36 kế nhân hòa - Kế 5. Kế khen thưởng

Thảo luận trong 'Nghệ thuật sống là Lợi mình = Lợi người: Luôn đúng' bắt đầu bởi dcba, 15 Tháng ba 2007.

  1. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Làm thế nào trả giá ít nhất mà đổi lấy được nhân tâm?
    Người đời chữ danh là quan trọng nhất. Để giữ thể diện, người ta có
    thể khuynh gia bại sản, làm tổn thương thể diện có thể diện kết thành
    oán thù. Làm cho có thể diện thì người ta có thể vì mình liều mạng kẻ sĩ
    vì tri kỷ chết. Nếu ai xem nhẹ vấn đề thể diện thì bản thân họ không thể
    nào tôn trọng thể diện người khác và cũng không có ai bán thể diện cho
    họ.
    Ban phát thể diện là một thuật mà người lãnh đạo chuyên dùng,
    không phải cấp trên không thể ban thưởng thể diện cho người khác. Thể
    diện là tư cách. Cấp trên có thể tạo cho cấp dưới một tư cách nào đó. Có
    tư cách rồi thì không cần qụy lụy cầu xin ai chỉ cần ngỏ ý thì người chịu
    ơn mình phải lo sợ.
    Chúng ta phải chú trọng giữ thể diện, vì vậy không nên quá thân
    cận với ngươi khác. Thân cận dẫn đến khinh nhờn khiến cho lãnh đạo
    mất tinh thần bí và khuyết điểm cũng dễ bộc lộ.
    Giữ thể diện thì điều khó nhất là giữ thăng bằng giữa uy nghiêm và
    thân cận, đó gọi là “ xa thì chung thân, gần thì bất kính”.
     
  2. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 36 kế nhân hòa - Kế 5. Kế khen thưởng

