10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

Thảo luận trong 'Trao đổi kiến thức về Tử Vi' bắt đầu bởi Phuocduyen, 8 Tháng bảy 2007.

  1. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Sau loạt bài "10 điều tâm niệm khi đoán số Tử-Vi" cho khoa Đẩu Số Tử-Vi. Người viết vẫn chỉ mong làm một công việc bình thường nhất là truyền thông đến quý vị say mê nghiên cứu Tử-Vi, một vài suy nghiệm thâm thúy đã tìm thấy ở khoa lý học Đông Phương này. Trong khuôn khổ tổng quát vừa nói, kẻ viết xin trình bày thêm "10 trạng thái kỳ thú của Tử-vi" như sau :

    1 - Vó câu nghị lực
    2 - Đối kháng của định mệnh
    3 - Liên minh kỳ diệu
    4 - Hạnh phúc lâm nguy
    5 - Đường đời cô đơn
    6 - Bạn là ai
    7 - Nên sống hay chết
    8 - Sung sướng hay đau khổ
    9 - Nhân diện ác quỷ
    10-Anh hùng chiến trận.

    1- Vó câu nghị lực

    Biết xem Tử-vi ai cũng phải công nhận giá trị quan hệ của các sao Thiên Mã, nó tượng trưng cho nghị lực ở đường đời, cũng như chiếc xe đi của đương số. Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung thuộc Tứ sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Khi Mã đóng ở cung nào, thì Mã thuộc hành của cung đó.

    Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân, tức là Mã Kim, Thiên Mã đóng ở cung Dần là Mã Mộc .... Tuy vậy, có điều lý thú nhất, là khi Mã đóng ở cung nào có sao Tuần thì phải nên hiểu rằng : Mã không còn ở cung đó nữa, mà Thiên Mã đã nhờ chiếc cầu Tuần nhảy tới (theo chiếu thuận) vị trí mới để trở thành Mã của hành ở cung mới nhảy tới. Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân mà cung Thân có sao Tuần thì phải hiểu rằng Thiên Mã đã nhảy tới cung Hợi, để trở thành Mã Thủy (chứ không phải là Mã Kim nữa). Do đó, khi đối chiếu ngũ hành của Mã với ngũ hành của Mệnh, ta nên để ý tới sự kiện Mã ngộ Tuần (Sao Triệt không kể tới) mà luận giải về tính cách phấn đấu của đương số trong đời sống cũng như về những tai họa do xe cộ gây ra ...

    2- Đối kháng của Định Mệnh

    Lá số Tử-Vi gồm 12 cung, mỗi cung mang một chủ đề trong 12 chủ đề của đương số là :Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào. Ta hãy để ý có 6 đôi cung xung phá nhau, lần lượt là :

    - Dần với Tị
    - Sửu với Ngọ
    - Tý với Mùi
    - Hợi với Thân
    - Mão với Thìn
    - Dậu với Tuất.

    Cho nên khi nhìn vào các cung trên, ta thấy ngay các vấn đề đã trở thành nên những đối tượng tranh chấp (một thắng một bại, một mất một còn, một chánh một tà, một thịnh một suy) nhau thật rõ ràng.

    Thí dụ : Mệnh đóng tại cung Tý ta có :
    Mệnh - Ách : xung phá.
    Phụ - Di : xung phá
    Phúc - Nô : xung phá
    Điền - Quan : xung phá
    Tử - Phối : Xung phá
    Tài - Bào : xung phá

    Rồi giữa những cặp cung tranh chấp ấy, ta để ý những sao của cung nào hợp và lợi cho ngũ hành của bản Mệnh, thì cung ấy cường và cung kia nhược. Thí dụ : Phúc - Nô xung phá, nếu Nô cung cường thỉ Phúc cung nhược, Tử phối xung phá, nếu Phối thịnh thỉ Tử suy .....

    3- Liên minh kỳ diệu

    Nếu đã có 6 đôi cung phá nhau, thì cũng có 6 đôi cùng hạp nhau (nhưng chỉ là hạp một chiều) được gọi là 6 đôi nhị hợp :

    - Tý với Sửu (Sửu lo cho Tý)
    - Dần với Hợi (Hợi lo cho Dần)
    - Mão với Tuất (Mão lo cho Tuất)
    - Thìn với Dậu (Dậu lo cho Thìn)
    - Tỵ với Thân (Tỵ lo cho Thân)
    - Mùi với Ngọ (Mùi lo cho Ngọ)

    Từ căn bản này, 12 chủ đề của bản số Tử-Vi đã thu lại làm 6 hành động làm lợi cho 6 chủ đề mà thôi. Thí dụ : Mệnh đóng tại Tý, thì bản số có giải đáp tổng quát ngay : cha mẹ lo cho đương số, bạn bè đem tài lộc tới cho đương số ....

    Một lý thú căn bản suy gẫm : cung an Mệnh (tượng trưng cho đời sống tiêu cực của con người) luôn luôn được cung phụ mẫu che chở, nhưng cung an Thân (tượng trưng cho hành động của con người) lại luôn luôn sinh phò cho cung Phụ Mẫu (có ý nghĩa như sự báo hiếu vậy). Vấn đề này đã được cụ Thiên Lương cho là một bố cục tế vi của cổ nhân khi soạn ra cách an sao lập số Tử-vi vậy.

    4- Hạnh phúc lâm nguy

    Bộ Sát Phá Tham là nhóm tinh đẩu quá khích, chủ về các hành động sát phạt, cho nên khi người ở cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà sang Đại hạn Sát Phá Tham thì hãy coi chừng sự xông xáo thái quá của nhóm sao vừa nói gây ra phản ứng phũ phàng không sao lường được (điều này thì ai cũng biết cả). Tuy nhiên ở đây, ta hãy để tâm kiểm nghiệm hai trường hợp :

    - Bộ Sát Phá Tham ở cung Phụ Mẫu.
    - Và Bộ Sát Phá Tham ở cung Phu Thê.

    Luôn luôn là khuynh hướng báo trước sự hình khắc chia ly (nhẹ cũng là cảnh ông nói gà, bà nói vịt, cha ở nhà trước mẹ ở sân sau... ) Trong trường hợp bộ Sát Phá Tham (dù đặc địa hay hãm địa) ở trong vòng Thái Tuế thì còn đỡ (giảm 50 % hiệu lực ), chứ nếu chúng ở ngoài vòng Thái Tuế của bản số (Vòng Thái Tuế là vòng tam hợp cung tuổi của bản số) thì thật là tai hại vô cùng.

