay nhược mà thôi. Điều này còn chấp nhận được.
    Câu phú: “Thiên Tướng thủ mệnh nhược lạc nhàn cung dã cát lợi” nghĩa là có sao Thiên Tướng thủ mệnh dù rơi vào nhàn cung cũng vẫn cát lợi. Rõ ràng ưu điểm của Thiên Tướng là con người cần mẫn phấn đấu dù chẳng nên công nghiệp lớn cũng nên thân vững chãi.
    Thiên Tướng vào số nữ là người đàn bà quán xuyến đảm đang nhưng cuộc đời thường vất vả. Thiên Tướng hợp với Tả Hữu. Thiên Tướng kị gặp Linh Hỏa gây tai nạn thương tích. Thiên Tướng gặp Tuần Triệt dễ non yếu hoặc gian truân.
    Thiên Tướng vào số nữ không nên có thêm Xương Khúc là hai sao lãng mạn, mâu thuẫn hẳn với bản chất của Thiên Tướng vốn mực thước thủ tín. Bị Xương Khúc dễ rơi vào tình cảnh không ba năm dại một giờ.
    Thiên Tướng vào cung Quan mà gặp Tuần Triệt dễ gặp tai tiếng với chức vị bị cách chức, nếu không cũng lụi đụi quan trường.
    Cung Quan Tướng đóng xem qua
    Nếu gặp Tuần Triệt khó mà dạng danh.
    Thiên Tướng đứng cùng hay hội ngộ Văn Khúc, Hoa Cái, Đào Hoa, Mộc Dục đa dâm.
    Tướng phùng Khúc Cái Mộc Đào
    Vẫn là phúc trọng tính sao đa tình. (số nữ)
    Thiên Lương qua hình tính phú: Thiên Lương ẩn trọng, ngọc khiết băng thanh, nghĩa là Thiên Lương đắc địa nam mạng tính cẩn thận kín đáo, nữ mạng đắc địa trinh thục. Thiên Lương da trắng trang nhã. Thuần hòa nhưng cũng quyết liệt. Thiên Lương hãm thì tính phiêu lãng với vẻ ngoài đôn hậu. Nữ mạng Thiên Lương hãm gian dâm.
    Lương hãm ngộ sát ưu phiền
    Nam đa lận đận nữ duyên nhỡ nhàng
    Lương phùng hao sát Tỵ cung
    Ấy là khó tránh khỏi vòng đao thương
    Cung Tỵ Hợi đứng cùng Thiên Mã
    Chí đổi thay ấy gã phiêu linh
    Còn như nữ mệnh cho rành
    Cách này thấy rõ dâm tình hạ lưu.
    Thất Sát Hình tính phú viết: “Mục đại, hung lang tính cấp” nghĩa là mắt lớn, dữ dội và nóng nảy. Đắc địa tánh dũng mãnh, hãm thành hung bạo. Đắc địa có mưu cơ, hãm thành hồ đồ.
    Thất Sát vượng nhược tảo niên định lịch tảo gian tân (Thất Sát miếu hay hãm thì lúc trẻ cũng phải gian tân). Đó là cái nghiệp của Thất Sát. Đắc hãm chỉ khác nhau ở lúc thành công thôi.
    Thất Sát miếu địa gặp Hình
    Ấy là võ nghiệp nổi danh tướng tài
    Sát Kình Hỏa vào phương hãm địa
    Số nghèo hèn đồ tể ra chi.
    Thất Sát nữ mệnh, đắc địa tháo vát, hãm địa tham lang và vô năng.
    Phá Quân âm thủy kể ra
    Lưng dày mình thấp lại là mi thưa
    Tính cương chẳng có ai ưa
    Ra lòng bạc ác chẳng chừa được đâu.
    Trên đây là những câu diễn nôm từ Hình tính phú: “Phá Quân bất nhân, bối trọng mi khoan, gian trá hiếu hành kinh hiểm”.
    Phá Quân không xấu người xấu nết đến vậy. Vấn đề còn tùy vào hãm hay đắc địa nữa. Nhưng đắc hay hãm thì Phá Quân cũng là con người khó hiểu và gan góc. Phá Quân nếu đi với Kình Dương Hao tinh, hay Linh Hỏa đóng Quan lộc cuộc đời lận đận bôn ba, chẳng những không nên danh phận gì mà còn túng quẫn.
    Phá Quân Thìn Tuất gặp Tuần Khoa hợp cách. Phá Quân ở Sửu Mùi gặp Lộc Hình có uy quyền. Phá Quân hãm địa nam hay nữ đều hiểm độc

    Hình Tính Phú có những câu phú sau đây:

    * Tuấn nhã Văn Xương – Lỗi lạc Văn Khúc (Văn Xương thủ mệnh dáng dấp tuấn nhã. Văn Khúc tài ba lỗi lạc.)
    * Tả Hữu ôn lương – cao sỹ Thiên Khôi Thiên Việt.
    * Kình dương – Đà la hình sũ, mạo liệt. (Kình Dương Đà la đóng mệnh hình dung xấu xí nếu đóng hãm địa)
    * Dung mạo như xuân, nãi Lộc Tồn (Mặt tươi vui như mùa xuân là Lộc tồn đóng mệnh).
    * Tử Vi phì mãn, Thiên Phủ tinh thần (Tử Vi to béo, Thiên Phủ thông tuệ)
    * Nhật Nguyệt Khúc Xương Đồng Lương Cơ Xương tuấn mỹ chi tư (Nhật Nguyệt Khúc Xương hay Đồng Lương Cơ Xương phong thái đẹp đẽ).
    * Tham Lang đồng Vũ Khúc hình tiểu thanh cao nhi lượng đại. (Tham Vũ đồng cung, dáng nhỏ bé nhưng tiếng nói oang oang (thì hào sảng). Trường hợp Tham Vũ gặp sát kị tinh thì tiếng nói lâm râm, tâm địa gian xảo.)
    * Thiên Đồng Đà Kị phì mãn nhi mục điểu (Thiên Đồng đứng với Đà Kị người mập nhưng mắt lé, mắt có cườm)

    Những câu phú nôm cần biết về Mệnh cung:

    * Tử Phủ hậu trọng khác thường
    Vũ Tham người nhỏ là phường tham lam

    * Thìn Tuất Phủ Tướng phùng suy
    Tính hay chấp nhất đa nghi mọi bề

    * Vũ Tham đầu nhỏ mình to
    Phá Liêm sốc sếch sức đo hơn người

    * Sát phùng Thiên Hỉ khá hay
    Ấy là phong nhã uy nghi mọi đàng

    * Việt Khôi là cách văn chương
    Khôi là khôi ngộ, Việt thường da đen

    * Mặt hoa ấy hội Khoa Quyền
    Vũ Tham Hóa Lộc râu liền đến tai

    * Đấng vàng là hội Phong Thai (Phong Cáo – Thai Tọa)
    Long Trì Phượng Các ấy ai dịu dàng

    * Đẹp thay Tả Hữu một phường
    Khốc Hư quanh mắt thường thường tròn thâm

    * Tham Đào tốt tóc xanh râm
    Mắt đen Vũ Kị chẳng nhầm một ai

    * Việt Xương tiếng nói khoan thai
    Đồng Không Hư Nhẫn lắm lời thị phi

    * Mộc Cái làm dáng ai bì
    Hay khoe mình cũng bởi vì Lâm Quan

    * Quý Ân là khách phong tao
    Trên nào cũng vị, dưới nào cũng yêu

    * Thanh long cơ biến đủ điều
    Tấu Thư nói ngọt người thao ngay về

    * Hỉ Thần Hoa Cái tốt ghê
    Khẩu thiệt trường đoản, mọi bề đảm đang

    * Kiếp Không da ắt đen hoàn
    Hỏa Linh mặt khổ sầu đăm đêm ngày

    * Kình Dương tai kèm mình gầy
    Đà La mắt lớn chân tay thì dài

    * Đào Hồng mặt mũi xinh tươi
    Kình Hình Đà Nhẫn là người tật thương

    * Đà Riêu Toái ngọng lẽ thường
    Lại thêm Cự Kị ắt phường điếc câm

    * Người mà mắt nhỏ mắt to
    Nhật phùng Đào Sát tương phò mệnh viên

    * Mắt to mắt nhỏ ấy là
    Nhật phùng Không hãy đoán ra rõ mười

    * Tham lâm Thái Tuế một miền
    Trong ngoài cơ trí đảo điên khó lường

    * Triệt Tuần đóng ở Mệnh cung
    Thiếu niên tân khổ lo toan mọi đường

    * Cô Thần Quả Tú Mệnh cung
    Tính người cô độc chẳng màng giao du

    * Tử phùng Thất Sát chí khôn
    Việc làm táo bạo những toan hơn người

    * Tấu Thư Hoa Cái thanh kỳ
    Mộc Riêu Hoa Cái ắt thì dâm bôn

    * Thiên Hình đóng ở Dần cung
    Mệnh Thân tại đó uy hùng Tướng Quân

    * Hình Tướng Ấn Binh hợp cùng
    Tài kiêm văn võ vẫy vùng nơi nơi

    * Đẩu Quân Tử Phủ thong dong
    Ở cung Quan Lộc trùng trùng phước lai

    * Đẩu gặp Tồn khá tiền tài
    Khốc Hư lạc hãm miệt mài gian truân (cung Tài bạch)

    * Thiên Nguyệt Đức Giải Thần tàng
    Hội cùng Quan Phúc một làng trừ hùng

    * Thái Dương đóng chốn thủy cung (cung Hợi – Tí)
    Đà Hình Riêu Kị yểu vong hoặc mù
    Hạn gặp thời cùng âu lo
    Hoặc đau đôi mắt hoặc chờ phát tang

    * Đà La Địa Kiếp chiếu phương
    Gặp Linh Tinh nạn bất tường chẳng sai

    * Khốc Hư Tí Ngọ an bài
    Tiền bần hậu phú chớ sai lẽ bàn

    * Thiên Đồng thủ mệnh ấy là
    Đổi thay tính khí khó mà chiều nuông

    * Tràng Sinh Hỉ Mã đồng cung
    Thanh vân đắc ý vẫy vùng một phen

    * Thái Dương cư Hợi mệnh thân
    Gặp Khoa Quyền Lộc mười phen vẹn mười

    * Thai mệnh đa học thiểu thành
    Mộc được Thai Tọa hiển danh anh tài

    * Địa Kiếp độc thủ ác tà
    Liêm Phá là mạng quỉ ma bất thường

    * Thiên Khốc Địa Võng tai ương
    Hóa Quyền Thiên Khốc lại đường minh danh

    * Khôi Xương ở mệnh bậc lành
    Hỏa Hình đóng mệnh giữ mình lửa than

    * Hóa Kị thi rớt lắm khi
    Dương phùng Kiếp Sát học gì cho hay (Dương hãm địa)

    * Sát Kình cô độc tính ương
    Quan Phù Thái Tuế đến thường công môn

    * Binh Hình nói chẳng hé răng
    Hãm cung Thái Tuế nói bằng sấm vang

    * Tham Lang những thích ăn sang
    Riêu Đà tửu sắc lắm đàng ngả nghiêng

    * Đế hãm Mão Dậu lại thêm
    Sát tinh hội họp của thiền gửi thân

    * Mấy người phú quý không toàn
    Bởi sao Nhật Nguyệt hợp đoàn sát tinh

    * Mấy người thu ấn triệt hồi
    Bởi sao Không Kiếp đứng ngồi nào yên

    * Cung Quan mừng được Đào Hồng
    Thiên di tối kị Kiếp Không lâm vào

    * Những người niên thiếu danh ghi
    Hồng Loan Bát Tọa ở vì Mệnh cung
    Song Hao Tham hội đa dâm
    Thiên Đồng gặp quý mười phần thanh cao

    * Phá Quân Riêu Mã hợp vào
    Ấy phường du đãng ai nào dám thân

    * Hay gì hãm địa Hóa Khoa
    Thêm Không Kiếp ắt quái tà ác tinh

    * Đất tứ mộc Hỏa Linh Tham Vũ
    Có uy quyền chớ ngộ Kình Dương

    * Tham Vũ đóng đất Võng La
    Gặp loài Tang Điếu một nhà nên hung

    * Xương Khúc Phá gặp Hình Kiếp Sát
    Chốn Mão Thìn Dậu Tuất lao đao

    * Tam Hóa Hóa Lộc đứng đầu
    Vào cung Tứ Mộ như màu khói mây

    * Mấy người hà tiện xưa nay
    Bởi cung Tài Phúc gặp rày Kiếp Không

    * Lộc ngộ Không Kiếp đồng qui
    Cũng là vô dụng hóa vi cơ hàn

    * Còn Thiên Phủ Tuất cư mệnh vị
    Họp cát tinh Giáp Kỷ sinh nhân
    Hỏa cục vẹn vẻ mười phân
    Tam công chức trưởng dành phần chẳng ngoa

    * Tham Vũ đắc địa khá mong
    Bính Đinh Thổ cục ấy dòng giàu sang

    * Mấy người phú quý nan toàn
    Lưỡng Hao Hóa Kị Tài Quan lâm vào

    * Mấy người dư bạc giàu sang
    Hợi Tí Tướng Ấn lại chầu cát tinh

    * Kình dương Kị Hỏa một bài
    Hãm mà thủ mệnh thật loài ác tinh

    * Ngọ cung Tam Hóa hợp Kình
    Người sinh Bính Mậu biên đình nổi danh

    * Khúc Xương Mùi Sửu hợp thành
    Nếu không cát diệu hữu danh vô dùng

    * Phá Quân mà gặp Khúc Xương
    Thìn Tuất Mão Dậu là phường lao đao

    * Lộc cư Nô bộc bực mình
    Đông Tây xuôi ngược mới sinh tiền tài

    * Mệnh vô chính diệu bất minh
    Phụ Bật gia thủ đem mình ly tông

    * Sao Ân Quý hợp Khôi cùng
    Ở vào Thân Mệnh bảng rồng đề danh

    * Khôi Việt lại gặp Khoa tinh
    Không bị Tuần Triệt nên danh dễ dàng

    * Tham Lang Bạch Hổ một đàng
    Tuất Thìn tuổi ấy sơn lâm lánh mình
    (Không nên ham săn bắn, đi rừng leo núi)

    * Hãm cung Thái Tuế Cơ Lương
    Ấy người kém phúc vợ con biếng chiều

    * Phù Hình Không Kiếp bon chen
    Kẻ thù người oán phải nên giữ mình

    * Khốc Hư Tang Mã chẳng lành
    Hại người hại của phận đành tai ương

    * Dậu cung Hình Tuế cùng ngồi
    Tai bay vạ gió do người gây ra

    * Tuế Đà Cự Kị phận nghèo
    Một thân lên thác xuống đèo chẳng yên (gặp vận cũng vậy)

    * Kiếp Không Hình Kị Đà Dương
    Gian nan bệnh tật mọi đường khảm kha

    * Việt Khôi Quyền Lộc nhẽ bàn
    Trong nhà bậc trưởng ra đàng bậc trên

    * Mệnh Điền Tuần Triệt đương đầu
    Tư cơ cha mẹ khó cầu khó mong

    * Thất Sát là loài đáng kinh
    Hãm địa gặp phải lưu Kình sợ thay

    * Dương Đà Thất Sát phải hay
    Chiếu vào thân mệnh tháng ngày khổ đau (số Nữ nặng hơn)

    * Phá phùng Mão Dậu khá kinh
    Gặp sao Nguyệt đức phúc lành lại qua

    * Dậu cung Thái Tuế Thiên Hình
    Phải phòng tai họa nảy sinh gông cùm

    * Thìn Tuất Thất Sát xem qua
    Kình Hình hội ngộ ắt là đảo điên

    * Tướng Phá Phục nội tàng Thai diệu
    Ngoại Đào Hồng tứ chiếu Thiên di
    Nam nhân dâm dục thị phi
    Nữ nhân tác kỹ kẻ chê người cười

    * Tuế hạn Cự Vũ Hóa Quyền
    Hoặc Mộ Tả Hữu ấy miền vinh thăng

    * Việt Khôi Long Phượng Văn tinh
    Vào thi ắt hẳn bẻ cành quế hoa

    * Thiên Lương ngộ Hỏa chớ lầm
    Hại người tổn vật mấy lần họa sinh

    * Linh phùng Sát Phá hạn hành
    Văn Xương xưa cũng giam mình ngục trung

    * Đào Tang đóng ở mệnh cung
    Lẳng lơ gái ấy phụng loan dứt tình

    * Dương Đà Tuế lâm vào khẩu thiệt
    Còn Đà La ngộ nguyệt loạn dâm

    * Tật cung Thai Hổ huyết băng
    Tấu Thư Hoa Cái mệnh phùng thanh cao

    * Phượng Loan hợp là người thuần hậu
    Khốc Hư thường táo bạo xông pha (số nữ)

    * Thiên Quan Thiên Phúc thủ trung
    Tôn tăng kính Phật dốc lòng thiện gia

    * Vũ Quyền nữ mệnh đồng lâm
    Gái khôn khiến đấng phu quân nể vì
     
  16. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    BÀO CUNG

    Cung Bào chủ yếu để xem quan hệ anh chị em ruột thịt. Vì cung bào xung chiếu với cung Nô nên có thể phối hợp những sao của cung Bào với Nô mà tìm hiểu rõ thêm về bạn bè chi kỷ, về thủ hạ, về những người đồng liêu cộng tác với mình.
    Sách vở Trung Quốc luận đoán cung này không đem lại cho người đọc hào hứng và có vẻ võ đoán. Tỉ dụ: sao Tử Vi ở đây là có thể nhờ được anh em cùng với Thiên Phủ thì anh em chừng được ba người… Dương Đà Hỏa Linh xuất hiện anh em khó hòa thuận. Tỉ dụ: Liêm Trinh cư bào miếu địa có hai người, đứng với Tham Lang anh em chiêu đoán, đứng với Thất Sát một người, Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp thường khắc anh em.
    Luận đoán như thế coi mà phát chán, đồng thời cũng thiếu thực tế. Tử Vi Việt có những câu phú linh động hơn.

