Coi tháng sinh tổng luận nhiều điều (trích Diễn Cầm Tam Thế)

Thảo luận trong 'Trao đổi kiến thức về Tử Vi' bắt đầu bởi Mickey, 20 Tháng một 2008.

  1. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    (Trích từ Diễn Cầm Tam Thế Diễn Nghĩa (Dương Công Hầu) trang 31 và 32)

    Thọ Thai tháng 4, sanh thánh giêng:

    Kiếp trước có tu hành và có cứu người, cho nên kiếp này đặng lộc thực đầy đủ, của tiền nhiều, có điền viên rộng, có chức phận sang trọng, đặng sống lâu, đi xứ khá hơn, trong mình có tật kín, vợ chồng buổi đầu không thành, và con đầu lòng khó bảo dưỡng.

    Thọ Thai tháng 5, sanh tháng 2 :

    Kiếp trước hay bố thí và in Kinh phát cho người tu, kiếp này làm lành đặng sang trọng, có phần đi xa xứ làm ăn, lập nên sự nghiệp, điền viên, có cái tinh cứng mạnh mà không độc ác hay thương già cả,nghèo nàn.
    Số khắc cha ẹ, không nhờ anh em, khó nuôi con, hay tiết kiệm hay dạy người.

    Thọ Thai tháng 6, sanh tháng 3:

    Kiếp trước tánh ưa bài bạc là căn nghiệp, kiếp này tánh hay phản phúc người ơn, làm việc gì thấy nên rồi thấy hư không chừng, khó làm con của cha mẻ, khó làm cha mẹ của con mình, làm việc gì trước có sau không, ăn mặc hẹp thiếu, tâm tính thông minh, đến già mới khá.

    Thọ Thai tháng 7, sanh thánh 4:

    Kiếp trước thông minh khôn khéo lắm, Kiếp này như sanh trong mùa Xuân, mùa Hạ thì đặng phát tài, làm ăn thịnh vượng, sự nghiệp lập đặng nên, có điền viên khá,khắc cha mẹ, vợ chồng buổi đầu không thành, con đầu lòng khó bảo dưỡng.

    Thọ Thai tháng 8, sanh tháng 5:

    Kiếp trước có cái tánh ỷ thế khi người, kiếp này hay say rượu khắc cha mẹ, anh em, vợ con đi tứ phương, đồ khổ, sau khi lớn tuổi ăn mặc đủ, làm ăn khá. Nếu biết làm lành thì có điền viên khá.

    Thọ Thai tháng 9, sanh tháng 6:

    Kiếp trước tánh can cường, rồi sau biết làm lành, kiếp này khắc cha mẹ anh em, vợ chồng và con, trong mình có tiểu tật, có làm lành thì đặng sống lâu, phát tài lợi, có chức phận và minh mẫn.

    Thọ Thai tháng 10, sanh tháng 7:

    Kiếp trước tánh hay bàn luận điều lành, hay bố thí cho người nghèo, kiếp này đi đến đâu thì người ta kính trọng đến đó, thưở trẻ làm ăn bình thường, lớn tuổi làm ăn phát đạt, có chức phận, vợ chồng buổi đầu và con đầu lòng khó bảo dưỡng, có nghề lớn, có tật đau lưng hoặc có tật chân.

    Thọ Thai tháng 11, sanh tháng 8:

    Kiếp trước có tu niệm lành, nhỏ ác, lớn thiện, kiếp này lúc tuổi đang còn trả quả làm ác, thưở nhỏ phải chịu cực khổ, khắc ba đời chồng vợ, ít con, đi nhiều chỗ, không nhờ anh em, khi đến 36 tuổi về sau làm ăn phát đạt, lập nên sự nghiệp, có chức phận cha mẹ sống không lâu.

    Thọ Thai tháng 12, sanh tháng 9:

    Kiếp trước có tánh vui vẻ, trung tín rộng rãi, kiếp này người hay yêu chuộng, ăn mặc đầy đủ, anh em có làm quan,không ở đặng gần nhau, số dời chỗ ở 3 lần, còn làm chẳng lành thì dời chỗ 5 lần mới đặng bình yên, khắccha mẹ.

    Thọ Thai tháng giêng, sanh tháng 10:

    Kiếp trước có ta can đảm, tự tác, tự thị, không phục người, kiếp này phải chịu cô độc một mình, đi lưu lạc xa phương tận khổ, đến 50 tuổi lập nghiệp mới đặng phát đạt, diện mạo đặng tốt.

    Thọ Thai tháng 2, sanh tháng 11:

    Kiếp trước có tánh kiêu thái, khinh thị người, kiếp này hay đau trái tim và đau ngũ tạng trả quả, khắc cha mẹ, anh em, khó nuôi con, số này phải làm lành cho nhiều, đặng giải oan thì đến 44 tuổi làm ăn đặng phát đạt. Có điền viên sự nghiệp, có chức phận, phải nên sửa tánh cho sớm.

    Thọ Thai tháng 3, sanh tháng 12:

    Kiếp trước có tánh nói tiên Phật, còn lòng rắn độc, kiếp này phải chịu ăn mặc thiếu, hay đau con mắt, cô thế một mình, phải làm lành cho nhiều đặng trả quủa xưa, đặng giải oan khiên, lành có dư thì trời phật cho chuyển họa ví phước thì tự đặng lập sự nghiệp trở nên lúc cảnh già, bằng không ăn năn thì chịu khổ đến già.
     