    5- Đường đời cô đơn

    Xem số Tử-Vi, nhiều người có thói quen nhìn ngắm các chính diệu đắc địa hay hãm địa mà luận giải sự tốt xấu. Tôi thấy điều này có vẻ phiến diện, hời hợt, khi đúng khi không. Thật ra vấn đề ngũ hành của chính tinh mới là hệ trọng. Đối với hai cung Phối và Nô là hai nơi quần tụ của mỗi cá nhân trong xã hội, cần phải đẹp đẽ để đời sống thêm ý nghĩa (từ đời tư đến đời công). Cái đẹp ở hai cung Phối và Nô có nghĩa là có bạn đời và bạn đường chung thủy khả tín. Chúng ta hãy chú ý đến các ngũ hành của chính diệu đóng tại cung Phối và Nô như sau :

    a)- Đối với cung Phối

    Nếu ngũ hành của chính tinh cung Phối sinh nhập với ngũ hành của bản mệnh thì đời sống vợ chồng lâu dài đầm thắm, nếu cung Phối có chính tinh xung khắc với ngũ hành bản Mệnh thì : anh đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi ... Đặc biệt, cung Phối có hai chính diệu (một hạp, một khắc) nghĩa là trong đời tình cảm thế nào cũng hai lần hát khúc tào khang là ít.

    b)- Đối với cung Nô

    Ngũ hành chính diệu sinh nhập ngũ hành bản Mệnh thì có bản bè, thuộc hạ tốt, trông cậy được. Bằng như ngũ hành chính diệu xung khắc ngũ hành bản Mệnh là kể như đường đời cô độc, không ai là Chung Tử Kỳ của Bá Nha cả. Khi ngũ hành của bản Mệnh sinh xuất ngũ hành của chính diệu tại Nô cung, phải coi như một đời tôi mọi cho bằng hữu.

    Thí dụ :Người Mạng Thổ, Nô cung có Vũ Tướng, là kể như không có bạn tri kỷ !. (vì Vũ Khúc là Kim,Thiên Tướng là Thủy, ngũ hành bản Mệnh là Thổ không hợp và lợi gì với Kim và Thủy cả). Còn các bàng tinh và phụ tinh chỉ là chuyện thứ yếu, thêm bớt chút đỉnh ý nghĩa thôi .

    6- Bạn là ai ?

    Cuốn Tử-Vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương có nói : " Môn Tử-Vi khoa tính tình học tiềm ẩn ", tôi thấy điều này rất chí lý. Muốn tìm hiểu tính tình của một bản số, ta nên vẽ ra 3 vòng Tam hợp là :

    - Vòng Thái Tuế : tượng trựng tư tưởng của mình.
    - Vòng Thân : Tượng trưng hành động của mình.

    Vòng Thái Tuế là Tam hợp của ba cung có tên giống địa chỉ năm sinh. Vòng Mệnh là Tam hợp của ba cung an Mệnh, cung Quan Lộc và cung Tài Bạch. Vòng Thân là tam hạp của ba cung liên quan với cung an Thân. Sau đó, ta ghi nhận ngũ hành của mỗi vòng :

    - Hợi Mão Mùi là Mộc;
    - Dần Ngọ Tuất là Hỏa;
    - Thân Tí Thìn là Thủy;
    - Tỵ Dậu Sửu là Kim.

    Rồi lý luận theo tám trường hợp kể sau :

    - Vòng Mệnh cùng hành với vòng Thái Tuế, còn Vòng Thân ở thế ngũ hành tương khắc, là người ngụy quân tử nói hay mà làm điều ác hiểm (giống như vai trò Nhạc Bất Quần trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Văn sĩ Kim Dung)

    - Vòng Thân cùng hành với vòng Thái Tuế, còn Vòng Mệnh ở thế ngũ hành tương khắc, là người nói dữ dằn nhưng hành động lại quang minh chính trực (như mẫu người Từ Hải trong truyện Kiều)

    - Vòng Mệnh, Vòng Thân cùng hành với vòng Thái Tuế : tốt nhất, quân tử chính danh.

    - Vòng Mệnh cùng hành với Vòng Thân nhưng xung khắc ngũ hành với vòng Thái Tuế, là người chung thân bất mãn, lãnh tụ của đối lập, thích nghi và làm điều ngang trái.

    - Vòng Thái Tuế sinh xuất vòng Mệnh nhưng Vòng an Thân lại sinh nhập Vòng Thái Tuế, là mẫu người cực kỳ khôn ngoan, chủ trương nhượng bộ trong lý thuyết rồi lấn lướt trong hành động.

    - Vòng Mệnh cùng hành với Vòng Thân nhưng sinh nhập vòng Thái Tuế là người luôn chủ trương lấn lướt tha nhân, chuyên nghĩ và xếp đặt chuyện ăn người, mẫu người tham vọng.

    - Vòng Mệnh cùng hành với vòng Thân nhưng được Vòng Thái Tuế sinh xuất là người hiền lành đến nhu nhược, luôn cam phận thiệt thòi (một sự nhịn, chín sự lành).

    - Vòng Mệnh sinh nhập Vòng Thái Tuế, rồi Vòng Thái Tuế sinh xuất Vòng Thân là người nói hay làm dở, nói nhiều làm ít đa lý thuyết, thiếu thực hành, dốt hay nói chữ.

    7- Nên sống hay chết

    Đời có vinh kẻ nhục, số Tử-Vi cũng có những nét bàng bạc đồng sao mà dị nghĩa, cả hai người nhe răng nhưng người này cười mà kẻ kia lại khóc. Đó là trường hợp bộ ba Mã-Khốc-Khách. Nhiều sách đều khẳng định hạn gặp Mã-Khốc-Khách là vận tốt, tôi đã kiểm nghiệm thấy không đúng mà phải luận giải thế tương quan giữa ngũ hành của Mã với hành của Mệnh trước tiên đã, nếu thấy Mã phò người là thì mới là nhạc ngựa khánh vàng reo vui, còn thấy Mã hại người thì chỉ là tiếng kèn trống đám ma thôi (hoặc đến hạn đó gặp nhiều cái rủi ro đưa tới như bệnh, tật, mất xe, hao tài tốn của, nhiều chuyện bực mình ...~_laughing )

    Thí dụ : Người tuổi Ngọ, mạng Mộc Mã ở cung Thân (Mã Kim) vậy là Mã hại người. Ôi ! còn ghê rợn nào bằng hạn Mã-Khốc-Khách, khóc dở, mếu dở ... Người tuổi Dần, mạng Thủy, Mã đóng ở cung Thân (Mã Kim), đây là Mã phò người, nên gặp hạn Mã-Khốc-Khách là đến hồi thái lai vậy. Từ đó mà suy luận rộng thêm ra các trường hợp khác

    8- Sung sướng hay đau khổ

    Khi nào chính diệu xung chiếu được coi như chính diệu tọa thủ ở cung vô chính diệu ?