    * Xét xem huynh đệ cho tường
    Triệt Tuần xung củng đầu đàng ly tông

    * Sinh lai hãy đoán khắc xung
    Hễ là Địa Kiếp Thiên Không chẳng nhiều

    * Tướng Quân Lộc Mã cung triều
    Anh em có kẻ thuận chiều công danh

    * Tướng Quân Lộc Mã đồng cung
    Anh em có kẻ triều trung quý quyền

    * Tuần Triệt Không Kiếp giao liên
    Anh em có kẻ để phiền lụy thân

    * Trường Sinh Đế Vượng đa nhân
    Thai cùng Nhật Nguyệt có lần song sinh

    * Tam Không ngộ Dưỡng đinh ninh
    Nuôi con nghĩa dưỡng giúp mình yên vui

    * Tử Tang Tả Hữu cùng ngồi
    Có chị em gái duyên ôi chẳng lành

    * Tang Môn gặp Mã đinh ninh
    Mỗi người mỗi xứ gia đình quạnh hiu

    * Dưỡng Thai Triệt Vượng lâm vào
    Trong anh em có dị bào chẳng không

    * Đào Hoa Thai Hỉ trong cung
    Phá Quân Tướng Phục chiếm xung cõi ngoài
    Có chị em gái theo trai
    Say mê đến nổi hoang thai bỏ mình

    * Trong thời Tướng Phá Phục Binh
    Ngoài thì Hoa Cái liên minh Đào Hồng
    Anh em có kẻ tư thông hẳn rồi
    * Gặp sao Hóa Kị khiếm hòa
    Thiên Hình xung khắc trong nhà ghét nhau

    * Phá phùng Hình Kị đồng xung
    Anh em bất thuận những đường trở tranh

    * Âm Dương chiếu với Hỉ tinh
    Âm cung Thiên Phúc cũng sinh dị bào

    * Tử Vi Tả Hữu Riêu Đào
    Có chị em gái chìm vào phấn son

    * Tướng Thai Đế Vượng hợp cùng
    Dị bào có kẻ trong vòng đệ huynh

    * Thìn Tuất Thất Sát một mình
    Lộc Tồn Cô Quả anh em có nào

    * Khúc Xương Thái Tuế cung Bào
    Có người anh trưởng thấp cao tung hoành

    * Đẩu Quân kỵ huynh đệ cung
    Cát hội hòa thuận, nếu hung oán hờn

    PHỐI CUNG

    Cung Thê hay Phu dùng để xem quan hệ phối ngẫu thuận hòa hay không, phải mấy đời chồng vợ, hay góa bụa chia ly, vợ đảm hay vợ đoảng. Những khoảng thời gian đôi ngả. Mệnh bình thường mà cung phối ngẫu tuyệt đẹp nhờ hôn nhân mà đời trở nên khá giả.
    Mấy đời chồng vợ có thể xem từ Mệnh cung cùng với phối cung. Vợ vượt quyền có thể vừa xem Mệnh cung vừa xem Phối cung. Đến như vợ đoảng hay vợ đảm thì chủ yếu phải là Thê cung. Vợ giàu hay nghèo chủ yếu vẫn là Thê cung.
    Cuốn "Chính Thống Tử Vi Đẩu Số" của Trần Nhạc Kỳ ở mục Phu Thê cung yếu quyết viết như sau: “Phu Thê đóng Tý hay Ngọ có sao Tử Vi mà không thấy Tả Hữu thì không bị hình khắc, nhưng lại hay rơi vào tình trạng vợ chồng đối xử với nhau ngang ngược vô lý."
    Hoặc chồng hoặc vợ trong lòng tuy bất mãn nhưng vì danh dự, địa vị và tài sản đành phải chịu ngậm bồ hòn làm ngọt. Loại ẩn nhẫn nhịn nhõ nhau chiếm đa số. Cung Phối đẹp tốt nhưng tam hợp đối xung nhiều sát tinh thì vợ chồng tình ý thuận toại nhưng nguyên nhân ngoại lai làm cho phân ly.
    Cung Mệnh, cung Phối hoàn hảo, mà vận hạn đến quá nhiều hung sát tinh xung phá có thể đưa đến góa vợ góa chồng nếu như mệnh cung của người phối ngẫu mang những dấu tích yểu vong.
    Có câu phú: “Tử Phủ đồng cung đa cô khắc. Mệnh như thế phải chậm hôn nhân, lấy sớm mà gặp người hung hãn tất phải chia lìa, hoặc vô sinh dục mà phân ly hoặc lấy muộn mà tâm chẳng đầu, ý chẳng hợp cũng kể là cô.
    Mệnh an Tý Ngọ, không chính tinh mà cung Thê thấy Thiên Cơ, Thiên Lương thì vợ là người hiền hậu thông minh, vận gặp nhiều hung sát tinh hay Hồng Loan, Cô Quả thường góa vợ.
    Mệnh Nữ, Thái Dương đắc địa ở miếu vượng cung là vợ đoạt phu quyền lại dễ có những mối tình ngoại hôn. Âm Dương hãm đóng cung Phối khó bền duyên. Âm Dương hãm gia hội Kình Kị phu thê ly biệt.
    Phu Thê Cự Nhật Dần hay Thân vợ hay chồng có thái độ ngang chướng cuộc sống lứa đôi bất an. Mệnh tốt, phối cung đẹp nhưng cung xung chiếu Thê là Quan Lộc xuất hiện Hóa Kị, Đà Kị, Cự Kị vợ chồng sống với nhau trong nghi kị.
    Thê cung Tham Đào Hóa Lộc hội tụ, vợ có khuynh hướng ngoại tình. Phu cung Sát Phá Tham có Quyền Lộc Xương Khúc là Mệnh Phụ nếu thấy luôn Cô Quả tất sẽ thành Quả Phụ.
    Về cung Phối, phú nôm có nhiều câu đặc sắc như sau:

    * Phối cung Nguyệt Đức Đào tinh
    Trai lấy vợ đẹp gái làng chồng sang.

    * Vợ chồng viễn phối tha phương
    Hồng Đào viễn phối từ làng Thiên Di

    * Vợ về có của muôn trùng
    Ân Quang Nguyệt Đức Mã đồng Thái Dương

    * Lộc Quyền kia cũng một phường
    Tri âm sẳn của một phường phú gia

    * Lương Đồng Tử Phủ họp bầy
    Chính phòng nét sẳn thảo ngay hiền hòa

    * Hoa Cái Phượng Các Đào Hồng
    Trai toan bỏ vợ trong lòng chẳng khuây

    * Tứ Không ngộ Mã chẳng bàn
    Có chồng còn bỏ theo làng bướm hoa

    * Đà Tham tửu sắc la đà
    Tuế Đà miệng lưỡi ắt là chua ngoa

    * Vợ chồng nay thuận mai hòa
    Phục Binh Hóa Kị chiếu tòa thê cung

    * Chinh thê thứ thiếp tề vui
    Tả phù Hữu Bật Loan thời Đào Hoa.

    * Cao sang phú quý một nhà
    Phối cung có Lộc hợp hòa Phượng Long

    * Phối cung Thiên Tướng Đào Hồng
    Hoặc là Thiên Mã, Lộc Tồn, Thanh Long
    Hoặc là Mã bất tứ không
    Hoặc là Thiên Mã Đào Hồng tốt thay

    * Phu cung Hóa Kị một mình
    Tơ tình chưa dứt mối tình đã suôi.

    * Cự Môn Kị Hỏa tương phùng
    Ba lần kết tóc chưa xong mối sầu

    * Vũ Khúc Thất Sát đồng danh
    Bao lần hôn phối mới lành được chăng

    * Vũ Khúc, Thiên Mã Triệt Tuần
    Khắc xung vợ bỏ khuê phòng ra đi

    * Phối cung Không Kiếp kể chi
    Trai hai ba độ rồi thì mới yên

    * Thiên tướng đứng đắn lạ thường
    Liêm Trinh đắc địa là phường đoan trinh

    * Thiên Tướng Phược Các Long Trì
    Càng thêm yêu dấu mỗi thì mỗi tăng

    * Triệt Tuần Không Kiếp giao lâm
    Mối mai giang dỡ ba lần mới nên

    * Vợ chồng nay hợp mai tan
    Kị Phục tọa thủ trong làng Thê cung

    * Đồng Riêu đoán ắt ngoại tình
    Nếu cùng Tướng Phá Phục binh lai triều

    * Phượng Long nhan sắc dịu dàng
    Khúc Xương Tả Hữu ấy làng tài hoa

    * Linh Tinh hà tiện bao nhiêu
    Phá Quân kia lại tiêu liều tiêu vung

    * Binh Hình gặp Hóa Kị xung
    Đêm ngày cư xử ra lòng bạc đen
    * Tang Môn Thiên Khốc phận hèn
    Hoặc là làm lẽ hoặc phen ly tình

    * Khúc Xương Thài Tuế liệt bài
    Chua ngoa miệng lưỡi ấy người đa ngôn

    * Đồng Lương hội nhập phối cung
    Hai vợ ắt một tổ tông đó mà

    * Cự Đồng cùng hội Phu cung
    Một sầu góa bụa, hai sầu lỡ duyên

    * Triệt Tuần gặp Mã ưu phiền
    Bỏ chồng vợ trốn đến miền phương xa

    * Hồng Đào ngộ Kị phu cung
    Tơ hồng đã dứt má hồng còn vương

    * Song Lộc hội Phu thê cung
    Vợ chồng phối hợp vốn dòng giàu sang

    * Lộc Quyền tọa thủ Thê cung
    Trai thời nhờ vợ mà nên sang giàu

    * Phu cung Riêu Sát Kình Dương
    Hội giao Linh Hỏa gái toan giết chồng

    * Hình Đào Sát đáng chê cung Phối
    Hoặc Tài Điền Tử tức long đong

    * Phá Quân duyên nợ ít toàn
    Cô Quả Tang Hổ Khốc thường tóc tang

    * Thê cung Xương gặp tam Không
    Con nhà danh giá tổ tông kết nguyền (?)

    TỬ TỨC CUNG

    Con cái đắc lực hay không, con cái có đem đến rạng rở cho tôn tộc hay không, có con nối dõi hay không, những nổi buồn về con cái… đều liên hệ đến cung Tử Tức.
    Bản Mệnh bình thường, nhưng cung Tử tốt đẹp hẳn thì con hơn cha mẹ. Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư viết: “Như cung này mà Kình Đà, Linh Hỏa Không Kiếp Sát Kị hãm ắt có sự hình khắc về mặt con cái. Cung này được các thiện tinh, quý tinh thủ thì con cái thông tuệ thành công sang quý. Ác tinh coi giữ có nổi buồn về con phá đãng nghịch tử…
    Sách kể trên cũng đưa ra những luận cứ sao nào thì sinh mấy người. Sao nào thì đưa đến tình cảnh tuyệt tự. Vào thời đại bây giờ, cái chuyện sinh mấy người kể như không thực tế. Như bên Trung Quốc lệnh chính quyền chỉ được đẻ một con thôi vì nạn nhân mãn, bên Ấn Độ có chính sách khuyến cáo đàn ông hãy thiến hoặc cột (?) vì xứ Ấn đã đông người quá rồi đẻ theo nhịp cũ sẽ đói to. Những người ở Hoa Kỳ ai cũng phải có kế hoạch gia đình nhiều nhất là ba, đẻ thêm nữa kể là ngoại lệ.
    Cái số bao nhiêu không còn áp dụng được nữa. Câu hỏi về con cái hiện đại chỉ là có hay không? Sớm hay muộn? Con cái hiếu thuận hay chăng?
    Hãy đọc những câu phú nôm ghi sau đây có thể hiểu được phần nào những thắc mắc trên:
    * Thai cung Tả Hữu hội chung
    Sinh con có kẻ bên dòng tiểu tinh

    * Cung con Long Phượng sang giàu
    Khúc Xương Thái Tuế thập hầu tặng phong

    * Không ngộ Linh Hỏa xấu xa
    Sinh con gặ[ phảio những tà ác tinh

    * Vũ Khúc Văn Khúc cùng ngồi
    Sinh con tài giỏi hơn người chẳng ngoa

    * Tử cung Riêu Mộc Khúc Xương
    Tuồng gì con cái cũng phường chơi ngang

    * Đào Riêu nhi nữ dâm tàng
    Tử Phủ nhi nữ lại làng đống lương

    * Bóng tà vẫn kém hào con
    Bởi chưng Linh Hỏa Thái Âm hãm nhàn

    * Khốc Hư lại gặp Dưỡng thần
    Sinh nhiều nuôi ít muôn phần ưu tư

    * Âm Dương Thai hội sinh đôi (?)
    Hỏa Linh Thai hội sinh nuôi chẳng lành

    * Kình Đà Không Kiếp Khốc Hư
    Sinh con điếc lác ngẩn ngơ thêm buồn

    * Đẩu Quân cung Tử hiếm con
    Cát tinh hội tụ may còn ước mong

    * Khốc Kình Hình Hổ Tử cung
    Đến già không thấy tay bồng con thơ

    * Kình Dương mà gặp Thiên Hư
    Hữu sinh vô dưỡng âu lo một đời

    * Dương Đà ngộ Tuyệt phùng xung
    Mão Dậu Tý Ngọ uổng công sinh thành

    * Tử cung Thai Tướng Phục Binh
    Vợ chồng ắt hẳn tử sinh thủa nào

    * Số muộn màng gái trai ôm ẵm
    Vì Kị Đà len lỏi Tử cung

    * Hỏa Linh Dương nhẫn lâm vào
    Có sinh con cũng liệt vào tật thương

    * Rõ ràng số hiếm muộn màng
    Hai sao Đà Kị ở làng Tử cung

    * Hiếm hoi Phi gặp Thiên Hình
    Mã Không Phụ Bật song sinh phải phòng

    * Không Kiếp cung Tử khá phòng
    Đẻ thường băng huyết con vòng tràng hoa

    * Hổ Tang Không Kiếp tương gia
    Sinh con yểu chết đã ba bốn lần

    * Tử cung mà thấy Triệt Tuần
    Tuy rằng trước dữ sau phần dễ sanh

    * Thất Sát hãm ngộ Thiên Hình
    Sinh con những giống lưu manh hoang đàng

    * Cung Tử Âm, gặp Thái Âm
    Con đầu nhi nữ khỏi tầm yểu vong
    * Cung Tử Dương sao Nhật sinh
    Con đầu nam tử mới lành được chăng

    * Phụ Bật ba bốn sinh ra
    Lộc Tồn gia sát may mà một hai

    * Tử cung Thiên Mã phùng Không
    Gặp sao Phụ Bật một vùng sinh đôi.
     