  2. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Coi 12 giờ sinh.......

    Coi 12 giờ sinh, chia ra 36 giờ sang, hèn. Một giờ chia làm 3: đầu giờ, giữa giờ và cuối giờ, vận số khác nhau.

    (Trích từ Diễn Cầm Tam Thế trang 26,27 và 28)

    1) Giờ Tý :

    Đầu giờ Tý: Khắc mẹ, có tánh lẹ làng, vợ chồng khắc đời thứ nhất, khắc con đầu lòng, anh em không hòa, tuổi nhỏ làm ăn không khá, tuổi lớn về sau làm ăn khá.

    Giữa giờ Tý: Cha mẹ song toàn, người có tánh vui vẻ, ăn mặc không thiếu, anh em đều có số phận, sanh con đặng nhiều, đi khác xứ làm ăn khá, số có quyền chức.

    Cuối giờ Tý: Khắc cha, người tánh rộng rãi, anh em không khá, sinh con khó dạy,thưở nhỏ cơ cực, làm việc gì có đàu không có đuôi. Số theo quê vợ, xa cha mẹ.

    2)Giờ Sửu:

    Đầu giờ Sửu: Cha mẹ song toàn, tuổi nhỏ làm ăn trung bình, 20 tuổi về sau làm ăn phát đạt, tánh thông minh, gần người sang trọng, anh em khá, con cái tốt.

    Giữa giờ Sửu: Khắc cha, việc ăn mặc trung bình, tánh ý công bình, đến 38 tổi phát tài, anh em không hòa, bà con bảng lảng đi xứ khác, tay trắng đặng làm nên sự nghiệp.

    Cuối giờ Sửu: Khắc mẹ, tuổi nhỏ chịu khổ, làm việc lớn ra nhỏ, không nhờ anh em, con cái phát đạt khá, đến 40 tuổi làm ăn thịnh vượng, tuổi lớn khá thêm, có nghề nghiệp chuyên môn.

    3) Giờ Dần:

    Đầu giờ Dần: Khắc cha, số gần người sang trọng, việc hung hóa hiền, tuổi nhỏ cơ cực, 37 tuổi về sau làm ăn khá, cốt nhục bảng lảng, có nhờ con nuôi lúc tuổi già.

    Giữa giờ Dần: Cha mẹ đặng song toàn,người có tánh siêng năng, ăn mặc không thiếu, anh em khá, có con 2,3 đứa tính tốt, văn chương giỏi, sự nghiệp nên.

    Cuối giờ Dần: Khắc mẹ, không nhờ anh em, con đầu lòng khó nuôi, tuổi nhỏ phiêu lưu cực khổ.

    4) Giờ Mẹo:

    Đầu giờ Mẹo: Khắc mẹ, làm việc gì trước có sau không, không nhờ anh em, tuổi nhỏ bôn ba, cực trí, số khắc con, việc ăn mặc tùy thời có, thời không.

    Giữa giờ Mẹo: Cha mẹ song toàn, trai sang, gái trọng, quí nhân yêu chuộng, anh em khá, con cái nhiều, ăn mặc không thiếu, sự nghiệp kinh vinh, cốt nhục hòa thuận, có chức phận.

    Cuối giờ Mẹo: Khắc cha, thưở nhỏ bôn ba, cơ cực, không nhờ anh em, đến 36 tuổi về sau dễ làm ăn, chừng ấy mới ít đi, lập sự nghiệp đặng vững bền

    5) Giờ Thìn:

    Đầu giờ Thìn: Cha mẹ song toàn, người tánh mau lẹ, hiền từ, anh em khá, con đầu lòng nuôi không đặng, cốt nhục bất hòa, có chuyên môn nghề nghiệp, thưở nhỏ bình thường, 42 tuổi phát tài.

    Giữa giờ Thìn: Khắc cha, người có tánh công bình, lẹ làng, quí nhân hay giúp đỡ, xa xứ lập nghiệp, tuổi trẻ khó nên, 44 tuổi làm ăn phát đạt, anh em bất hòa.

    Cuối giờ Thìn: Khắc mẹ, người có tánh thông minh, làm ăn thịnh vượng, hào con tốt, anh em làm ăn khá, số có chức phận, có phước lộc, hưởng đầy đủ, có danh tiếng, sang trọng, một đời đặng thảnh thơi.

    6) Giờ Tỵ:

    Đầu giờ Tỵ: Khắc mẹ, có lộc ăn mặc, anh em không đặng nhờ, con đầu lòng khó nuôi, khắc chồng vợ, tuổi nhỏ bôn ba đi nhiều xứ, đến lớn làm ăn phát đạt, có chức phận, có sự nghiệp.

    Giữa giờ Tỵ: Cha mẹ song toàn, gần người sang trọng, ăn mặc đủ, anh em làm đặng nên, con cái đặng giàu có, có công danh, tánh hạnh khẳng khái, làm ăn khá, đi xa xứ lập nên.

    Cuối giờ Tỵ: Khắc cha, số gần người sang trọng, làm ăn khi thành khi bại, tính anh em lạt lẽo, khó nuôi con,vợ chồng lôi thôi, tuổi nhỏ số lưu lạc cực khổ, tuổi lớn làm ăn phát đạt.

