36 kế nhân hòa - Kế 35. Kế đàm phán

Thảo luận trong 'Nghệ thuật sống là Lợi mình = Lợi người: Luôn đúng' bắt đầu bởi dcba, 26 Tháng tư 2007.

  1. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Làm thế nào để chiếm thượng phong trong xung đột và tranh
    chấp?
    1 . Đàm phán là một cuộc đọ sức nhẫn nại
    Quá trình kích tướng luôn luôn là quá trình đọ sức nhẫn nại, ai
    mất nhẫn nại trước thì thua. Trong một câu chuyện về Rockerffeller
    kể lại một hôm đột nhiên một ngươi xông vào phòng làm việc đến
    trước bàn của ông nắm tay đấm mặt bàn, nổi giận đùng
    đùng, hét to: " Roekerffeller! Tao hận mày! Tao có đầy đủ lý do để hận
    mày rồi chửi mắng hơn mấy phút. Các nhân viên trong phòng làm
    việc vô cùng công phẫn, cho rằng Rockerffeller sẽ ném lọ mực vào mặt
    anh ta hay gọi bảo vệ đến đuổi anh ta ra, nhưng ngoài dự đoán của
    mọi người, Rockerffeller không làm như vậy. Ông dừng bút
    nhìn anh ta một cách hiền hòa. Anh ta càng hung hăng ông càng hiền
    hòa khiến cho anh ta không hiểu tình thế ra sao dần dần bình tĩnh
    lại. Bởi vì một người nổi giận mà không ai phản kích thì không thể nổi
    giận lâu dài được. Anh ta mất giận. Anh ta chuẩn bị đến đấu
    Rockerffeller và đã nghĩ Rockerffeller sẽ phản ứng như thế nào, anh
    ta sẽ phản bác như thế nào. Cuối cùng anh ta gõ mấy cái lên mặt bàn,
    vẫn không có phản ứng gì đành lủi thủi bỏ đi. Còn Rockerffeller thì
    điềm nhiên như không có việc gì xảy ra, cầm bút tiếp tục công tác.
    Không đếm xỉa sự công kích vô lễ của đối phương là giáng trả một đòn
    thí mạng. Nguyên nhân thắng lợi là trong khi đối thủ nóng nảy,
    không nhẫn nại được nữa, liên tục tấn công anh mà anh vẫn bình
    tĩnh. Rockerffeller dùng biện pháp hạ thấp mình để kích tướng còn
    đối phương dùng chọc tức làm thủ đoạn, nhưng đối phương không có
    công phu nhẫn nại bằng Rockerffeller cho nên thất bại rút lui.
    Lại còn có một ví dụ khác: Glina bỏ phiếu phản đối một quyết
    định của quốc hội. Lãnh tụ đảng ông mắng ông là đồ phản bội, muốn
    phá hoại đảng. Lúc bấy giờ Glina đang viết, không thèm ngẩng đầu
    lên tựa hồ không có ông lãnh tụ cạnh mình. ông này thấy Glina lạnh
    lùng như thế lại càng thêm giận dữ, giận dữ đến mức nhục mạ Glina.
    Nhưng Glina vẫn không đếm xỉa, vẫn tiếp tục viết. Ông khách không
    còn cách gì khác bèn đi quanh bàn giấy của Glina rồi quay về chỗ cũ
    đứng lại tiếp tục nói thao thao bất tuyệt. Dù ông khách đã lặp đi lặp
    lại hành động này mấy lần nhưng Glina vẫn không ngừng bút. Cho
    đến khi hết lời hết giận ông khách chuẩn bị ra về, Glina mới từ từ đặt
    bút xuống, mỉm cười ném ra một cái nhìn đắc ý và nói: "Sao lại vội đi
    thế Quay lại tiếp tục trút giận đi?”
