KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

Thảo luận trong 'Chu dịch = Nắm bắt Thiên cơ + Biết Vận Mệnh' bắt đầu bởi dcba, 13 Tháng mười hai 2006.

  1. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    1/CÁC QUẺ TRONG MAI HOA DỊCH SỐ



    1/ QUẺ CÀN ( KIỀN )

    1/ Thiên thời : Trời, băng, tuyết sương

    2/ Địa lý : phương tây bắc, kinh đô, đại quân, nơi có cảnh đẹp, nơi cao và khô
    3/ Nhân vật : vua, cha , đại nhân, người già, trưởng giả, quan lại, gia nhân, người ở cửa quan
    4/ Nhân sự : khoẻ mạnh, vũ dũng , quả quyết, nhiều động ít tĩnh, từ cao cúi xuống dưới

    5/ Nhân thể : đầu, xương, phế

    6/ Thời gian : thu, giao thời giưaé tháng 9,10 , năm tháng ngày giờ của tuất hợi, lnhững năm tháng ngày giờ thuộc kim

    7/ Động vật : ngựa, thiên nga, sư tử, voi

    8/ Tĩnh vật : vàng, ngoc, những vật tròn, quả cây, những vật cứng, mũ, gương

    9/ Công trình xây dưng : nhà xí công cộng, lâu đài, nhà cao, biệt thự, nhà tiếp khách, nhà ở hướng tây bắc

    10/ Gia trạch : xem về mùa thu, gia trach hưng long ; màu hạ thì nhà có hoạ ; muà đông thì nhà lạnh lẽo ; mùa xuân thì cát lợi

    11/ Hôn nhân : gia đình quan quí, nhà có thanh danh . Xem mùa thu thì thành, đông hạ bất lợi

    12/ Đồ ăn : thịt ngựa, những thức ăn quý hiếm, có nhiều xương, gan, phổi, thịt khô, các hoa quả, đầu các loại, vật tròn , thức ăn có vị cay

    13/ Sinh sản : dể sinh, thu xem sinh quý tử, mùa hạ xem có tổn, ngồi lên quay hương tây bắc

    14/ Cầu danh : có danh, nên nhận chức trong triều, hình quan võ chức, nắm quyền, thiên sứ và quan tuần nên nhận chức ở hướng tây bắc

    15/ Mưu vọng : có thể thành, lợi ở hướng cửa quan, có của khi động (hành động ) ; xem mùa hạ không thành ; xem vào mùa đông thì lắm mưu nhưng không đạt

    16/ Giao dịch : nên buôn hàng vàng, đồ ngọc quý, những hàng đắt giá, dễ thành . Mùa hạ xem không lợi

    17/ Cầu tài : có của, lợi của vàng ngọc . Được lộc ở trong cửa quan . Thu xem đại lợi . Hạ xem tổn tài . Đông xem vô tài

    18/ Xuất hành : lợi về xuất hành, nên đi về kinh đô, lợi những chuyến đi về hướng Tây bắc, hạ xem không lợi

    19/ Yết kiến : có lợi khi gặp đại nhân, găp người có đức hạnh, nên gặp quan quý, có thể gặp

    20/ Tật bệnh : có bệnh ở đầu và ở mặt, bệnh phổi, bệnh về ghân cốt, bệnh hoả bốc lên trên . Mùa hạ xem thì bất yên

    21/ Kiện tụng : thắng lý, có quý nhân phù trợ, mùa thu xem được kiện, hạ xem thì thua kiện

    22/ Ngũ sắc : màu đỏ chói, màu đen

    23/ Tên tuổi : người mang bộ kim, thương âm ; ở hàng thứ nhất, thứ tư, thứ 9

    24/ Con số : 1,4,9 . Cũng có thể chỉ tháng / Số 1,4,9 loặc 149 (tuỳ theo việc cụ thê, mà định)

    25/ Ngũ vị : chua cay


    2/QUẺ ĐOÀI

    1/ Thiên thời : Mưa dầm, trăng non, vì sao

    2/ Địa lý : hướng tây, đầm hồ, mép nước, ao tù, giếng hoang,đất nức nẻ, núi lỡ, đất chua

    3/ Nhân vật : thiếu nữ, thê thiếp, ca kỹ, đầu sai, nô bộc, tỳ thiếp, người phù thuỷ

    4/ Nhân sự : vui vẻ, lắm mồm, gièm pha, sự ăn uống

    5/ Nhân thể : lưỡi, mồm , hầu phổi, đờm

    6/ Thời gian : tháng 8 mùa thu, giờ ngày tháng năm dậu ; ngày, tháng , năm kim ; ngày tháng 2,4,9

    7/ Động vật : dê, động vật trong đầm hồ

    8/ Tĩnh vật : dao bằng vàng, các loại kim khí, nhạc khí, các đồ phế thải, các vật , túi có miệng vỡ

    9/ Công trình xây dưng : nhà xây ở hướng tây, nhà ở gần đầm hồ, nhà có vách tường đổ ; quanh kiến trúc ở có 1 chổ bị hỏng

    10/ Gia trạch : bất an, phòng khẩu thiệt, mùa thu xem thì vui, mùa hạ xem có khi hoạ

    11/ Hôn nhân : bất thành, mùa thu xem có thể thành, có vui, chủ thành hôn thì cát, lợi cho việc hôn nhân voúi thiếu nữ, mùa hạ xem không lợi

    12/ Đồ ăn : thịt dê, những vật ở hồ đầm, ăn các vị của nhà hàng, và những thứ cay, chua

    13/ Sinh sản : bất lợi, sợ có sự tổn thai hoặc xinh con gái, mùa hè xem không lợi, nên ngồi hướng tây

    14/ Cầu danh : khó thành, vì danh mà tổn tài . Lợi lập nghiệp ở phương tây và nên nhận các về hình quan, quan võ ; có lợi nhất là cho việc làm quan dịch

    15/ Mưu vọng : khó thành, trong lúc mưu đồ có tổn thất, mùa thu xem có tin vui , mùa hạ xem không lợi

    16/ Giao dịch : khó có lợi , phòng khẩu thiệt, có sự cạnh tranh, mùa thu xem thì có tài ; mùa hạ xem thì không lợi

    17/ Cầu tài : không lợi, có hoạ, nếu được tài thì chủ về khẩu thiệt . Mùa thu xem thì mừng , mùa hạ không tốt

    18/ Xuất hành : không nên đi xa, phồng khẩu thiệt, hại mất tiền . Nên đi về hướng tây . Nên xuất hành vào mùa thu

    19/ Yết kiến : có lợi đi về hướng tây . Nếu gặp thì gặp phú thương

    20/ Tật bệnh : bệnh về lưỡi, hầu, hen suyễn và ăn uống không tiêu

    21/ Kiện tụng : tranh tụng liên miên, khó tra xét, trắng đen không rõ , tổn hao vì kiện tụng, phòng hình nguc . Mùa thu xem thì tháng lý