  17. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    TÀI BẠCH CUNG

    Tiền là nguồn sống, cung Tài bạch được xem là cung trọng yếu đối với số mạng con người. Cung mệnh vượng mà cung Tài xấu thì cung mệnh sẽ bị ảnh hưởng. Cung Tài tốt mà cung Mệnh dở thì cũng không nên cơm cháo gì an thân mà thôi. Như sách viết: “Mệnh bần nhi tài vượng an thân nhi dĩ”.
    Cung Tài cũng liên hệ khăng khít với cung Phúc Đức vì Phúc là cung xung chiếu cung Tài. Phúc Đức là gốc của cơ may cho Tài Bạch. Tài vượng mà cung Phúc chẳng hay khó nên cơ nghiệp hoặc phải gian lao vất vả mới thành. Phúc vô dụng Tài bí xị, Mệnh vẫn vơ thì cả cuộc đời nghèo khổ. Mệnh thanh cao, phúc thanh cao mà Tài bạch bình thường thì nên danh nhưng nghèo tiền như mấy vị nhân sỹ, nghệ sỹ bất phùng thời, đời chuộng nể mà túi rỗng không.
    Tài Bạch có hơi hướm bà con với cung Điền Trạch. Tài Phúc tốt mà Điền quá dỡ thường đưa đến tình trạng không tụ tài. Phúc hãm, Tài vượng, Điền trạch sáng, xuất thân thấp kém do cần kiệm mà thành nghiệp. Phúc miếu, Tài nhược nhưng Điền Trạch thịnh, làm việc tân cần tích tiểu thành đại. Phúc và Điền đều hãm phá, nhưng Tài vượng thịnh chỉ được một thời sung túc. Tài hãm, Điền tối tăm mà Phúc vượng, có đấy rồi lại mất đấy hoa nhi bất thực.
    Tài Phúc có Hồng Loan Thiên Hỉ vào nghề cờ bạc có lúc phát. Cô Quả đóng Tài khó mà khoát đạt trong việc sử dụng tiền nên hay lỡ cơ hội.
    Tử Phủ, Thái Âm, Song Lộc, Vũ Khúc đóng Tài Bạch rất tốt. Cự Môn Tý Ngọ đóng Tài tiền tới bằng cạnh tranh hoặc đầu cơ man trá. Vì chính là cách “Thạch trung ẩn ngọc”.
    Tham Lang vào Tài thường được ân nhân chi Tài (tiền bạc do quỹ đen hoặc gái cho). Thiên Cơ kiếm tiền bằng khả năng mình kiến tạo được.
    Thái Dương miếu địa vào Tài Bạch có thể làm giàu. Thiên Đồng chủ phát muộn. Thái Âm hãm vào Tài Bạch không giàu nhưng sung túc.
    Liêm Trinh vào Tài Bạch hoạnh phát nhưng theo khuynh hướng bất chính. Thiên Tướng kiếm tiền trung thực. Thất Sát đắc địa bạo phát bạo bại. Phá Quân hãm và hai sao Hao không nên vào Tài Bạch. Phá Quân lên voi xuống chó. Khôi Việt dễ gặp may từ quý nhân. Thiên Riêu vào Tài mê cờ bạc.
    Sau đây là những câu phú nôm dành cho cung Tài Bạch:

    * Khúc Xương Tả Hữu có dư
    Cự Môn bạch thủ cơ đồ lại nên

    * Liêm Trinh đóng tại Dần Thân
    Cũng như Tý Ngọ Phá Quân hoạnh tài

    * Cơ Lương Lộc Mã ấy ai
    Thạch Sùng kim ốc có sai đâu mà

    * Hóa Kị thủ yếu Tài phương
    Cô Thần Quả Tú khỏi đường tốn hao

    * Thiên Hình giữ của tốt sao
    Linh Tinh hà tiện nên giàu đáng khen

    * Thiên Phủ Vũ Khúc một nhà
    Lưu truyền của cải đến ba bốn đời

    * Sao Mộ Hóa Lộc một nơi
    Thật là tiền của chào mời tận tay
    (Câu phú này nói minh bạch hai chữ sao Mộ của vòng Tràng Sanh chứ không phải cung Mộ Thìn Tuất Sửu Mùi. Vì Hóa Lộc vào cung Mộ thì tiền tài bị vùi lấp, mà sao Mộ như có của chôn dấu. Vậy thì sao Mộ và cung Mộ khác biệt?)

    * Cung Mộ Long Phượng hợp bầy
    Của truyền tổ nghiệp đến tay đấy mà

    * Thiên Đồng miếu vượng cũng hay
    Khi xưa bạch thủ mà nay nên giàu

    * Cung Mộ Cơ Lương cùng gia
    Tiền tài dễ kiếm tiêu pha tháng ngày

    * Ân Quang Hóa Lộc cùng nhau
    Ơn nhờ lộc nước rạng màu hiển danh

    * Gian tà Kiếp Sát Phục Binh
    Khúc Xương Thái Tuế mưu sinh tảo tần

    * Quan Phù Thái Tuế đa đoan
    Thiên Cơ Thái Tuế gian nan mọi đường

    * Đà Không nghèo khó tai ương
    Lưỡng Hao tài tán bốn phương thêm phiền

    * Kiếp Không khốn khó mọi bề
    Hỏa Linh biển lận đáng chê vô cùng

    * Quan Phù Thái Tuế Dương Đà
    Phải sanh kiện cáo ắt là mới xong

    * Tuần Triệt thước đất cũng không
    Tư cơ nan bảo Phủ không xứ phùng
    Hỏa Linh miếu phát giữ miền thanh cao

    * Tài cung bỗng thấy Tang Môn
    Ân Quang Thiên Mã Lộc Tồn đồng qui
    Ắt người hưởng của Cô Dì
    Thật là phúc trọng đức đầy thủa xưa


    TẬT ÁCH CUNG

    Trần Nhạc Kỳ viết trong cuốn Chính Thống Tử Vi Đẩu Số: “cung Tất Ách chủ về bệnh thống, lại cũng chủ về tâm cảnh vui sướng hay phiền não. Bởi vậy cung Tật Ách không nên quá vượng, nếu Tử Vi hay Thái Dương tọa thủ cung Tật chẳng những không hay gì mà còn lắm bậnh tật.
    Cung Tật Ách cũng không nên có nhiều Sát tinh tụ vào gây ra nhiều bệnh tật. Cung Tật Ách cũng cho hay về tai nạn gây thương tích, chết chóc. Bệnh tật thế nào, luận đoán thường căn cứ vào các sao với ngũ hành sở thuộc của chúng.
    Tỉ dụ, Thiên Phủ thuộc Thổ, nếu thấy Sát tinh hội tụ thì con Tì yếu, nhược điểm là Tì bệnh thường xuất hiện ở bộ phận này.
    Qua kinh nghiệm chỉ có phần nào đúng thôi. Đứng trên cơ sở y khoa bệnh tật người ta không đơn giản như vậy. Do đó mà dùng Tử Vi mà đoán chính xác được bệnh tật là điều tin xem như hàm hồ.
    Hơn nữa sách luận về bệnh tật cho khoa Tử Vi không đồng nhất. Ngoài ra không chỉ ở cung Tật Ách bệnh tật mới hiện lên, qua Mệnh hay Phúc cung có thể thấy. Tỉ dụ Không Kiếp đóng mệnh hay Tật Ách đều dễ mắc bệnh ngoài da, suyễn.

    Thiên Cơ Khốc Hư ở mệnh hay ở Tật Ách đều đưa đến một căn bệnh lao nào đó. Riêng cung Phúc thì dễ tìm ra ở đây một bệnh trên tâm thần, không phải bệnh ở cơ năng. Y khoa hiện đại tìm ra những bệnh bắt nguồn từ trung khu thần kinh (Neurology) tất nhiên không thể hiện lên cung Tật Ách loại bệnh trên, ngay cả ở các sách y học Trung Quốc.
    Tuy nhiên không phải Tử Vi khoa hoàn toàn vô dụng để đoán về bệnh tật nhưng đoán để mà tránh, để mà thận trọng chứ không đoán để mà chữa. Tỉ dụ Cự Kị Hỏa Tinh thường bị giải phẫu…
    Ở khoa Tử Bình vì hoàn toàn căn cứ trên ngũ hành sinh khắc chế hóa nên luận đoán bệnh tật gần với lý luận chẩn bệnh của y học Trung Quốc hơn Tử Vi.
    * Ách cung Bạch Hổ huyết hư
    Khốc Hư Cơ lại có dư phế đàm

    * Dương Đà phúc thống bệnh lâm
    Mã Đà đới tật Kình làm tì thương

    * Bệnh phù Hình Kị phong sương (tê thấp)
    Kiếp Không cung Ách có đường huyết suy

    * Nhật Nguyệt Đà Kị mục tì
    Hỏa Linh Dương Nhẫn tức thì mắt đau

    * Dương Đà liếc lác thế âu
    Thiên Riêu mộng hiện ắt sầu mộng tinh
    (Thiên Riêu đóng Tật Ách gặp Đào Hoa cũng là đa dâm, không tiết dâm được mà thành bệnh)

    * Ách cung Hóa Kị cho minh
    Âm hư chứng ấy thường tình hiếm con

    * Thiên Cơ Thất Sát phùng xung
    Bệnh hay đeo đẳng phải phòng thuốc thang

    * Bệnh gan mật rất hung tàn
    Bởi sao Bệnh hợp làng Kiếp Cơ

    * Liêm Trinh Vũ Sát hung đồ
    Ấu nhi cha mẹ phải lo thuốc thầy

    * Cự Phá hung tinh họp bầy
    Phong sang vương vấn những ngày thiếu niên
    (bị ghẻ lở, chốc đầu)

    * Long Trì Mộc Dục sao nên
    Hoặc là Mộc Kiếp tránh đường bể sông
    Thiên Hình Dương Nhẫn Ngọ cung
    Gặp sao Thất Sát ngục trung đợi chờ
    Tham Liêm Tị Hợi khá lo
    Lâm vào Tật Ách lưu đồ gian truân
    (6 câu trên đây không chỏ vào tật bệnh mà chỏ vào tai nạn)

    * Cự Kị nên tránh đò sông
    Phục Binh Hình Việt mắc vòng gươm đao

    * Hỏa Linh Hình Việt khác nào
    Không bị sét đánh búa đao có ngày

    * Hỏa Linh Mộc Dục phải hay
    Nước sôi lửa đỏ hẹn ngày họa thương

    * Lộc Tồn ám tật miên trường
    Tả Hữu Xương Khúc tai ương khá phòng

    * Thiên Quan Thiên Phúc hợp hòa
    Giải Thần Nguyệt Đức một tòa trừ hung

    * Ách cung ác sát trùng phùng
    Khí âm lạnh lẽo chẳng cùng khí dương

    * Triệt Tuần đóng ở Ách cung
    Bệnh phùng cũng khỏi, hạn phùng cũng qua

    * Cung Tật mà ngộ Khôi Hình
    Số người mắc phải pháp đình gươm đao.

    THIÊN DI CUNG

    Qua Thiên Di cung ta có thể tìm hiểu tài năng con người khi vào xã hội phấn đấu hành động lực trong quan hệ người với người và những hiện tượng thành bại về phương diệnl lập thân. Thiên Di cung xung chiếu với Mệnh cung nên ảnh hưởng giao thoa của hai cung này rất đậm.
    Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư trong mục nói về Thiên Di viết: “Thiên Cơ xuất ngoại ngộ quí, cư gia hữu thị phi” nghĩa là sao Thiên Cơ đóng Thiên Di ra đời gặp quí nhân, ở nhà không được trọng vọng. Hai chữ xuất ngoại ở đây là ra đời hoặc ra một địa phương không phải quê hương bản quán.
    Tử Vi có Tả Hữu chiếu, hoặc đồng cung ra đời được phò trợ, thêm Phá Quân càng nhiều tay chân, gặp Hỏa Linh Kình Đà thường bị bội phản
    Thiên Cơ đứng với Cự Môn càng động càng hay. Cơ Lương xuất ngoại xứng ý, với Thái Âm xoay sở thành tựu, bị Dương Đà hãm, Hỏa Linh hãm vất vả lưu lạc.
    Thái Dương ở Thiên Di đắc địa, ra ngoài phát phúc đừng nên tĩnh thủ, cùng Cự Môn cung Dần càng hay. Gặp Kình Đà Linh Hỏa thân tâm khó an nhàn.
    Ở Thiên Di hay Mệnh hay bất cứ cung nào khác thì sao phải ở miếu hay đắc địa mới tốt đó là nguyên tắc chung.
    - Thiên Di xuất ngoại anh hùng
    Quần thần Tử Phủ Lương Đồng cùng gia

    - Khoa Quyền Lương Lộc ai đương
    Bạn nhiều lại gặp quí nhân yêu dùng

    - Việt Khôi là cách ung dung
    Việt thường là bạn, Khôi thường gặp sang

    - Vợ chồng viễn phối tha hương
    Hồng Đào len lỏi vào hàng Thiên Di

    - Hỉ Thần Hoa Cái yêu vì
    Lộc Mã hội họp nhiều khi ngoại tài

    - Vũ Tham tài phát phương ngoài
    Khúc Xương Tả Hữu gặp người quí nhân

    - Dương phùng Lực Sĩ Tướng Quân
    Ra vào thường ở trong sân quí quyền

    - Phá Quân Thất Sát cõi ngoài
    Hãm cung thôi lại suốt đời thị phi

    - Cự Môn, Thất Sát bôn trì
    Lao tâm khổ trí ích gì ước mong

    - Vũ Đà Kình tất âu lo
    Liêm Trinh Cự Kị cũng là sát tinh

    - Phục Binh Thái Tuế Thiên Hình
    Cùng người tranh cạnh tâm tình chẳng vui

    - Thiên Riêu Hóa Kị ra ngoài
    Đa chiêu mạ nhục chẳng ai yêu mình

    - Tướng Quân ngộ Triệt chẳng lành
    Trận tiền kia dễ bỏ mình chôn thây
    (Nếu như Thân ở Thiên Di)

    - Long đong đông tẩu tây trì
    Bởi vì Cơ Mã Thiên Di hãm nhàn

    - Chơi bời du thủy du san
    Thiên Di Đào Mã họp làng kết giao

    - Thiên Di Không Kiếp khốn sao
    Hồn qui dặm liễu gặp nào người thân

    - Quan Phù gặp Hình Tuế hương
    Ở Thiên Di sẽ ly hương ngộ hình


    NÔ CUNG

    Qua Nô cung khoa Tử Vi cho ta thấy quan hệ với thủ hạ, với bạn đồng sự, với người thân quen. Ở cung Nô cũng có thể xem một tình trạng nào đó về hôn phối về một cuộc tình như thế nào đó.
    Tỉ dụ câu phú chữ Hán về Nô Bộc cung không được phong phú mấy, đại khái cũng chỉ cát tinh là tốt, hung tinh là xấu và tuyệt đối không thấy câu nào liên hệ đến vợ con duyên tình. Nhưng phú nôm thì đa dạng hơn:
    - Cung Nô mà có Hóa Quyền
    Ắt rằng vợ lẽ cướp quyền người trên

    - Đào Hoa Nô lại tương phùng
    Vợ chồng mắc tiếng bất trung ưu phiền

    - Nô cung Hoa Cái Đào Hồng
    Cùng với Phụ Bật chiếu vào cho nên
    Chính Thê thứ Thiếp nhiều duyên
    Khác nào dây Cát sánh bên cõi Cù

    - Vũ Tướng Tả Hữu đồng lưu
    Nhất hô bách nặc ai đâu dám bì

    - Phá Quân Vũ Khúc đồng cung
    Những Quân phải bội phải phòng cho tinh

    - Cự Môn oán chủ nhiều phen
    Nhưng không thể kiếm được miền ra đi

    - Dương Đà Kị Phá hãm bên
    Bạn bè tôi tớ đảo điên khó lường

    - Lương Cơ Tả Hữu Khúc Xương
    Miếu cung cũng được mọi đường kết giao

    - Tham Lang Trinh Tướng hợp vào
    Thiếu niên bôn tẩu lại chiêu oán thù



    QUAN LỘC CUNG

    Qua Quan Lộc cung khả dĩ tìm thấy sự cát hung về chức nghiệp, địa vị và công danh. Như câu phú:
    Quyền cao trọng chấn biên cương
    Ngọ cung Thất Sát, Tử, Lương, Vũ, Đồng (đóng Quan Lộc)