    Đánh nhau phải chọn đối thủ, khích tướng phải tìm người lỗ
    mãng. Tìm người khí cao chục trượng lạnh như băng giá mà kích
    tướng thì sẽ giáng như Napoleon gặp Mettonick, Chu Du gặp Khổng
    Minh. Kết quả tất nhiên lại bị kích tướng, tự mình chuốc lấy nhục vào
    thân.
     
  2. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 36 kế nhân hòa - Kế 35. Kế đàm phán

    2. Đạo đàm phán là nhất xướng nhất họa
    Triệu phú Mỹ Hove Husse có một lần muốn mua một loạt máy
    bay bèn tiến hành đàm phán với đại biểu một hãng chế tạo máy bay.
    Husse đề nghị viết rõ vào hợp đồng 34 yêu cầu của ông trong đó có 11
    yêu cầu không thể nhân nhượng, nhưng điều đó lại là bí mật của đối
    phương. Đối phương không đồng ý. Hai bên không bên nào chịu
    nhượng bộ, xung đột càng ác hệt phát triển đến mức đuổi Husse ra
    khỏi hội trường. Về sau Husse phái đại diện đến tiếp tục đàm phán.
    ông bảo với người đại diện chỉ cần tranh thủ được 1 1 điều chính trong
    34 điều thì được rồi. Sau một thời gian đàm phán người đại diện đã
    tranh thủ được 30 điều trong đó có 1 1 điều hành. Husse rất kinh
    ngạc hỏi người đại diện làm sao đạt được thành tích huy hoàng như
    thế. Người đại diện đáp rằng: "Rất đơn giản, mỗi khi đàm phán đến
    chỗ không nhất trí, tôi bèn hỏi đối phương: "ông muốn giải quyết vấn
    đề này với tôi hay là chờ Hove Husse cùng ông giải quyết? Kết
    quả lần nào đối phương cũng đồng ý với tôi!'.
    Rõ ràng bộ mặt của Husse và bộ mặt của người đại diện xem ra
    không khác gì nhau nhưng hợp hai bộ mặt lại thì có chỗ diệu dụng
    khôn lường. Đó là phương pháp mặt đỏ mặt trắng. Cách làm của sách
    lược này là đầu tiên đưa mặt trắng ra trước, dùng thái độ hùng hổ
    tiến công đối phương, đưa ra những yêu cầu quá đáng, ngạo
    mạn vô lễ, lập trường cứng rắn khiến cho đối phương phiền lòng phản
    cảm. Sau đó mặt đỏ ra sân khấu, thái độ ôn hòa tao nhã, nét mặt
    thành khẩn, nói năng hợp tình hợp lý và khéo léo ám thị cho đối
    phương biết nếu đàm phán không thành công thì mặt trắng lại tái
    xuất giang hồ. Như vậy đã tạo ra áp lực tâm lý cho đối phương. Trong
    tình thế đó, một mặt đối phương không muốn chạm trán với mặt
    trắng một lần nữa, một mặt vì thái độ mặt đỏ ôn hòa thân mật nên
    đạt đến hiệp nghị.
    Trong đàm phán thương nghiệp, mặt trắng có thể xuất hiện với
    nhiều bộ mặt khác nhau. Mặt trắng có thể là người có thể là việc, có
    thể thật có thể giả.Người môi giới, luật sư, giám đốc... đều có thể đóng
    vai mặt trắng làm người xấu. Chính sách, nguyên tắc, các loại quy
    chế... cũng đều có thể đóng vai mặt trắng làm người xấu. Cho nên mặt
    đỏ có thể nói, tôi rất muốn đồng tình với các anh song sợ giám đốc
    không đồng ý cho tôi làm như thế. Không nên nghĩ rằng hễ cứ tươi
    cười, giữ thể diện cho người khác, luôn luôn hòa khí thì có thể đàm
    phán thành công. Lúc nào cũng mặt đỏ thì người ta sẽ cho là anh cần
    người ta muốn bám vào người ta. Càng như thế thì đối phương lại
    càng cứng rắn, ngạo mạn, chiếm hết thượng phong trong đàm phán.