    - Khi nào Vòng tam hợp của cung vô chính diệu có hành khắc chế được hành của Vòng tam hợp cung xung chiếu có chứa chính diệu .

    Thí dụ : Mệnh vô chính diệu tọa thủ ở cung Dậu (vòng tam hợp là Tỵ Dậu Sửu : Kim). Cung xung chiếu là Mão (vòng tam hợp Hợi Mão Mùi : Mộc) chứa hai chính diệu Thái Dương và Thiên Lương. Vậy vòng Kim khắc chế vòng Mộc, nên chiếm đoạt được hai chính tinh Thái Dương và Thiên Lương đem về cung Dậu xử dụng. Ngược lại nếu hành của cung vô chính diệu bị hành của cung xung chiếu áp đảo thì kể như "Hư không chi địa" hoàn toàn, lúc này cung vô chính diệu lại càng lâm nguy và dễ dàng để cho các "Hung tinh chiếu lược" hoành hành.

    9- Nhận diện ác quỉ

    Cụ Hà-Lạc Dã Phu Việt-Viêm-Tử trong " Tử-Vi Áo Bí " đã đề cao vai trò của bộ Tả Phù và Hữu Bật. Thật tình mà nói, thì hai sao này là những " gián điệp hai mang " nghĩa là nó vừa hữu íchvừa nguy hiểm khi tìm biết tánh nết của một người qua bản số Tử-Vi. Khi Tả-Hữu đóng vào vòng Thái Tuế có hai trường hợp xảy ra :

    - Nếu trong vòng Thái Tuế không có Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Đà La, là người chính nhân quân tử.

    - Nếu trong vòng Thái Tuế có thêm Không, Kiếp, Kỵ, Đà thì hẩm hiu cho người có tài mà không có thời (sinh bất phùng thời )

    Riêng trường hợp hai sao Tả Hữu đứng ở thế đối lập với vòng Thái Tuế hay đứng ở thế sinh nhập vòng Thái Tuế [Ví dụ : tuổi Ngọ, vòng Thái Tuế là Hỏa và hai sao Tả-Hữu đóng cung Mùi (thuộc hành Mộc)] thì dù có thêm Không, Kiếp, Kỵ, Đà hay không vẫn là hạng hữu tài vô hạnh, làm điều quấy đảo thiên hạ.

    10- Anh Hùng chiến trận

    Sao Phá Toái chỉ chịu đứng ở ba cung Tỵ-Dậu-Sửu. Nó tượng trưng cho sự ương ngạnh, thích làm điều phá tán, vỡ đổ (giống như nhân vật Na-Tra trong chuyện Phong Thần). Sao này coi như con đẻ của Phá Quân, nên khi Phá Toái đồng cung với Phá Quân thì kết hợp thành sức mạnh vô song (tương tự như Vũ Khúc gặp Văn Khúc) chủ về võ nghiệp thời danh. Nếu vòng Thái Tuế lại chứa " Toái Quân lưỡng Phá " này thì không cần phải nói nhiều : rõ ràng là bậc anh hùng trong thiên hạ, ấn chức nguyên nhung trao vào tay này không hổ thẹn chọn lầm người.

    Tóm lại, để kết luận cho bài Tham luận này, ta có thể tạm bắt chước người Tây Phương để nói rằng :" Đưa Lá số Tử vi của bạn đây, tôi sẽ nói bạn là ai ! "
    (Trích từ Báo KHHB của GS Lê Trung Hưng)
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng năm 2008
  2. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    10 Điều soi sáng cho khoa Nghiệm-Lý Tử Vi

    1-Đức trọng quỷ thần kinh : Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Long Đức, Thiên Quan và Thiên Phúc.

    Trong hàng ngũ các sao hiền của bản số Tử vi mỗi người, ai cũng biết, mà cũng ít ai lưu tâm đến, đó là bộ Tứ đức và bộ Quý nhân. Tánh chất của bản thiện thường là hành động trong âm thầm, không lớn lối, không vung vít như bộ hung tinh chiến lược (Lục sát). Quý vị cứ kiểm nghiệm mà xem bộ Tứ đức và lưỡng Quý nhân luôn hóa giải dễ dàng những tai ương do hai quỷ tinh Tuần và Triệt gây ra (huống hồ là Thiên Không, xá gì ). Hay nói một cách khác bộ Tứ đức và lưỡng Quý nhân không sợ sự kềm kẹp cương tỏa của Tuần trung và Triệt lộ. Ngược lại nhiều khi chính nhờ bộ Tứ đức và lưỡng quý nhân này đã chiêu hồi Tuần trung và Triệt lộ để giải tỏa các hung tinh khác. Cho nên vào đại hạn hay tiểu vận có bộ Tứ đức hay bộ Quý nhân này trấn áp, thì cứ yên tâm về sự xuất hiện của hai quỷ tinh Tuần trung và Triệt lộ, chính sao Tuần còn mở đầu cho một hạnh thông nữa là đàng khác.