    Rồi những câu sau đây:

    - Cung Quan Thất Sát uy hùng
    Miếu thời chức trưởng vẫy vùng quân công

    - Cung Quan Tham Vũ đồng tông
    Công danh hẹn bước ruổi dong lên đường

    - Nhật Nguyệt cư Quan rất hay
    Chức quyền số đã sẵn tay trời dành

    - Cung Quan Dần Mão Thiên Hình
    Tri dân trọng chức, chưởng binh cao quyền

    - Thiên Quan Thiên Tướng miếu viên
    Hiển vinh đức trọng tài hiền ấy ai

    - Hỏa Linh Mùi Sửu an bài
    Chiến công đã hẹn đức tài binh nhung

    - Cung Quan mà gặp Đào Hồng
    Thiếu niên đã thỏa tang bồng chí trai

    - Kình tứ Mộ Mã triều lai
    Biên cương ắt hẳn ra tài võ công

    - Cung Quan giáp Phượng giáp Long
    Giáp Xương Giáp Khúc một dòng hanh thông
    (Phượng Long chức vị, Xương Khúc đỗ cao)

    - Tuế Hổ Phù hợp Văn Xương
    Có tài hùng biện văn chương hơn người

    - Phá Quân Phá Toái một nơi
    Tính ưa mạo hiểm việc thời chiến chinh

    - Giáp Liêm giáp Sát tung hoành
    Tuổi già mới rạng công danh đó mà

    - Hỏa Linh hợp Mã một nhà
    Hoặc nghề cơ khí hoặc là chở chuyên

    - Quan Lộc Tử Mã nhất ban
    Khốc Hư Tí Ngọ đồng sàng hoạnh thương

    - Mã Long Thiên Hỉ thuận đường
    Hoặc là Lộc Mã hợp phường tốt thay

    - Tấu Thư Bác Sĩ xem qua
    Rộng đường văn học con nhà trâm anh

    - Phong Cáo Thiên Tướng chính tinh
    Ơn nhờ lộc nước hiển vinh muôn phần

    - Không Kiếp Thiên Tướng gian truân
    Khoa tinh niên thiếu giữ phần đăng khoa

    - Cung Quan hội hợp cát tường
    Một rằng Tử Phủ ba phương Hóa chầu
    Hai rằng Khôi Việt đáng yêu
    Ba rằng Tả Hữu hợp chiều Âm Dương
    Miếu thì văn võ vẹn toàn
    Hãm cung cũng giữ được phần công danh

    - Hình Riêu Cơ Tấu Vũ cùng
    Khéo nghề thuyền thợ vững đường sinh nhai

    - Khúc Xương Long Phượng phát văn
    Vũ Tham Sát Phá lại rằng võ công

    - Nhật Nguyệt Quan Lộc bất thông
    Chỉ hiềm một nỗi đồng cung Sửu Mùi

    - Những ai đai ấn triệt hồi
    Thiên Tướng Không Kiếp đứng ngồi một bên

    ĐIỀN TRẠCH CUNG

    Với sách vở Trung Quốc thì Điền Trạch được xem là một trong mấy cường cung của nữ mạng, bằng lý luận sau đây: Điền Trạch cung cho biết người nữ sinh ra đời tình cảnh gia đình thế nào? đến tuổi trung niên thân tâm có được an lạc không? Con cái có chăm lo cho nơi ăn chốn ở không? Bởi thế dù cho cung Tử Tức đẹp mà cung Điền Trạch quá xấu thì quan hệ với con cái kém hẳn đi. Họ cũng đưa ra thuyết khi lưu Kình Dương vào cung Điền Trạch ắt sẽ có sự đổi dời nhà cửa, hoặc nhân khẩu không yên. Các Tử Vi gia Trung Quốc nói chung cho rằng Kình Dương đóng Điền Trạch kể như xấu, hãm địa càng xấu hơn. Điền Trạch không ở mãi trong tay mình hoặc nhân khẩu hao tổn. Số nữ mệnh hay Điền có Sát, Mã thường truân chuyên.
    Vũ phùng Phá diệu ư Điền Trạch nan bảo di lai tổ nghiệp (Vũ Khúc Phá Quân đóng vào Điền Trạch không giữ được của cải cơ nghiệp của ông bà cha mẹ)
    - Phá Quân sao ấy tán tài
    Cư Điền bán hết lưu lai tổ truyền

    - Tham Riêu hãm địa cùng xâm
    Gia trung thất vận gian lâm Trạch Tài

    - Cô Thần nên giữ Điền cung
    Tang Môn Ấn Lộc của mong tổ truyền

    - Đào Hồng lại gặp Quí Ân
    Cô dì để lại có phần phong lưu

    - Cự Cơ giàu có hào hoa
    Thiên Phủ Vũ Khúc mấy tòa ngênh ngang

    - Hồng Loan ruộng đất giàu sang
    Tử Đồng Nhật Nguyệt một đàng hanh thông

    - Đồng Tham miếu vượng lâm Điền
    Ấy là tay trắng làm nên cửa nhà

    - Hao Không vườn ruộng được bao
    Tang Môn Linh Hỏa lâm vào hỏa tai

    - Tang Môn Bạch Hổ song hành
    Cửa nhà vừa đủ náu mình mà thôi


    PHÚC ĐỨC CUNG

    Phúc cung khá phức tạp cho việc luận đoán lá số, vì nó liên hệ và ảnh hưởng đến nhiều cung khác. Như câu phú sau đây:
    “ Phúc cung tọa Hợi cung, tối hỉ Âm Dương, Tử, Phủ, Thiên Đồng kiêm hữu Khúc Xương, Long Phượng, Bật, Quyền tất hiển vinh. Nhược vi Sát Phá Liêm Tham tu đắc Khoa Hình, Không Kiếp, Tràng, Tồn tất bạch thủ thành danh võ cách duy hiềm chiêu phát mộ suy”
    (Cung Phúc đóng ở Hợi rất đẹp nếu có Nhật Nguyệt đắc địa, Tử Vi Thất Sát hay Thiên Phủ lại cần Xương Khúc Long Phượng, Hữu Bật Hóa Quyền thì được hiển vinh. Nếu là Sát Phá Tham đắc địa thì cần có thêm Khoa Hình Không Kiếp, Tràng Sinh, Tồn tay trắng thành nghiệp võ nhưng không lâu bền)
    Những câu phú trên đây cho thấy cung Phúc Đức còn liên hệ trực tiếp đến công danh thân phận như Mệnh cung. Phú nôm có những câu liên quan đến Phúc Đức như dưới:
    - Tang Môn Linh Hỏa chớ màng
    Thường sinh hỏa hoạn trong hàng tộc tôn

    - Đào Hồng Hoa Cái nhập môn
    Ắt rằng có gái đẹp khôn khác người

    - Đào Thai hội hợp chớ vương
    Phúc cung có gái tìm đường gió trăng

    - Đà La Không Kiếp án ngăn
    Đẹp gì trong họ ắt rằng suy hao

    - Đà La độc thủ tốt sao
    Phúc có chánh diệu đệ bào tiệm hưng (?)

    - Nếu gặp án ngữ Triệt Tuần
    Thôi còn hy vọng ước mong được gì

    - Phúc cung gặp Tang Đào Hồng Tú
    Trong họ hàng ắt có quả phu
    Ngoài ra còn có những câu phú chủ về cung Phúc Đức cần biết sau đây:
    - Phúc cung tại Sửu cung kiến Tham Vũ diệc cần Tả Hữu Phượng Long nam hiển danh tài hưu Tam Hóa Hổ Riêu nữ tất giang hồ hiển hách danh gia (Phúc đóng cung Sửu thấy Tham Vũ có thêm Tả Hữu Phượng Long số trai tài giỏi nếu tam Hóa hội tụ cùng Bạch Hổ Thiên Riêu số gái làm đĩ nên danh)
    - Phúc cư Đoài sứ, lưỡng Tướng Hình Quyền Hổ Khốc, Sinh Mã giao lai võ cách hầu bá. Ưu kiến Kị Linh Khúc Việt tắc hữu tử thương trận địa (Cung Phúc ở Dậu có hai Tướng tọa thủ gặp Hình Quyền Bạch Hổ Thiên Khốc lại thêm Thiên Mã Trường Sinh chiếu, thường phát võ. Rất ngại thấy Hóa Kị Linh Tinh Thiên Việt đưa đến cái chết trong trận mạc)
    - Dần cung Phúc tọa tối hiềm Phá, Liêm, Dương, Đà, Hỏa, Linh lục bại dị sinh đức tổn tài suy. Nhược kiến Âm Dương, Tham Vũ, Lộc Quyền thừa đạt đinh tài, hỷ đắc vô tai. (cung Phúc ở Dần gặp Phá Quân, Liêm Trinh đứng với Đà La hay Hỏa Linh thì đức tổn, tài suy. Nếu như có Âm Dương, Tham Vũ, Hóa Lộc Hóa Quyền thì dinh tài lưỡng vượng, không gặp họa to)
    - Phúc cư Đông, Cơ Cự Đồng Lương ngoại củng, Phượng Long Lộc Hao lai tọa hoạnh phát phú cường. Giao lai Hình Ấn Quyền Khoa, Hồng diệu tư pháp chính tư quyền, âm phần hảo tụ (Phúc đóng Mão cung, Cơ Cự Đồng Lương thủ chiếu gặp Long Phượng, song Hao hoạnh phát giàu có. Nếu thấy Hình Ấn Quyền Khoa Hồng Loan thì có vai vế trong ngành luật pháp, mộ phần có ngôi phát)
    - Phúc cư quí hương nhược lai Nhật Nguyệt tu kiến Không tinh, Địa Kiếp Kình xâm nam nhân phá bại. Nhược Việt Khoa Hổ Khốc nữ nhân toại hưởng phúc tường vinh hoa phú quí (Phúc ở Sửu cung Nhật Nguyệt chiếu cần thêm Tuần Triệt mới hay nếu gặp Địa Kiếp Kình Dương thì số trai phá bại. Nếu thấy Việt, Khoa, Hổ, Khốc số gái được vinh hoa phú quí)
    - Địa Kiếp lâm Phúc Đức nhi hữu tai (Cung Phúc Đức xuất hiện sao Địa Kiếp thường bị tai nạn)

    - Phú thọ qui vinh bần ai khổ do ư phúc trạch cát hung
    - Tài Phúc nhi phùng Hao Kiếp đơn ảnh cô bần (Cung Tài hay Phúc Đức mà có hai sao Hao Kiếp thường cô đơn thanh bạch)
    - Tham Vũ đồng hành, hạnh phùng Mộ tinh tứ đại hiển vinh (Cung Phúc hay cung Mệnh có Tham Vũ đứng cùng gặp sao Mộ thì hiển vinh. Câu này nhắc tới sao Mộ, Tham Vũ đồng hành tất nhiên phải ở Sửu hay Mùi là Mộ địa, mà còn nói tới Mộ tinh, như vậy là vấn đề sao Mộ một lần nữa được đặt ra. Phải chăng chỉ những người dương nam âm nữ thì mới được hưởng sự thành công thật sự của cách Tham Vũ đồng hành?)

    PHỤ MẪU CUNG

    Cung Phụ Mẫu cần những sao thọ thủ chiếu ở miếu vượng địa thì bố mẹ sống lâu và được nhờ ân đức bố mẹ. Nếu toàn những sao cô khắc dù có ở miếu vượng địa tuy được nhờ phúc ấm nhưng vẫn kể là chưa toàn.
    Cung Phụ Mẫu thật tốt đẹp nhưng cung Tật Ách xuất hiện sao Hóa Kị thì không được hưởng của bố mẹ cho sau khi bố mẹ qua đời.
    Cung Phụ Mẫu có những sao Cự Môn hãm, Phá Quân, Hao tinh ắt phải xa cách chia ly hoặc bố mẹ không thừa nhận. Những câu phú nôm về cung Phụ Mẫu phần lớn chỉ nói về cha hay mẹ mất trước lại thường chỉ căn cứ vào hai sao chủ yếu là Thái Dương, Thái Âm. Tỉ dụ:
    Nhật Nguyệt cùng hãm phải hay
    Sinh ngày mẹ trước, đêm phần cha qui
    Nhật Nguyệt rực rỡ lâm môn
    Đẻ ngày mẹ biết đêm hồn cha ly
    Qua kinh nghiệm thấy không chính xác. Cha mẹ sinh nhiều con kẻ sanh ngày người sanh đêm nếu căn cứ vào câu phú trên để đoán một nhà đông anh em sẽ thành tình trạng hỏa mù, người anh cha mất trước, người em lại mẹ mất trước. Thật ra ai mất trước phải xem số chính người ấy mới mong trúng được.
    - Việt Khôi phụ mẫu hiển vang
    Khúc Xương Tả Hữu mọi đàng hanh thông

    - Thiên Cơ Hợi Tí Sửu cung
    Mẫu thân phụ tử ắt xung khắc nhiều
    (Câu này chỉ đúng nếu có thêm sao Hóa Kị)

    - Cơ Lương hội họp đáng yêu
    Lộc Tồn Không Kiếp lại điều phá gia

    - Bật Tướng cát diệu đồng hòa
    Mẹ cha kia vốn con nhà danh môn

    - Hỏa Linh hình khắc cô đơn
    Kình Đà cha mẹ cùng con bất đồng

    - Cự Liêm Vũ Sát Phá Tham
    Mẹ cha con cái vốn đàng ly tông

    - Thung huyên hưởng phúc ung dung
    Nhờ cung Phụ Mẫu Thiên Lương vượng hành

    - Tuần Triệt cư Phụ Mẫu xuất ngoại khả thành danh (Tuần Triệt đóng vào Phụ Mẫu ly hương xuất ngoại làm nên)
     
  18. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    NÓI VỀ VẬN HẠN

    Mệnh ví như chiếc xe, vận là con đường. Xe tốt đường xấu, vất vả. Xe xấu đường tốt cũng được thoải mái. Xe tốt đường tốt thành công. Xe tốt mà đường lúc tốt lúc xấu thăng trầm. Xe xấu đường cũng xấu luôn cuộc hành trình của đời sống chẳng ra gì.
    Đó là quan hệ khăng khít giữa mệnh với vận. Khi nói vận thì cũng cần xem cả mệnh cung. Khi nói mệnh thì cũng nên tham khảo từng vận, căn cứ vào mệnh để biết thành bại đến mức nào? Căn cứ vào vận để xem lúc nào thành, lúc nào bại, lúc nào thuận lợi, lúc nào bất thuận.
    Thành bại có nhiều phương diện: Quyền chức – Công danh – Tình duyên – Hạnh phúc – Tiền bạc, những chuyện bất ngờ xảy ra (may mắn – tai họa).
    Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư mỗi sao đầu có những câu ca cho mệnh và vận. Tỉ dụ sao Vũ Khúc vào nam mệnh như sau:
    Vũ Khúc thủ mệnh hóa vi quyền
    Cát diệu lai lâm phúc thọ toàn
    Chí khí chanh vinh đa xuất chúng
    Siêu phàm nhập thánh hướng nhân tiền.

    Đó là mặt tốt, nếu xấu thì ca rằng:
    Nhược gia hao sát lai xung phá
    Nhiệm thị tài đa tất cánh không

    Khi vào hạn mà tốt thì như sau:
    Đại tiểu hạn phùng Vũ Khúc tinh
    Nhược hoàn nhập miếu chủ tài hưng
    Tả Hữu Lộc lai tương phùng tụ
    Phúc Lộc song toàn đắc xứng tâm

    Nếu vào hạn mà xấu thì:
    Vũ Khúc chi tinh chủ quan nhân
    Công lại phùng chi hình trượng lai
    Thường thứ phùng chi hoàn phụ trái
    Quan viên trí thử hữu kinh hoài.