    Khi cần thiết muốn cho đối phương nếm mùi lợi hại thì có thể dùng
    thủ đoạn mặt trắng kích thích nhẹ nhàng đối phương. Cái gọi là kích
    thích không phải là nổi nóng hay là tổn thương đối phương mà chỉ
    làm cho đối phương chú ý đến thực tế, coi trọng bản nhân anh đồng
    thời nhắc nhở đối phương chớ tự đánh giá quá cao.
    Phương pháp kích thích đối phương có nhiều loại nhưng tác
    dụng đều nhằm làm đối phương phải suy nghĩ, lo lắng. Trong đàm
    phán thương nghiệp nhiều hành động ngoài lề đàm phán cũng làm
    cho đối phương phải chú ý, trực tiếp ảnh hưởng đến tình thế trên bàn
    đàm phán, có tác dụng kích thích. Ví dụ trong khi đang thương thảo
    mà lại tiếp xúc với khách hàng khác hay trong quá trình thương thảo
    mà có thương gia khác đến tìm, tạm thời gián đoạn đàm phán làm kéo
    dài thời gian dàm phán trong khi thời gian biểu lại rất sít sao, hoặc
    trực tiếp trao đổi tư liệu với thương gia khác... Tất cả những hành
    động này được cả hai bên rất chú ý và mẫn cảm, đều có thể ám thị rất
    nhiều điểm cho đối phương khiến cho đối phương khẩn trương.
    Đương nhiên phương pháp kích thích bên ngoài đàm phán
    không thể dùng bừa bãi. Phương pháp này rất mạo hiểm, dễ tổn
    thương tình cảm và thành ý của đối phương. Một mặt khác cần tránh
    làm to chuyện, cố ý hư trương thanh thế, kết qủa sẽ là khách hàng
    “giả" đuổi khách hàng thật làm cho đàm phán đổ vỡ tan nát. Cho nên
    kích thích đối phương phải hết sức khéo léo, đồng thời phải tỏ ra
    thành ý ám thị cho đối phương biết không phải anh không đắt hàng
    như gái vô duyên mà thực sự muốn kết duyên với đối phương, chỉ có
    điều tùy đối phương có chấp nhận tình duyên đó hay không mà thôi.
    Kích thích như thế mới dẫn đến hai bên hiểu biết hợp tác với nhau.
    Trong thương trường không phải chỉ có dùng ngôn từ kích thích
    đối phương mà một số sự thực lại có sức thuyết phục hơn. Nhưng nếu
    anh muốn tiếp tục hợp tác thì phải ám thị nhiều cách, nhiều đường
    cho đối phương hiểu chứ không nên tổn thương đối phương. Ví dụ nếu
    như tranh chấp giá cả chẳng hạn, anh có thể viện lý do mẫu mới của
    hàng hóa, chỉ trích hàng hóa cũ để thuyết phục đối phương chấp nhận
    giá mới.
    Một biến thể của diễn vai mặt trắng là diễn trò hai mặt. Sách
    lược hai mặt khiến cho người đàm phán lâm vào thế cưỡi hổ được giải
    thoát. Trong đàm phán thường nghe người một bên nói với nhau rằng:
    "Anh Lý, sao hôm nay anh khó tính thế, tôi vốn nghĩ rằng anh có thể
    đồng ý ?" hay "Tôi cho rằng các anh cũng có lý. Nếu chúng tôi đồng
    ý...", tựa hồ như đồng ý với đối phương, đề nghị với đồng đội nhượng
    bộ. Nhưng đó là đang biểu diễn trò hai mặt. Đầu tiên để cho một
    người tỏ ra cứng rắn rồi đến lúc nào đó, một người khác lại đưa ra đề
    nghị chiết trung nhưng người kia vẫn tỏ ra không muốn theo. Cuối
    cùng đồng đội nói đi nói lại, khuyên bảo mãi anh ta mới miễn
    cưỡng đồng ý. Đương nhiên đối phương được nhượng bộ tất phải đáp
    lại lời người khuyên bảo.