    2- Huyền thoại của chính diệu : Tứ Hóa

    Nhiều người say mê môn Tử-vi thường có thói quen đam mê luôn bộ Tứ hóa đắc cách và cho rằng Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Kỵ (đóng ở Tứ mộ) là bốn sao thần thánh đem bóng dáng hạnh phúc lại cho mình, rồi nhiều khi quên đi cả các chính diệu hiện diện tại cung có Tứ Hóa ấy. Đây là một sự
    nhầm lẫn cần phải phản tỉnh ngay : Khoa Tử-vi gắn liền với sinh hoạt nghiệm lý mà cố tử vi gia Thiên Lương đã dày công chủ trương khi còn sinh tiền, nên lúc nào cũng cần phải có sự suy luận và kiểm nghiệm tánh chất của mỗi dữ kiện. Do lẽ ấy, bốn sao Từ Hóa chỉ là bộ mặt mới mà thôi. Thí dụ tuổi Kỷ thì chính diệu Tham Lang có bộ mặt mới là Hóa Quyền, mà tuổi Ất thì Hóa Quyền lại là hậu thân của Thiên Lương. Nói cách khác, tùy theo thập can mà chính diệu thủ lãnh những vai trò mới như sau :

    - Chủ về thi cử, phước lành : Hóa Khoa.
    - Chủ về địa vị : Hóa Quyền.
    - Chủ về tiền của : Hóa Lộc.
    - Chủ về sự thầm lặng : Hóa Kỵ.

    Thành ra khi thấy Tứ Hóa xuất hiện ở cung nào, ta nên hiểu rằng chính diệu đã biến ảo ra, nhận lãnh sứ mạng nói trên mà thôi. Nói cho cùng, thì không có sao Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Kỵ (hiểu theo nghĩa là những tinh đẩu riêng biệt) mà Tứ Hóa chỉ là sự biến thái của chính diệu tùy theo Thập can vậy.

    3- Tha nhân là địa ngục

    Trong vị trí tuần tự 12 cung trên bản số Từ-vi, cung Mệnh và cung Thiên Di luôn luôn đối mặt nhìn nhau. Đây là ý nghĩa thâm sâu của người sáng chế ra khoa nghiệm lý này : Mệnh là ta, Thiên Di là tha nhân (chứ không phải sự đi xa như nhiều sách đoán luận giải ). Đời sống là trường tranh đấu, ta muốn tồn tại thì phải ganh đua với chúng nhân trong xã hội, thế nên tha nhân vừa nhìn ta để học hỏi, vừa để đối phó. Ngược lại, ta nhìn tha nhân cũng với cung cách này. Điều kiện hòa đồng là cần, nhưng phải có sự khắc chế mới đủ nghĩa sống ở đời (lẽ mâu thuẫn lấy biến dịch làm căn bản nhân sinh), trong ý nghĩa Dịch động ấy, lấy luật Ngũ hành làm luận cứ cho sự tương giao của hai cung Mệnh & Di .

    Vậy khi nào hành của cung Mệnh chế ngự được hành của cung Di thì người ấy mới mong ra đời được đắc thắng và kính nể, bằng trái lại, hành của cung Di áp đảo được hành của cung Mệnh thì rõ ràng là người ấy thường chịu nhiều thua thiệt trước thế nhân. ~_donttell

    4- Cơn bỉ cực, hồi thái lai

    Vòng Thái Tuế, khi còn sanh tiền cố Tử-vi gia Thiên lương đã dày công phu triển khai tầm quan trọng, để giúp cho người xem Tử vi nhận biết rõ đại vận hên xui. Đại cương cung nào chứa vòng Tam hạp của Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ thì Đại hạn mười năm tại cung đó là thời vận tốt.

    Thí dụ Mệnh tại cung Dậu, tuổi Mẹo Âm Nam, Kim Cục, thì theo chiều nghịch ; cung Dậu 4-13, cung Thân 14-23, cung Mùi 24-33 ... Vòng Thái Tuế gác đầu 3 cung Hợi-Mão-Mùi, do đó Đại vận 10 năm từ 24-33 tuổi là lúc thịnh thời gặp nhiều may mắn của đương số. Tuy nhiên tùy theo 3 đầu cung tam hạp của Vòng Thái Tuế, nếu gặp đầu cung :

    - Có sao Thái Tuế là đắc thời một cách chánh đáng.
    - Có sao Quan Phù là đắc thời trong sự tính toán.
    - Có sao Bạch Hổ là đắc thời trong sự làm việc thái quá vất vả.

    Cho nên người xem số Tử-vi, thấy đến Đại vận nằm trong tam hợp Vòng Thái Tuế, được kể như đã tới hồi thái lai, thoải mãi. Nhưng có điểm khá cẩn trọng, nếu tiểu vận (một năm) phải đề phòng sự thiệt thòi xui rủi đưa tới :

    - Tiểu vận đến cung chứa sao Thái Tuế : đáo tụng đình.
    - Tiểu vận đến cung chứa sao Quan Phù : thị phi tai tiếng.
    - Tiểu vận đến cung chứa sao Bạch Hổ : đau ốm tai nạn.

    Tóm lại : Đại vận nằm trong tam hạp Vòng Thái Tuế là hên, may mắn (tới mức độ nào còn phụ thuộc vào nhiều các sao khác nữa !?..), nhưng 10 năm đó thì đề phòng 3 năm tiểu hạn lại lâm vào trở lại 3 cung tam hạp của Vòng Thái Tuế thì lại gặp chuyện xui rủi vậy. Đó là ý nghĩa thứ hai của hạn tam tai mà cố Tử-vi gia Thiên Lương đã dày công khám phá.

    Cho nên quý vị thấy hạn Tam tai ghi trong sách :

    - Tuổi Dần Ngọ Tuất : 3 năm Thân Dậu Tuất là Tam tai.
    - Tuổi Thân Tý Thìn : 3 năm Dần Mão Thìn là Tam tai.
    - Tuổi Tỵ Dậu Sửu : 3 năm Hợi Tý Sửu là Tam tai.
    - Tuổi Hợi Mão Mùi : 3 năm Tỵ Ngọ Mùi là Tam tai.

    sao lại có khi đúng có khi sai, ấy là vì lẽ trên.

    5- Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong : Thế ngũ hành sinh nhập tại Tứ Sinh và Tứ Tuyệt.

    Mười hai cung của bản số Tử-vi, tuy mang 12 chủ đề khác nhau nhưng chúng lại có những gắn bó kỳ lạ, nếu chịu khó luận giải luật ngũ hành của từng cung trên căn bản :

    - 4 Cung Tứ Sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
    - 4 Cung Tứ Tuyệt : Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

    Ta thấy 4 cung Tứ Sinh và Tứ Tuyệt khác nhau từng đôi một :

    - Cung Tỵ (Hỏa) đối lập với cung Hợi (Thủy)
    - Cung Thân (Kim) đối lập với cung Dần (Mộc)
    - Cung Ngọ (Hỏa) đối lập với cung Tý (Thủy)
    - Cung Mão (Mộc) đối lập với cung Dậu (Kim)

    Vậy khi các cung nói trên mang chủ đề gì (trong 12 chủ đề : Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào) thì chúng xung khắc nhau như bản chất cung của nó.