    7) Giờ Ngọ:

    Đầu giờ Ngọ: Cha mẹ song toàn, người có tánh tình lợi hại, gần người sang, anh em hòa, hai ba dòng con, ăn mặc không thiếu, số có chức phận, quyền hành, vận số hưng vượng.

    Giữa giờ Ngọ : Khắc cha, ăn mặc bình thường, tuổi trẻ bôn ba, khổ trái nhiều phen,30 tuổi về sau làm ăn khá, không nhờ anh em, làm ăn khi nên khi hư, không có tự do.

    Cuối giờ Ngọ: Khắc mẹ, người tánh thông minh lanh lợi, tuổi nhỏ cơ cực, không nhờ anh em, con đầu lòng khó nuôi, đến trung niên làm ăn phát đạt, đến tuổi già cũng trở lại cực khổ.

    8) Giờ Mùi:

    Đầu giờ Mùi: Cha mẹ song toàn, số đặng người sang trọng, trọn đời yên vui, anh em thuận hòa, số có chức phận, nữ thì có quyền đặng sang trọng, dễ làm ăn, sự nghiệp kinh vinh.

    Giữa giờ Mùi: Khắc cha, người tánh rộng rãi, có quí nhân giúp đỡ, đặng nhờ anh em, thưở nhỏ làm ăn bình thường, cực trí, vợ chồng khắc đời thứ nhất khắc con, tuổi lớn làm ăn khá.

    Cuối giờ Mùi: Khắc mẹ, có quí nhân hay yêu chuộng, ăn mặc bình thường, tuổi nhỏ làm ăn khi nên khi hư,cơ cực, anh em bất hòa, sanh con cứng đầu , tuổi lớn làm ăn khá hơn.

    (Còn tiếp)

    P.S: Lý do chỉnh sửa lỗi typing sai
     
    Last edited by a moderator: 20 Tháng một 2008
  3. Thái Dương

    Thái Dương New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    184
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Coi tháng sinh tổng luận nhiều điều (trích Diễn Cầm Tam Thế)

    Cái này đúng lém đó. Cuốn Diễn cầm tam thế coi đơn giản mà giá trị!
     
  4. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Coi tháng sinh tổng luận nhiều điều (trích Diễn Cầm Tam Thế)

    9)Giờ Thân :

    Đầu giờ Thân: Cha mẹ song toàn, tánh thông minh, gần người quý nể, nghề văn, nghiệp võ đều thông, họ hàng có quyền tước, anh em làm ăn khá, dễ làm ăn, số có ruộng đất, dễ lập gia đình.

    Giữa giờ Thân: Khắc cha, họ hàng không hòa, bôn ba cực khổ, có vợ (chồng)sớm, ở đời không đặng, có vợ (chồng) muộn mới tốt, làm ăn xa xứ khá, lập tại xứ cha mẹ sanh không khá.

    Cuối giờ Thân: Khắc mẹ, nhân tình cốt nhục lạt lẽo, thưở nhỏ cơ cực, hình vóc ốm yếu, con cái lôi thôi, đến 30 tuổi vận thời mới bình, đến 40 tuổi làm ăn mới phát đạt.

    10) Giờ Dậu:

    Đầu giờ Dậu: Cha mẹ song toàn, đời sang trọng, văn võ đều thông, anh em phân cách, con cái ít, tài lợi khá, nhà cửato61t, có quyền tước, tâm tánh tốt.

    Giữa giờ Dậu: Khắc cha, tánh rộng rãi, anh em bất hòa, con đầu lòng khó nuôi, tuổi nhỏ làm ăn không hạp thời, trai khắc vợ, gái khắc chồng, đi khác xứ, không ở chỗ cũ.

    Cuối giờ Dậu: Khắc mẹ, việc ăn mặc bình thường, không nhờ anh em, tuổi nhỏ khổ tâm, đến 37 tuổi trở lên thì phát tài, vợ chồng khắc nhau, trai thì chậm trể, gái thì dâm loạn, thất con cái.

    11) Giờ Tuất:

    Đầu giờ Tuất: Khắc mẹ, tánh mau lẹ, lòng hiền từ, văn võ đều thông, không nhờ anh em, làm việc gì đều có quyền, tuổi nhỏ bình thường, cực khổ, đến 37 tuổi về sau làm ăn phát đạt, có quí nhân giúp đỡ.

    Giữa giờ Tuất: Khắc cha, anh em thân tộc khó nhờ, vợ chồng không hòa, con đầu lòng khó nuôi, tuổi nhỏ không đậu tài, đến 42 tuổi làm ăn phát đạt, cảnh muộn khá thêm, ăn nói không dè chừng.

    Cuối giờ Tuất: Cha mẹ song toàn, tánh mau lẹ, văn võ đều thông, bà con anh em đều khá, có nghề học đặng tinh xảo, vợ chồng bền lâu, số ở xa xứ mới đặng.

    12) Giờ Hợi:

    Đầu giờ Hợi: Khắc mẹ, tánh lẹ làng, rộng rãi, bà con anh em lưu lạc xa xứ, con hai, ba đứa, làm ăn thủ thường, đến lớn tuổi làm khá, sắp đặt đặng an.