    1. Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ
    Một ông nọ có một câu chuyện khiến người ta suốt đời khó quên.
    Trong khu tập thể gia đình tôi có một cụ già gác cổng. Cụ là một
    người cô đơn không gia đình, mọi người luôn vui vẻ với mọi người cho nên
    có người gọi “Cụ Hói”, ông ập tức quay đầu lại há miệng không còn răng
    cười phô cả lợi. Con tôi vừa 8 tuổi cũng theo chúng tôi gọi cụ là cụ Hói,
    ông cũng cười.
    Bỗng một hôm cụ ốm và không bao giờ ngồi dậy được.
    Khi sắp tắt thở, mọi người đều đến bên giừơng cụ. Nhớ ông đã gác
    cổng khu nhà này nhiều năm, mỗi người đều đã nhiều lần nửa đêm gọi
    ông dậy mở cửa hoặc nhờ ông trông nom hộ cháu bé hay nhắn giùm ai
    một việc gì đó Vì thế ai cũng coi ông như là bố, có người còn lấy giấy bút
    toan ghi chép di chúc của cụ. Cụ đã thoi thóp, lắc đầu quầy quậy. Những
    người đứng xung quanh rơi nước mắt. Cuối cùng cụ nói thều thào: “Nếu
    thư... có tổ chức... truy điệu thì chớ có quên. ..”. Không nói tiếp được nữa,
    nước mắt trào ra. Người ta bèn đưa giấy bút đến, cụ bèn vẽ nguyệch
    ngoạc 5 chữ lớn: Tôi là Trương Trường Sinh. Bút rơi xuống và cụ tắt thở.
    Trước khi qua đời cụ còn nhắc đến danh (tên gọi) của mình.
    Con người sống trên đời có khi chỉ vì danh mà bỏ lợi, có khi quên cả
    mạng sống. Nắm bắt được điểm này thì trong việc xử lý các quan hệ giữa
    người với người lúc nào cũng thành công. Chỉ cần động chạm đến danh
    của người ta thì người ta nhất định nổi giận. Còn nếu như làm cho người
    ta có danh thì người ta sẽ liều mình cho ta. Đó là cái gọi là kẻ sĩ chết vì
    người tri kỷ, thiếu nữ vì chàng trai mà trang điểm.
    Có một lần Tề Uy Vương và Nguỵ HuệVương cùng nhau đi săn.
    Ngụy Huệ Vương hỏi: “Nước Tề có bửu bối không?” Tề Uy Vương đáp
    rằng: “Không có”. Ngụy Huệ Vương nghe xong rất đắc ý bèn nói: “nước
    Ngụy tôi tuy nhỏ còn có viên ngọc đường kính 1 thốn, chiếu sáng đứng
    trước đằng sau 12 cỗ xe. Có cả thảy 10 viên như thế,
    chẳng lẽ nước lớn thư nước Tề của quý quốc lại không có bửu bối...
    Tề Uy Vương thản nhiên đáp rằng: “Tiêu chuẩn xác định bửu bổi của tôi
    khác với ngài. Tôi có một vị đại thần tên là Kiềm Phu, phái ông ta trấn
    thủ Từ Châu, nguời nước Yến thì lập đền cầu phúc ở phía cầu bắc cửa
    thành Từ Châu, người nuớc Triệu thì lập đàn cầu phúcở cửa đông thành
    Từ Châu, có hơn bảy ngàn hộ di cư đến xin lệ thuộc vào nước Tề. Tôi có
    một đậi thần tên là Chủng Thủ,phái oog ta coi việc trị an thì ngoài đường
    của rơi không ai nhặt. Bốn vị đại thần đó tài năng đức độ của họ chiếu
    sáng ngàn dặm chứ đâu chiếu sáng 12 cỗ xe.”
    Câu trả lời này đã khiến cho Ngụy Huệ Vương xấu hổ không biết
    nói gì nữa và đồng thời cũng là một lời tuyên dương đối với các thần hạ
    của mình. Chính nhờ vào những cách ban khen như thế mà Tề Uy Vương
    lung lạc dược nhân tâm một cách xuất sắc khiến cho một số đại thần nhú
    Điền Ky, Tôn Tuấn Phù, Vu Đăng v.v... là nhúng nhân tài kiệt xuất đều
    tâm phục khẩu phục, cam tâm tình nguyện tận tụy vì Tề Uy Vương. Nhờ
    vậy nước Tề đại trị xuất hiện ra cục diện đứng đầu triều đình bốn phương
    đều phải triều phục.
    Trong xã hội hiện đại, phương pháp này vẫn có giá trị thực dụng bởi
    vì tính xã hội của con người quyết định: Con người cần phải được người
    khác và xã hội thừa nhận, khẳng định. Nếu như ta thật tình ban thưởng
    , quan tâm đến người khác, chân thành yêu mến họ, ban thưởng khảng
    khái thừa nhận họ, tất nhiên sẽ có hiệu ứng tâm lí cảm kích và có tác
    dụng khích lệ họ. Thậm chí họ có thể xem ta là tri kỷ và có thể báo đáp
    kẻ sĩ chết vì người tri ky. Đối với người Trung Quốc, sự tôn nghiêm
    thường là vấn đề thể diện, không ban phát thể diện hay không có thể
    diện thường dẫn đến phẫn nộ và xung đột. Nhiều người vì thể diện mà
    đánh giết nhau. Khi kết hôn thì tuyên bố mọi thứ đều đơn giản hóa
    nhưng một mặt khác lại đòi hỏi yến tiệc mừng hỉ khuynh gia bại sản và
    chỉ sợ người khác không biết, lại càng sợ người ta không đến. Bởi vì tất cả
    những điều đó đều có quan hệ đến thể diện tức đến chữ danh. Trong lòng
    tuy rằng kêu khổ nhưng trên mặt bao giờ cũng tỏ vẻ vui sướng.
     
  3. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 36 kế nhân hòa - Kế 5. Kế khen thưởng