    Ví dụ : Tuổi Âm Nam, Mệnh an tại Dậu, ta có :

    - Tiền bạc (cung Tỵ) khắc chế với cung Phúc Đức (cung Hợi)
    - Huynh Đệ (cung Thân) không hạp với bạn bè (cung Dần)
    - Nhà đất (cung Tý) không hạp với hàng con cái (cung Ngọ)
    - Bản Mệnh cung (cung Dậu) bất hòa đồng với tha nhân (cung Mão)

    Các sự xung khắc trên là một điều loan báo đối với đương số. Để tùy nghi chọn lựa một trong hai điều : Hoặc chọn Tiền Bạc hay chọn Phúc Đức; hoặc muốn Con Cái an toàn hay muốn Nhà đất khang trang ...

    6- Tham thì thâm : Luật thừa trừ tính theo vòng Thái Tuế

    Vòng Thái Tuế ngòai ý nghĩa cho biết thời may vận tốt của mười năm, nó còn cung cấp một đặc tính qúy báu khác, là tìm biết căn tính của mỗi người, cũng như thử thách của đương số trong sinh hoạt thường nhật. Ta nên để ý :

    - Tuổi Âm Nam và Dương Nữ : trước khi tới thời kỳ 10 năm của Vòng Thái Tuế, đã gặp 10 năm của Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức.

    - Tuổi Âm Nữ và Dương Nam : lại gặp Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức sau khi đã an hưởng 10 năm của Vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ .

    Cả hai cách trên đều cho ta thấy : Xét luật Ngũ hành thì Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức ở thế lấn so với Vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.

    Thí dụ :Tuổi Tuất - Dương Nam, thì Vòng Thái Tuế là Hỏa, còn Vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức là Mộc, mà Mộc sinh Hỏa (có nghĩa là mình đang gặp tối đa thuận lợi, lấn tới lấy thời gian Mộc để dưỡng cái TA -Hỏa). Lợi thì có lợi thật, nhưng Luật thừa trừ đã xuất hiện, để ổn định cái bất công, cho nên khi ai bước vào thời kỳ này (Vòng Thiếu Dương) sẽ phải gặp sao Thiên Không ở cung với Thiếu-Dương, đó là nét thâm thúy và đầy nhân -văn, tính nhất của khoa Tử-vi : Ở đời không nên tham vọng, vì quá đáng sẽ gặp "Thiên-Không ở cuối đường hầm" (Hạn Thiên Không thì ai biết xem Tử-vi, đều rõ cái tai hại của nó).

    7- Đời là bể khổ

    Sao Thiên Mã là nghị lực của đời người nhưng còn biểu tượng cả chiếc xe đi của đương số. Nếu xét Ngũ hành của cung mà Thiên Mã đóng, với Ngũ hành của bản Mệnh, chúng ta sẽ thấy ngay những mối tương quan có tính cách cảnh cáo hay nhẹ cũng là báo trước về chiếc xe mà đương số sử dụng trong mưu sinh ở đường đời :

    - Hành Mã khắc hành của bản Mệnh : Chết vì tai nạn xe cộ, bị thương nặng về tay chân ...

    - Hành Mã sinh hành của bản Mệnh : Xe cộ luôn an toàn, giúp đỡ người thật đắc dụng .

    - Hành Mệnh khắc hành của Mã : Xe cộ luôn ở trạng thái hư hao, gây tốn kém cho chủ .

    - Hành Mệnh sinh hành của Mã : Coi chừng mất xe.

    - Hành Mã đồng hành với bản Mệnh : Bình thường trong mọi chuyện xe cộ, cũng như lúc di chuyển.

    Kết hợp với những sao tại Lưu Tiểu hạn và lưu Đại hạn, từ đó mà suy luận cụ thể chi tiết ra trong từng trường hợp cụ thể của bản số Tử-vi .

    Thí dụ : Người tuổi Tân Tỵ (Hành Kim). Thiên Mã đóng ở cung Hợi (Thủy). Vậy tức là Mệnh Kim sinh xuất Mã Thủy, ít nhất trong đời phải mất xe một lần (dù là xe gì ... đi nữa, kể cả trường hợp mình đi mượn xe của người khác nữa !? ... Các bạn thử chiêm nghiệm xem ... ). Người Nhâm Ngọ (Mộc) có Thiên Mã đóng cung Thân thì nên cẩn thận lắm vì Mã Kim khắc Mệnh Mộc. Vai trò của sao Thiên Mã xét theo khía cảnh này, đã được nhiều người kiểm chứng, thấy hiệu nghiệm rõ ràng.

    8- Chung thân đối kháng

    Sao Thiên Tài trong Tử -vi quả là có vai trò độc đáo, nó luôn luôn làm điều trái ngược lại tinh thần của cung mà nó đóng. Sao Thiên Tài ví như vị Thiên Sứ có nhiệm vụ đảo ngược tình hình ở cung mà Thiên Tài phải hiện diện : nhiều sao đẹp mà gặp Thiên Tài (đồng cung) thì kể như vô dụng, mà nhiều sao xấu gặp Thiên Tài hóa ra đắc dụng. Đắc biệt những cung tiềm ẩn tính cách lượng số (như cung Huynh Đệ, Tử-Tức, Tài Bạch) thì sự hiệu nghiệm nói trên của Thiên Tài quả không sai lệch. Thành ra, điều kết luận về sao này, ta phải nhìn nhận quả là "Thiên Tài " hiếm có vậy.

    9- Bản tính nhân chi sơ

    Khoa Tử-vi Đẩu số, ngoài việc tiên tri các điều công danh, thọ yểu, giàu nghèo ... của mỗi con người, nó còn là khoa tâm lý thực nghiệm khá chính xác. Quý vị thích nghiên cứu trong tinh thần triết học, hãy để ý sự kiện (Đã được nghiệm lý) sau đây : Áp dụng luật tính âm-dương cho bản mệnh với cung Mệnh, là :

    - Người Âm đóng cung Âm : thế lưỡng Âm nên thái quá nhu nhược, rất thâm trầm, khôn ngoan ...

