Khách tinh- Lưu tinh- Yêu tinh

Thảo luận trong 'Kiến thức Phong Thủy: Sơn quản Nhân đinh, Thủy quản Tài' bắt đầu bởi cabachlong, 31 Tháng mười hai 2006.

  1. cabachlong

    cabachlong New Member

    Tham gia ngày:
    20 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    1,152
    Điểm thành tích:
    0
    Vương Bồng Nhự tinh : Còn gọi là sao Bồng Nhự. Tên khách tinh. Sao màu xanh, lập lòe. Cư nơi nào thì nơi ấy mưa gió trai tiết, hạn hán, cây cỏ khô héo, ngũ cốc mất mùa, nhiều hoàng trùng. Lại nói sao này trông như bông phấn lất phất, thấy nó thì nước có chiến sự, tang tóc, dân chúng nổi lọan.

    Chu Bá tinh : Tên khách tinh. Sao lớn màu vàng, nhấp nháy hốt hoáng. Nơi nào thấy nó thì nước có chiến sự, tang tóc, đói khát, dân chúng lưu vong, ly tán. Có thuyết nói nươcs ấy đại hưng thịnh, nên là một ngôi sao chỉ điềm lành.

    Ôn tinh: Tên khách tinh. Sao lớn màu trắng, dao động như gió. THường xuất hiện ở bốn góc trời. Xuất hiện ở phía đông nam, thiên hạ có chiến tranh, tướng ra trận; xuất hiện ở phía đông bắc, ắt có bạo binh ngàn dặm; xuất hiện ở phía tây bắc cũng đoán như vậy; xuất hiện ở phía tây nam, đoán là nước ấy có chiến tranh tang tóc, hoặc có lũ lụt lớn, đói khát.

    Lão Tử tinh: Tên khách tinh. Sao lớn, sáng, màu trắng toát. Nước thấy sao này bị đói, là hung, là thiện là ác, là mừng là giận. Thường xuất hiện thì chiến tranh bùng nổ, vua lo buồn. Vua phải sửa lỗi lầm thì mới qua tai họa.

    Thiên bảo: Tên lưu tinh. Sao này vận hành phát ra âm thanh nghe như tiếng bó đuốc lớn rớt xuống đất, tiếng gà kêu, đoán là nước có sao rơi xuống yên ổn, vui mừng.

    Địa nhạn: Tên lưu tinh. Sao nhỏ, màu đỏ xanh. Đoán là nước có sao rớt xuống có chiến sự.

    Thiên nhạn: Tên lưu tinh. Sao băng có ánh sáng, dài 2, 3 trượng. Tượng trưng cho tinh hoa trong quân. Đoán là nước có sao rớt xuống có chiến sự.

    Nhân chúa tinh: Tên lưu tinh. Sao băng có ánh sáng chói, màu trắng, dài suốt vòm trời. Chủ có tể tướng, tướng quân ở phía sao rớt xuống.

    Đại hoạt: Tên Lưu tinh. Sao băng, đuôi màu trắng, dài vài trượng. Khi ánh sao tắt đi, đuôi sao tạo thành đám mây rớt xuống. Đoán là nước có sao rơi xuống đầy cảnh chết chóc.

    Giải hàm: Tên lưu tinh. Sao băng to như cái chậu, đuôi màu trắng. Khi ánh sao tắt đi, đuôi sao tạo thành đám mây hình bánh răng, tượng cái bánh xe, tước lộc. Đoán là tể tướng ở nước có sao rớt xuống bị chém đầu.

    Uổng Thỉ: Tên lưu tinh. Sao băng, màu xanh đen, trông như rắn bò, có đuôi, mắt dài. Chủ chống lại manh tâm, trừng trị kẻ ngu. Thấy sao này, đoán là có loạn trị loạn, hoặc quân mưu phản nhắm bắn người bị giết.

    Thiên hình: Còn gọi là Thiên Sức. Tên lưu tinh. Sao băng, to như cái chậu đuôi dài hơn 10 trượng màu trắng. Đoán là tướng lĩnh được phong đất biên cương.

    Doanh đầu : Tên lưu tinh . Trông như mây, sao băng như núi lở. Đoán là nước có sao rớt xuống có phục binh, máu chảy ngàn dặm.