    2. Diệu kế chụp ảnh với cấp dưới
    Năm 1907, Tưởng Giới Thạch đến Nhật Bản học quân sự ở Chấn Võ
    Học Hiệu. Chẳng bao lâu thì người đồng hương của ông là Trần Kỳ Mỹ
    giới thiệu ông gia nhập Đồng Minh Hội. Trong thời kỳ này, Tưởng Giới
    Thạch gởi cho người anh họ một tấm ảnh có đề một bài thơ: “Dằng đằng
    sát khí mãn toàn cầu, Lực bất như nhân vạn sự hưu! Quan ngã Thần
    Châu hoàn ngã thanh, Đông lai chí khởi tại phong hầu” (Toàn thế giới
    đang chiến tranh, sức không bằng người thì không làm gì được. Ta đem
    tuổi thanh xuân đến Thần Châu chí tại lập công danh). Lời thơ tuy đơn
    giản nhưng biểu lộ đương thời Tưởng Giới Thạch còn là một thanh niên
    đầy nhiệt huyết, có ý thức dân tộc, biểu lộ chí hướng và hoài bão của
    mình.
    Về sau, khi địa vị của Tưởng Giới Thạch đã cao hơn trước thì ảnh
    của ông càng có nhiều cách sử dụng. Trước khi Bắc Phạt, Tưởng Giới
    Thạch đã bắt đầu muốn làm danh sĩ thiên hạ thâu tóm toàn bộ thế giới,
    xây dựng một sự nghiệp lớn. Mùa xuân năm 1926, Thiệu Lực Tử thừa
    lệnh Trung ương Quốc Dân Đảng Quảng Châu đến Thượng Hải liên lạc
    với các nhân sĩ giới báo chí, tuyên truyền chủ trương của Quốc Dân Đảng.
    Nhân cơ hội đó, Tưởng Giới Thạch nhờ mang một bức ảnh của mình
    chuyển tặng cho Trần Bố Lôi và gửi lời thăm hỏi vị nhân sĩ của giới báo
    chí này.
    Trần Bố Lôi đương thời là thủ bút tờ Thương Báo ở Thượng Hải.
    Ông tài ba, xuất chúng, văn chương như thần. Những bài xã luận, bình
    luận mà ông viết đều có một phong cách nổi tiếng trong giới báo chí
    Thượng Hải. Ông đã từng vì có quan hệ chính trị với Quốc Dân Đảng của
    Tôn Trung Sơn ở Quảng Châu, ngôn luận quá khích nên đã bị cơ quan an
    ninh của tô giới Thượng Hải hạch tội việc này càng làm cho ông ta nổi
    tiếng.
    Tưởng Giới Thạch không những bái phục Trần Bố Lôi về lòng dũng
    cảm và tài ba mà còn coi trọng ông vì là người đồng hương Triết Giang.
    Chính vì vậy mà gửi ảnh tặng.
    Trong một tiệc chiêu đãi giới báo chí ở Thượng Hải, Trần Bố Lôi
    nhận được ảnh của Tưởng Giới Thạch do Thiệu Lực Tử chuuển đến mới
    lần đầu tiên biết mặt Tưởng giới Thạch và cũng lãnh hội được ý tứ của
    Tưởng Giới Thạch, sau đó lại được lời mời cùng Tưởng Giới Thạch hội
    ngộ. Cuối cùng đến cuối năm này thì ông đến Nam Xương gặp vị Tổng tư
    lệnh quân đội Cách mạng Quốc dân Đảng, từ đó về sau trong hơn 20 năm
    rong ruổi theo Tưởng Giới Thạch, cho đến năm 1968 thì ông tự sát. Mối
    tình giao hảo giữa hai người chỉ bắt đầu bằng một tấm ảnh nhỏ.
    Tưởng Giới Thạch nhờ Trường Võ Bị Hoàng Phố lập nghiệp. Tưởng
    Giới Thạch làm hiệu trưởng trường đó. Biết rõ phải duy trì mối quan hệ
    giữa hiệu trưởng và học sinh cho nên không bao giờ bỏ qua cơ hội bồi