    22/ Ngũ sắc : trắng

    23/ Tên tuổi : người tên có bộ Kim ; âm thương, đứng hàng thứ 2,4,9

    24/ Con số : 2,4,9

    25/ Ngũ vị : chua,cay

    3/QUẺ LY

    1/ Thiên thời : mặt trời , điện, cầu vòng , mống , ráng

    2/ Địa lý : phuong nam, đất cao, khô, nứt nẻ, có hố không có nước, bếp lò, đất nóng ,cằn khô, đất hướng về dương

    3/ Nhân vật : trung nữ, văn nhân, bụng to, có tật về mắt, binh sĩ có giáp trụ

    4/ Nhân sự : người có văn hoá, thông minh, có tài học, găp; gở khiêm tốn, mỹ lệ

    5/ Nhân thể : mắt, tim, ruôt; non, thượng tiêu (dạ dày, gan, ruột non

    6/ Thời gian : mùa hè, tháng 5, năm tháng ngày giờ ngọ hoả, ngày 3,2,7

    7/ Động vật : rùa, trỉ, ba ba, trai, ốc, cua

    8/ Tĩnh vật : lữa, sách, văn, giáp cốt, can qua, gỗ xếp, quần áo xếp, những vật kho ráo, màu đỏ

    9/ Công trình xây dưng : cư ơ, phía nam, nhà có ánh sáng mặt trời, có nhiều cưa, sô, sáng sủa

    10/ Gia trạch : yên ổn, binh thiện, mùa đông xem thì không tốt , đề phòng bị hoả hoạ

    11/ Hôn nhân : không thành . Chỉ tốt cho bật trung nữ .

    12/ Đồ ăn : thịt chim trĩ, các thứ rán sém cạnh, có những vật nướng và thịt ninh nhừ, đạt biệt là phổi, lòng

    13/ Sinh sản : dể sinh, sinh thứ nữ, mùa đông xem tổn hại . Nên ngồi hướng nam

    14/ Cầu danh : có danh ở phương nam , là quan văn hoặc coi các là xưỡng

    15/ Mưu vọng : thuận lợ trong văn thư

    16/ Giao dịch : có thể thành công, nên giao dịch có chứng từ

    17/ Cầu tài : có tài nhưng cầu ở phương nam, có văn thư . Mùa đông xem thì hao tổn

    18/ Xuất hành : nên đi về phương nam và đi vào các quan hệ giấy tờ, đông xem không lợi cho việc đi, không đi đường thuỷ

    19/ Yết kiến : có thể gặp người ở phương nam . đông, khó gặp . thu gặp kẻ tài sĩ, văn thư án hình

    20/ Tật bệnh : bệnh về mắt, tim, bệnh thương; tiêu, mùa hạ xem thì sốt cao thời dịch

    21/ Kiện tụng : Dể giải, dể tán, vì văn thư động .Đặc biệt là về tố tụng nếu gặp quẽ này thì trắng án

    22/ Ngũ sắc : màu tím, hồng , đỏ

    23/ Tên tuổi : những người có bộ hoả, nhân đứng . Hàng thứ 2,3,7

    24/ Con số : 2,3,7

    25/ Ngũ vị : vị đắng


    4/QUẺ CHẤN

    1/ Thiên thời : sấm sét

    2/ Địa lý : hướng đông, có cây cối, chợ ồn ào, đường lớn, rừng trúc, nơi cây cỏ xum xuê

    3/ Nhân vật : trưởng nam

    4/ Nhân sự : lúc khơi, đầu , cáu gắt, kinh sợ, thôi thúc, động nhiều , tĩnh ít

    5/ Nhân thể : chân, gan, tóc và âm thanh

    6/ Thời gian : tháng 2,mùa xuân, năm tháng ngày giờ mạo Tháng ngày 4,3,5

    7/ Động vật : rồng, rắn và các loại côn trùng, ngựa hí

    8/ Tĩnh vật : tre, gổ, lau sậy, nhạc khí (thuộc gỗ tre); chổ có hao cỏ tươi tốt

    9/ Công trình xây dưng : nhà cửa ở hướng đông, nơi núi rừng, nhà lầu có gát

    10/ Gia trạch : trong nhà đôi lúc có sư; kinh sợ . Mùa xuân, đông xem thì tốt . Thu xem bất lợi

    11/ Hôn nhân : có thể thành, nhà có thanh danh ; lợi cho việc hôn nhân của trưởng nam, mùa thu xem không nên kết hôn

    12/ Đồ ăn : gót, móng, thịt, vị hoang dã của rừng núi, thịt tươi, vị quã chua, rua, thịt cá

    13/ Sinh sản : có nỗi kinh sợ, động thai không yên . Con đầu lòng tất sinh con trai . Nên ngồi hướng đông . Thu xem có tổn hại

    14/ Cầu danh : có danh, nhậm chức ở phương đông, chức tước là ra hiệu lệnh, quan nắm về hình ngục . Có chức , lại quản về trà, tre, gỗ, thuế khoá, hoặc chức quản lý hàng hoá ở chợ

    15/ Mưu vọng : có thể cầu được . Nên đặt kế sách trong trạng thái động . Thu xem không tốt

    16/ Giao dịch : Có lợi . Thu xem khó thành, nếu ở trạng thái động thì sẽ thành . có lợi ở chốn rừng núi, tre, gỗ hoặc trà , lá

    17/ Cầu tài : Cầu tài ở trạng thái động hoặc có lợi vì rừng núi, tre, gỗ, trà

    18/ Xuất hành : nên đi, lợi hướng đông, lợi cho người ở rừng núi

    19/ Yết kiến : có thể gặp, nên gặp người miền núi rựng Mùa thu xem không nên đi sợ sẽ có nỗi khiếp đảm

    20/ Tật bệnh : bênh; ở chân, gan, hoảng hốt không yên

    21/ Kiện tụng : có kiện lớn, có nỗi lo sợ , khiếp đảm, phải đi lại nhiều lần

    22/ Ngũ sắc : xanh sẩm, màu lục bích

    23/ Tên tuổi : người có âm giác, họ có bộ mộc, đứng hàng thứ 4, 8, 3

    24/ Con số : 4,8,3

    25/ Ngũ vị : chua

    5/QUẺ TỐN

    1/ Thiên thời : gió

    2/ Địa lý : hướng đông nam . Nơi có cây xanh tốt, vưòn rau quả

    3/ Nhân vật : trưởng nữ, người quả phụ, người đạo sĩ ở vùng rừng núi

    4/ Nhân sự : nhu mỳ, bất định . Lãi gấp 3 ở chợ

    5/ Nhân thể : mông, khí hơi, bệnh phong

    6/ Thời gian : giao thời mùa hạ , tháng ngày giờ 3,5,8 ; năm tháng ngày giờ thìn, tị , tháng 4