    Đoán số đoán vận không đơn giản như những câu ca trên. Luận đoán còn phải uyển chuyển và phức tạp hơn nhiều. Vận gồm có: Đại vận 10 năm, tiểu vận 1 năm, nguyệt vận 1 tháng, nhật vận mỗi ngày. Thông thường chỉ đoán đại tiểu vận thôi, kỹ càng mới coi đến nguyệt vận còn như nhật vận qua kinh nghiệm chỉ đúng phần nào.
    Nguyên tắc căn bản là cái hộp nhỏ bỏ vào trong cái hộp lớn, hộp lớn không bao giờ bỏ lọt vào trong hộp nhỏ. Đại vận trước đã rồi tiểu vận thứ nhì. Chẳng có ai làm việc gì mà thành công trong đầu hôm sáng mai. Việc lớn cả mười năm, việc nhỏ cũng phải phấn đấu một năm. Trừ trường hợp trúng số độc đắc, trường hợp này xem là ngoại lệ, hoặc do là một đại phúc hay một đại họa. Ở Hoa Kỳ người ta cũng viết nhiều về những người “đột nhiên giàu có” đa số bị hậu quả như một đại họa. những người được đại phúc kể là hiếm. Hễ đã được đại phúc thì người ngồi trên ngai vàng còn phải chịu nhiều thứ lo, chịu búa rìu dư luận, người ghét kẻ thù. Còn như đại phúc của người trúng số thì tọa hưởng yên bình thoải mái.
    Về vận hạn có thuyết nói: Dương nam Âm nữ gặp Nam đẩu tinh thì tốt. Âm nam Dương nữ gặp Bắc đẩu tinh mới hay. Bắc đẩu ứng tốt xấu 5 năm đầu của đại hạn, Nam đẩu ứng tốt xấu 5 năm sau của đại vận.
    Người tuổi Giáp rất kị hai sao Thương hay Sứ tại Dần. Người tuổi canh lại sợ 2 sao ấy ở Thân. Hai hạn gặp nhau ở cung Tý thấy Kình Đà Tuế và Thương hay Sứ nguy đến tính mạng. Người tuổi Thân mà 2 hạn gặp phải Thiên Thương nhiều tai họa. Người Tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi mà 2 hạn thấy Kình Đà không sợ bị họa.
    Thuyết trên đây có phần “trói voi bỏ rọ” luận đoán lá số, luận đoán những sao trong lá số không thể đánh đồng giá. Cũng như bảo rằng đại tiểu hạn có Tử Phủ Vũ Tướng Lộc, Long Phượng Tả Hữu nhất định phải phát giàu có lớn, Cơ Nguyệt Đồng Cơ Cự Tướng Ấn Khôi Việt Tả Hữu nhất định sẽ thăng quan hoặc đỗ cao. Số không luận đoán dễ dàng như vậy.
    Những người sinh cùng năm tháng ngày giờ mang số y hệt nhau, nhưng không có cuộc đời của hai người nào giống nhau như 2 giọt nước. Không lẽ có một ngày nào đó các người tuổi Thân trên khắp thế giới đều lăn cù ra chết vì sao Thiên Thương? Còn tùy thuộc nghề nghiệp khác nhau, tính cách chính trị xã hội khác nhau… Ấy là chưa kể đến sự khác nhau căn bản đó là hình tướng.
    Về vận hạn khi luận đoán ngoại trừ tham khảo Mệnh Thân, thì đại hạn là căn bản rồi đến tiểu hạn từng năm.
    Đại hạn bất lợi mà tiểu hạn tốt đẹp, sẽ cho ta một năm xứng ý toại tâm. Đại hạn đẹp mà tiểu hạn xấu, công việc đang hay bỗng có thời gian ngưng lại.
    Đại hạn tốt tiểu hạn xấu bị trì trệ nhưng không làm hại đại cuộc. Đại hạn xấu có năm tiểu hạn thật tốt thì chỉ năm ấy sáng sủa thôi, tiếp theo là bại.
    Đại hạn xấu, tiểu hạn cũng dỡ, vạn sự vô thành. Đại hạn hung tiểu hạn cũng hung không nghèo khổ cũng phá bại.
    Cuốn Tử Vi Đẩu Số của Trần Anh Hoa có một đoạn viết về hạn bất lộc và hạn chết như sau: “Nhân sinh bách niên ắt phải có lúc chết”.
    Về tử hạn, đại thể cổ nhân nhận xét như sau: “Đại tiểu hạn đều thấy Triệt Lộ Không Vong thêm hung sát tương xung đưa đến cái chết, đó là luận đoán thông thường.
    Nhưng cung Mệnh ở miếu vượng, tới tuổi già quá nhiều sao tốt ở miếu vượng như thế là thái quá, mất quân bình cũng có thể đưa đến sự chết chóc bất ngờ. Như bản mệnh hãm nhược, hành hạn lại gặp xung phá, ví như chiếc đèn khô dầu tự nhiên mà mạng vong.
    Mệnh miếu vượng với những sao tốt, mà đến hạn bị tứ sát phá, lưỡng hung tương xung lại niên vận tụ tập hung sát mà người trẻ tuổi thân thể cường tráng thường bị hung tử.
    Mệnh ở cục diện yểu triết mà gặp nhưng hạn đi với những thọ tinh, thì khi qua khỏi những vận thọ tinh ấy, gặp hung là nguy đến tính mạng. Người bình thường từ năm mười đến sáu chục tuổi vận có Thương Sứ nếu như cung vận hạn có nhiều sao miếu không bị phá thì Thương Sứ cũng chẳng gây nổi sự chết chóc.
    Có những mệnh số bị cách hung, không có nghĩa là phải chết yểu, chỉ bị hạn xấu mới đưa đến cái chết. Bởi vậy mới có những đứa bé chết trong vòng 9 tuổi có đứa ra ngoài tuổi trên cả chục năm.
    Mệnh thuộc cách cục diện thọ, vì những sao thọ hội tụ, đi vào vận hạn toàn hung sát tinh nếu như mất nghiệp hay phá bại thì không chết, như ta vẫn bảo “của đi thay người”. Của đi thay là mất cả một cơ nghiệp chức vị, danh giá chứ không phải mất cái xe, mất vài ngàn hay mất cái nhẫn chiếc đồng hồ. Sinh mệnh con người không rẻ mạt thế. Trường hợp từ trước tới nay vẫn nghèo túng nghĩa là chẳng có gì để phá bại cả thì có phúc lắm cũng ốm thập tử nhất sinh để hoặc bị cắt đi nửa bao tử, một quãng ruột hoặc bị liệt chân tay.
    Bản mệnh tầm thường, đột nhiên gặp hạn đại phát, khi ra khỏi hạn quá tốt ấy gặp luôn vận hung sát quần đảng, nếu không phá bại thì nguy đến tính mạng.
    Mệnh bình thường vận hạn cũng không lấy chi làm hay lắm, chỉ thấy niên vận đột nhiên hay tốt lạ thường, tiền bạc vào như nước ấy là tình trạng gần kề cái chết đấy cũng sẽ hốt nhiên mà lìa đời.
    Mệnh bình thường thấy hạn chết, hãy tìm coi có sao nào vượt được hung mà đến cát không, nếu có thời qua khỏi dễ dàng.
    Mệnh phú quý, hành hạn cũng xứng tâm, nhưng có một năm nào đó chính tinh miếu vượng bị xung phá dữ dội, nếu biết nhìn được quán đạt của ảo ảnh của hồng trần mà đi tu hoặc cho bớt của cải đi thì không có cái lo ngại chết chóc. Bản mệnh tốt nhưng sao chủ tinh của bản mệnh mang tính chất liều lĩnh hung hãn không cần phải trái mà gặp hạn hung sát quyết liệt dễ đưa đến bất đắc kỳ tử. Bản mệnh ở cách cục yểu triết, đến vận hạn cũng hiển hiện lên tình thế yểu triết mà bị tàn tật rồi thì vẫn sống lâu.
    Mệnh của những vĩ nhân ít nhiều quan hệ đến hưng vong an nguy của tập thể, của xã hội, của đất nước có những vận đáng lẽ chết mà không chết là tại vận nước chưa chuyển vậy.
    Mệnh vốn cô độc thế mà lục thân đầy đủ, nội ngoại thuận hòa mãn ý. Vào tuổi tráng niên mà gặp vận hung dễ chết, hoặc gia phá nhân ly

    BÀN VỀ VẬN HẠN VÀ NHỮNG SAO LƯU

    Những sao lưu gồm có: Lưu Thiên Mã, Lưu Tuần Triệt, Lưu Lộc Tồn, Lưu Kình, Lưu Đà (Những sao an theo Lộc Tồn). Tử Vi khoa ở Trung Quốc còn có lưu tứ Hóa nữa. Khi luận đoán thấy lưu thêm cả tứ Hóa thấy hợp lý.
    Bởi vậy mới đặt ra nguyên tắc bốn Lộc, ba Quyền, ba Khoa, ba Kị. Bốn Lộc là vì đại hạn có Lộc, cung tiểu hạn có Lộc nữa rồi lưu niên Lộc Tồn, lưu niên Hóa Lộc. Hai Lộc tốt nhất, ba Lộc thì Lộc nặng quá mà thành phiền, đến như bốn Lộc tất đưa đến tình trạng “Lạc cực sinh bi”.
    Một Quyền hanh thông, hai Quyền ra tranh chấp, ba Quyền thành hung hiểm bất lợi. Một Khoa thêm Khoa nữa hiển vinh, đến ba Khoa lại thành bị tiếng xấu. Một Kị đã lắm chuyện, hai Kị nhiều xung đột, ba Kị như bốn phía thọ địch,nhưng ba Kị mà gặp các sao tốt khác hợp thời thì lại chuyển sang bỉ lực thái lai cùng biến mà thông.
    Ngoài ra, các Tử Vi gia Trung Quốc còn chú trọng đến lưu Khôi Việt, Lưu Xương Khúc, Lưu Hồng Loan, Thiên Hỉ, Lưu Đào Hoa. Lưu Đào-Hồng-Hỉ, Lưu Khôi Việt những sao đại biểu cho một tình trạng cảnh huống kể là có lý nhưng lưu Xương Khúc là những sao đại biểu cho tâm chất và khả năng, thấy không thuận.

    TỬ VI KHÔNG PHẢI LÀ RIPLEY BELIEVE IT OR NOT

    Toán mệnh, số tướng hoàn toàn đặt trên căn bản của cuộc sống xã hội nhân văn, đời sống của mọi người trong thực tế. Không phải cái gì huyền bí hình nhị thượng.
    Xem số tướng để tìm cho mình một nhận định cho mình về giàu hay nghèo, hạnh phúc hay oan khiên, nhàn thân hay khổ cực, sống thế nào, chết ra sao…?
    Ripley Believe It Or Not là một sưu tập rất nổi danh của ông Ripley chuyên đi tìm những chuyện khác lạ kỳ quái hiếm thấy, như người nhỏ bé chỉ bằng ngón tay, người sanh ra không tay không chân, nằm như một củ khoai, kẻ có cái dạ dày lạ ăn một bữa ngang bằng hai chục người nhưng sau đó có thể nhịn cả tháng.
    Tử Vi có thể nhìn ra được Beethoven là một thiên tài nghệ thuật nhưng không thể đoán trước là bệnh điếc của ông càng nặng thì những bài nhạc càng tuyệt vời. Đời sống thường ngày của ông là đập phá, chửi rủa chẳng ai dám gần, nhưng càng như thế, những bản giao hưỡng hay hợp tấu càng khiến người nghe khâm phục sững sờ.
    Vậy thì xem Tử Vi, toán mệnh là đưa ta về với cuộc sống hàng ngày kể cả quá khứ lẫn tương lai. Tử Vi không phải là RIPLEY BELIEVE IT OR NOT.
    Mấy thập niên đầu thế kỷ thứ 19, tại Châu Phi có bộ lạc Zulu nổi lên Chaka là vị vua trẻ của bộ lạc này. Ông ta khá giỏi về quân sự. Người đầu tiên đã lãnh đạo một cuộc địa chiến dùng tới 10 ngàn quân để chống lại người da trắng. Đã từng đánh bại quân Anh trong một trận mà người Anh phải ghi vào lịch sử của họ.
    Chaka không bao giờ kết hôn, vì sợ một ngày nào đó đứa con mình sẽ làm phản cướp ngôi. Tất cả những người đàn bà nào đã có thai với Chaka đều bị đem hành hình cả mẹ lẫn con.
    Nhưng tới một ngày Chaka nằm trên giường bệnh với sự coi sóc của bà mẹ ông đã bị các anh em ruột thịt đâm chết. Kể từ đấy bộ lạc Zulu tiêu tan cùng với nguyện vọng của Chaka là thống nhất toàn thể Châu Phi.
    Chaka đã không thoát khỏi định luật của số mệnh: Ngươi muốn đi tới đâu cũng được nhưng rồi ngươi sẽ phải chết vào một thời điểm ở một nơi nào đó
     
  19. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    PHẦN PHỤ NẠP ÂM
    NẠP ÂM LÀ GÌ?

    Tuổi Giáp Tí nếu tách rời can chi ra thì Giáp là dương mộc, Tí là dương thủy. Tuổi Ất Sửu tách rời can chi ra thì Ất là âm mộc, Sửu là thấp thổ thuộc âm. Gộp hai tuổi lại Giáp Tí, Ất Sửu nạp âm thành Hải Trung Kim. Vậy Hải Trung Kim là cái tên nạp âm cho hai tuổi Giáp Tí, Ất Sửu.
    Một vòng từ Giáp Tí đến Quí Hợi có sáu chục năm. Mỗi mười năm lại có một chữ Giáp đứng đầu: a) Giáp Tí b) Giáp Tuất c) Giáp Thân d) Giáp Ngọ e) Giáp Thìn f) Giáp Dần gọi bằng lục thập hoa giáp chia làm ba mươi tổ kim mộc thủy hỏa thổ, mỗi hai năm một tổ. Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ qua nạp âm để định từng tính chất khác nhau giữa Kim với Kim, Mộc với Mộc. Như bảng dưới đây:
    Giáp Tí - Ất Sửu Hải Trung Kim
    Bính Dần – Đinh Mão Lư Trung Hỏa
    Mậu Thìn - Kỷ Tỵ Đại Lâm Mộc
    Canh Ngọ - Tân Mùi Lộ Bàng Thổ
    Nhâm Thân – Quí Dậu Kiếm Phong Kim
    Giáp Tuất - Ất Hợi Sơn Đầu Hỏa
    Bính Tí – Đinh Sửu Giản Hạ Thủy
    Mậu Dần - Kỷ Mão Thành Đầu Thổ
    Canh Thìn – Tân Tỵ Bạch Lạp Kim
    Nhâm Ngọ - Quí Mùi Dương Liễu Mộc
    Giáp Thân - Ất Dậu Tỉnh Tuyền Thủy
    Bính Tuất – Đinh Hợi Ốc Thượng Thổ
    Mậu Tí - Kỷ Sửu Tích Lịch Hỏa
    Canh Dần – Tân Mão Tùng Bách Mộc
    Nhâm Thìn – Quí Tỵ Trường Lưu Thủy
    Giáp Ngọ - Ất Mùi Sa Trung Kim
    Bính Thân – Đinh Dậu Sơn Hạ Hỏa
    Mậu Tuất - Kỷ Hợi Bình Địa Mộc
    Canh Tí – Tân Sửu Bích Thượng Thổ
    Nhâm Dần – Quí Mão Kim Bá Kim
    Giáp Thìn - Ất Tỵ Phú Đăng Hỏa
    Bính Ngọ - Đinh Mùi Thiên Hà Thủy
    Mậu Thân - Kỷ Dậu Đại Dịch Thổ
    Canh Tuất – Tân Hợi Thoa Xuyến Kim
    Nhâm Tí – Quí Sửu Tang Đố Mộc
    Giáp Dần - Ất Mão Đại Khê Thủy
    Bính Thìn – Đinh Tỵ Sa Trung Thổ
    Mậu Ngọ - Kỷ Mùi Thiên Thượng Hỏa
    Canh Thân – Tân Mậu Thạch Lựu Mộc
    Nhâm Tuất – Quí Hợi Đại Hải Thủy
    Rồi trong mỗi tổ hai năm lại phân ra khí thế mạnh yếu giữa hai năm ấy. Xin đọc một đoạn dưới đây trích từ sách “Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển”
    “…Ngày xưa vua Hoàng Đế lấy Giáp Tí phân tích nặng nhẹ để phối hợp nên sáu mươi gọi bằng Hoa Giáp Tí. Chữ Hoa ở đây mang hàm nghĩa ảo diệu chỉ lấy ý mà dụ, không chấp nệ với nghĩa đen của nó. Từ Tí đến Hợi mười hai cung đều có Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Khởi đầu là Tí nhất Dương đến Hợi lục Âm. Ngũ hành sở thuộc Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ ở trên trời là ngũ tinh, ở dưới đất là ngũ nhạc, ở đức độ là ngũ thường, ở nhân thân con người là ngũ tạng, ở mệnh là ngũ hàng. Bởi vậy Giáp Tí đem ứng dụng vào số mệnh. Mệnh là những sự việc của một con người.
    Như Tí Sửu âm dương ví như lúc còn nuôi nấng trong bào thai, vật mới phôi thai thân gốc ẩn tàng. Dần Mão âm dương bắt đầu nảy nở, hình thành và lớn lên. Thìn Tỵ âm dương khí thịnh, vật thành đẹp đẽ ví như tuổi tráng niên tìm đất lập thân, tiến thủ. Ngọ Mùi âm dương tất cả đã hiện như con người vào tuổi năm sáu mươi, giàu nghèo sang hèn đã thấy cả, sự hưng suy tỏ lộ. Thân Dậu âm dương giai đoạn tiêu sắt thâu liễm, chuyển sang già nua. Đến Tuất Hợi âm dương đó là thời kỳ bế tắc, vật khí trở về gốc, để nghỉ ngơi để đi về cát bụi”
    Trong quá trình kể trên, cuộc đời hoa dạng phong phú được miêu tả bởi những ảnh hưởng của nạp âm kết hợp với các sao trong mệnh cung.