    dưỡng và lôi kéo học sinh. Trong công việc này, tặng ảnh cũng là một tiết
    mục nhỏ không thể bỏ qua.
    Trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật, Tưởng Giới Thạch thành
    lập Trung ương huấn luyện đoàn ở Phú Đồ Quan. Tưởng Giới Thạch tự
    mình làm đoàn trưởng tổ chức các lớp huấn luyện, quan trọng nhất là
    huấn luyện đảng chính. Nội dung huấn luyện ngoài phần huấn luyện
    quân sự ra còn huấn luyện chính trị, chủ yếu là giảng dạy về hình thế
    chiến tranh chống Nhật đương thời và phương châm chính sách của
    Trung ương đảng với trọng điểm là tận trung với lãnh tụ.
    Lớp huấn luyện kết thúc thì tiết mục quan trọng nhất là Tưởng
    Giới Thạch chụp ảnh với những người dự lớp huấn luyện. Sau khi chụp
    ảnh chung, Tưởng Giới Thạch còn lần lượt tiếp kiến từng nhóm 10 người
    trong khoảng 15 phút và chụp ảnh riêng từng nhóm. Khi có dịp còn tặng
    cho mỗi học viên một tấm ảnh có ghi tặng cho đồng khí X bên dưới ký
    Tưởng Trung Chính tặng và đóng con dấu. Tặng bứe ảnh đó vừa để cho
    học viên cảm thấy tình cảm sâu sắc, đi khắp nơi khoe khoang là môn
    sinh của Thiên tử. Và quan trọng hơn nữa khiến cho học viên luôn luôn
    nhớ tận trung với lãnh tụ.
    Sau khi kết thúc chiến tranh kháng chiến chống Nhật, Tưởng Giới
    Thạch bèn đưa ra chủ trương khoan hồng đối với những người Hán gian
    đã từng cầm quân theo Nhật, thu phục họ để mở rộng thế lực chống
    Cộng. Mùa xuân 1946 Tưởng Giới Thạch cùng Tống Mỹ Linh đi thị sát,
    triệu tập hơn 20 vị tướng lĩnh cao cấp của Quốc Dân Đảng ở Dự Bắc
    trong đó có những Hán gian như Bàng Bỉnh Quyên, Tôn Điện Anh
    v.v...Ngoài việc bày yến tiệc khoản đãi ra Tưởng Giới Thạch còn tổ chức
    chụp ảnh tập thể. Rồi sau đó Tưởng Giới Thạch ngồi lần lượt chụp ảnh
    với từng người để tỏ lòng ân sủng. Bàng Binh
    Nguyên, Tôn Điện Anh hết sức vui mừng đem phóng đại ảnh chụp chung
    với Tưởng Giới Thạch phân phát cho các thuộc hạ, thân bằng cố hữu để
    khoe khoang. Bọn họ biết rõ bằng, Tưởng Giới Thạch làm như thế là biểu
    thị không bao giờ tính sổ với họ nữa cho nên yên tâm đánh cộng sản, đó
    chính là mục đích của Tưởng Giới Thạch. Chiêu này của Tưởng Giới
    Thạch rất thành công. Người ngồi ở địa vị cao muốn vỗ về người bên dưới
    dễ dàng như thế. Có một số người hèn hạ được vị đại nhân nào đó vỗ về
    thì đã cảm thấy vinh quang, có thể diện, tựa hồ giá trị bản thân họ được
    đề cao. Tâm lí cảm kích khiến
    cho họ thề chết quên mình tận trung với đại nhân. Tưởng Giới Thạch biết
    với thân phận của mình chỉ cần chiếu cố ban phát thê diện cho cấp dưới
    thì có thể lung lạc được họ.
    Những nhà lãnh đạo hiện nay, các ông chủ phải chăng cũng nên
    thường xuyên chụp ảnh với cấp dưới...
     