    7/ Động vật : các loại lông vũ, các loại côn trùng trong rừng núi

    8/ Tĩnh vật : mộc hương, dây thừng, thực vật ; những vật dai, tre trúc, những dụng cụ mỹ nghệ, có mùi, lông gà, cánh buồm, cái quạt

    9/ Công trình xây dưng : ở hướng đông nam, vườn và lâu đài , nơi đền miếu ở chốn núi rừng

    10/ Gia trạch : yên ổn, lợi về buôn bán, xuân xem thì tốt . Thu xem thì bất an

    11/ Hôn nhân : có thể thành, lợi hôn nhân truởng nữ, mùa thu xem không nên kết hôn

    12/ Đồ ăn : thịt gà, những mùi của núi rừng, rau quả

    13/ Sinh sản : dể sanh, con dầu lòng là gái . Thu xem thì tổn thai, nên ngồi hướng đông nam

    14/ Cầu danh : có danh, nên làm quan văn có quyền về văn hiến, nên giữ chức quản về trà, tre, gỗ, thuế khó . Nên nhận chức ở hướng đông nam

    15/ Mưu vọng : có thể cầu được .có của . Thu xem nhiều mưu nhưng ít đạt

    16/ Giao dịch : có thể thành, tiến thoái bất nhất ; lợi về giao dich ở chốn rừng núi

    17/ Cầu tài : có lãi gấp ba, có lợi về buôn bán tre trúc, trà, gỗ lạt . Thu xem bất lợi

    18/ Xuất hành : có thể đi . Có lợi về xuất nhập . Nên đi hướng đông nam . Thu xem bất lợi

    19/ Yết kiến : có thể gặp, có lợi khi gặp người miền núi rừng hoặc văn nhân chí sĩ

    20/ Tật bệnh : bệnh ở đùi, mông, bệnh cảm gió, bệnh đường ruột, bệnh hàn, tà bệnh về khí, trúng phong

    21/ Kiện tụng : nên hoà . Sợ có liên lụi đến giấy tờ luật lệ

    22/ Ngũ sắc : xanh lục hoặc trắng bóng

    23/ Tên tuổi : người có âm giác, họ có bộ mộc, bộ thảo đứng hàng thứ 5,3,8

    24/ Con số : 5,3,8

    25/ Ngũ vị : vị chua

    6/QUẺ KHẢM

    1/ Thiên thời : mặt trăng, tuyết, mưa, sương

    2/ Địa lý : hướng bắc, sông hồ, suối khe, vũng giếng, nơi đất thấp trũng, mương rạch , đầm ao, vũng nước

    3/ Nhân vật : trung nam, người trên sông hồ, trộm cướp

    4/ Nhân sự : nham hiểm, thấp kém, bên ngoài yếu đuối, bên trong ác độc ; phiêu bạt đi xuôi dòng nước , luồn lách

    5/ Nhân thể : tai, máu huyết, thận

    6/ Thời gian : mùa đông, tháng 11 . Năm tháng ngày tý ; tháng ngày 1,6

    7/ Động vật : lợn, cá, những vật trong nước, cáo, loại seafood-

    8/ Tĩnh vật : những vật đựng nước, những vật có hạt , nhựng vật có hình vòng cung, mềm ; những đồ đựng rượu, nước, gai sắc nhọn, lê, gông cùm , muối, rưọu

    9/ Công trình xây dưng : hướng bắc, gần nước, lầu thuỷ tạ, chòi, trà rượu trên sông, nơi đất ẩm thấp ở trong nhà

    10/ Gia trạch : bất an, ám muội, phòng trộm cắp

    11/ Hôn nhân : lơi; cho trung nam, nên thành hôn ở hướng bắc, bất lợi thành hôn, không được kết hôn vào những tháng thìn, tuất, sửu, mùi

    12/ Đồ ăn : thịt lợn, rượu, các đồ lạnh, các thứ của biển, canh . Ăn ơ, quán trọ, cá, có máu, được giấu kín . Những thứ có hạt, trong nước, có xương

    13/ Sinh sản : khó sanh, tốt là ở thai con rạ, con trai thứ (tức trung nam) ; những tháng thìn, tuất, sửu , mùi thì có tổn thương . Nên ngồi hướng bắc

    14/ Cầu danh : gian nan, sợ có tai vạ, nên nhận chức phía bắc, hoặc những chức có liên quan đến : cá muối, sông, nước, rượu, giấm

    15/ Mưu vọng : khó khăn nhưng không thanh`. Thu, đông thì có thể được

    16/ Giao dịch : bất lợi, sợ bị lừa, nên giao dịch canh nước hoặc có liên quan đến các hàng cá, muối, rượu ; hay người mang bộ chấn, thuỷ

    17/ Cầu tài : nếu có của thì nên phòng mất mát . Lợi cạnh nước . Sợ bị lừa, phòng trộm cắp

    18/ Xuất hành : không dể đi xa, nên đi thuyền , về hướng bắc . Phòng trộm, sợ gặp nạn chiềm tàu, trộm cắp

    19/ Yết kiến : khó gặp . Gặp những người trên sông hồ hoặc có họ chấn thuỷ

    20/ Tật bệnh : đau tai, tim mạch, cảm hàn, bệnh thận, tả do ăn lạnh, các bệnh sưng, gió rét, mạch máu, đường huyết

    21/ Kiện tụng : bất lơi;, có âm mưu hiểm độc , có sự mát mát trong kiện tụng, mắc lừa

    22/ Ngũ sắc : màu đen

    23/ Tên tuổi : âm tập, người có họ mang bộ thuỷ ở hàng 1,6

    24/ Con số : 1,6

    25/ Ngũ vị : vị mặn


    7/QUẺ CẤN


    1/ Thiên thời : mây, sương mù, lam chướng

    2/ Địa lý : hướng đông bắc, đường lên núi, gò đống, mồ mã , những cái lổ trên thành

    3/ Nhân vật : thiếu nam, người nhàn rổi, người trong núi, con trẻ

    4/ Nhân sự : sự cách trở, thích im lặng, sự tiến thoái không quyết, sự phản bội, sự dừng lại và không gặp

    5/ Nhân thể : ngón tay, xương, mũi, lưng

    6/ Thời gian : tháng giữa đông và xuân, tháng 12 ; giờ ngay` tháng năm sửu, dần , ; ngày tháng 7,5,10 ; giờ ngày, tháng, năm thổ

    7/ Động vật : hổ , chó, chuộc, bách thú,những con vật mõm dài, cáo

    8/ Tĩnh vật : đá, đất, các vật màu vàng, ở trong đất, ngõ chùa ; những đồ vật về mộc, vật sinh từ dây leo

    9/ Công trình xây dưng : hướng đông bắc, xây nhà gần núi đá hoặc nằm gần đường cái

    10/ Gia trạch : việc có trắc trở . Trong nhà không được hoà thuận, mùa xuân xem không tốt