    NẠP ÂM VÀ LÁ SỐ TỬ VI

    Cách năm mấy chục năm khi viết cuốn Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư (bình chú), phần nạp âm tôi cho rằng liên quan đến Khoa Tử Bình nhiều hơn. Nhưng sau khi được học hỏi nghiên cứu thêm, và hiểu được ảnh hưởng của nạp âm với lá số Tử Vi như thế nào?
    Căn cứ vào một số sách vở của Trung Quốc thì nạp âm ảnh hưởng vào tính số bằng cách lấy ngay nạp âm của năm sinh để phối hợp tính với Mệnh cung. Tỉ dụ Mệnh cung có những sao hay cách cục nói lên con người hung bạo mà nạp âm cũng hung bạo thì tính hung bạo của người ấy tăng gấp bội. Nếu các sao Mệnh cung hay cách cục là con người nhu hoà mà nạp âm cũng nhu hòa thì tính nhu hòa thành nhu nhược.

    Ý NGHĨA CỦA MỖI NẠP ÂM

    Mỗi hành có sáu tượng, như Kim gồm có: Hải Trung Kim, Kim Bá Kim, Bạch Lạp Kim, Sa Trung Kim, Kiếm Phong Kim, và Thoa Xuyến Kim bằng một tên gọi khác là nạp âm.

    KIM

    HẢI TRUNG KIM
    “Bác Vật Vựng Biên” viết rằng: Giáp Tí Ất Sửu thì Tí thuộc thủy, nơi hồ ao thủy vượng. Trong khi Kim “tử” ở Tí, mộ ở Sửu chỗ thủy vượng, kim vào thế “tử mộ” nên mới gọi bằng Hải Trung Kim ví như kim trong lòng biển, khí thế bị bao tàng, có danh mà vô hình, có tiếng gọi mà không có thực, an tàng trong lòng biển như thai nhi nằm trong bụng mẹ.
    Tính chất của Hải Trung Kim là:
    a. Có thể biết được tâm tưởng mà không hiểu rõ được tâm cơ, lòng người như biển khôn dò, nếu cung Mệnh có những sao thủ đoạn điên đảo mà lại ở nạp âm Hải Trung Kim nữa thì quyền thuật kể vào bậc cự phách
    b. Khả năng tốt nhưng thiếu sức xông xáo, tranh cướp phải nhờ người đề bạt mới thi triển được, nếu cung bản mệnh thấy nhiều sao do dự nhút nhát mà mệnh lại rơi vào nạp âm Hải Trung Kim thì càng do dự nhút nhát hơn. Số nữ Hải Trung Kim đối với tình yêu ít bộc lộ, gói kín trong lòng.
    Trước nghịch cảnh, vào phấn đấu Giáp Tí mạnh hơn Ất Sửu, Ất Sửu dễ có khuynh hướng hư nhược.

    KIM BÁ KIM
    Nhâm Dần Ất Mão thì Dần Mão là đất vượng của Mộc, Mộc vượng nên Kim suy, Kim Tuyệt ở Dần, Thai ở Mão, Kim vô lực mới gọi bằng Kim Bá Kim. Mộc vượng Kim suy nên sức yếu, mỏng manh nhợt nhòa, chữ bá nghĩa là yếu đuối, không sung thực.
    Cổ thư viết: “Nhâm Dần Quí Mão là chất kim còn lại ở đất tuyệt cho nên khí chất nhu nhược, mỏng như tơ lụa”. Kim Bá Kim chất kim dùng để trang trí trang sức. Nếu được tay được khéo giỏi chạm khắc thì mới hay đẹp.
    Người có số mạng nạp âm Kim Bá Kim cần mài dũa học hành mới mong thành tựu, phải tìm được thầy mới nên cơ đồ. Bởi vậy Kim Bá Kim cần Xương Khúc Hóa Khoa ở Mệnh.
    Nhâm Dần thì Dần Mộc bị kim khắc nên thế nhược, tinh thần tuy vượng thịnh nhưng là thứ vượng thịnh của dây cung quá căng bởi vậy khi ứng phó với hung vận không lì bằng Quí Mão.
    Quí Mão cũng như Nhâm Dần Mộc bị Kim khắc, nhưng âm Mộc sức khắc chế chỉ có hạn trong khi chủ kiến tự mình lại mạnh, nên chống với hung vận đắc lực hơn.

    BẠCH LẠP KIM
    Sách Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển viết:
    “Chất Kim của Canh Thìn và Tân Tỵ, dưỡng ở Thìn, sinh ở Tỵ hình chất mới thành, chưa cứng cáp nên gọi bằng Bạch Lạp Kim”
    Bạch LạpKim ví như chất ngọc chưa mài giũa. Tinh thần sảng trực tinh khiết mà thiếu tâm cơ. Người mang số Bạch Lạp Kim có hai con đường để lập thân:
    a. Học ngành chuyên môn, tập trung vào ngành ấy mà nên công
    b. Bươn trải kinh lịch cho thật nhiều như ngọc được mài giũa tinh luyện cuối cùng khi gặp vận để mà hành xử
    Dù Mệnh có những sao tốt mà vận không bươn trải, hoặc không chuyên nghiệp thì sự nghiệp chẳng có bao nhiêu. Canh Thìn thì Thìn là thổ chất khả dĩ sinh kim, trong khi Tân Tỵ thì Tỵ là hỏa làm tan chất kim. Canh Thìn sảng trực tâm ý trung kiên hơn, Tân Tỵ mưu chước lươn lẹo.

    SA TRUNG KIM
    Giáp Ngọ, Ất Mùi thì Ngọ là chỗ hỏa vượng, hoả vượng thì kim bại; Mùi là chỗ hỏa suy, hỏa tuy suy nhưng kim cũng đã cùn nhược. Gọi bằng Sa Trung Kim, Kim không đủ cứng cáp để chém, để đẩy cho nên người Sa Trung Kim thường làm việc một cách đầu voi đuôi chuột. Mệnh cung mà thêm sao Thiên Đồng hãm nữa thì càng vớ vẩn.
    Sa Trung Kim cần liên tục theo đuổi mục đích nào đó, nói khác đi là ngoan cố đeo đẳng mới đạt tới được. Giáp Ngọ thì Ngọ hỏa khắc kim tước giảm khí thế, trong khi Ất Mùi thì Mùi thổ sinh kim. Ất Mùi đương đầu với gian nan uyển chuyển hơn Giáp Ngọ.

    KIẾM PHONG KIM
    Bác Vật Vựng Biên chép rằng: Nhâm Thân Quí Dậu thì Dậu là chính vị của Kim vị trí của Lâm Quan và Đế Vượng, nên Kim già cứng cương mãnh ví như mũi nhọn của lưỡi gươm nên gọi bằng Kiếm Phong Kim. Nhâm Thân Quí Dậu khí thế cực thịnh.
    Người Kiếm Phong Kim tự hiển tài năng mình, hành động tư tưởng sắc bén. Hồng quang tỏa chiếu tới sao Đẩu sao Ngưu, ánh sáng rõ ràng như sương tuyết. Có ý chí cao lớn, tâm tính tàn khốc cương nghị và tinh nhuệ.
    Những sao tốt hội vào Mệnh thuộc nạp âm Kiếm Phong Kim càng tốt hơn nhất là những số thuộc binh nghiệp hay chính trị. Ngược lại Mệnh cung nhiều sao xấu gây hung họa thì Kiếm Phong Kim càng tạo hung họa, trên tính tình tư tưởng là người khó mà lay chuyển.
    Nhâm Thân, Quí Dậu cả hai chi đều thuộc Kim nên đều cương cường đối phó với hung vận bằng khả năng phấn đấu hay chịu đựng ngang nhau.
    THOA XUYẾN KIM
    Cổ thư viết: “Kim của Canh Tuất, Tân Hợi đến Tuất thì Suy, qua Hợi thành Bệnh. Kim mà ở vào cái thế Suy Bệnh tất nhiên nhuyễn nhược nên gọi Thoa Xuyến Kim. Thoa là cái trâm cho phụ nữ gài đầu. Xuyến là cái vòng đeo ở cổ tay con gái. Thành đồ dùng của phụ nhân, tính cương mãnh của Kim bị nhuyễn nhược. Bởi vậy Kim của Tuất Hợi trở nên ẩn tàng, hình thể vỡ vụn. Khi vào chiếc hộp chốn phòng khuê, công dụng của Kim chấm dứt nên gọi bằng Thoa Xuyến Kim.
    Người Thoa Xuyến Kim nếu số mà có Nhật Nguyệt Xương Khúc, Đào Hoa, Lương, Khoa thường đẹp đẽ bội phần bất cứ trai hay gái. Người Thoa Xuyến Kim mà Mệnh sinh âm trầm càng âm trầm hơn, có tài thường dấu kín trong lòng. Người Thoa Xuyến Kim mà Mệnh ưa khoe khoang nhiều thì lòng ham muốn hư vinh càng nặng.
    Cái số hay nhất với Thoa Xuyến Kim là sống cậy vào nữ phái. Có vợ giàu, thường giao thiệp với đàn bà con gái (buôn bán nữ trang, quần áo vẽ kiểu thời trang). Số làm chính trị mà Thoa Xuyến Kim thường chỉ là đồ trang sức cho chính trị.

    THỦY
    Hành thủy có sáu nạp âm: Giản Hạ Thủy, Đại Khê Thủy, Thiên Hà Thủy, Tỉnh Tuyền Thủy, Đại Hải Thủy.

    GIẢN HẠ THỦY
    Bác Vật Vựng Biên ghi rằng: Thủy của Bính Tí, Đinh Sửu thì vượng ở Tí, suy ở Sửu. Vượng rồi Suy ngay tất nhiên không thể thành sông ngòi, cho nên gọi bằng Giàn Hạ Thủy
    Giản Hạ Thủy là dòng nước lạch suối, không rõ nguồn gốc và cũng không có hướng nhất định để chảy đi, lòng lạch lòng suối lúc nông lúc sâu.
    Cồ nhân có câu: “Dục tấn dục thoái sơn khê thủy, Dục phản dục phúc tiểu nhân tâm” Nghĩa là lúc tiến lúc lui như nước lạch, lúc phản phúc lúc lật như lòng tiểu nhân.
    Số ai có Phục Binh hay Phá Quân Địa Kiếp hoặc Tử Phá hoặc Linh Hỏa hãm địa mà thêm nạp âm Giản Hạ Thủy nữa thì cái lòng phản phúc lật lọng càng ghê gớm. Đứng ngôi chủ như vậy bộ hạ hãy lo giữ đầu, đứng vai thần tử mà như vậy kẻ đứng chủ chỉ việc chờ ngày bị phản.
    Tâm chất thâm hiểm, tình ý nhỏ nhen nhưng rất thực tế và sắc bén. Trường hợp số bình thường ắt nhu nhược bất quyết mà thêm Giản Hạ Thủy nạp âm nữa thì hoàn toàn vô tích sự, lúng túng, hoảng loạn trước công việc.
    Giữa Bính Tí và Đinh Sửu thì Bính Tí nguy hiểm hơn Đinh Sửu thổ khắc thủy khiến cho nhuệ khí bị tước giảm

    ĐẠI KHÊ THỦY
    Cổ thư biên: “Giáp Dần Ất Mão thì Dần là ranh giới Đông Bắc, Mão là chính đi về một hướng nên gọi bằng Đại Khê Thủy”
    Đại Khê là dòng suối lớn, thác nước tung hoành trong rừng núi khác hẳn Giản Hạ Thủy là lạch nhỏ suối con. Bởi thế Đại Khê Thủy thủy khí lượng lớn, biến hóa đến mức gây sợ hãi, tuy không ngấm ngầm nhưng tâm cơ sâu rộng lan tràn ngập lụt.
    Tuy nhiên lại không được xem như sông ngòi. Thác lũ khi gặp lòng sâu, hoặc hang hốc cũng chảy thành dòng, lấp đầy thành vũng. Bởi thế đôi khi bụng dạ hẹp hòi và tư tâm.
    Người nạp âm Đại Khê Thủy nếu là một chiến lược gia tất có cái nhìn rộng rãi bao quát. Nếu Mệnh kém mà nạp âm Đại Khê Thủy lại trở nên con người mơ mộng ước vọng, hoài bão to tát mà thiếu khả năng hành động, vô dụng.
    Giáp Dần Ất Mão hai chi đều thuộc Mộc, đều vững mạnh trước hung vận, nhưng Ất Mão ý nhị hơn, mềm dẻo hơn vì cả Ất lẫn Mão đều là âm mộc.



    TRƯỜNG LƯU THỦY
    Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điền chép: “Nhâm Thìn Quí Tỵ, Thìn là thủy khố mà Tỵ là Trường Sinh của kim, kim sinh thủy vượng. Đã vượng mà còn chứa vào kho nước không bao giờ hết nên gọi bằng Trường Lưu Thủy.
    Trường mang nghĩa vĩnh cửu, Lưu mang nghĩa chuyển động không ngừng, cuồn cuộn vô cùng, thao thao bất tuyệt. Tham vọng to tát nhưng tư tâm không nhiều. Nếu như số là con người giỏi giang có thể giao việc mà không sợ phản bội.
    Trường Lưu Thủy có một khuyết điểm: chỉ chú trọng đại cuộc mà quên mất tiểu tiết, đôi khi do sơ sót mà hỏng việc. Mệnh xấu nạp âm Trường Lưu Thủy là người không có cơ sự nghiệp nhưng biết lo xa cũng ấm thân.
    Nhâm Thìn Quí Tỵ Thìn thuộc thổ khắc thủy, Tỵ thuộc hỏa bị thủy khắc, đứng trước khó khăn của hung vận Nhâm Thìn vững vàng hơn Quí Tỵ.

    THIÊN HÀ THỦY
    Cổ thư chép: “Bính Ngọ Đinh Mùi, Bính Đinh Hỏa, Ngọ nơi chốn Hỏa vượng mà nạp âm lại là thủy từ hỏa xuất thì phải từ trên trời xuống nên gọi bằng Thiên Hà Thủy.
    Bính Ngọ Đinh Mùi đều là chỗ hỏa vượng mà sinh ra thuỷ, thủy từ hỏa xuất thì chỉ có từ trên trời xuống. Thiên Hà Thủy đổ xuống khắp mọi nơi trên trái đất đó là mưa. Vạn vật đều nhờ mưa mà tươi tốt màu mỡ. Tình yêu thương chan hoà. Nhưng mưa có mưa nhỏ mưa to, mưa xuân mưa hạ, mưa giông mưa bão. Không phải mưa nào cũng hữu ích cho bàn dân thiên hạ. Cần mưa nhỏ mà lại mưa lớn, cần mưa lớn mà chỉ lâm râm, mưa như thế kể bằng vô ích.
    Người có Mệnh hợp với Thiên Hà Thủy cần phải thêm trí tuệ mới hay. Thiên Hà Thủy làm việc xã hội, làm việc tôn giáo hợp cách.
    Đứng ngôi chủ vào thời bình mà không nắm quyền sinh sát, dân gian được nhờ. Mệnh nhiều sát tinh, hung tinh mà Thiên Hà Thủy thành ra mâu thuẩn khó thành công trên kinh doanh hay chính trị quân sự.
    Bính Ngọ can chi hỏa đều bị thủy khắc, Đinh Mùi thì chỉ Mùi thuộc thổ khắc thủy nên ứng phó với hung vận linh hoạt hơn Bính Ngọ.