    Cũng có lúc biểu diễn hai mặt bằng cách trước tiên nhượng bộ
    những vấn đề thứ yếu. Đến vấn đề quan trọng thì bảo đối phương
    rằng anh đã nhượng bộ rồi, vậy đối phương cũng nên nhượng bộ vấn
    đề này. Anh đã cố hết sức rồi, vấn đề còn lại là do đối phương quyết
    định.
    Rõ ràng trò hai mặt này khó lòng lừa được đối phương già dặn
    kinh nghiệm. Nhưng trong quá trình đàm phán lâu dài khẩn trương
    thì không dễ gì phát hiện được chân tướng của trò này. Đặc biệt là
    người diễn trò hai mặt khởi xướng người họa này phối hợp ăn ý, khéo
    léo thì dù đối phương có nghi ngờ cũng không thể hoàn toàn khẳng
    định là anh đang diễn trò. Đối phương có thể ngờ có lẽ các anh nói
    thật lòng phải thừa cơ hội này phân hóa bọn họ.
     
  3. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 36 kế nhân hòa - Kế 35. Kế đàm phán

    3. Điểm đến huyệt đạo thì dừng
    Bất kỳ nhà đàm phán nào cũng đều phải hiểu rõ muốn được cái
    gì và có thể cho đối phương cái gì bởi vì đàm phán là hai bên trao đổi
    lợi ích nhu cầu cho nhau. Yêu cầu của mình tất mình biết rõ yêu cầu
    của đối phương thì khó nắm chắc. Cho nên trong đàm phán quan
    trọng nhất là phát hiện yêu cầu của đối phương hay là chủ động tạo
    ra yêu cầu cho đối phương. Có một người chuyên nghề đòi nợ, một lần
    được thuê đi đòi một món nợ tại một xí nghiệp nọ. Anh ta lân la đi tìm
    hiểu biết giám đốc xí nghiệp này trốn thuế và có bồ nhí. Sau đó anh ta
    đi tìm giám đốc đưa các việc đó làm điều kiện buộc ông ta phải trả nợ.
    Anh ta đã sáng tạo ra nhu cầu cần phải che giấu tội trốn thuế và bồ
    nhí của giám đốc, lấy đó làm điều kiện trao đổi lấy món tiền nợ. Đó là
    bí mật Karate phòng thủ đạo trong đàm phán.
    Trong khi đàm phán phải đánh vào chỗ yếu của đối phương thì
    sẽ có hiệu quả như điểm huyệt trong khí công. Lưỡng hùng tương
    tranh là sự đối chọi lý và khí của đôi bên. Lý là hạt nhân của khí, khí
    là mũi nhọn của lý. Lý thẳng thì khí mạnh, lý không thẳng thì khí
    yếu. Nhưng trong những điều kiện nhất định, khí thịnh thì cũng làm
    cho lý thêm cứng đôi phần. Nhà đàm phán lão luyện phải tìm ra
    nhược điểm của đối phương, đánh mạnh vào khiến cho nhuệ khí đối
    phương tiêu tan, bó tay quy hàng. Cái gọi là nhược điểm là những sai
    lầm trong luận điểm, thiếu chứng cứ, biện luận lệch lạc, các hạn chế
    về tính cách, hành vi, tình cảm của đối phương.
    Câu chuyện Gia Cát Lượng đánh bại các nho sĩ Đông Ngô đáng
    để cho những nhà đàm phán học tập. Gia Cát Lượng đến Giang Đông
    là sứ giả nước yếu mà lại đơn thương độc mã tựa hồ thân cô thế cô.
    Các mưu sĩ Giang Đông vốn mềm nắn rắn buông, chó cậy gần nhà và
    ỷ vào số đông nên khí thịnh đè người. Gia Cát Lượng quyết tâm trước
    tiên đánh gục khí của họ cho nên ra tay phũ phàng khống chế chỗ yếu
    hại của họ. Cho nên Trương Chiêu đứng đầu các mưu sĩ Giang Đông
    hào khí xung thiên mà cũng chỉ chịu nổi ba hiệp của Gia Cát Lượng.