    11/ Hôn nhân : cách trở, khó thành, có thành cũng rất khó khăn . có lợi cho việc hôn nhân với người thiếu nam . Quan hệ hôn nhân với người nhà quê thì tốt

    12/ Đồ ăn : mùi vị các loại vật ở trong đất và nhiều thịt, các loại măng, tre, trúc, vị thôn dã

    13/ Sinh sản : khó sinh, nguy hiểm, nên ngồi hướng đông bắc . Kỵ nhất mùa xuân

    14/ Cầu danh : Cách trở, không có danh . Nên nhậm chức ở sơn thành

    15/ Mưu vọng : trở ngại khó thành, tiến thoái không quyết được

    16/ Giao dịch : Khó thành, có sự quan hệ vợi loai; sơn lâm, điền thổ . Mùa xuân xem có sự mất mát

    17/ Cầu tài : trắc trở, nên cầu tài trên vùng núi . Mùa xuân không có lơi; mà còn mất của

    18/ Xuất hành : Không nên đi xa, có cản trở, nên đi gần ở trên cạn

    19/ Yết kiến : Không gặp được

    20/ Tật bệnh : bệnh ơ, ngót tay, dạ dày , lá lách

    21/ Kiện tụng : có quí nhân cứu, nhưng kiên; tụng không dứt khoát, dây dưa

    22/ Ngũ sắc : màu vàng

    23/ Tên tuổi : những người có họ thô,, âm cung, hàng thứ 5,7,10

    24/ Con số : 7,10,5

    25/ Ngũ vị : vị ngọt


    8/QUẺ KHÔN

    1/ Thiên thời : có mây và râm, sương mù

    2/ Địa lý : hướng tây nam, ruông; đồng, thôn quên, đất bằng

    3/ Nhân vật : nông dân, me; già, mẹ kế, người ở quê, số đông, bà già, người bụng bự

    4/ Nhân sự : lầm lỳ, hiền hoà, nhu nhược, số đông, kẻ tiểu nhân

    5/ Nhân thể : bụng, tỳ, vị, thịt

    6/ Thời gian : tháng thìn, tuất, sưu, mùi; năm tháng ngày giờ mùi thân ; tháng ngày 5,8,10

    7/ Động vật : trâu, vò , bách thú, ngựa con

    8/ Tĩnh vật : vật vuông, mềm, bằng vãi, bằng tơ, ngũ cốc, rìu, búa, đồ sành sứ

    9/ Công trình xây dưng : nhà nông thôn, nhà thấp, bâc lên xuống bằng đất, kho tàng

    10/ Gia trạch : yên ổn, nhiều âm khí, mùa xuân xem thì gia trạch bất an

    11/ Hôn nhân : lợi cho hôn nhân, thích hợp những nhà cho thuê . Nhà ở làng quê, nhà của bà goá : mùa xuân xem bất lợi

    12/ Đồ ăn : thịt trâu bò, những vật phẩm từ đất, vị ngọt, những vị tự nhiên, vị ngũ cốc ; Những vật, thức ăn về măng, mầm , lòng, ruột

    13/ Sinh sản : dể sinh, xuân xem khó sinh, có tổn thất, việc không lợi cho mẹ . Nên ngồi hướng tây nam

    14/ Cầu danh : có danh, nên đi hướng tây nam, hoặc nhận chức quan, giáo, quản nông, quản nhà đất . xem mùa xuân thì hư danh

    15/ Mưu vọng : lợi về cầu mưa, cầu mưa bên làng bên cạnh . Cầu mưu trong trạng thái tịnh Xuân xem thì không đạt, hoặc mưu bởi phụ nữ

    16/ Giao dịch : có lợi, nên giao dịch về đất đai, lợi về ngũ cốc, vay mượn, vật nặng vải vóc , có của được tài, trong lúc tĩnh , mùa xuân xem bất lợi

    17/ Cầu tài : có lợi, nên làm về đất đai . có lợi cho vay hoặc vật nặng . Có lợi trong trạng thái tĩnh . Xuân xem vô tài

    18/ Xuất hành : có thê, đi, nên đi về hướng tây nam , về vùng quê . Nên đi đường bộ, xuân xem không lợi cho xuất hành

    19/ Yết kiến : có thê, gặp . gặp người ở vùng quê có lợi . Nên gặp bạn bè hoặc ân nhân, mùa xuân không nên gặp

    20/ Tật bệnh : bệnh ở bụng ở tỳ vị , bệnh đường tiêu hoá do ăn uống, bệnh khó tiêu

    21/ Kiện tụng : lý thuận, được số đông ủng hộ, tụng sẽ được xoá

    22/ Ngũ sắc : vàng, đen

    23/ Tên tuổi : âm cung, người có họ mang bộ thổ ở hàng 8,5,10

    24/ Con số : 8,5,10

    25/ Ngũ vị : ngọt
     
  2. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    2/KHẢ NĂNG DỰ ĐOÁN CỦA CHU DỊCH VÀ KINH DỊCH

    Chu Dịch Với Nền Văn Minh Trung Hoa Cổ Đại


    Chu Dịch có ứng dụng đặc thù gì ?

    Chu Dịch mang tính năng “Phát Hiện” sự tồn tại các hiện tượng, sự việc, vật thể. Đi sâu vào bản chất (Sinh lý, sinh học phân tử, nguyên tử, hạt cơ bản) không phải là khả năng của Chu Dịch.

    Chu Dịch được xây dựng trên cơ sở khoa học nào ?

    Cơ sở khoa học nêu lên được hiểu là nền tảng khoa học chính thống hiện nay đã và đang tạo ra các thành tựu kỹ thuật mà chúng ta nhìn thấy xung quanh & sống trong nó
    Giới khoa học ngày nay nhận thấy rằng thế giới còn tồn tại những hiện tượng rất khó lý giải. Vì thế, đã chấp nhận cách phân định như sau: Ngành khoa học chính xác (1) và Ngành khoa học chưa thể giải thích, chứng minh bằng các công cụ đo đạc chính xác (2)
    Nên khi ứng dụng vào thực tiễn mang lại lượng kết quả đúng đáng kể, thì sẽ được coi là đối tượng nghiên cứu thuộc ngành khoa học thứ hai (2). Chu Dịch là một ví dụ.
    Chu Dịch bắt nguồn từ lý thuyết Âm Dương. Lý thuyết này đã không còn bị coi là hoang đường. Nó có một cơ sở hệ thống lý luận riêng, chặt chẽ, lo-gic không ai phủ nhận được. Tuy vậy, cho đến nay chưa ai lý giải được người xưa đã lý luận như thế nào để tạo nên Chu Dịch.
    Để lý giải cách tạo nên Chu Dịch phải làm được 5 điều sau:
    Việc thứ nhất: Giải thích, chứng minh sự hình thành của 2 đồ hình Tiên Thiên & Hậu Thiên Bát Quái.
    Việc thứ hai: Giải thích, chứng minh cách sắp xếp thứ tự của 64 quẻ dịch.
    Việc thứ ba: Tìm ra nguyên tắc cấu tạo 64 thoán từ.
    Việc thứ tư: Tìm ra nguyên tắc cấu tạo 386 hào từ.
    Việc thứ năm: Nguồn thông tin tạo nên lời của thoán từ và hào từ .
    Tất cả 5 việc trên cho đến thời điểm hiện nay vẫn còn là điều bí hiểm chưa giải thích được.
    Tôi đã thực hiện được hai việc 1 & 4 và sẽ trình bày chúng trong quyển 2 : “Công Bố Cơ Sở Luận Của Chu Dịch”

    Chu Dịch là của ai ?