    - Người Dương đóng cung Dương :thế lưỡng Dương nên quá cương, rất nóng nảy đến độ hồ đồ võ phu ...

    - Ngừơi Dương đóng cung Âm : có thực nhưng kín đáo nhún nhừơng, biết mình, biết người ...

    - Ngừoi Âm đóng cung Dương : người sống giả tạo, nhiệt tình vay mượn ...

    Ví dụ : Người Quý Mùi (Mệnh Âm) Cung Mệnh đóng tại Dần (Cung Dương), nên chưa xét đoán chi tiết, ta có ngay một ý niệm là người không có bản lãnh, biết ít mà phô trương thì nhiều, sống tạm bợ với nhiệt tình vay mượn ...

    10- Thời thế tạo Anh-hùng

    Tiểu hạn mỗi năm được xác định tại một cung. Người xem Tử-vi hay có thói quen lấy cung tam Hợp và cung Nhị hợp với cung lưu niên, để giải đoán vận hạn hên xui của một năm (giống như cách xem đại hạn 10 năm). Thật ra muốn tìm hiểu thời kỳ đại hạn là hay hoặc dở ta chỉ nên luận giải về vòng Thái tuế, còn tiểu hạn một năm phải bám sát các Sao ngụ trong cung lưu niên. Một năm cũng có thời kỳ riêng của mỗi hành trong Ngũ hành :
    • 2 tháng rưỡi đầu mùa Xuân : hành Mộc
    • 2 tháng rưỡi đầu mùa Hè : hành Hỏa
    • 2 tháng rưỡi đầu mùa Thu : hành Kim
    • 2 tháng rưỡi đầu mùa Đông : hành Thủy
    • 15 ngày cuối mỗi mùa : hành Thổ.
    Rồi từ căn bản này, ta đối chiếu với các hành của sao trong cung lưu niên muốn xem, và phải để ý đến tính chất : sao thuộc hành nào sẽ hoạt động (giống như phiên trực của quân đội) vào thời gian của hành ấy (chứ không thể có sự hoạt động nhất loại của các sao trong suốt năm mà người đời thường chọn ngày cúng sao hạn là vì vậy).

    Thí dụ : Người Mệnh Thổ, lưu niên tại cung Tý có các sao :
    • Hành Mộc : Đào Hoa, Ân Quang, Hóa Quyền.
    • Hành Hỏa : Thiên Khôi, Thiên Đức, Địa Kiếp, Phi Liêm.
    • Hành Thổ : Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù.
    • Hành Kim :Thiên Khôi (đới Kim), Tả Phù (đới Kim), Hồng Loan (đới Kim)
    • Hành Thủy: Tham Lang, Hồng Loan.
    Ta giải đáp dễ dàng niên hạn của đương số như sau :​
    • Mùa Xuân : Có quý nhân giúp đỡ, thăng tiến công danh rất mau.​
    • Mùa Hè :May rủi liền nhau, càng cao danh vọng càng dày gian nan.​
    • Mùa Thu :Trở lại sự bình yên, có bằng hữu thuận thảo.​
    • Mùa Đông : Tình cảm thoải mái, yên vui ...​
    • Riêng 15 ngày cuối mỗi mùa (Thổ) gặp các sao Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù nên hay có chuyện lo nghĩ , nhờ Thiên Tài hóa giải nhóm hung tinh : Tuyệt và Tả Phù ... thành ra cũng qua khỏi vào phút chót.​
    Khi áp dụng luật Ngũ Hành cho sao theo mùa, ta không nên quên so sánh Ngũ Hành của sao với Ngũ Hành của Cung, để thấy rõ hơn cường độ hoạt động của các Sao bị ảnh hưởng như thế nào trong mùa của nó.

    Qua ví dụ nêu trên : Cung Tý là Thủy, đương nhiên các sao Mộc tăng cường lực, các sao Kim bị suy nhược, các sao Thổ bị trở ngại và các sao Thủy khởi sắc nhất (giống như : Giang san nào anh hùng nấy - Rừng nào Cọp ấy )​

    Tóm lại, bài viết này không ngoài mục đích muốn cống hiến người hâm mộ Tử-vi một vài quan điểm mới, để cùng nhau soi sáng một khoa học cổ điển (vốn bị hiểu lầm là lạc hậu, thoái hóa) có giá trị cao độ của ngành nghiệm lý xã hội.
    (Trích từ Báo KHHB của GS Lê Trung Hưng)​
     
    Last edited by a moderator: 10 Tháng năm 2008
  3. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    10 Kinh nghiệm Sát-Thủ của Tử-Vi

    GS Lê Trung Hưng (Trích từ Báo KHHB)

    Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Người viết xin trình làng những kinh nghiệm được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :

    1- Sinh bất phùng thời : Hạn Thái Tuế Vô Chính diệu

    Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

    Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
    • Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
    • Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
    • Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
    • Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
    • Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )
    2- Đồng bệnh tương lân :

    Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

    - Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

    - Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này )

    - Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

    Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

    3- Đời là bể khổ : Cung Ách

    Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .

    - Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

    - Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :

    Đã mang lấy nghiệp vào thân
    Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

    - Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

    Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

    - Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

    - Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...
     
    Last edited by a moderator: 13 Tháng một 2009
  4. ThuSinh

    ThuSinh New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng bảy 2007
    Bài viết:
    35
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Bài viết này rất hay, mang nhiều nội dung cần thiết cho những ai cần học Tử Vi, khi có thời gian, mong chú PhuocDuyen viết tiếp để mọi người cùng đọc.

    Chúc chú khỏe.
    Thusinh.
     
  5. niitpro

    niitpro New Member

    Tham gia ngày:
    23 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    74
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Những bài viết này giúp người đọc khám phá ra bản thân mình ko ít, để mà điều chỉnh, đa tạ bác Phước Duyên, đc đọc các bài viết bác gửi lên đúng là có duyên .

    Happy new year !
    H
     
    Last edited by a moderator: 2 Tháng một 2008
  6. nguyenho159

    nguyenho159 New Member

    Tham gia ngày:
    3 Tháng một 2007
    Bài viết:
    38
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    - nguyenho159 cảm ơn bác PhươcDuyen đã chia sẻ cùng mọi người những kiến thức rất là hay . CHáu rất hứng thú với môn tử vi này sau khi đọc được những điều trên , cảm ơn bác phuocduyen nhiều !
     