    Giữa giờ Hợi: Cha mẹ song toàn, tánh thông minnh mau lẹ, thân tộc anh em khòa thuận, sanh con có quyền tước, tuổi lớn sự nghiệp đặng nên, có mưu kế và công bình.

    Cuối giờ Hợi: Khắc cha, tánh nóng mà có ý hiền, bà con anh em không hạp ý, tuổi nhỏ cực khổ, trai thì hai đời vợ, gái ba đời chồng, tuổi lớn khá hơn, việc làm ăn rất nhọc ý.

    (Hết)
     
  5. tùy vân

    tùy vân New Member

    Tham gia ngày:
    19 Tháng một 2008
    Bài viết:
    29
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Coi tháng sinh tổng luận nhiều điều (trích Diễn Cầm Tam Thế)

    Nếu chỉ dùng giờ hoặc tháng sanh mà đã nói được như vậy thì tử vi đâu phải khó lòng đoán và định giờ sanh, nhất là những lá số thuộc giờ khe. Ông xã tôi chỉ vì hai giờ Tuất hoặc Hợi mà đã mấy chục năm chưa tìm ra đáp số rõ ràng. Điều này làm tôi vô cùng bối rối về giá trị của Tử Vi. Khi đã biết ngày tháng năm sanh, dùng hai giờ với hai lá số là có thể chỉ rõ đương số là ai trong hai lá số đó. Vài lời góp ý, mong được nghe diễn đàn chỉ dẫn rõ hơn. Cám ơn.
     
  6. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Coi tháng sinh tổng luận nhiều điều (trích Diễn Cầm Tam Thế)

    Xin chào chị tùy vân! Mickey xin được trích lại câu:

    " Luận đoán một lá số tử vi cho thật chuẩn, các cụ ta ngày xưa đã thực hiện phương châm kết hợp:

    "Tử Vi mà có sai lầm
    Thì đem Tam Thế Diễn Cầm mà tra."


    Tam Thế Diễn Cầm là môn Tiền Định. Nghiên cứu về Tam Thế Diễn Cầm thì cũng thấy người xưa chắt lọc từ Dịch Số mà ra và đã đúc kết lại thành các công thức có sẵn. Lại còn một cách nữa của cụ Bảng Nhãn Lê Quý Đôn đề xướng: "Xem Tính phải kết hợp xem Tướng". Có người tính tốt mà lại không có tướng thì cũng hỏng, có người "có tướng mà không có tính" cũng vậy.

    Lại đi sâu vào Âm Dương Ngũ Hành thì mới quán triệt được vấn đề, cường nhược của từng tinh đẩu. Đại để trong hơn 120 sao thì sao nào cũng có ngũ hành của nó. Ngoài ra còn phải chú ý tới một số vị trí đặc biệt đắc cách của sao. Thí dụ Thanh Long thuộc Mộc thủ Mệnh hoặc cư Quan Lộc.

    - "Long cư Long" vị hay "Thanh Long nhập uyên" đó là trường hợp đắc địa ở cung Thìn, thật là tốt.
    - "Thanh Long nhập Mộc tân toan" - Dần Mão- vất vả.
    - "Thanh Long nhập tỉnh" - tại Mùi là cái giếng, Rồng cuộn khúc dưới giếng, có tài nhưng bị xếp xó, không gặp thời để thi thố.
    - "Thanh Long nhập võng" - Thanh Long cư Tuất, Rồng mắc lưới.
    - "Thanh Long nhập Thổ bất bình", là con rồng đất (Sửu)
    - "Thanh Long nhập hỏa tổn thương" (ở Tỵ, Ngọ).

    Hay như sao Thiên Mã, biểu tượng của tài năng thao lược, của ý chí bay nhảy tung hoành bốn phương. Một số cách hay như: Lộc Mã Giao Trì, Mã Ngộ Tràng Sinh. Cách xấu như Mã Hình, Mã Tuần/Triệt, Mã Tuyệt, Mã cùng đồ (đường) ở Hợi. Cố lý số gia Thiên Lương có đề xuất: "Chủ nhân muốn làm chủ thật sự của Mã cũng phải đồng hành với chỗ nó ở thì công việc mình làm mới có kết quả tốt đẹp". Do vậy, Mã ở Dần thuộc quyền sử dụng của người mệnh Mộc, bạc nhược với người mệnh Kim, vất vả với người mệnh Thủy, điêu linh cho người mệnh Thổ, lợi cho người mệnh Hỏa. Từ đó nêu ra vấn đề mã của mình hay mã "mượn".

    Cũng từ đó giải thích cái con Mã của tuổi Ất Hợi đóng ở Tỵ (tháng 3, ngày mùng 2, giờ Tỵ), thuộc cung Ách trong một lá số tử vi làm thí dụ: Phải xuất ngoại và được xuất ngoại, trong khi cung Di ko có số xuất ngoại (ở La, Võng và thiếu tín hiệu xuất ngoại).

    Đi sâu vào Kinh Dịch, ta còn thấy Mã ở Dần (Cấn- Sơn) là ngựa vượt núi. Mã ở Tỵ (Tốn - Phong) là Thiên Lý Mã, Mã ở Thân là Mã đáo kim cung - Thong thả tới đích.

    Như vậy việc giải đoán cứ đóng khung theo sách mà thiếu suy luận logic thì làm sao chính xác được.