    Các di chỉ khảo cổ học cho biết rằng đồ hình bát quái của Chu Dịch chưa có ở đời nhà Thương (Trước nhà Chu) Các nhà sử học hiện nay thống nhất cho rằng 12 vị vua thời nhà Chu, trùng với thời gian xuất hiện Chu Dịch, chỉ là đặt nền tảng cơ bản cho nền văn minh Trung Hoa sau này.
    Tính khái quát rất cao trong các lời thoán từ & hào từ khiến người viết có nhận định rằng Chu Dịch không thể là sản phẩm của xã hội mà trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém cách đây trên 3200 năm.
    Bởi lẻ, người viết mặc dù đã tìm ra được các nguyên tắc chuẩn hình thành nên 386 hào từ (Việc thứ tư). Nhưng từ nguyên tắc đến việc viết nên lời hào như Chu Dịch là một khoảng cách lớn, rất lớn! Bởi chỉ có nguyên tắc thôi thì không đủ, mà cần phải có một lượng tri thức ở trình độ phát triển cao tương ứng mới có thể viết nên Chu Dịch.
    Nên tôi cho rằng một hay 2 bộ óc siêu việt ở trình độ cách đây 3200 năm không thể làm nổi ! (Các sách hiện nay đều cho rằng hai cha con Chu Văn Vương & Chu Đán đã viết nên Chu Dịch)
    Quẻ Thuần Khôn có một đoạn mô tả từ Hội Âm (Vùng nằm giữa hậu môn và bộ phận sinh dục) có con đường đi về phía gần cái lưỡi thì ngừng lại. Bên châm cứu Mạch Nhâm, Mạch Đốc xuất phát từ huyệt Hội Âm đi đến huyệt Ngân Giao & Thừa Tương thì ngừng.
    Nghĩa là cũng chưa đến cái lưỡi!
    Việc Chu Dịch mô tả chính xác đường đi của hai kinh mạch quan trọng của cơ thể là điều đáng phải đặt câu hỏi: Liệu người Trung Hoa xưa kia đã căn cứ vào Chu Dịch để tìm ra gần 1000 huyệt đạo nằm trên cơ thể con người? Nhìn trên tổng thể Chu Dịch, tôi nhận định rằng không thể có điều này. Đây chỉ là sự trùng hợp tất nhiên của một nền văn minh kỹ thuật thuần nhất, như khi định luật bảo toàn
    năng lượng bên vật lý cổ điển cũng phù hợp với trên nhiều lãnh vực khoa học khác.
    Người Trung Hoa đã tìm ra hàng trăm huyệt đạo từ đâu, mà với trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay vẫn chưa đủ khả năng tìm ra được ngần ấy huyệt như thế, và khi môn châm cứu cũng được ghi nhận sự ra đời của nó khoảng gần gần với Chu Dịch?
    Chu Dịch không tạo ra môn châm cứu, vậy thì cái gì đã tạo nên hai quyển sách siêu đẳng này?
    64 thoán từ & 386 hào từ của 64 qui luật được trình bày theo lối tả vật, tả người, tả cảnh. Điều này có nghĩa là:
    Hoặc như khi ta nhìn vào các hình vẽ mà mô phỏng chép lại ?
    Hoặc người Trung Hoa khái quát các qui luật bằng hình tượng ?
    Khả năng thứ hai là không thể có như tôi đã trình bày ở trên.
    Và một điều quan trọng hơn, bằng việc sử dụng các nguyên tắc cấu tạo hào từ, tôi đã tìm ra một số điểm còn thiếu & sai của nguyên bản Chu Dịch.
    Những điểm thiếu & sai này xem ra là “Bất Cẩn” nếu đem so với khả năng và trình độ của người viết nên bộ Chu Dịch.
    Như vậy, sẽ là hợp lý hơn khi cho rằng Chu Dịch là bản mô phỏng chép lại từ hình vẽ.
    Vì thế, tôi cho rằng: Chu Dịch là tác phẩm có xuất xứ từ một nền văn minh khoa học đã phát triển cao.

    Chu Dịch trình bày một hệ thống triết học !

    Điều đáng kinh ngạc là Chu Dịch không đơn thuần trình bày 64 qui luật, mà nó còn trình bày một hệ thống triết học. Hệ thống triết học ấy đã tạo dựng nên một nền văn minh Văn hoá - Kỹ Thuật Trung Hoa Cổ cực thịnh. Nền văn minh Cổ ấy vẫn tiếp tục tác động đến xã hội Trung Hoa đương đại theo cái cách xuyên suốt không đứt đoạn. Một nền văn minh cổ duy nhất của thế giới còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
    Nêu một giả thuyết:
    Nếu chúng ta chỉ nhìn vào quá khứ của nền văn minh Trung Hoa Cổ ấy mà cho rằng Chu Dịch là tác phẩm cổ là một điều không công
    tâm ! Bởi nó nhìn thấy những điều mà cho đến ngày hôm nay chúng ta mới thấy, và nó đã trông thấy những điều ngày hôm nay chúng ta vẫn chưa rõ, vậy thì phải nhìn nó như một sản phẩm của một nền văn minh khoa học kỹ thuật đã phát triển cao mà người Trung Hoa xưa được thừa hưởng.
    Tôi sẽ đi theo hướng chứng minh giả thuyết này.