    Nhược điểm nổi bật của Trương Chiêu là chủ trương hàng Tào. Đầu
    hàng là biểu hiện vô năng vô sỉ. Gia Cát Lượng nhằm đúng vào điểm
    đó. Sau khi đã miêu tả Lưu Bị nhân đức yêu dân như thế nào, quyết
    tâm chống Tào như thế nào, Gia Cát Lượng chuyển mũi nhọn sang
    Trương Chiêu, nói rằng: "Kế lớn của quốc gia an nguy của xã tắc phải
    có chủ mưu chứ không phải là bọn hư vinh mồm mép huyên thuyên
    bàn luận như nước chảy không ai bì được mà khi gặp việc phải ứng
    phó thì không chút tài cán. Thật là đáng để cho thiên hạ chê cười”.
    Đánh trúng điểm yếu của Trương Chiêu khiến y câm miệng. Còn bọn
    đàn em Trương Chiêu như Ngô Phiên, Bộ Chất, Tiết Tổng, Lục Tích,
    Nghiêm Tuấn, Trình Đức Khu thì chỉ chịu nổi một chiêu của Gia Cát
    Lượng. Tiết Tổng và Lục Tích hạ giá Lưu Bị, đề cao Tào Tháo về thân
    phận. Họ đã phạm vào điều húy ky trong dư luận của tầng lớp sĩ đại
    phu lúc bấy giờ. Gia Cát Lượng chộp lấy điểm đó mắng một ngươi là
    "vô phụ vô quân" (không cha không vua) một người là kiến thức trẻ
    con khiến cho cả hai xấu hổ. Nghiêm Tuấn và Trình Đức Khu là
    những hủ nho bị Gia Cát Lượng mắng là bọn đọc sách làu làu mà
    không chút mưu kế kinh bang tế thế.
    Gia Cát Lượng đã nhằm đúng yếu huyệt của các nho sĩ mưu sĩ
    Giang Đông hạ gục khí thế của họ.
    Một ví dụ khác là: Công sứ Anh Baker ở Nhật Bản là một người
    kiêu ngạo vô cùng. Khi ở Nhật Bản, ông giao thiệp với ngoại vụ đại
    thẩn Nhật Bản Tự Đảo Tông Thường và lục quân đại thần Tây Hương
    Nam Châu hay tỏ thái độ coi thường và hay chế giễu họ. Nhưng mỗi
    khi gặp việc khó khăn nan giải thì lại nói: "Chờ sau khi tôi nói chuyện
    với công sứ Pháp sẽ trả lời." Tự Đảo Tông Thường và Tây Hương Nam
    Châu quyết định nắm lấy câu nói này đả kích Baker cho chừa thói
    ngạo mạn. Một hôm Tây Hương Nam Châu cố ý hỏi Baker rằng: "Tôi
    mạo muội hỏi Ngài một việc, nước Anh có phải là thuộc quốc của nước
    Pháp hay không?” Nghe xong, Baker ưỡn ngực ngạo mạn vô lễ trả lời
    rằng: "Ngài nói quá hoang đường. Ngài là lục quân đại thần Nhật Bản
    tất phải biết nước Anh không phải thuộc quốc nước Pháp. Nước Anh
    là nước quân chủ lập hiến lớn nhất thế giới thậm chí nước Cộng hòa
    Đức ý chí cũng không thể sánh" Tây
    Hương Nam Châu lạnh lùng nói: "Trước tôi cũng cho rằng nước Anh
    là một nước độc lập hùng cường, bây giờ tôi không còn nghĩ như thế
    nữa". Baker nổi giận hỏi: "Vì sao? Tây Hương Nam Châu mỉm cười
    đáp rằng: "Thực ra không có gì đặc biệt Chi là khi đại biểu chính phủ
    chúng tôi cùng Ngài bàn luận những vấn đề quốc tế thì Ngài luôn
    luôn nói chờ Ngài thảo luận với công sứ Pháp rồi mới trả lời. Nếu nước
    Anh là một nước độc lập thì sao lại phải nhìn sắc mặt nước Pháp mà
    hành động? Như thế thì nước Anh không phải là thuộc quốc nước
    Pháp là gì? Baker không lời đối đáp, từ đó về sau không dám ngạo
    mạn nữa.