    TỈNH TUYỀN THỦY
    Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển chép: “Giáp Thân Ất Dậu thì Thân là Lâm Quan, Dậu là Đế Vượng. Kim vượng tất nhiên thủy cũng nhờ thế mà sinh tuy nhiên thủy ở tình trạng này chưa hùng dũng lớn mạnh cho nên gọi bằng Tỉnh Tuyền Thủy.
    Tỉnh Tuyền Thủy (nước giếng) không có gốc nguồn rõ rệt. Ở dưới sâu khơi lên từ lòng đất nên tư tưởng thâm thúy, hành động ẩn mật. Giếng tốt, nước lấy chẳng bao giờ cạn, bởi vậy đức vọng của người Tỉnh Tuyền Thủy vô cùng.
    Người xưa giảng rằng: “Nước giếng từ suối lạnh nên trong và lạnh, lấy mãi không hết, mọi người đều uống, trăm nhà dùng nước giếng mà sống”. Trong là tinh khiết hay liêm khiết, lạnh là thiếu nhiệt tâm đối với người.
    Tỉnh Tuyền Thủy không bao giờ tự phát, phải dựa vào thời thế, dựa vào thời cơ đi theo thôi mà không mở đầu. Người có nạp âm Tỉnh Tuyền Thủy theo ngành tình báo gián điệp hợp cách nếu như mệnh cung có những sao hợp với Tỉnh Tuyền Thủy.
    Giáp Thân Ất Dậu đều là Tỉnh Tuyền Thủy. Thân Dậu cả hai đều thuộc kim, kim sinh thủy bản thân mất nguyên khí, sau tuổi trung niên sức phấn đấu suy vi.

    ĐẠI HẢI THỦY
    Cổ thư chép: “Nhâm Tuất Quí Hợi thủy, Quan Đới ở Tuất, Lâm Quan tại Hợi lực lượng hùng hậu. Hợi ví như dòng sông lớn nên gọi bằng Đại Hải Thủy.
    Nước của Đại Hải Thủy diện tích quảng khoát, thế tượng bao la, xung kích lực mạnh, làm thiện hay làm ác đều dữ dội. Hoặc là gian hùng của thời đại, hoặc là anh hùng cái thế.

    Người xưa giảng rằng: “Nước Đại Hải Thủy thâu gồm trăm sông chảy miên man về biển cả, bao quát tính thăng trầm của đất trời, thâu tóm ánh sáng của nhật nguyệt. Nguồn của Đại Hải Thủy có trong có đục. Nhâm Tuất chứa thổ khí nên đục, Quí Hợi toàn thủy nên trong. Nếu mệnh đáng bậc chính nhân thì khi ở ngôi vị thường bao dung đại lượng ưa làm điều thiện không ưa điều ác, ngược lại mệnh tầm thường hạ tiện sẽ thành con người lấy oán mà trả ân, tâm địa hẹp hòi như hai dòng nước trong đục vậy.
    Nhâm Thủy Quí Hợi đều là Đại Hải Thủy, có điều Tuất thổ khiến cho Đại Hải Thủy chảy thành dòng như lòng sông, đầu óc sáng suốt cử chỉ minh bạch thiện ác phân minh.
    Quí Thủy là chính vị, thủy vượng cực chảy tràn lan không bờ bến nên tâm chất khó hiểu, muốn đề phòng cũng khó mà đề phòng nổi, thiện ác không rõ rệt. Quí Hợi mà có những sao ở Mệnh mang khuynh hướng làm chính trị sẽ là người ứng phó với những biến động lớn rất giỏi, lúc lâm nguy thì quyền biến.

    MỘC
    Hành Mộc có sáu nạp âm chia thành: Tang Đố Mộc, Tùng Bách Mộc, Đại Lâm Mộc, Dương Liễu Mộc, Thạch Lựu Mộc, Bình Địa Mộc.

    TANG ĐỐ MỘC
    Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Nhâm Tí, Quí Sửu thì Tí thuộc thủy, Sửu thuộc kim. Thủy vừa sinh mộc, kim đã phạt mộc như hình tượng của cây dâu vừa trổ lá non đã bị hái xuống mà nuôi tằm.
    Lá dâu tằm ăn, thân dâu làm cung dùng vào nhiều việc. Từ chiếc lá đến cành đến thân đều bị sử dụng cho nên Tang Đố Mộc hoàn toàn bị động, tâm tình rộng rãi, nhưng cái rộng rãi do người điều khiển. . Khi có tiền, lúc thành công thường bị đẩy vào tình trạng giúp người này đỡ kẻ nọ từ anh em đến họ hàng bè bạn.
    Người Tang Đố Mộc không thể ở ngôi vị lãnh đạo. Mệnh tốt mà cho điều khiển công việc xã hội hợp cách. Quí Sửu so với Nhâm Tí bản thân bị tước giảm nguyên khí nên gặp hung vận kém khả năng ứng phó.

    TÙNG BÁCH MỘC
    Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Canh Dần, Tân Mão mộc, lâm quan tại Dần, đế vượng tại mão, mộc đến hồi cực thịnh nên gọi bằng Tùng Bách Mộc.
    Tùng Bách Mộc trong sương tuyết mà vẫn cứng cỏi vươn lên xanh tươi, vừa kiên nhẫn chịu đựng vừa đầy ắp nghị lực chống với khí hậu ác liệt. Kiên định, dù thử thách nào cũng không bị bẽ gãy. Ý chí luôn luôn muốn vượt thiên hạ và kỷ luật ngay cả đối với bản thân.
    Mệnh tốt, người Tùng Bách Mộc sẽ thành công khác người trên bất cứ lĩnh vực nào. Mệnh xấu luôn luôn thành kẻ bất đắc chí. Tân Mão nhẫn nại hơn Canh Dần, Canh Dần cương nghị hơn Tân Mão.

    ĐẠI LÂM MỘC
    Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Mậu Thìn Kỷ Tỵ, Thìn là giải bình nguyên rộng lớn, Tỵ là ánh thái dương chói chang tạo thành cây cối phồn vinh như rừng nên gọi bằng Đại Lâm Mộc. Cây trong rừng um tùm, rậm rạp khắp nơi một màu xanh nên tâm chất không mưu cầu đột xuất.
    Trí tuệ minh mẫn với sự ngả theo thời thế, làm chức thừa hành tốt, vào cương vị chỉ huy không hay. Khả năng cũng như khuynh hướng không có màu sắc riêng của mình
    Số Mậu Thìn với Kỷ Tỵ, thì Mậu Thìn đều thuộc thổ, mộc khắc thổ làm nhược khí thế, trong khi Kỷ Tỵ thì Tỵ hỏa. Bởi vậy Kỷ Tỵ trong cuộc phấn đấu chống với hung vận dễ dàng hơn Mậu Thìn.




    DƯƠNG LIỄU MỘC
    Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Nhâm Ngọ Quí Mùi, mộc tử ở Ngọ, mộ ở Mùi. Mộc vào đất tử mộ dù được Nhâm Quí thủy sinh cũng vẫn yếu nhược nên gọi bằng Dương Liễu Mộc. Cành liễu mảnh mai, lá liễu buông rũ, thứ mộc không có cốt khí. Hình chất thì vậy nhưng tâm sự lại rất thấu đáo, tình cảm phức tạp đa đoan.
    Dương Liễu Mộc thuộc âm nên tính tình kín đáo, chỉ thiếu căn bản suy tư luôn luôn theo gió mà ngả nghiêng. Bén nhậy với thực tế, tâm không mấy chính trực. Dương Liễu Mộc khó là một người tâm phúc trung thành.
    Nhâm Ngọ vì Ngọ là hỏa, mộc sinh hỏa cho nên mệnh vượng cứng rắn hơn Quí Mùi thổ bị mộc khắc

    THẠCH LỰU MỘC
    Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Canh Thân Tân Dậu, Thân là tháng bảy, Dậu là tháng tám, thời gian này mộc suy yếu cơ hồ tuyệt diệt chỉ có cây lựu kết trái cho nên gọi bằng Thạch Lựu Mộc.
    Kim khắc Mộc, Kim như đao búa, thạch lựu mộc cứng cáp, đao búa không thể đốn ngã. Canh Thân Tân Dậu cả chi can đều thuộc kim thế mà nạp âm thành mộc, lấy cái lẽ tương khắc chống chọi mà thủ tượng vậy. Hình mộc mà chất đá nên gọi thạch lựu. Mệnh mang những sao trung kiên là một trung thành ánh ánh, là một người bạn khả dĩ tin cậy.
    Mệnh mang những sao gan dạ nên con người can trường dám làm dám chịu. Mệnh hiện những sao thiếu trí tuệ thành ra con người ngoan cố khó mà cảm hóa.
    Canh Thân Tân Dậu, mộc hoàn toàn bị kim chế ngự nên ít có khả năng bén nhạy với biến động. Người Thạch Lựu Mộc vào nghiên cứu là hợp cách vì ít thay đổi chí hướng.

    BÌNH ĐỊA MỘC
    Sách Bác Vật Vựng Biên biên chép: “Mậu Tuất Kỷ Hợi thì Tuất là cánh đồng, Hợi là nơi cây cỏ sinh được. Tuất Hợi lúc mộc khí qui căn, âm dương bế tắc như mùa đông cành lá trơ trụi mà gốc rễ ẩn tàng để nảy nở.
    Người Bình Địa Mộc mà mệnh tài cán thì cái tài thường ẩn không hiện, nếu được dùng ví như cơn mưa thuận gió hòa, ở thời loạn ví như bị sương tuyết dập vùi hoài tài bất ngộ. Bình Địa Mộc cần gặp quí nhân cần người biết dùng, được sử dụng đúng sẽ làm việc đắc lực. Bình Địa Mộc trông vẻ ngoài không bề thế lẫm liệt nhưng bên trong chứa chất tài năng đáng nể. Bình Địa Mộc mà mệnh bình thường sẽ mãi mãi bình thường dù được vận hay.
    Mậu Tuất toàn thổ, thổ bị mộc khắc, Kỷ Hợi, Hợi sinh mộc bởi thế Kỷ Hợi làm việc mẫn cán hơn Mậu Tuất.

    HỎA
    Hành Hỏa có sáu nạp âm chia như sau: Tích Lịch Hỏa, Lô Trung Hỏa, Phú Đăng Hỏa, Thiên Thượng Hỏa, Sơn Hà Hỏa, Sơn Đầu Hỏa.

    TÍCH LỊCH HỎA
    Sách Bác Vật Vựng Biên chép: “Mậu Tý, Kỷ Sửu, Sửu thuộc Thổ, Tý thuộc Thủy, Thủy ở chính vị mà nạp âm lại là Hỏa, nếu không phải thần long tất nhiên Thủy không biến ra Hỏa được, cho nên gọi bằng Tích Lịch Hỏa như tia lửa từ sấm chớp tức Thủy trung chi Hỏa”.
    Tích Lịch Hỏa lẫm liệt như tiếng sấm vang, nhanh tựa tia điện. Người Tích Lịch Hỏa mệnh nhiều sao tốt sự nghiệp cơ nghiệp thành công hơn người, thích làm việc to tát, càng loạn lạc càng xáo trộn khả năng càng phát triển.
    Người Tích Lịch Hỏa mà mệnh cung tầm thường chuộng hư danh thích nổi trôi dễ bị xúi giục làm những việc xuẩn ngốc như kiểu ôm bom ba càng nằm chắn xe tăng.
    Người Tích Lịch Hỏa ưa vào cờ bạc thường bị bịp làm những chuyện bất ngờ, tâm ý nhiệt thành không giảo quyệt, luôn luôn ngăn nắp và kỷ luật.

    LÔ TRUNG HỎA
    Sách Bác Vật Vựng Biên chép: “Bính Dần, Đinh Mão, Dần là Tam dương, Mão là Tứ dương, Hỏa được đất lại có Dần Mão Mộc trợ lực, trời đất lúc ấy như lò lửa và vạn vật nảy sinh, nên gọi bằng Lô Trung Hỏa”.

    Bính Dần Đinh Mão, khí thế phát huy nhờ chất đốt mà hiển minh, âm dương còn lẫn, thiên địa chung một lò lửa. Lửa dung hóa tất cả từ âm dương đến sáng tối cả trời lẫn đất nói chung là vạn vật trong vũ trụ. Dùng Hỏa để cải tạo vạn vật.
    Có câu: “Lô Trung Hỏa giả, thiên địa vi lô, âm dương vi thán, quang huy ưu vũ trụ, đào dã ưu càn khôn” (Lửa trong lò vũ trụ, trời đất, âm dương, càn khôn đều được đào luyện).
    Người Lô Trung Hỏa có mệnh lớn, tâm tưởng bao la, lúc đắc thế khả dĩ hiển hiện tài hoa danh tiếng với đời. Lô Trung Hỏa mang một khuyết điểm nếu mệnh kèm theo những hung sát tinh hãm dễ thành kiêu căng ngạo mạn, dễ bị nghe theo lời nịnh hót mà thất bại.
    Bính Dần Đinh Mão hai hàng chi đều thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa tước nhược gặp hung vận thiếu trầm tĩnh giải quyết công việc.

    PHÚ ĐĂNG HỎA
    Sách Bác Vật Vựng Biên ghi: “Giáp Thìn, Ất Tỵ, Tỵ là độ gốc lúc mặt trời lên đến đỉnh và sắp lẫn về Tây. Ánh chiều tà còn tung ra chiếu sáng vạn vật. Đồng thời cũng là lúc thiên hạ sửa soạn lên đèn. Phú Đăng Hỏa là ánh lửa ban đêm khả dĩ chiếu sáng những nơi mà mặt trời mặt trăng không chiếu tới được, gọi khác đi bằng “Địa minh chi hỏa”.
    Giữa ban ngày, ánh lửa đèn không thể thi triển quang huy. Bởi vậy, người mang nạp âm Phú Đăng Hỏa hay “dạ minh chi hỏa” thường thích bóng tối không thích xuất đầu lộ diện, nhưng lại rất tài hoa, lúc cần đến thật được việc. Lúc bình thường, lúc chưa đắc thế sống âm thầm ẩn nặc. Khi gặp thời cơ như ánh đèn soi vào bóng tối.
    Giáp Thìn thì Thìn thuộc Thổ, Hỏa sinh Thổ tính chất cương mãnh hơn, trong khi Ất Tỵ thì Tỵ là Hỏa đồng tính với Hỏa, sức mạnh không bằng Giáp Thìn. Sức mạnh ở đây nói về khí chất tinh thần để ứng phó với hung vận.

    THIÊN THƯỢNG HỎA
    Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Mậu Ngọ Kỷ Mùi, Ngọ là nơi Hỏa Vượng, Mộc ở trong chi Mùi lại sinh Hỏa. Hỏa khi bung lên gặp đất sinh nên gọi bằng “Thiên Thượng Hỏa”.
    Thiên Thượng Hỏa là lửa trên trời. Mậu Ngọ là mặt trời, Kỷ Mùi là mặt trăng sưởi ấm sông núi, chiếu sáng vũ trụ chan hòa mọi chỗ không thiên vị. Bởi vậy Thiên Thượng Hỏa rất công bình, chính trực hào sảng khai hoài.
    Số nạp âm Thiên Thượng Hỏa mà có nhiều cát tinh tại mệnh đứng ngôi chủ vào thời bình, bàn dân thiên hạ được nhờ. Nhưng Thiên Thượng Hỏa mà tuổi Kỷ Mùi là mặt trăng tính chất nhu hòa, lắm khi lại lạnh nhạt và vô tình đứng ngôi chủ, các cận thần phải coi chừng, đặc biệt nếu mệnh cung mang những sao thủ đoạn mưu chước. Thiên Thượng Hỏa dù Mậu Ngọ hay Kỷ Mùi thẩy đều ưa danh vị tiếng tăm.