    Cảnh tinh: Sử liệu ghi chép khác nhau. Chữ "Cảnh" ngụ ý điềm lành. Có thuyết nói là ngôi sao mới, có thuyết xếp vào loại tạp khí. Thoạt đầu gặp trong sách Trúc thư ký niên: "Năm Đế Nghiêu thứ 42 (năm 2104 trước Công nguyên), sao Cảnh xuất hiện ở đất Dực". Có thuyết bảo sao nay lớn ở giữa trời. Có thuyết nói sao này giống hình bán nguyệt, mọc vào ngày sóc, trợ sáng cho mặt trăng, thấy nó là vua nước ấy có đức, sáng suốt. Lại nói gồm có 3 ngôi sao, nối liền phương khí đỏ với khí xanh; ở phương khí đỏ có 2 ngôi sao màu vàng, ở phương khí xanh có 1 ngôi sao màu vàng. Ba ngôi sao ấy hợp thành sao Cảnh. Trời sáng vẫn còn thấy nó, thường xuất hiện ở nước nào có đức. Còn gọi là sao Đức.



    Cách Trạch : Tên một ngôi sao báo điềm lành, tựa như sao mới, hình dạng như đóng lửa bốc từ dưới đất lên, dưới lớn trên nhọn, màu trắng vàng. Thấy sao này, đoán là không cày cấy mà được thu hoạch, hoặc có khách đại quý. Một thuyết khác nói rằng nếu không cày cấy mà được thu hoạch, ắt có cái hại lớn.


    Hàm Dự: Tên một ngôi sao mới thuộc loại sao Chổi, ánh sáng như sao Chổi. Tia sáng chĩa về phái nào, nơi ấy có vui lớn, là một loại sao báo điềm lành.

    Quốc Hoàng tinh: Tên khách tinh. Sao lớn, màu trắng vàng, trông như có sừng. Có thuyết nói là sao lớn màu đỏ, hình dạng như sao Nam Cực Lão Nhân. Lại bảo nó cách mặt đất chừng 2, 3 trượng, trông như một cây đuốc lớn, chủ tai họa giặc dã bên trong. Đoán là đất nước tương ứng có chiến tranh, binh mã hùng mạnh. Chĩa tới đâu, ắt nơi đó có biến động bất lợi, có lũ lụt đói khát, dân chúng nhiều bệnh. Thấy sao này đều là điềm hung, nên coi nó là một ngôi sao yêu quái.

    Tuệ tinh : Còn gọi là sao Chổi. Hình dạng như cây chổi. Đầu chổi là thể khí khá dày và đặc, như đám mây bừng sáng, đuôi chổi là thể khí mỏng hoặc nhọn. Sao Chổi dài ngắn to nhỏ không giống nhau, ngắn chỉ vài thốn, dài thì quét cả vòm trời; hình dạng cũng khác nhau. Thấy nó là có chiến tranh, lụt lớn, chủ quét sạch, thay cũ đổi mới. Có 5 màu, chủ ngũ hành. Là một loại sao yêu quái.

    Bội tinh: Tên sao yêu quái, cùng loại với sao Chổi. Nếu có đuôi gọi là Tuệ Tinh, nếu ánh sáng tung tóe tứ phía, thì gọi là Bội tinh. Thích danh. Thích thiên: "Bội tinh là khí ở bên cạnh nó nở bung ra". Công Dương truyện. Thiệu thập thất: "Mùa đông, sáng sớm thấy vó Bội tinh. Bội là gì? Là sao Chổi vậy". Bội tinh xuất hiện, ác khí sinh, bên trong không đại loạn, ắt bên ngoài có đại binh, thiên hạ hùa nhau làm hại, họa lớn hơn so với khi thấy sao Chổi. Thiên văn chí đời Tấn, đời Tùy dẫn An tử viết: "nếu vua không đổi, Bội tinh sẽ xuất hiện, rất đáng sợ!".