    Ngoài ra, cho tới nay, khoa tử vi còn rất nhiều bí mật, lẽ dĩ nhiên phải có thời gian mới dần tìm lại được nguồn gốc khai sinh. Một là số tử vi hiện nay mới sử dụng chừng trên dưới 120 sao (một trăm hai mươi sao) , người đời sau cứ bớt xén dần đi. Thật ra, có thể một lá số, khi an đủ phải có tới gần 300 sao rút ra từ 500 thần sát. Có những sao rất quan trọng mà cách an rất đơn giản, mà tại sao người ta không phổ biến như sao Tướng Tinh, Thần Y, Địa Y... Tất nhiên có những sao phức tạp khi an như sao Kình Thiên ...

    Vòng Tướng Tinh, một trong 4 bộ tạo thành bộ tứ tượng tử vi?

    ... Một số sao như đã nói ở trên mà nằm ở Mệnh, Thân, Quan thì con người ấy tài năng khí phách hơn người. Ví như Kình Thiên thủ Mệnh thì bản tính ngang tàng "dọc ngang nào biết trên đầu có ai". Còn như sao Tướng Tinh, sách vở có nhắc tới như sau:

    - "Tướng tinh bị hại, Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi) bảo thiên chi oan" (ôm trời kêu oan), hoặc
    - "Trai sinh Hoa Cái, gái Tướng Tinh" - Đi về võng lọng đón đường cái - tiến lộc cửa nhà vinh.
    Nam nữ thông minh, thanh tân, nhan sắc quý tướng. hoặc câu:
    - "Nam vinh nữ trọng quyền"
    "Tướng Tinh đại cát lâm"
    "Thiếu niên tài lộc thịnh"
    "Bán thân mãi điền địa"
    Tóm lại là "bẩm tính hoàng thiên nhất thân vinh, vận địa sinh nên đài các, vua quan hào phú thụ bảo thiêng".

    Chỉ là một trung tinh thôi mà tinh lực của nó mạnh như vậy, thế thì vấn đề ở đâu? Có phải do vấn đề bí truyền của Tử Vi chăng hay vì người muốn giữ bí mật không lộ thiên cơ mà không dám phổ biến ra ngoài cho người đời sau biết ?

    Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư không hề nhắc đến vòng sao Tướng Tinh, nhưng nhiều sách bên Trung Quốc có ghi chép về vòng này. Khoa tử vi Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều bởi Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư nên cũng ko có vòng này. Nhưng thực ra có dùng một số sao của vòng này mà không hay. Đó là Hoa Cái, Đào Hoa (Hàm Trì) và Kiếp Sát...

    Trước tiên, ta cần phải biết cách an vòng Tướng Tinh như sau: Tướng Tinh an theo tam hợp Tuổi.
    - Dần Ngọ Tuất: Tướng Tinh an tại Ngọ
    - Thân Tí Thìn: Tướng Tinh an tại Tí
    - Tỵ Dậu Sửu: Tướng Tinh an tại Dậu
    - Hợi Mão Mùi: Tướng Tinh an tại Mão.

    Vòng Tướng Tinh chỉ đi theo chiều thuận như Thái Tuế. Sau Tướng Tinh tới Phan Án- Tuế Dịch- Tức Thân - Hoa Cái - Kiếp Sát - Tai Sát - Thiên Sát - Chỉ Bối - Hàm Trì (Đào Hoa) - Nguyệt Sát - Vong Thần.

    Hiện nay các sách tử vi phổ biến mới chỉ dùng 1 cặp 3 sao trong vòng Tướng Tinh là Đào Hoa (Hàm Trì), Hoa Cái, Kiếp Sát. Cách an cũng dùng tam hợp tuổi (hành của tuổi) như trên.

    Trong vòng này, Phan Án có hai ý nghĩa cơ bản:

    1 - Làm tăng thanh thế, tác dụng giống như Bát Tọa, chỉ khác ở điểm Phan Án có lưu niên trong khi Bát Tọa không. Bởi vậy Thai Tọa làm tăng thanh thế cho cả đời, còn Phan Án làm tăng thanh thế cho cả một năm/vận.

    2- Gần cận người sang quý hay nói cách khác đi là dễ cận kề quý nhân. Phan Án rất hợp với Khôi Việt. Có Khôi Việt đứng bên thì quý nhân chiếu cố là điều khỏi phải bàn, nhưng ko thực, chỉ là hữu danh vô thực, kiểu nhân sĩ tư vấn vớ vẩn. (Thực là Khôi Việt cư chiếu).

    Tuế Dịch được xem như một loại lưu niên Thiên Mã (Dịch) và tính chất là một. Lưu Lộc mà có Tuế Dịch thì cũng kể là cách Lộc Mã giao trì, vào Mệnh Tài hay Quan, Di, đều chủ về sự tấn tài tấn lộc.

    Tuế Dịch gặp Lộc Tồn cố định trên lá số thì lại không kể làm Lộc Mã giao trì, chỉ gặp lưu Lộc mới tính. Nếu lưu Lộc đứng cùng, đối xung với Lộc cố định mà thêm cả Tuế Dịch nữa thì gây ra hiện tượng "Động" đưa đến đi xa hoặc thay đổi công việc lâu dài.