    Chu Dịch với Chu Dịch Dự Đoán Học
    Chu Dịch Dự Đoán Học có từ khi nào ?
    Chu Dịch Dự đoán đã có từ rất lâu, có thể đã xuất hiện từ khi có Chu Dịch.
    Các cách dự đoán này gọi là dự đoán theo Chu Dịch.
    Người có công chuyên biệt hoá khả năng dự đoán của Chu Dịch, giúp Chu Dịch áp dụng vào công việc dự đoán trong thực tiễn dễ dàng hơn, là nhà Triết học Thiệu Khang Tiết (Thiệu Ung) đời nhà Tống.
    Ông đã đưa Hệ thống Thiên Can Địa Chi và mã hoá chúng thành các con số nhằm xác định thời điểm vận hành các qui luật.
    Từ đó hình thành nên môn học Chu Dịch Dự Đoán.
    Tuy nhiên, ông đã không để lại tiến trình diễn giải vì sao ông đã tạo nên được các qui tắc, phương pháp dự đoán như thế.
    Đây là một điều hết sức đáng tiếc và kỳ lạ thường thấy ở hầu hết các tác phẩm cổ Trung Hoa.
    Trong quyển Dự Đoán Học Trung Hoa, tôi sẽ bổ xuyết những hạn chế này.
    (Hệ thống Thiên Can Địa Chi nằm trong Hệ Lịch Cổ Trung Hoa. Hệ Lịch này lấy Mặt Trăng làm điểm qui chiếu. Ta thường gọi là Âm lịch)
    Chu Dịch & Chu Dịch Dự Đoán Học liên hệ thế nào ?
    Trong lãnh vực dự đoán, mối liên hệ giữa chúng như sau :
    (Tôi mượn một số thuật ngữ bên Tin Học để mô tả mối liên hệ này)
    Dự Đoán Theo Chu Dịch là: Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Thấp.
    Chu Dịch Dự Đoán là: Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Cao.
    Bậc Thấp & Bậc Cao diễn tả quan hệ cái trước là cái nền của cái sau.
    Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Thấp:
    Là cái nền, được sử dụng đề dự đoán các sự vật & hiện tượng trong một không gian & thời gian Không xác định.
    Ví dụ : Khi Hitler đưa ra chủ thuyết Dân Tộc Thượng Đẳng. Căn cứ vào hình thái, lời hào Phong Thuỷ Hoán, chúng ta có thể xác quyết

    được rằng:Nhà độc tài này có ý muốn thống trị thế giới, sẽ có những hành động cực đoan với các dân tộc khác, sẽ lôi kéo cả dân tộc chuẩn bị lực lượng cho một cuộc chiến tranh tổng lực. Căn cứ vào sự vận hành của hình thái Phong Thuỷ Hoán, chúng ta có thể dự đoán được hậu quả của cuộc chiến, và cái kết của cuộc chiến tranh ấy.
    Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Cao:
    Là ngôn ngữ dự đoán đã được chuyên biệt hoá, được sử dụng để dự đoán các sự vật & hiện tượng trong một không gian & thời gian Được xác định.
    Ví dụ: Khi xác định được thời điểm Hitler công bố chủ thuyết Dân Tộc Thượng Đẳng, ta có thể biết được suy nghĩ, thái độ, hành động & các bước đi tiếp theo của ông ta.
    Chu Dịch là cấu trúc của ngoại cảm ?
    Trên thực tế, có những người mang khả năng ngoại cảm dự đoán rất tốt. Họ nhìn thấy các sự kiện đã diễn ra, biết trước diễn tiến sự việc trong tương lai mà bản thân họ không cần phải nhìn thấy trực tiếp.
    Phải chăng trong vô thức, họ đã nắm được những qui luật bất biến của con người & vũ trụ ?
    Chúng ta thường gọi những người này là Nhà Ngoại Cảm.
    Nhà Ngoại cảm nghe qua sự kiện, có thể đưa ra lời dự đoán.
    Nhà Dự Đoán Học Trung Hoa cũng chỉ cần như vậy.
    Điều này cho ta nhận xét rằng: Phải chăng Chu Dịch là cấu trúc cơ bản của khả năng ngoại cảm ?

    Chu Dịch với Thiên Văn

    Theo tính toán của các nhà vật lý thiên văn, mặt trời chúng ta đang ở độ tuổi trung niên.
    Khi về già, mặt trời sẽ tăng dần thể tích lên cho đến khi nuốt trọn trái đất. Đó là thời điểm đi dần đến sự kết thúc thái dương hệ của chúng ta.
    Khi nhìn vào Thuần Ly (quẻ thứ 30) hình thái Sáng - Lồi, chúng ta có được sự trùng hợp lý thú !
    Quẻ 30 mô tả diễn tiến rất đúng trạng thái Mặt trời ở hào thứ 6 _ Nuốt trọn Trái Đất !
    Ta hãy xem :

    Hào 1 : Dẫm đạp lung tung
    Giai đoạn hoạt động ban sơ của Mặt trời
    Hào 2 : Sắc vàng phụ vào giữa
    Giai đoạn Mặt trời hoạt động mạnh mẽ nhất
    Hào 3 : Mặt trời xế chiều gần lặn
    Giai đoạn Mặt trời hoạt động đi dần đễn mức tiêu hao hết năng lượng của nó.
    Hào 4 : Thình lình chạy tới như muốn đốt người ta vậy
    Giai đoạn Mặt trời phình to
    Hào 5 : Nước mắt ròng ròng
    Sự phình to bắt đầu tác động đến những hành tinh, thiên thể gần nó.
    Hào 6 : Giết đầu đãng mà bắt kẻ sống, kẻ khác phải theo mình
    Giai đoạn Mặt trời nuốt các hành tinh ở gần nó. Những hành tinh ở xa không bị nuốt, nhưng phải chịu chung số phận trở thành các khối thiên thạch quay quanh ngôi sao lùn (Mặt trời lúc này)
    Trong Chu Dịch, đối nghịch với Thuần Ly ta có Thuần Khảm. Nghĩa là có mặt trời tất phải có một hình thể vật chất mang tính chất & dạng thức vận động ngược lại với mặt trời. Khoa học hiện nay đã xác định được một cấu trúc hoạt động rất đặc biệt tồn tại
    trong vũ trụ của chúng ta, đó là Lổ Đen. Lổ Đen không phát tán vật chất như mặt trời. Nó hút ánh sáng, hút vật chất. Giả định rằng có những Lỗ Đen tiết diện bằng trái banh nhưng có thể hút được những khối vật thể to như Mặt trời, suy diễn theo lối thông thường thì trọng lượng của Lổ Đen to bằng trái banh ấy phải nặng gấp nhiều lần Mặt trời (!?) Ta hãy xem hình thái Thuần Khảm của Chu Dịch mô tả cái Lổ đen ấy như thế nào:
    Hào 1 : Hai lần hiểm, sụp vào hố sâu
    Vật chất bị Lổ đen hút vào. Lổ Đen ấy có 2 chỗ hiểm, tức có 2 “Cửa”
    Hào 2 : Ở chỗ hiểm lại có hiểm
    Khối vật chất bị hút vào. Qua được 1 “Cửa” thì rơi vào sự tác động của cái “Cửa” thứ hai. Tức là, cửa thứ hai nằm bên trong cửa thứ nhất.
    Hào 3 : Tới lui đều bị hãm.
    Khối vật chất chịu sự tác động giam hãm ở giữa 2 cái “Cửa”
    Hào 4 : Như thể chỉ dâng lên 1 chén rượu, 1 quỹ thức ăn thêm 1 vài thứ khác nữa, có thể tuỳ cơ ứng biến, đút khế ước qua cửa sổ.
    Khối vật chất xoay vần trong khoảng giữa 2 cái “Cửa” cố thoát ra. Khối vật chất bị biến hình.
    Hào 5 : Nước hiểm chưa đầy, nhưng khi đầy rồi thì thoát hiểm.
    Không thể thoát được khi Lổ Đen chưa đầy (vật chất) Chỉ khi Lổ Đen hút thêm vật chất, và khả năng chứa của Lổ Đen đã tới giới hạn (đây rồi) thì khối vật chất bị hút trước đó sẽ được Lổ Đen tống ra. Tống ra ở “Cửa” nào ? Lổ Đen vừa hút vừa đẩy 2 khối vật chất khác nhau qua cùng 1 “Cửa” chăng ?
    Hào 6 : Đã trói bằng dây thừng to, lại đặt vào bụi gai, 3 năm không ra được.
    Hào 6 đã cho chúng ta câu trả lời: Khối vật chất sau khi bị hút vào qua “Cửa” thứ nhất sẽ bị Lổ Đen tống ra bằng “Cửa” thứ hai (Bị nhốt) Đằng sau cánh cửa thứ hai là vũ trụ của chúng ta chăng ? Không phải ! Hào 6 nói rằng khối vật chất ấy bị
    nhốt chưa ra được. Như vậy, đằng sau cánh cửa thứ hai của Lổ Đen phải là “Một Cái Khác” Cái khác ấy không thể là vũ trụ của chúng ta. Chưa ra được chứ không phải không ra được. Như vậy Lổ đen hoạt động 2 chiều.
    Như vậy, Thuần Khảm của Chu Dịch đã xác lập rằng ngoài cái vũ trụ của chúng ta còn tồn tại ít nhất 1 vũ trụ khác.
    Theo các giả định hiện có, Lổ Đen có dạng hình phểu với 2 miệng phểu ở 2 đầu. Vật chất bị Lổ Đen hút vào miệng phểu bên này và bị tống ra qua miệng phểu bên kia. Ở miệng phểu bên kia, các nhà khoa học cho rằng đó là 1 vũ trụ khác. (Có một số nhận định hiện nay cho rằng con người có thể tạo ra những dường hầm liên thông dạng Lổ Đen để di chuyển nhanh từ nơi này sang nơi khác trong các dải Thiên Hà)
    Lưu ý : Ngôn từ sử dụng trong các lời hào của Chu Dịch chỉ là công cụ dùng để mô tả các hình thái & qui luật vận động.
    Từ đây, tôi sẽ dùng chữ Hình thái thay cho Quẻ.