    Si Vưu: Còn gọi là Si Vưu Kỳ. Tên sao yêu quái. Hình dạng như sao Chổi mà đuôi ngoằn ngoèo, như lá cờ đuôi nheo. Có thuyết nói sao này trông như cái ky (cái hót rác). dài 2 trượng. màu xanh trên vàng dưới trắng. Có thuyết nói sao này chủ phạt nghịch, trị loạn. Nơi nào thấy nó ắt có chiến sự hoặc có tang.

    Thiên xung: Tên sao yêu quái, hình dạng như người đầu đỏ mặc quần xanh, xuất hiện rồi bất động. Thấy nó thì bề tôi mưu hại chúa, chúa chết. Có thuyết nói sao này chủ soán ngôi.

    Thiền Minh: Còn gọi là sao Bút. Tên sao yêu quái. Sao lớn màu trắng, lúc lên lúc xuống. Có thuyết nói nó tượng như sao Thái Bạch; hình như cái ghế 3 chân. Trông như cây bút chĩa lên. Sao này xuất hiện, nước nhìn thấy sẽ gặp nhiều biến động, có chiến tranh, hoặc đại nhân hung.

    Ngũ tàn tinh: Còn gọi là sao Ngũ Phong. Tên sao yêu quái, xuất hiện ở phương chính đông, hình dạng như Thần tinh, cách mặt đất 6, 7 trượng, có thuyết bảo sao này có khí màu xanh như quần tán, có đuôi. Sao lớn mà đỏ, nhìn kỹ sẽ thấy màu xanh. Thấy sao này là điềm hung, chúa bị chết, chiến tranh bùng nổ, tang tóc, bất lợi.

    Lục Tặc tinh: Còn gọi là sao Đại Tặc. Tên sao yêu quái; xuất hiện ở phương chính nam. lớn mà đỏ, động mà lấp lánh. Cách mặt đất 6 trượng (có sách nói cách 9 thước), hình dạng như sao Chổi. Sao này xuất hiện là điềm hung, tai họa bao trùm thiên hạ, chiến tranh, bất lợi.

    Ngục Hán tinh: Còn gọi là sao Hàm Hán. Tên sao yêu quái, xuất hiện ở phương chính bắc. Sao lớn mà đỏ, dao động, nhìn kỹ thấy có màu xanh ở giữa, cách mặt đất 6 trượng, có thuyết nói sao này ngoài màu đỏ, bên dưới có ba sao Chổi ngang dọc. Chủ đuổi vua, giết chúa. Sao này xuất hiện, thì âm tinh hoạnh phát, chiến tranh bùng nổ, có tang tóc, dao động thì chư hầu kinh sợ. Lại nói nó xuất hiện không đúng phương vị thì có chiến tranh, bất lợi.

    Tuần thủy: Tên sao yêu quái, xuất hiện bên cạnh sao Bắc Đẩu, trơng như con gà trống. Màu xanh đen, tượng con ba ba. Chủ tranh chấp binh mã. Cĩ thuyết nĩi nĩ do sao Chổi tách ra, tượng lập Chúa, chủ rối loạn. Sao này xuất hiện thì bề tôi làm loạn, dấy binh, chư hầu bạo nghịch, kéo dài 10 năm, thánh nhân phải dẹp loạn.

    Chúc tinh: Tên sao yêu quái, hình dạng như sao Thái Bạch. Báo hiệu những điều bất hạnh, thành ấp rối loạn, trộm cướp nổi lên. Đoán theo năm màu của nó.

    Trường canh:
    1) Tức sao Thái Bạch. Xem mục Thái Bạch, Khải Minh.
    2) Tên sao yêu cái. Trông như một tấm vải che trời. Thấy sao này ắt có chiến tranh.

    Tứ Điền tinh : Tên sao yêu quái. Xuất hiện ở bốn góc, cách mặt đất hơn 6 trượng, có thuyết nói cách 4 trượng. Có thuyết nói sao này lớn mà đỏ, cách mặt đất 2 trượng, thường xuất hiện 1úc nửa đêm. Đều là điềm chiến tranh bùng nổ vào tháng Mười.