    Tức Thần mang ý nghĩa thiếu xung động trì trệ nằm ì một chỗ. Tức Thần vào cung Phúc Đức tâm tư tiêu cực dễ bi quan, luôn luôn nghĩ đến thất bại thành ra bản thân kém nỗ lực phấn đấu.

    Tức Thần không nên cùng đứng với Thiên Cơ ở Mệnh hay Phúc Đức vì hễ làm việc thì sẽ thấy hơi khó là bỏ, không bền chí. Tức Thần hợp với sao Thiên Lương, đứng cùng nhau thì giỏi tùy hòa mà thành ra đắc lực.

    Tức Thần gặp Hàm Trì (Đào Hoa) thì dễ thuận, dễ chấp nhận sự an bày của số mệnh, nhất là đối với duyên tình, thiếu ý chí mạnh, gặp sao hay vậy.

    Tai Sát trên cơ bản tính chất là tai nạn và thường đem hung hiểm tới. Mức độ tai họa thế nào cần phải phối với các sao khác để đoán.

    Tai Sát bao giờ cũng ở Tứ chính nên nếu gặp Đào Hoa, Mộc Dục hoặc Văn Xương thêm Hóa Kỵ, mà lưu niên lưu nguyệt thấy luôn các Sát, Kị xung hội, hẳn là sẽ có tai họa vì tình, bị gái lừa, trai gạt hay bị đánh đập vì ghen tuông.

    Tai Sát vào cung Tật Ách làm tăng thêm sự hung hiểm, trầm trọng của tai họa. Tai Sát chỉ gây hung hiểm khi nó đến cung nào, toa rập với các hung sát tinh khác, trường hợp đó cát tường, có nhiều sao giải thì Tai Sát vô lực.

    Thiên Sát tính chất ngược với Thiên Đức. Thiên Đức đem thuận lợi cho quan hệ với người trên, bố mẹ hoặc người hơn chức vị mình. Thiên Sát gây khó khăn cho quan hệ này. Thiên Sát ở Mệnh hay Vận thì khó được cấp trên nân đỡ, hoặc dễ bị người thân ghét bỏ.

    Chỉ Bối là sao hay bị người khác nói xấu, nó cùng tính chất với Phi Liêm. Chỉ Bổi đi cặp với Văn tinh, Khoa, Xương Khúc thì hay bị người ghen về tài học mà phỉ báng.

    Nếu Chỉ Bối đứng cùng Phi Liêm thì tình trạng bị dèm pha càng nặng, hoặc gặp Thiên Cơ cũng vậy. Chỉ Bối đứng với Lương, Hóa Lộc là con người tham lợi, việc gì cũng làm. Chỉ Bối kỵ đóng ở Mệnh cung, Huynh Đệ và Nô Bộc.

    Nguyệt Sát na ná như Thiên Sát, nhưng tai ách thường đến một cách âm thầm. Nguyệt Sát ảnh hưởng mạnh với Nữ hơn Nam.

    Nguyệt Sát phải có sự trợ lực của sao mà nó đứng cùng thì mới gây rắc rối mạnh. Nguyệt Sát vào cung Tật Ách thì có bệnh khó phát hiện. Nguyệt Sát gặp Văn Khúc, Văn Xương, Hóa Kị thì có thể gặp họa tình ái.

    Vong Thần mang tính chất phá hoại bất ngờ, công việc đang trôi chảy đột nhiên bị phá vỡ hoặc do đối thủ, hoặc do hoàn cảnh thay đổi bất ngờ, làm cho mất tiền của, hao tài lộc.

    Vong Thần là chuyên thất bại bất ngờ, nhưng nó cũng mang ý nghĩa lãng phí, nếu đứng với Hình Hao hay Không Kiếp thì là con người thiếu khả năng quản thủ tiền bạc.

    Các sao còn lại trong vòng Tướng Tinh được nói khá kỹ trong các sách tử vi hiện nay.

    Vậy mới thấy, còn hẳn một vòng sao, tác động của các sao và ý nghĩa luận giải quan trọng không được phổ biến. Tướng Tinh đi cùng với các cách Tử Phủ Vũ Tướng miếu vượng, sao phù trợ đẹp(Tả Hữu, Khôi Việt, Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc) thì là thượng nhân anh hùng hãn thế.

    Ngoài ra khi ta kết hợp các bộ ba sao vòng Tướng Tinh (ví dụ: Tướng Tinh, Hoa Cái, Chỉ Bối...) thì chúng ta sẽ có những phân loại hữu ích.

    Từ ý nghĩa của các sao trong vòng Tướng Tinh và tác dụng của sự kết hợp giữa chúng, ta thấy vòng này có tầm quan trọng như 3 vòng Sinh Tuế Lộc. Phải chăng tử vi có lưỡng nghi là hai vòng chính tinh và tứ tượng là 4 vòng, Sinh Tuế Lộc Tướng thì mới hoàn chỉnh? Mà vòng Tướng Tinh lâu nay vốn không được đề cập tới vì lý do bí truyền hay vì tam sao thất bản, hoặc giả do các thầy trước đây thấy một số tính chất giống nhau giữa các sao mà loại bớt đi chăng?