  4. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 36 kế nhân hòa - Kế 5. Kế khen thưởng

    3. Lạt mềm buộc chặt
    Mạnh Hoạnh là một thủ lĩnh dân tộc thiểu số khu vực Nam Trung
    thời kỳ Tam Quốc, là một nhân vật rất có ảnh hưởng ở địa phương. Mạnh
    Hoạch cấu kết với Chu Bao, Ung Tiêu, Cao Định.... cử Ung Tiêu làm chủ
    soái. Thừa cơ nước Thục bị nước Ngô đánh bại, nguyên khí tổn thương,
    Lưu Bị vừa chết, Mạnh Hoạch bèn phát động dân tộc thiểu số nổi dậy
    giết chết các quan lại của nước Thục phái đến khu vực này công khai tiến
    hành khởi nghĩa vũ trang.
    Xưa nay Nam Trung là một khu vực nhiều dân tộc. Thời Tam Quốc
    nơi đây có nhiều dân tộc thiểu số, như tổ tiên của các tộc Di, tộc Choang,
    tộc Thái, tộc Độc Long ngày nay. Thời Hán các dân tộc này bị gọi là Tây
    Nam Di. Họ cùng cư trú với người tộc Hán, cùng nhau lao động khai phá
    biên cương Trung Quốc, có nhiều cống hiến to lớn cho sự phát triển kinh
    tế và văn hóa của Trung Quốc. Cuộc nổi loạn của Mạnh Hoạch vừa phá
    hoại nguyện vọng chung sống hòa bình của các dân tộc, vừa uy hiếp
    nghiêm trọng chính quyền Thục Hán, làm trở ngại việc đánh vào Trung
    Nguyên của Gia Cát Lượng. Để bảo vệ nước Thục, Gia Cát Lượng bèn
    tiến hành chuẩn bị, đến năm 225 CN thì chia quân thành ba cánh tiến
    công Nam Trung.
    Khi bắt đầu xuất quân, Gia Cát Lượng tiếp thu kiến nghị của tham
    quân Mã Tuấn, chủ trưởng lần xuất chinh này không phải nhằm giết
    sạch các phần tử phiến loạn chiếm đoạt thành lũy mà chủ yếu là chinh
    phục các nhân vật lãnh tụ địa phương, khiến cho họ tự nguyện phục tùng
    sự thống trị của nhà Thục Hán không làm phản nữa. Đó gọi là “công tâm
    vi thượng, công thành vi hạ”. .
    Gia Cát Lượng xuất quân không bao lâu thì nội bộ quân phiến loạn
    khu vực Nam Trung chia rẽ. Ung Tiêu bị bộ hạ giết chết, Mạnh Hoạch
    làm thống soái. Tiếp theo Gia Cát Lượng giết Cao Định, đánh tan quân
    đội Chu Bao. Tháng 5 năm năm đó Gia Cát Lượng đem quân vượt Lô
    Thủy truy kích Mạnh Hoạch.