    SƠN HẠ HỎA
    Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Bính Thân Đinh Dậu. Thân là cửa của đất, Dậu là cổng của mặt trời lặn. Ánh dương quang đến chỗ này thì ẩn tàng nên gọi bằng Sơn Hạ Hỏa”.
    Bính Thân Đinh Dậu, khí tắt hình tàng như mặt trời lặn phía Tây, sức đã yếu nhược, càng tối càng hiu hắt vàng vọt. Sơn Hạ Hỏa tâm chất hẹp hòi, tự tư tự lợi, mưu lược không đủ, nhưng vẻ ngoài lại vênh vang, lúc nào cũng lý luận.
    Nạp âm Sơn Hạ Hỏa số xấu hay tốt cũng không nên dùng làm tâm phúc, không bao giờ là người cộng sự chân thành. Thân Dậu Kim đều bị Hỏa khắc nên thường rối ren trước biến động hay hung vận.


    SƠN ĐẦU HỎA
    Sách Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Giáp Tuất Ất Hợi thì Tuất Hợi là cửa trời, hỏa chiếu thiên môn, quang huy cực cao”
    Sơn Đầu Hỏa chỉ thấy sáng rực mà không thấy lửa nên tâm cơ thâm trầm, ít ai hiểu, vui giận không lộ ra sắc diện, tài trí cao mà không cho người thấy được. Thành công tấn tốc như đám cháy rừng khi gặp vận.

    Người Sơn Đầu Hỏa lúc gặp thời thâm trầm làm việc không biết mệt. Gặp thời rồi cũng không lãng phí thời gian. Mệnh tốt danh vọng sự nghiệp hơn người. Mệnh xấu cũng đắc lực nhanh nhẹn để phục vụ thừa hành.
    Giáp Tuất, Tuất là Thổ được Hỏa sinh. Ất Hợi, Hợi là Thủy bị Hỏa khắc. Giáp Tuất ứng phó với hung vận biến động linh động hơn Ất Hợi.

    THỔ
    Hành Thổ có 6 nạp âm: Bích Thượng Thổ, Thành Đầu Thổ, Sa Trung Thổ, Lộ Bàng Thổ, Đại Dịch Thổ, Ốc Thượng Thổ.

    BÍCH THƯỢNG THỔ
    Sách Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Canh Tý Tân Sửu thì Sửu là chính vị của Thổ, mà Tý là đất vượng của Thủy, Thổ gặp Thủy biến thành bùn cho nên gọi bằng Bích Thượng Thổ”.
    Bùn nhuyễn mềm muốn trát thành vách phải tựa vào kèo cột phên, thiếu chỗ tựa khó thành vánh tường. Bởi thế, người mang nạp âm Bích Thượng Thổ phải tựa vào người mà thành sự, làm quản lý, làm kẻ thừa hành tốt, đứng ngôi chủ dễ thất bại. Tuy nhiên cũng có những loại đất chất dính mạnh phơi nắng trở thành cứng cáp không phải dựa vào kèo cột cũng đứng vững được. Bởi thế, người mang nạp âm Bích Thượng Thổ cần phải trải nhiều kinh lịch mới hay.
    Vách để che gió, chắn mưa cho nên tâm chất thường bao dong. Mệnh nhiều hung sát đa nghi thủ đoạn mà mang nạp âm Bích Thượng Thổ dễ đưa đến sơ hở mà bị hại. Canh Tý, Tý Thủy bị Thổ khắc, khí thế nhược. Tân Sửu, Thổ vào chính vị sức đề kháng cương mãnh.

    THÀNH ĐẦU THỔ
    Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Mậu Dần Kỷ Mão là 2 Thiên Can đều là Thổ. Dần thuộc cấn sơn, thổ tích thành núi cho nên gọi là “Thành Đầu Thổ”.
    Quẻ Cấn, Kinh dịch giải thích là núi (Cấn vi sơn). Mạng nạp âm Thành Đầu Thổ tính tình trung trực chất phác, thích giúp người, trung thành nếu như mệnh số bình thường.
    Mệnh số hội tụ cách cục tốt thì khí thế khác hẳn, núi chính là nơi của rồng ấp, cọp ở. Người này mang chí lớn với tâm chất sảng trực xem thành bại làm thường tình. Thời loạn cũng như lúc bình đều có thể dùng vào vai trò lãnh đạo gây cơ dựng nghiệp theo chiều hướng thiện.
    Mậu Dần Kỷ Mão thì Dần Mão đều thuộc Mộc, Mộc khắc Thổ cho nên ở bình thời dễ nên công hơn loạn thế.

    SA TRUNG THỔ
    Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Bính Thìn Đinh Tỵ, Thìn khố Tỵ tuyệt, Thiên can Bính Đinh đều thuộc Hỏa. Thổ vào tuyệt địa, đến chổ ẩn tàng (khố) lại được hỏa sinh cho nên gọi bằng Sa Trung Thổ”.
    Thổ tới khố không phải cát của sa mạc mà là cát của đất phù sa vì Thìn thuộc Thủy khố. Gặp sông nước đẩy đưa tập trung tài bồi thành bãi thành bờ nhiều mầu mỡ.
    Sa Trung Thổ tùy sóng, tùy gió nên tính chất uyển chuyển, giỏi đầu cơ, lợi dụng thời thế. Khả năng 2 mặt thiện ác - khi là rồng lúc thành rắn. Anh hùng và gian hùng.
    Bính Thìn, Thìn thuộc Thổ chính vị cho nên cứng rắn hơn. Đinh Tỵ, Tỵ thuộc Hỏa tiết thân mà sinh Thổ nên nguyên khí giảm không kiên trì bằng Bính Thìn.

    LỘ BÀNG THỔ
    Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: “Canh Ngọ Tân Mùi, mộc trong Mùi sinh Hỏa của Ngọ. Hỏa vượng tạo hình cho Thổ, Thổ mới sinh chưa đủ sức để nuôi dưỡng vạn vật nên gọi bằng “Lộ Bàng Thổ”.
    Hỏa vượng, Thổ thành hình, đất cứng bởi vậy tâm chất quật cường mà quá nóng nảy, tâm tình chính trực nhưng lại không chín chắn để phân biệt cho rõ ràng thiện ác thuận lợi hay không thuận lợi.
    Lộ Bàng Thổ đất rộng, trải dài miên viễn cần có Thủy cho đất hết khô để cây cỏ mọc. Lộ Bàng Thổ vào nghiên cứu, học vấn sẽ như chất Thủy tưới cho Thổ trở nên hữu dụng.
    Lộ Bàng Thổ thiếu khả năng làm con người hành động để xoay chuyển thời thế nên đứng vị thế một lý thuyết gia hay hơn. Canh Ngọ, Ngọ thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ làm mất nguyên khí sức đề kháng hung vận không bằng Tân Mùi, vì Mùi ở vào chính vị Thổ nên nhẫn nại kiên trì hơn.

    ĐẠI DỊCH THỔ
    Sách Bác Vật Vựng Biên nói: “Mậu Thân Kỷ Dậu thì Thân thuộc Khôn là đất. Dậu thuộc Đoài là đầm nước (trạch). Chữ dịch có một nửa chữ trạch, thật ra phải gọi bằng trạch thổ.
    Khôn là đất. Trạch là chỗ hồ ao đầm vũng có nước. Sông đem nước đi khắp nơi, đầm ao là chổ cá sinh sống thoải mái mầu mỡ tích súc. Đại Dịch Thổ tự nó tích súc, đất rộng sông sâu.
    Mệnh tốt mà nạp âm Đại Dịch Thổ thường làm được công lớn ích lợi cho thiên hạ. Mệnh thường, phụ giúp các việc thiện luôn luôn có thành tâm.
    Mệnh nhiều hung sát mà cho cáng đáng những công tác nhân đạo chỉ đưa đến hỏng việc. Thân Dậu đều thuộc Kim, Thổ sinh Kim nên Mậu Thân hay Kỷ Dậu đều có khả năng kiên trì ít bối rối.

    ỐC THƯỢNG THỔ
    Sách Bác Vật Vựng Biên ghi: “Bính Tuất Đinh Hợi. Bính Đinh thuộc Hỏa. Tuất Hợi là của trời (Thiên môn). Hỏa ở trên cao dĩ nhiên đất không sinh dưới thấp nên gọi bằng Ốc Thượng Thổ. Ốc Thượng Thổ là ngói lợp mái nhà để che sương, tuyết mưa. Muốn thành ngói, Thổ phải trộn với nước lại đưa vào lò lửa luyện nung. Người mang nạp âm Ốc Thượng Thổ dù số hay cũng phải trải thiên ma bách triết để thoát thai hoán cốt mới thành công. Nếu đi con đường dễ thì cái thành công chỉ là thứ thành công chóng tàn dễ vỡ như hòn ngói chưa nung chín gặp mưa nhanh chóng nát ra.
    Bính Tuất, Tuất thuộc Thổ chính vị sức chiến đấu dẻo dai cứng cỏi hơn. Đinh Hợi vì Hợi thuộc Thủy Thổ khắc Thủy sức đề kháng không khỏe bằng Bính Tuất.
     
  20. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    MỘT LẦN NỮA TRỞ LẠI VÒNG TRÀNG SINH

    Chuyện tranh luận về thế thuận nghịch của vòng Tràng Sinh. Dương nam đi thuận chiều, Âm nam đi ngược chiều. Dương nữ đi ngược chiều, Âm nữ đi thuận chiều.
    Vòng Tràng Sinh của Tử Vi, vì tính theo cục (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) đưa đến tình trạng là cứ đi thuận thì Mộ khố mới hiện ra ở các cung Thìn Tuất Sửu Mùi, trong khi đi ngược thì không. Cho nên có đề nghị an vòng Tràng Sinh phải giống như an vòng Thái Tuế, đều phải theo chiều thuận. Như thế sẽ không có thuận nghịch, và không có thuận nghịch thì sẽ không có âm dương.
    Khi nói về lý số mà không nói về âm dương là khó ổn. Vì trên hàng Can cứ một dương là kèm một âm. Tỉ dụ Giáp là Dương Mộc thì Ất là Âm Mộc cứ thế cho đủ ngũ hành.
    Tranh luận thuận nghịch cho vòng Tràng Sanh không tìm thấy lối thoát. Vì an theo cục thì tự nó không có sự phân biệt âm dương nên phải căn cứ vào Âm nam Dương nữ thì lại đi trật đường của cung Mộ.
    Trong khi đó số Tử Bình hay gọi nôm na là số Bát Tự, lại tính chuyện Sinh Vượng Tử Tuyệt bằng chính hàng Can với âm dương thuận nghịch thì Dương thuận hay Âm nghịch đều đưa cung Mộ vào chính vị của nó.
    Để quý vị độc giả tham khảo tôi liệt kê cách tính trên của số Bát Tự như dưới đây:

    - Tuổi Giáp (mộc) Tràng Sinh tại Hợi, Mộc Dục ở Tý, Quan Đới ở Sửu, Lâm Quan tại Dần, Đế Vượng đóng Mão, Suy ở Thìn, Bệnh tại Tỵ, Tử ở Ngọ, Mộ sang Mùi, Tuyệt đến Thân, Thai tại Dậu và Dưỡng đóng Tuất.

    - Tuổi Ất (mộc) Tràng Sinh tại Ngọ (theo cái nghĩa Dương tử Âm sinh khi mà Giáp tử ở Ngọ thì Ất lại sinh ra ở đây), Mộc Dục sẽ là Tỵ, Quan Đới ở Thìn, Lâm Quan đóng Mão, Đế Vượng tới Dần, Suy ở Sửu, Bệnh đóng Tý, Tử ở Hợi (dương sinh âm tử), Mộ đến Tuất, Tuyệt ở Dậu, Thai đóng Thân và Dưỡng sang Mùi. (Ất là âm nên tính theo chiều ngược).

    - Bính Hỏa Mậu Thổ thì Tràng Sinh tại Dần, Mộc Dục đóng Mão, Quan Đới về Thìn, Lâm Quan sang Tỵ, Đế Vượng ở Ngọ, Suy ở Mùi, Bệnh đóng Thân, Tử đến Dậu, Mộ đến Tuất, Tuyệt đóng Hợi, Thai ở Tí và Dưỡng đóng Sửu. (Bính Hỏa Mậu Thổ nên đi theo chiều thuận).

    - Đinh Hỏa Kỷ Thổ, Tràng Sinh tại Dậu (theo cái nghĩa Dương tử Âm sinh), Mộc Dục sẽ là Thân, Quan Đới ở Mùi, Lâm Quan sang Ngọ, Đế Vượng tại Tỵ, Suy đến Thìn, Bệnh về Mão, Tử ở Dần (dương sinh âm tử), Mộ đến Sửu, Tuyệt ở Tý, Thai ở Hợi và Dưỡng qua Tuất.

    - Canh Kim, Tràng Sinh tại Tỵ, Mộc Dục là ở Ngọ, Quan Đới sang Mùi, Lâm Quan đóng Thân, Đế Vượng tới Dậu, Suy ở Tuất, Bệnh đóng Hợi, Tử ở Tý, Mộ đến Sửu, Tuyệt ở Dần, Thai đóng Mão và Dưỡng sang Thìn. (Canh Kim là Dương nên tính theo chiều thuận).

    - Tân Kim, Tràng Sinh tại Tí (Dương tử Âm sinh), Mộc Dục sẽ là Hợi, Quan Đới ở Tuất, Lâm Quan đóng Dậu, Đế Vượng tới Thân, Suy ở Mùi, Bệnh về Ngọ, Tử ở Tỵ, Mộ qua Thìn, Tuyệt ở Mão, Thai đóng Dần và Dưỡng sang Sửu. (Tân kim theo chiều nghịch vì là thuộc âm).

    - Nhâm Thủy, Tràng Sinh tại Thân, Mộc Dục sẽ đến Dậu, Quan Đới ở Tuất, Lâm Quan đóng Hợi, Đế Vượng tới Tý, Suy ở Sửu, Bệnh đóng Dần, Tử ở Mão, Mộ đến Thìn, Tuyệt ở Tỵ, Thai đóng Ngọ và Dưỡng sang Mùi. (chiều thuận).

    - Quý Thủy, Tràng Sinh tại Mão (Dương tử Âm), Mộc Dục sẽ là Dần, Quan Đới về Sửu, Lâm Quan đóng Tý, Đế Vượng tới Hợi, Suy ở Tuất, Bệnh đóng Dậu, Tử ở Thân (Dương sinh Âm tử), Mộ đến Mùi, Tuyệt ở Ngọ, Thai ở Tỵ và Dưỡng sang Thìn. (Quý thủy là âm nên tính theo chiều nghịch).

    Thu gọn lại như sau:
    Dương Can Tràng Sinh có 4 chỗ: Dần cho Bính Mậu, Thân cho Nhâm, Tỵ cho Canh, Hợi cho Giáp.
    Âm Can Tràng Sinh có 4 nơi: Tí cho Tân, Ngọ cho Ất, Mão cho Quý và Dậu cho Đinh.
    Như thế cách an Tràng Sinh theo cục thấy là gượng ép vì chỉ an theo con trai hay con gái chứ không kể gì đến bản thân của can Dương hay can Âm. Câu hỏi đặt ra là: “Có nên dùng thẳng dương âm của niên Can để an Tràng Sinh cho số Tử Vi không ?”

    SÁCH THAM KHẢO

    Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư Trần Đoàn
    Tối Tân Tử Vi Đẩu Số Nhiều tác giả
    Mệnh Lý Tân Luận Thực Lệ Ngô Tuấn Dân
    Tinh Vương Đình Chi
    Trung Quốc Cao Cấp Mệnh Lý Nam Ánh Hưng
    Tử Vi Bí Quyết Tổng Giải Nhiều tác giả
    Tử Vi Phát Bí Trần Tin
    Bát Quái Luận Nhân Sinh Nhất Minh cư sĩ
    Tử Vi Đẩu Số Tân Giải Khổng Nhật Sương
    Tử Vi Kỳ Kinh Lục Phi Phàm
    Âm Dương Ngũ Hành Mệnh Lý Học Cao Cảnh Viên
    Phi Tinh Tử Vi Đẩu Số Lương Sương Nhuận
    Tam Mệnh Hội Thông Cổ thư (vô danh thị)
    Tử Vi Thực Hành Dịch Lý Huyền Cơ
     

Chia sẻ trang này