    Chu Dịch Với Cơ Đốc Giáo

    Chu Dịch ra đời trước sự kiện Jesus xuất hiện được ghi trong Tân Ước hoảng hơn 1000 năm. Với khoảng cách thời gian như thế ta có thể chấp nhận tính khách quan của Chu Dịch với Đạo Giáo Cơ Đốc. Chu Dịch nói gì về câu chuyện Jesus ? Tinh thần Bác Ái của Cơ Đốc Giáo nằm trong hình thái nào của Chu Dịch ? Hình thái ấy nói gì ?
    Chu Dịch nói gì về Jesus ?
    Theo Tân Ước, Jesus đi truyền đạo không câu nệ phân biệt người giàu kẻ khó. Ngài tiếp xúc với tất cả loại người, gần gủi va chạm không e ngại cả những kẻ tật nguyền cùi hủi. Cách Ngài thể hiện với mọi người tương ứng với Thuỷ Địa Tỉ (Gần gủi) Hình thái ấy nói gì ?

    Hào 1 : Mới đầu có lòng thành tín mà đến với nhau.
    Đến với mọi người, được mọi người tin yêu.
    Hào 2 : Tự trong mà gần gủi với ngoài.
    Gần gủi thân thiết với mọi người.
    Hào 3 : Gần gủi người không xứng đáng.
    Đến và gần gủi với những người bị xã hội xa lánh ruồng bỏ.
    Hào 4 : Gần gủi với bên trên
    Tiếp cận và gần gủi với những bậc trên.
    Hào 5 : Như khi săn thú, vua chỉ vây 3 mặt còn mặt trước bỏ ngỏ cho cầm thú thoát ra phía đó. Người trong ấp được cảm hoá không phải răn đe.
    Tỏ rõ thái độ cao thượng của người được kính trọng. Sự ngưỡng mộ có được là từ tấm lòng thiện tâm.
    Hào 6 : Không có đầu mối để gần gủi
    Khúc bi tráng của người dành cả đời mình vì người khác.
    Hình thái Thuỷ Địa Tỉ mô tả cuộc đời con người mang tính cách gần gủi chẳng khác với những gì Kinh Tân Ước đã ghi về Jesus. Chu Dịch không dừng lại ở đây. Nó còn có một hình thái khác mô tả hiện tượng bất thường rất giống với câu chuyện kể về hiện
    tượng sáng loà “Sống Lại” của Jesus được ghi trong Tân Ước. Trùng hợp ngẫu nhiên đến lạ kỳ ! Hình thái mô tả này ở hào thứ 7 của Thuần Càn. Tôi sẽ đề cập đến hào thứ 7 này ở bài khác.
    Tinh thần Bác Ái của Cơ Đốc Giáo, Chu Dịch nói gì ?Bác ái là khoan dung, là độ lượng. Tinh thần này tương ứng với hình thái Phong Hoả Gia Nhân (Khoan dung). Hào cuối cùng của hình thái này nói gì ?
    “Có lòng chí thành và uy nghiêm”
    Chu Dịch cho rằng : Tinh thần Bác Ái sẽ tồn tại với niềm thán phục và nể trọng của loài người.
    Tôi không rõ lắm về cơ cấu và cơ chế hoạt động của Cơ Đốc Giáo, nhưng với cung cách hoạt động tổ chức rất hiệu quả trong công việc truyền đạo, tế bần, làm việc thiện thông suốt từ trên xuống đến giáo dân thì thật khó lòng cho rằng họ không đáng nể.

    Chu Dịch Với Phật Giáo

    Chu Dịch nói gì về Phật Tổ ? Tinh thần Từ Bi của Phật Giáo nằm trong hình thái nào của Chu Dịch ? Hình thái ấy nói gì ?
    Chu Dịch nói gì về Phật Tổ ?
    Sách sử có chép lại rằng Đức Phật vốn là Thái Tử đã có gia thất trước khi xa lánh chốn trần tục lên đường tu đạo và thành Phật. Cách Ngài thể hiện trong cuộc đời tu hành cùng với Đạo Ngài sáng lập tương ứng với hình thái Thiên Sơn Độn (Lánh đi) của Chu Dịch. Hình thái này nói gì ?