    (Theo Vũ Tài Lục và Thiên Phúc)
     
  7. Mickey

    Mickey New Member

    Tham gia ngày:
    25 Tháng mười hai 2007
    Bài viết:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Coi tháng sinh tổng luận nhiều điều (trích Diễn Cầm Tam Thế)

    Để một lá số tử vi trở nên rõ ràng với đủ lưỡng nghi, tứ tượng và 64 sao trung phụ tinh thì ta cần phải xét thêm một số sao chưa hoặc ít thấy đề cập.


    Như ở trên đã nói, sao Kình Thiên nhập Mệnh thì con người thường có tư tưởng đả phá quật ngược (chống trời). Tuy nhiên, nếu đi cùng Sát Phá Tham miếu vượng, gia Kiếp Sát, Hỏa Linh đắc thì mới trở thành tướng cướp chọc trời khuấy nước làm cho triều đình/chính quyền khiếp đảm được. Nếu thêm sao Thiên Tặc nữa vào thì càng ghê gớm, thuộc loại náo động Thiên cung như Tề Thiên Đại Thánh.

    Lại bàn về số có đầu óc lãnh tụ. Người ta đã nói tới người có đầu óc lãnh tụ với Đế Vượng thủ Mệnh. Ngoài ra còn có các loại lãnh tụ nghịch thần thường được gán cho Tử Phá thủ Mệnh, có loại lãnh tụ ẩn mình sau bóng tối...Nhưng tử vi Việt ít khi đề cập tới loại lãnh tụ với Tướng Tinh và Kình Thiên...

    Luận về bộ Tam Y: Thiên Y, Thần Y, Địa Y.

    Tử vi Việt thường nghe và bàn bộ Tứ Đức, nhưng ít nghe thấy bộ Tam Y. Bộ Tam Y, đúng nghĩa của nó là liên quan tới Y, Dược. Trong thực tế, tử vi Việt đã dùng một trong tam y là Thiên Y.

    Thiên Y an theo vòng Trực: Kiến, Trừ, Mãn... (vào trực khai). Tháng 3 Kiến ở Thìn, Trừ ở Tỵ... Thiên y ở Trực chủ về dược nhiều hơn. Thiên Y luôn đi cùng Thiên Diêu, thuộc Thủy, tính chất là sạch sẽ, cẩn thận chủ việc thuốc thang, có khả năng giải hạn nhẹ (đặc biệt hạn về bệnh tật), mặc dù vậy, cung Mệnh mà có Thiên Y thì thường hay đau ốm, hay phải thường xuyên dùng thuốc. Nếu đi cùng Thiên Tướng, Quang Quý thì làm thầy thuốc có tiếng, thêm Thiên Hình thì là thầy thuốc giải phẫu.

    Thần Y và Địa Y. Cách an 2 sao này là theo tháng sinh, như sau:

    Tháng sinh / Thần Y / Địa Y
    Dần: Mão / Mão
    Mão: Hợi / Hợi
    Thìn: Thân / Tuất
    Tỵ: Mùi / Tý
    Ngọ: Tỵ / Dần
    Mùi: Tý / Mùi
    Thân: Hợi / Mão
    Dậu: Sửu / Hợi
    Tuất: Mùi / Tuất
    Tý: Mão / Dần
    Sửu: Hợi / Thìn

    Hai sao này cũng chủ về y dược. Khi đi cùng hoặc chỉ cần nhị hợp với Thiên Y, càng nói lên tính chất y, dược cao. Nhiều trường hợp hội tụ tại Mệnh thì là ngoài bản thân đương số, còn cha mẹ, họ hàng, ông cha chú bác anh em cũng làm nghề Y Dược. Nhị hạn gặp bộ Tam Y hãm thì dễ bị bệnh phải dùng thuốc, gặp bộ này đắc thì đỡ lo về bệnh tật vì có thầy hay thuốc giỏi cứu giúp.

    Âm Sát trong tử vi Việt không dùng. Nhưng trong tử vi TQ thì lại rất chú trọng. Âm Sát thuộc nguyệt hệ, an theo tháng như sau:
    - Tháng 1 an tại Dần
    - Tháng 2 an tại Tị
    - Tháng 3 an tại Tuất
    - Tháng 4 an tại Thân
    - Tháng 5 an tại Ngọ
    - Tháng 6 an tại Thìn
    - Tháng 7 an tại Dần
    - Tháng 8 an tại Tị
    - Tháng 9 an tại Tuất
    - Tháng 10 an tại Thân
    - Tháng 11 an tại Ngọ
    - Tháng 12 an tại Thìn

    Như vậy sao Âm Sát chỉ nằm trong 3 trục Dần Thân, Tị Ngọ, Thìn Tuất, ko nằm trên trục tâm linh và âm dương. Âm Sát tính chất là nghi tâm, Âm Sát vào quan hệ giao tế là tiểu nhân. Âm Sát vào tư tưởng tâm lý là ảo giác thiên về những điều quái dị. Sao Âm Sát qua luận đoán của các vị tu hành là sao thuộc về linh giới.

    Âm Sát vào Mệnh thì hay gặp tiểu nhân, bản tính nghi nghi hoặc hoặc nên dễ bị phiền não vô ích, nếu thấy cả Đà Kị Không Kiếp hãm thì dễ dàng đi dến ảo giác, suy nghĩ vớ vẩn hoặc vì ma túy mà thành người đầu óc lơ mơ. Tuy nhiên nhiều thầy bói có tiếng hay có Âm Sát ở Mệnh.