    Vì Mạnh Hoạch có uy tín nhất định đối với quần chúng địa phương
    cho nên các dân tộc ít người và người Hán ở địa phương đều phục tùng, vì
    vậy Gia Cát Lượng chủ tâm không giết Mạnh Hoạch, mà nhất định phải
    bắt sống. Mạnh Hoạch thấy quân Thục đến bèn đem quân nghênh chiến.
    Tướng Thục Vương Bình đánh nhau với Mạnh Hoạch rồi quay đầu rút
    lui. Mạnh Hoạch xua quân tiến tới đuổi theo ven núi. Đột nhiên quân
    Hán từ hai bên sườn núi đánh ra, Mạnh Hoạch trúng mai phục, thất bại
    rút chạy. Quân Thục đuổi gấp bắt sống đượm mạnh Hoạch.
    Quân sĩ áp giải Mạnh Hoạch đến đại bản doanh gặp Gia Cát Lượng.
    Gia Cát Lượng hỏi Mạnh Hoạch: “Chúng tôi đối sử với người không kém
    tại sao ngươi chống lại triều đình”. Hiện nay đã bị bắt rồi, còn có điều gì
    nói nữa hay không?”. Nói xong, Gia Cát Lượng thân hành dẫn Mạnh
    Hoạch tham quan doanh trại quân Thục, hỏi
    Mạnh Hoạch: “người xem quân đội của ta như thế nào Mạnh Hoạch thấy
    doanh trại chỉnh tề, quân sĩ nghiêm minh sĩ khí hào hùng, trong lòng rất
    khâm phục nhưng vẫn chưa chịu phục tùng. Mạnh Hoạch nói: “Tôi không
    phải bị đánh bại, chỉ là không rõ thực hư, trúng kế mai phục của các ông
    nên mới bị bắt. Bây giờ nhìn thấy quân đội của các ông xem ra cũng chỉ
    đến thế mà thôi, nếu thực sự đánh với ông thì chúng tôi có thể thắng”.
    Gia Cát Lượng cười bảo rằng: “Nếu như vậy ta thả ngươii về. Người chỉnh
    đốn binh mã, đánh nhau một trận nữa ”. Nói xong bèn bày tiệc chiêu đãi
    Mạnh Hoạch, sau đó thả về.
    Sau khi trở về, Mạnh Hoạch lại liên tiếp đánh nhau với Gia cát
    Lượng cả thảy bảy lần đều bị bắt bảy lần. Lần cuối cùng, Gia Cát Lượng
    dồn quân đội Mạnh Hoạch vào khe núi chặn đứng đường về, phóng hỏa
    đốt núi. Lửa cháy đùng đùng thiêu đốt quân lính, kêu la đầy trời. Mạnh
    Hoạch lại bị bắt lần thứ bảy, lại bị giải đến đại bản doanh quân Thục.
    Quân lính truyền lệnh của Gia Cát Lượng: Thừa tướng không muốn gặp
    Mạnh Hoạch nữa,hạ lệnh thả Mạnh Hoạch về để chỉnh đốn lại binh mã
    đánh nhau một lần nữa. Mạnh Hoạch suy nghĩ hồi lâu bèn nói: “Bảy bắt
    bảy tha, đó là việc xưa nay chưa từng có Thừa tướng đã giữ thể diện cho
    ta nhu thế này , tuy ta không học hành nhiều nhưng cũng biết đạo lý làm
    người, làm sao ta lại không nể mặt Thừa tướng”. Nói xong bean quỳ
    xuống khóc thưa rằng: “Thừa thắng ân uy, chúng tôi không dám làm
    phản nữa .
    Gia Cát Lượng rất phấn khởi bèn đỡ Mạnh Hoạch dậy mời vào
    trong trướng, bày tiệc chiêu đãi rồi đưa tiễn Mạnh Hoạch ra ngoài doanh
    trại trở về.
    I)o đó có thể thấy, đối với những đối thủ ngoan cố không phải lúc
    nào cũng có thể dùng thủ đoạn cứng rắn lấy đá chọi đá. Làm như thế dù
    cho có chế phục được người ta cũng vị tất thu phục được lòng người ta.
    Làm như Gia Cát Lượng là thượng thượng sách. Mạnh Hoạch bảy lần
    thất bại dưới tay Gia Cát Lượng vốn đã mất hoàn toàn thể diện, có thể
    chém, có thể giết tùy Gia Cát Lượng. Nhưng Gia Cát Lượng không những
    không giết Mạnh Hoạch, thậm chí không làm nhục mà lại dùng lễ khách
    quý đối đãi Mạnh Hoạch. Gia Cát Lượng đã bảo vệ thể diện cho Mạnh
    Hoạch. Gia Cát Lượng đã xử sự tuyệt hảo. .
    Ngoài ra, ban phát thể diện là việc người lớn đối với người nhỏ, bề
    trên đối với cấp dưới, kẻ mạnh đối với kẻ yếu Nếu như Gia Cát Lượng
    không có quân đội hùng mạnh dụng kế tài tình thì cũng không thể nào
    khoan dung bảy bắt bảy tha. Cho nên không nên ban thể diện một cách
    bừa bãi để người ta khỏi chê cười.
     