  7. Bach Ho

    Bach Ho New Member

    Tham gia ngày:
    18 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    76
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Bài viết rất hay có nhiều kiến thức rất quý ! Cảm ơn Bác Phuocduyen !
    Chúc Bác luôn khỏe , sống thật vui và thanh thản, hạnh phúc !
     
  8. vochinhdieu

    vochinhdieu New Member

    Tham gia ngày:
    1 Tháng tư 2007
    Bài viết:
    39
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Sao mãi bác Phước Duyên chưa viết tiếp nhỉ ? Vô chính diêu đã in ra và đang mong được đọc tiếp bài của bÁc. Xin cảm ơn bác
     
  9. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    10 Kinh nghiệm sát thủ của Tử-Vi

    4- Công ơn Tổ-Phụ : Cung Phúc Đức vô chính diệu

    Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

    Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

    Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

    Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

    5- Đen như mõm chó ! : Cung Quan vô chính diệu

    Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

    – Người trần thế muốn nhàn sao được ?

    Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

     
    Last edited by a moderator: 12 Tháng bảy 2008
  10. jickerman

    jickerman New Member

    Tham gia ngày:
    2 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    80
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Mong bác Phuocduyen tiếp tục post bài cho bọn cháu học hỏi .
     
  11. NhatChiMai

    NhatChiMai New Member

    Tham gia ngày:
    1 Tháng tư 2008
    Bài viết:
    7
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Bác Phuocduyen cho cháu hỏi chút nhé.
    Nếu đạt được điều kiện khắc chế như trên nhưng có Tuần Triệt ở cung xung chiếu có chính diệu thì có lấy chính diệu về được không bác?
    Cháu cám ơn nhiều.
     
  12. copdoi

    copdoi New Member

    Tham gia ngày:
    8 Tháng ba 2007
    Bài viết:
    3
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    xin hỏi nếu mệnh VCD ở mùi, xung chiếu là Cự Đồng ở sửu, tam hợp là Nhật Lương ở mão, Nguyệt ở hợi.
    Vậy cách cụ luận theo Cự Đồng hay theo Nhật Nguyệt. đa tạ chỉ giáo
     
  13. Hoaquynh

    Hoaquynh Member

    Tham gia ngày:
    16 Tháng chín 2007
    Bài viết:
    103
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Chao NhatChi Mai;

    Như ở phần trên Bác PD có nêu : Khi nào chính diệu xung chiếu được coi như chính diệu tọa thủ ở cung vô chính diệu ? Chỉ khi nào Vòng tam hợp của cung vô chính diệu có hành khắc chế được hành của Vòng tam hợp cung xung chiếu có chứa chính diệu ".

    Bạn hỏi :“Nếu đạt được điều kiện khắc chế như trên nhưng có Tuần Triệt ở cung xung chiếu có chính diệu thì có lấy chính diệu về được không bác? “ .

    Tôi xin trả lời : Vẫn lấy về được. Nhưng có Tuần Triệt xung chiếu thì ảnh hưởng của Tuần Triệt vẫn còn ảnh hưởng gián tiếp tới cung đối diện nhưng không mạnh bằng chính cung có Tuần Triệt án ngữ. Trong trường hợp này phải cân nhắc kỹ khi phối hợp với các sao ở bản cung và cung tam hợp, nhị hợp …
     
  14. Phuocduyen

    Phuocduyen Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng sáu 2007
    Bài viết:
    277
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Tôi xin trả lời chung như sau :

    Cách này nhiều độc giả say mê tử vi đã biết gọi là cách : “Nhật Nguyệt tịnh minh chiêu hư không chi địa”. Các nhà Tử-vi cho rằng rất hay, nhưng chúng ta cũng cần phân biệt một vài trường hợp như sau để khỏi sai lạc nhiều :

    – Khi Mạng vô chính diệu có nhiều sao xấu (chiếu như : Không, Kiếp, Hỏa, Linh, Phục Binh ….) thực ra không nên có Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu vì như thế không khác gì “vạch áo cho người xem lưng” bao nhiêu sự xấu xa trong nhà mình đem phô ra hết, tuy vẫn thành công, phú qúy nhưng mọi người đều thấy rõ bộ mặt thực của mình. Như vậy tưởng cũng chẳng lấy gì là hay. Trong trường hợp này thà đừng có Nhật Nguyệt hoặc nếu có thì hãm địa (tức là không sáng sủa) còn hay hơn để đỡ bị chê cười, nhục nhã.

    – Nếu mạng vô chính diệu có Tuần hoặc Triệt án ngữ mà có Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu thì không còn được hưởng cách này nữa, hoặc nếu có được hưởng cũng chỉ là cái vỏ phú quý, đó là “giả cách” mà thôi.

    Ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt có thêm các cách quý khác thì hay vô cùng. Như lá số Đức Trần Hưng Đạo, tuổi Mậu Tý sinh ngày 30 tháng 12 giờ Ngọ.

    Lá số minh họa : Đức Trần Hưng Đạo

    Mạng Hỏa, Vô chính diệu, có Tuần, được Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu nên thông minh, danh vị xứng đáng, Hồng Việt, tả Hữu Khoa Quyền (văn võ song toàn, đức độ, chính minh quân tử (Song Long, Quan Phúc chiếu mệnh) không có hung tinh ở cung Mạng, chỉ nhờ Nhật Nguyệt chiếu. Tuần thu hút Nhật Nguyệt tịnh minh, lại thêm nhiều trung tinh tốt.

    – Nếu được đúng cách Nhật Nguyệt (tức là Mệnh không có Tuần, Triệt và cũng không có các sao xấu) thì nên có thêm Thiên Không hoặc Thiên Hư (như Lá số Khổng Minh) để khoảng chân không được thăm thẳm cho có nhiều chiếu sâu cho mặt trời và mặt trăng chiếu, như thế công danh, phú qúy mới phi thường và óc thông minh mới siêu việt, nhưng vẫn phải đóng vai trò “phó” mới lâu bền được.