    Tây Hương Nam Châu nam được nhược điểm trong lời nói của
    Baker tấn công có hiệu quả. Không nghi ngờ gì nữa, bắt kỳ ai cũng
    không thể thập toàn song khó lòng tránh khỏi nhược điểm. Những
    người ngạo mạn thì khi bị dành đúng nhược điểm sẽ không còn phút
    khí thế.
     
  4. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 36 kế nhân hòa - Kế 35. Kế đàm phán

    4. Một bước lùi hai bước tiến
    Có khi trong đàm phán, một bên không dám lui một bước để ép
    đối phương vì sợ phá vỡ đàm phán, phá tổ chim bay trứng vỡ. Người
    đàm phán lão luyện bất chấp thủ đoạn, cố làm sao nắm bắt được ý đồ
    thật sự của đối phương, nắm lấy quyền chủ động trong đàm phán, lúc
    đó thì dùng phương thức nào để đoạt thắng lợi chỉ còn là vấn đề kỹ
    thuật. Mục đích lùi để tiến là một loại kỹ thuật thường dùng.
    Ban đầu kênh đào Panama không phải do Mỹ đào thanh. Cuối
    thế kỷ 19 một công ty Pháp ký kết hợp đồng với nước Colombia đào
    kênh Panama nối liền Đại Tây dương và Thái Bình Dương. Tổng công
    trình sư công trình này là người Pháp Letxep nổi tiếng vì đã đào kênh
    Xuyê ông cho là không có vấn đề gì. Nhưng tình hình Panama lại
    khác Xuy, công trình tiến triển rất thậm, bắt đầu thiếu vốn, công ty
    sa vào cảnh quẫn bách. Năm 1880, Mỹ cũng đã muốn đào con kênh
    nối liền hai đại dương nhưng do Pháp phỗng tay trên nên Mỹ rất hận.
    Khi công ty Pháp cho đại diện Buriler đến Mỹ gạ bán công tỵ kênh
    đào Panama với giá 100 triệu đô la thì Mỹ vốn đã thèm nhỏ dãi, nay
    thấy Pháp muốn bán nên vô cùng sung sướng. Nhưng Mỹ lại tỏ ra vẻ
    dùng dằng. Roosevelt kêu cầu ủy ban kênh đào Mỹ quốc báo cáo
    chứng minh đào kênh ở Panama là tiết kiệm tốt nhất. Báo cáo nêu ra
    đào kênh ở Niearagoa tốn 200 triệu đô la. Kênh đào Panama tuy chỉ
    hơn 100 triệu đô la song còn phải trả cho công ty Pháp một số tiền
    nữa cho nên toàn bộ chi phí sẽ là hơn 2O triệu đô la. Sau khi xem báo
    cáo này Buriler thất kinh. Nếu Mỹ không mua kênh panama thì Pháp
    chẳng được xu nào ông bèn hạ giá bán kênh đào Panama xuống 40
    triệu đô la. Như vậy Mỹ đã tiết kiệm được 60 triệu đô la. Roosevelt
    cũng lại dùng kế sách đó ép chính phủ Colombia. Ông điều khiển quốc
    hội Mỹ ra một quyết định nếu Mỹ không đạt được hiệp nghị với
    Colombia thì sẽ đào kênh Nicaragoa. Đại sứ Colombia tại Mỹ lo sợ
    bèn lập tức ký kết ngay hiệp định đồng ý cho Mỹ thuê lâu dài cả khu
    vực rộng 3 km mỗi bên kênh đào với giá 10 triệu đô la, ngoài ra mỗi
    năm Mỹ còn trả 100000 đô la tiền thuê đất.