    Âm Sát ở cung Di, con nười cô độc, ít hợp khó hòa hay ngại ngùng nghi kị, mê muội với sự vật hư ảo.

    Âm Sát ở Tật thêm sát tinh, tư tưởng hành động thiếu thăng bằng, dễ bệnh về tâm trí.

    Âm Sát ở Phụ ưa những vọng tưởng không thực về gốc gác của mình

    Âm Sát ở Nô hay uất ức với bè bạn, với công việc hợp tác, nghi kị.

    Âm Sát ở Bào, thường bị phản từ bên trong.

    Âm Sát ở Phối, hay đau khổ ngẩn ngơ vì người thương yêu mất đi do sinh ly hay tử biệt.

    Âm Sát ở Quan, dễ làm việc mê muội mà hại đến sự nghiệp, mê vợ, mê nhân tình hoặc cả tin vào bạn, người dưới quyền, người trên mà khốn khổ.

    Âm Sát ở Tài, vì tự cao tự đại, vì tham mê mà dễ phá sản.

    Âm Sát ở Phúc, tâm lý tư tưởng quá khích, cuồng tưởng, vọng tưởng, cuồng tính, gặp thêm các sát kị có thể thành thần kinh.

    Âm Sát ở Tử thì con người rất chủ quan, lại hay đi vào tín ngưỡng tôn giáo đồng bóng, tuyệt đối tin rằng con cái mình giỏi hơn, đang kính yêu hơn bất cứ ai khác.

    Âm Sát ở Điền thường gặp những nhà cửa có ma quỉ, hoặc vì vợ mất đi, con chết mà cứ lởn vởn thấy linh hồn vợ con phảng phất.

    Còn sao Thiên Khố các sách thấy ít nhắc tới, chỉ nói sơ qua là một tiểu Thiên Phủ, chủ về tiền bạc. Đóng cung Tài Bạch và cung Mệnh thì là người quản thủ tiền bạc giỏi.

    Một số cách giải tử vi mới được bộc lộ, cần kiểm chứng

    - Mối quan hệ giữa Cục và Mệnh để luận độ số tăng giảm. Có câu phú:
    Cục mà sinh Mệnh thời hay
    Cục mà khắc Mệnh tai ương có ngày
    Mệnh mà sinh Cục có ngày tổn hao...

    Một số điều thú vị về các trục trong Tử Vi trong mối tương quan Lục Thân.

    - Cung Ngọ có đặc điểm là "Cao". Mệnh đóng ở cung Thân thì cung Thê đóng ở cung Ngọ: Vợ dáng người cao. Cung Huynh Đệ đóng ở Ngọ thì anh em có người cao hơn mình. Mệnh đóng ở cung Ngọ thì người đó dáng cao. Điền trạch ở cung Ngọ thì nền nhà chỗ ở cũng cao hơn chung quanh. Nhưng chú ý, đây là trường hợp không gặp Tuần Triệt.

    - Trục Tí Ngọ là trục thuộc về Bố Mẹ, chịu ảnh hưởng nhiều từ Bố Mẹ, kể cả về cung số và cung nhập hạn. Ví dụ hạn cung Tử tức đóng ở cung Tý thì con cái chịu ảnh hưởng nhiều về bố mẹ, phụ thuộc vào bố mẹ, phải nghe theo bố mẹ. Cung Tài ở Ngọ có Song Hao mà xấu lại gặp Triệt thì chẳng được nhờ tiền của bố mẹ. Khi Triệt hết tác dụng thì Song Hao phát huy tác dụng phải lo tiền của để cung phụng bố mẹ.

    - Trục Sửu Mùi là trục thuộc về anh em, ảnh hưởng chi phối, phụ thuộc về anh em. Ví dụ cung Tử tức đóng ở Mùi có Tham Vũ gặp Triệt thì khi mình ngoài 30, con cái được nhờ anh và em vợ (vì ở cung Âm).

    - Trục Dần Thân là thuộc về con cái, vì con cái, ảnh hưởng của con cái, được nhờ con cái. Cung Quan Lộc ở Dần, ảnh hưởng con cái về đường làm ăn sinh sống, do đó mà mình được hưởng nhiều. Cung Thê đóng ở Thân thì vợ nặng về tình cảm với con hoặc vợ mình cũng ảnh hưởng của con cái v.v.

    Tương tự:

    - Trục Thìn Tuất là về bè bạn (tốt cũng như xấu)
    - Trục Tỵ Hợi là về nhà cửa, đất đai

    Ngòai ra, cứ cung Nhị Hợp là chủ về đằng nhà vợ hay phía ngoại. Ví dụ cung Phụ Mẫu cha mẹ đẻ ở Hợi thì cung chủ về cha mẹ đằng nhà vợ là Dần. Cung Huynh Đệ ở Dậu thì anh em đằng nhà vợ ở cung Thìn. Cung Tài của mình ở Ngọ thì tài của vợ ở Mùi v.v..

    Trên đây là một số điều mới biết, cần được nghiệm lý thêm. Cũng như vòng Tràng Sinh đại diện cho các thứ bậc cá nhân trong một đại gia đình. Kết hợp những điều này vào luận đoán vận hạn sẽ làm cho sự luận đoán trở nên đặc biệt phong phú và chi tiết
     

Chia sẻ trang này