    * Lá số minh họa : Khổng Minh

    * Còn đây Lá số Giáo sư B : Lá số

    Hai lá số này đều giống nhau hoàn toàn về cách ”Nhật Nguyệt tịnh minh”. Nhưng đã có một số khác bị phá cách tại các cung Mệnh, Phúc, Quan, Di …. Như tại cung Di ở 2 lá số này đều có Thiên Đồng Cự Môn hãm địa tọa thủ. Ở lá số Khổng Minh có Tuần án ngữ tại cung Thiên Di đã hóa giải tình trạng khắc hãm đó, còn ở GS B thì không. Cung Quan của GS B có Thiên Mã đắc Tuần còn ở Khổng Minh cũng vị trí đó ngộ Bệnh đắc Cô-Qủa (nghị lực nhiều nhưng cố kiên trì …) Chính vì Tuần ở đó mà cung Quan Thái Âm của GS B kém sáng so với vạn Thế Sư Khổng Minh … Đã vậy lại còn bị hội đủ cả hung sát tinh nên GS B đã bị tử nạn vào tiểu hạn năm Hợi (1971), gốc Đại hạn đang ở vào (35-44 tuổi). Tôi sẽ trình bày hai lá số này vào 1 dịp khác khi đề cập đến cung Mệnh vô chính diệu.

    – Còn ở những trường hợp khác về "Nhật Nguyệt tịnh minh", như Mệnh, Thân nghịch lý với Âm Dương ngũ hành và không có thêm được những bộ sao đắc cách hội chiếu như : Thiên Mã, Lộc, Khoa, Quyền, Tả-Hữu, Ân Quang,Thai, Thanh Long, Long Đức, Thiên Quan, Thiên-Phúc . .. hoặc có nhưng không đủ bộ. Tuy cuộc đời cũng đủ no cơm áo ấm, nhưng đường hoạn lộ công danh, tiền bạc . . . ít khi xứng ý toại lòng buổi đầu lập nghiệp rất chật vật.

    Các bạn cần chú ý luận đoán Tử-Vi khi gặp những trường này !..
     
    Last edited by a moderator: 14 Tháng sáu 2008
  15. rabbit

    rabbit New Member

    Tham gia ngày:
    9 Tháng sáu 2008
    Bài viết:
    6
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Thưa bác Phước Duyên, xin cho rabbit được hỏi về Thiên Mã gặp tuần. Bác đã viết:"Thiên Mã đóng ở cung Thân, tức là Mã Kim, Thiên Mã đóng ở cung Dần là Mã Mộc .... Tuy vậy, có điều lý thú nhất, là khi Mã đóng ở cung nào có sao Tuần thì phải nên hiểu rằng : Mã không còn ở cung đó nữa, mà Thiên Mã đã nhờ chiếc cầu Tuần nhảy tới (theo chiếu thuận) vị trí mới để trở thành Mã của hành ở cung mới nhảy tới. Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân mà cung Thân có sao Tuần thì phải hiểu rằng Thiên Mã đã nhảy tới cung Hợi, để trở thành Mã Thủy (chứ không phải là Mã Kim nữa). Do đó, khi đối chiếu ngũ hành của Mã với ngũ hành của Mệnh, ta nên để ý tới sự kiện Mã ngộ Tuần (Sao Triệt không kể tới) mà luận giải về tính cách phấn đấu của đương số trong đời sống cũng như về những tai họa do xe cộ gây ra ...". Rabbit có Mã ở dần gặp tuần triệt đồng cung vậy thì mã của rabbit có nhảy theo chiều thuận để tới cung tỵ không ạ
    Xin cám ơn Bác
     
  16. namminh

    namminh New Member

    Tham gia ngày:
    20 Tháng năm 2007
    Bài viết:
    3
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    :-OKhông biết cái xung này ở đâu ra mà tại hạ chưa từng nghe thấy, chỉ biết mỗi chính xung (lục xung) tý - ngọ, mão - dậu, thìn - tuất, sửu - mùi, dần - thân, tỵ - hợi; với bàng xung (tứ hành xung) Tí Ngọ - Mão Dậu; Thìn Tuất - Sửu Mùi; Dần Thân - Tị Hợi.
    Có thể kiến văn tại hạ còn kém xin các cao nhân chỉ giáo thêm~_coffee~_coffee~_coffee
     
  17. VoPhong

    VoPhong Hội Viên

    Tham gia ngày:
    13 Tháng bảy 2007
    Bài viết:
    962
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Gửi namminh

    cậu có biết xung phá là gì không?như thế là xung phá đó


    Dần hợp với hợitị xung khắc hợi làm cho sự hợp hóa của dần hợi tan rã,cho nên dần căm thù tị,quay ra cắn tỵ cho nên dần tỵ xung phá

    Các cặp khác cũng tương tự

    Chúc cậu luôn thành công!!!!
     
  18. rabbit

    rabbit New Member

    Tham gia ngày:
    9 Tháng sáu 2008
    Bài viết:
    6
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Bác Phuocduyen ơi
    Rabbit xin được cảm ơn các bài viết của bác về 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi10 Điều soi sáng cho khoa Nghiệm-Lý Tử Vi nhưng 10 kinh nghiệm sát thủ thì mới thấy tới kinh nghiệm thứ 5 thì hết rồi. Không biết khi nào Rabbit và mọi người sẽ được đọc tiếp bài viết rất thú vị và hấp dẫn của Bác ạ?
    Rabbit kính chúc Bác luôn khỏe
     
  19. namminh

    namminh New Member

    Tham gia ngày:
    20 Tháng năm 2007
    Bài viết:
    3
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

    Cảm ơn vophong nhiều !=D>~_bighug:-D~_rose
     
  20. Hoaquynh

    Hoaquynh Member

    Tham gia ngày:
    16 Tháng chín 2007
    Bài viết:
    103
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: 10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi


    To : Rabbit

    - Mã gặp Triệt trấn ngay cung thì hỏng !!!!!

    - Còn Mã ngộ Tuần và Triệt đồng cung cũng vậy, vì con Mã đã bị khóa chặt (ví như Ngựa bị nhốt trong chuồng vậy) không còn đắc dụng nữa ! Xem con Mã liên hệ tới cung nào thì mình sẽ bị ảnh hưởng nhiều tới cung đó, nhất là các năm lưu niên mình gặp phải Thiên Mã và Lưu Thiên Mã lưu động. Ảnh hưởng tốt hay xấu còn phụ thuộc vào hành của bản mệnh và hành của cung như bác PD đã nêu. Đồng thời kết hợp thêm các trung tinh giải cứu như Lộc Tồn, Hóa Khoa .... khi Thiên Mã gặp Tuần Triệt đồng cung.
     
    Last edited by a moderator: 8 Tháng bảy 2008

Chia sẻ trang này