    Địa Duy Tàng Quang : Còn gọi là Địa Duy Hàm Quang. Tên sao yêu quái. Xuất hiện ở bốn góc, cách mặt đất 4 trượng, màu vàng đỏ mà dao động, là ngôi sao ở giữa trời. Có thuyết nói sao này lớn mà đỏ, cách mặt đất 2 - 3 trượng xuất hiện giống như mặt trăng lúc mới mọc. Sao này xuất hiện, thì bên dưới rối loạn, kẻ rối loạn mất mạng, người có đức sẽ phồn vinh. Xuất hiện ở góc đông nam, có hạn hán lớn; xuất hiện ở góc đông bắc, thiên hạ có lụt lớn, xuất hiện ở góc tây nam, có chiến tranh bùng nổ, xuất hiện ở góc tây bắc, thì thiên hạ rối loạn, chiến tranh bùng nổ.

    Bồng tinh : Còn gọi là sao Vương. Tên sao yêu quái. Sao lớn như hai cái đấu, màu trắng. Có thuyết nói nếu xuất hiện ở phía tây nam thì dài vài trượng, nhọn hai bên, dao động. Có thuyết nói sao này màu trắng vàng, vuông khoảng 3 thước. Có thuyết nói sao này trông như mớ bông. Sao này xuất hiện, không đầy 3 năm sẽ có loạn thần; hoặc lụt hoặc hạn hán nặng nề, mất mùa. Xuất hiện cạnh sao Bắc Đẩu, chư hầu chiếm đất, có chiến tranh. Xuất hiện chòm Thái Vi, thiên tử lên ngôi. Có thuyết nói thấy sao này thì thiên hạ thái bình, được mùa lớn, đạo thuật hưng thịnh.

    Mông tinh: Còn gọi là sao Đao. Tên sao yêu quái. Hình dạng như đám mây mỏng, tỏa ra tứ phía khí màu vàng, dài 3 thước, chậâp chờn lúc thấy lúc mất. Có thuyết nói giống như cờ đuôi nheo, là đám khí màu đỏ tỏa ra tứ phía, tỏa về phía nam nhiều hơn. Tượng rối lọan, chiến tranh đẫm máu.

    Nữ Bạch : Tên sao yêu quái. Xuất hiện ở phía đông bắc, dài 3 trượng. Thấy sao này, thiên hạ có chiến tranh hoặc đại tang. Có thuyết nói Nữ bạch là khách tinh, gồm 3 ngôi sao lớn màu trắng.

    Đạo tinh : Tên sao yêu quái. Xuất hiện ở phía đông nam, dài 3 trượng. Thấy sao này, đoán là thiên hạ đầy trộm cướp. Có thuyết nói Nữ Bạch là khách tinh, gồm 8 ngôi sao.

    Quy Tà : Trông như mây mà không phải là mây, trông như sao mà không phải là sao. Thời cổ thường xếp vào loại sao yêu quái. Thấy sao này, ắt có người trở về nước.

    Thập Huy : Chu Lễ gọi là cách phân chia 10 hiện tượng mây hoặc sao yêu quái, sáng lập lòe không rõ, để đoán cát hung.
    - Một là Tẩm, tức là loại khí năm màu âm dương xen lẫn nhau, như cái mống.
    -Hai là Tương, tức là khí mây trông như hình con chim đỏ bay về phía mặt trời.
    -Ba là Tích, thứ khí ở cạnh mặt trời, trông như cái xà tích mà trẻ nhỏ đeo bên mình.
    -Bốn là lâm, thứ khí ở phía trên mặt trời.
    -Năm là âm, nhật, nguyệt thực nên tối hoặc gọi la hiện tượng thoát quang.
    -Sáu là Mông, tức là thứ khí mông lung không sáng rõ.
    -Bảy là Di, thứ vệt trắng vắt ngang mặt trời.
    - Tám là Tự, thứ khí trông như núi sừng sững ở trên mặt trời, chồng thành từng lớp bên cạnh mặt trời.
    -Chín là Tế, tức quầng tán hoặc cầu vồng.
    -Mười là Tưởng, thứ khí 5 màu có thể suy tưởng, chiêm đoán cát hung : màu xanh là đói khát, màu đỏ là chiến tranh, màu trắng là tang tóc, màu đen là lo buồn, màu vàng là được mùa.
    bachvan (Theo bài NguyenVu trong diễn đàn VHPD)





    ( Vanhoaphuongdong)
     

Chia sẻ trang này