    Roosevelt đã dùng mưu trước lùi sau tiến đã mua được kênh
    Panama và với một giá rất ít đã có quyền sử dụng kênh đào Panama.
    Nhưng trong nhiều trường hợp khó mò được ý đồ thực của đối
    phương, nếu đối phương dùng phương pháp đánh lâu dài thì có thể
    thử dùng cách lui bước đe dọa bỏ cuộc để uy hiếp đối phương. Có thể
    đối phương sợ đàm phán đổ vỡ hơn anh nếu quả như thế khi anh vờ
    rút lui phải để lại một mảnh đất đê xoay chuyển.
    Năm 1920, khi chính quyền Xô Viết vừa mới ra đời đã bị phe đế
    quốc bao vây phong tỏa. Để phá vỡ phong toả, Đảng cộng sản Nga hết
    sức hy vọng đặt quan hệ kinh tế với các nước phương Tây. Bấy giờ
    nước ý gặp tình thế kinh tế trong nước khó khăn nên muốn có quan
    hệ buôn bán với Nga Xô Viết. Bộ ngoại giao ý nhiều lần phát biểu
    thanh minh trên báo chí tỏ ý muốn khôi phục quan hệ kinh tế với Nga
    và chuẩn bị đón tổng phái đoàn kinh tế Nga đến Rôm. Nga nhanh
    chóng nắm bắt cơ hội này tuyên bố tổ chức phái đoàn kinh tế do nhà
    ngoại giao kiệt xuất Okohopxki dẫn đầu đến Roma. Nhưng vào lúc đó
    thì tình hình chính trị trong nước ý đột biến, các thế lực phát xít
    chống cộng bài Nga ngóc đầu dậy tiến hành hoạt động bạo lực. Đoàn
    đại biểu kinh tế Nga thường bị quấy nhiễu theo dõi kiểm soát bắt cả
    đại diện bộ ngoại giao Nga Xô. Dưới áp lực đó, chính phủ ỳ đành phải
    cự tuyệt công nhận địa vị đại biểu ngoại giao Nga song vẫn muốn ký
    hiệp nghị thương mại để cứu vãn tình hình kinh tế trong nước. Tháng
    5 năm 1921 thì hiệp định mậu dịch được ký kết. Chính phủ Nga phân
    tích sâu sắc thái độ của chính phủ ý quyết định dùng sách lược lùi để
    tiến tỏ ý không muốn ký kết hiệp nghị mậu dịch nữa. Chính phủ ý
    hoang mang phải nhượng bộ. Ba ngày sau, bộ trưởng ngoại giao hai
    nước gặp nhau và công nhận quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
    Nhu cầu là của cả hai bên. Anh cần đối phương, đối phương cần
    anh. Sau khi hiểu rõ điều đó thì có thể tiến hành lùi để bức bách đối
    phương nhượng bộ đạt đến hiệp nghị tức là tiến đến mục đích.
    Hai ví dụ trên cho thấy tìm hiểu ý đồ của đối phương là điều vô
    cùng trọng yếu. Nhưng có một điều cần sáng tỏ trong hai trường hợp
    trên bất kỳ người Mỹ hay người Nga đều không muốn đàm phán tan
    vỡ. Họ chỉ dùng sách lược để bức đối phương mà thôi. Cho nên trong
    đàm phán nếu anh phát hiện đối phương dùng sách lược lùi để bức
    bách anh thì anh có thể giả vờ lập tức đình chỉ đàm phán, buột đối
    phương phải trở lại bàn đàm phán và tiếp thu các điều kiện của anh.
    Đó là sự đọ sức của đôi bên.

    (sưu tầm)
     

Chia sẻ trang này