  5. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: 36 kế nhân hòa - Kế 5. Kế khen thưởng

    4. Khiến kẻ lười làm việc nặng
    Một viên chức nhỏ hàng ngày chuyên đến cơ quan trễ, về nhà sớm.
    Ông chủ nhiệm đã nhiều lần thành tâm thành ý giáo dục nhưng anh ta
    vẫn cứ đến trễ về sớm dù cho đã phê bình, phạt tiền. Cuối cùng chủ
    nhiệm cử anh ta làm tổ trưởng phụ trách một tổ công tác. Đầu tiên anh
    ta không chịu làm, người khác nghe nói phong anh ta làm tổ trưởng ai
    cũng cả cười cho rằng chủ nhiệm đang đùa. Nhưng chủ nhiệm vẫn cương
    quyết như thế. Anh chàng viên chức nhỏ này cũng đành nhận việc. Thật
    là ngoài sức tưởng tượng. Không những anh ta phụ trách tổ công việc của
    tổ mà còn tự mình không bao giờ đến trễ về sớm nữa. Hơn nữa làm việc
    lại xuất sắc hơn các tổ
    trưởng khác.
    Giao cho người ta trách nhiệm, khuấy động lòng tự tôn và lòng tự
    tin của người ta thì tốt hơn phê bình kỷ luật. Mỗi một cá nhân đều quan
    trọng chỉ cần cho người ta cơ hội. Trong xí nghiệp, người lãnh đạo bất
    luận khi làm kế hoạch hay trong công việc hàng ngày đều phải nhớ kỹ
    trong lòng điều đó và luôn luôn phải thể hiện trong hành động.
    Công ty thời trang Mary của nước Mỹ do Mary sáng lập và làm
    giám đốc nói về phương pháp lãnh đạo như sau: “Một khi tôi thay một
    người nào đó tôi bèn tưởng tượng ra trên thân thể của mỗi người đều
    mang một tín hiệu:Hày để cho tôi cảm thấy tôi là quan trọng. Tôi bèn lập
    tức hưởng ứng tín hiệu đó, hiệu quả là đạt đến những hiệu qủa ngoài
    tưởng tượng”. Mary làm như vậy bởi vì bà đã từng bị người ta đối xử
    lạnh nhạt khi bà còn là nhân viên trong một công ty khác. Có một lần bà
    cùng các đồng sự chờ được bắt tay ông giám đốc công ty Thương mại của
    Mỹ. Chờ khá lâu đến khi bà đến trước mặt ông giám đốc công ty Thương
    mại, tuy ông ta vẫn bắt tay bà nhưng rất hững hờ tựa hồ như Mary
    không tồn tại. Điều đó làm tổn thương sâu sắc Mary, cho nên sau khi
    Mary lập công ty thời trang của mình thì mỗi khi tiếp nhân viên dù cho
    bận rộn bao nhiêu, mệt nhọc bao nhiêu bà cũng tập trung tinh thần tiếp
    đãi nhân viên tử tế khiến cho mỗi một nhân viên đều cảm thấy mình
    quan trọng. Như vậy nhân viên cảm kích lòng tri ngộ của bà nên làm việc
    tận tâm tâm lực. Tục ngữ nói thật đúng, tim người bằng thịt. Một khi
    cảm thấy người ta đối xử với mình một cách hữu hảo và tôn trọng mình
    thì không bao giờ dùng oán báo ân.
    Người xưa đã từng dùng kẻ trộm làm cảnh sát đã chứng minh tính
    ảo diệu của biện pháp ban phát thể diện.
    Thời kì Tây Ngụy, một dải phía bắc Ung Châu thường có trộm cướp.
    Vì núi non hiểm trở, trộm cướp ẩn nấp dễ dàng, quan quân không cách gì
    bắt được. Thứ sử Hàn Bao trong lòng rất lo lắng phái người dò thám
    khắp nơi. Kết quả nhận thấy bọn trộm cướp đều là con em của các thổ
    hào địa phương. Hàn Bao giả vờ không biết là con
    em của các thổ hào làm trộm cướp, mời chào các vị thổ hào ấy một cách
    khách khí.
    Một hôm ông mời tất cả các vị thổ hào ấy đến họp, nói với họ một
    cách thành khẩn rằng: “Thử sử tôi là một kẻ thư sinh làm gì biết cách bắt
    trộm cướp, cho nên xin mời các vị cùng nhau giúp tôi giải quyết việc này.
    “ Nói xong phong chức cho con em thổ hào thường ngày hay quấy rối, giao
    cho mỗi người phụ trách một khu vực. Nếu như phát hiện có trộm cướp
    mà không bắt thì xử lý tội cố
    ý dung túng. Vì vậy, các chàng trai trẻ vừa được phong chức không ai
    không sợ hãi đều tự thú nhận những án trộm cướp trước kia đều do bọn
    họ làm. Những kẻ trộm cướp được giao nhiệm vụ này trở thành phần tử
    tích cực giao nộp toàn bộ danh sách các đồng đảng, chỉ rõ nơi ẩn trốn của
    đồng đảng.
    Hàn Bao cầm lấy danh sách, dặn dò các quan viên này rồi cho họ
    trở về nhà. Hôm sau dán một cáo thị tại cổng thành chiêu hồi tất cả
    những tên trộm cướp. Nếu trong vòng một tháng ai không ra đầu thú thì
    sẽ đánh bắt trị tội, tịch thu gia sản của chúng. Trong vòng mười ngày
    quả nhiên toàn bộ bọn trộm cướp đều đến tự thú. Hàn Bao điếm diện
    theo danh sách không sai một tên nào. Ông ân xá cho họ, khiến họ cải tà
    quy chính. Chiêu này thật là linh nghiệm, từ đây bọn trộm cướp không
    dám làm điều ác nữa.
    Dù người cực kỳ ác, cực kỳ xấu thì trong chốn sâu thẳm của nội tâm
    cũng còn một chút lòng tự tôn và lòng thể diện. Bọn họ làm điều ác bởi vì
    đã phạm điều cấm kị, bị mọi người khinh bỉ cho nên chỉ còn có cách lún
    sâu vào tội lỗi, lòng tự tôn và thể diện bị gác sang một bên. Bởi vì người
    khác đã không tôn trọng bọn chúng, chửi bới, trách mắng bọn chúng.
    Nhưng khi giao cho họ công việc giám sát những kẻ làm điều ác, khen
    thưởng họ, khêu gợi lòng tự tôn và thể diện của họ thì không những họ
    gánh vác trách nhiệm mà quan trọng hơn nữa, họ bắt đầu chịu trách
    nhiệm về hành vi của mình như một người bình thường.

    (sưu tầm)
     
    Last edited by a moderator: 22 Tháng ba 2007

Chia sẻ trang này