    Hào 1 : Lánh sau cùng, như cái đuôi.
    Ngài muốn lánh ngay từ đầu (thuở bé)
    Hào 2 : Hai bên khăng khít nhau như buộc nhau bằng dây bò vàng. Không thể cởi được.
    Vị Quân Vương, cha Ngài ràng buộc Ngài mang trách nhiệm đối với thần dân. Ngài lên ngôi Thái Tử.
    Hào 3 : Lúc phải lánh mà bịn rịn tư tình.
    Ngài lập gia thất.
    Hào 4 : Có hệ luỵ với người, nhưng lánh được.
    Ngài quyết lánh khỏi thế gian trần tục, mặc dù còn mang hệ luỵ với người vợ trẻ.
    Hào 5 : Lánh đi theo điều chính.
    Ngài lánh đi để tu Đạo
    Hào 6 : Lánh mà ung dung đường hoàng.
    Lánh đấy nhưng là sự lánh đi ung dung mà đường hoàng. Ngài lánh đi không mang sắc thái tự tư, ích kỷ, bị chê cười (Vì thế mới đường hoàng) Thực tế Ngài đã dùng hình thức lánh đi để lên đường thuyết giảng Phật Pháp.
    Thật lạ lùng cho cái hình thức Lánh Đi ! Tưởng rằng lánh đi luôn sẽ là điều tệ hại ích kỷ. Cái lánh đi đến giai đoạn cuối cùng của Đức Phật được Chu Dịch mô tả là cái lánh đi cao cả của một người hướng

    thiện. Thật hay !!! Chu Dịch tài tình thật ! Cái lánh đi ở Phật Giáo cũng thật tài tình !
    Tinh thần Từ Bi của Phật Giáo. Chu Dịch nói gì ?
    Đế đạt được cái tâm Từ Bi Hỉ Xả, Phật Pháp hướng chúng sinh đến chữ Tịnh. Chữ Tịnh tương ứng với hình thái Thuỷ Phong Tĩnh trong Chu Dịch. Hào thứ 6 (Hào cuối cùng) của hình thái này mô tả cái kết cục của tinh thần Từ Bi Hỉ Xả như sau:
    “Là Giếng Nước Sạch Sẽ Để Mọi Người Đến Múc Mà Uống. Tồn Tại Mãi Mãi”
    Thật kinh khủng cho cả hai, Phật Pháp và Chu Dịch !!! Đã quá rõ, tôi không thể nói điều gì hơn.


    CHU DỊCH NÓI VỀ “ĐẤNG TỐI CAO”

    Cấu trúc Chu Dịch được hình thành nên từ một số nguyên tắc. Những nguyên tắc này xuất phát từ một số nguyên lý. Trong đó nguyên lý âm dương là chủ đạo. Điều đó có nghĩa là Chu Dịch được tạo nên từ lý thuyết Âm Dương. Triết học Nhị Nguyên vẫn tồn tại trong Chu Dịch, nhưng chỉ còn là một dạng nguyên lý nằm trong một Hệ Thống Triết Học mới của Chu Dịch. Hệ Thống triết học mới này được những người đời sau làm sáng tỏ dần và đặt cho nó cái tên Hệ Thống Triết Học Chu Dịch _ Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh.
    Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh kết thúc ở 2 quẻ Ký Tế: Đã xong (63) và Vị Tế: Chưa xong (64). Nghĩa là kết thúc rồi đó, nhưng kết thúc ở chỗ chưa xong (Còn nữa). “Còn Nữa” là cái gì ? Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh không cho câu trả lời. Vì thế tôi gọi thuyết này là Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Hẹp. Tất phải có một thuyết khác khả dĩ giải thích được “Còn Nữa” là gì. Tôi gọi nó là Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Rộng.
    Cái “Còn Nữa” là cái gì ? Theo Nhị Nguyên: Con người cùng với những gì con người cảm nhận được, thấy được, hiểu được bằng cảm xúc, bằng trực quan, bằng tư duy cụ thể được goị là Vũ Trụ Hữu Hình. Có Dương tất phải có Âm, vì thế, hữu hình tất phải có vô hình. Vũ Trụ Vô Hình đứng bên cạnh Vũ Trụ Hữu Hình. Vũ Trụ Vô Hình là như thế nào ? Đặt câu hỏi như thế tức là đã bước vào Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Rộng, là đi tìm hiểu cái “Còn Nữa”. Nghĩa là cái “Còn Nữa” chính là Vũ Trụ Vô Hình. Vũ trụ vô hình không được mô tả rõ ràng trong Chu Dịch.
    Chu Dịch không diễn tả rõ ràng vũ trụ vô hình, thế nhưng, căn cứ vào thuyết Nhất nguyên hoàn chỉnh hẹp chúng ta có thể có được vài hình dung ban đầu về nó. Vũ Trụ Vô Hình có hình dáng ra sao ? Theo thuyết Nhất Nguyên Hoàn chỉnh Hẹp: Khi vũ trụ được hình thành, Dương & Âm cùng xuất hiện, Vũ Trụ Hữu Hình & Vũ Trụ Vô

    Hình cùng khởi sinh, không có cái nào có trước cái nào. Để các bạn hình dung được hình dáng của Vũ Trụ Vô Hình, tôi xin đưa ra ví dụ : Khi bạn đào đất, cái đống đất trên bờ là hữu hình, còn cái hố là vô hình, nghĩa là cứ sau một động tác đào đất, bạn đã tạo ra không chỉ 1 mà là 2 trạng thái.
    Vũ Trụ Vô Hình có cái gì trong ấy ? Câu hỏi không nằm trong đề tài này. Điêù ta muốn biết ở đây “Ai” là người đào đất ? Chu Dịch cung cấp câu trả lời rất rõ ! (Xem Chu Dịch với Kỹ Thuật Nhân Bản Con Người)
     
  3. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    CHU DỊCH VỚI THỂ THAO

    Thiệu Vĩ Hoa, Dịch Sư Trung Quốc có giới thiệu hai phương pháp dự đoán: Dự đoán theo Tượng-Hào & Dự đoán Sáu Hào. So với các phương pháp dự đoán theo Chu Dịch hiện có tại Việt Nam, hai phương pháp này tỏ ra vượt trội về mặt lý luận.
    Xem xét 2 phương pháp của ông, tôi đưa ra vài nhận xét sau :
    1. Ngoài dự đoán về con người và sự việc, ông đã cố gắng đưa khả năng ứng dụng của 2 phương pháp này vào các lãnh vực khác: Thời tiết, Thể thao, Y Học, Thiên Văn, Địa Chất.
    2. Tác giả áp dụng lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành vào 2 phương pháp này khá thành thục và hợp lý.
    3. Tuy nhiên, tác giả đã hiểu lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành theo lối cổ xưa, vì vậy, khi đưa ra các kết quả dự đoán, tác giả thường phải sử dụng đến kinh nghiệm dự đoán của bản thân. Rõ nhất là ở phương pháp dự đoán theo Tượng- Hào. Tác giả dùng nhiều đến các biểu tượng của Bát Quái. Khi dự đoán các trận đấu thể thao phức tạp như đá banh trên sân trung lập, tác giả phải đặt ra các qui tắc ngoại lệ.
    4. Phương pháp Dự Đoán Sáu Hào được tác giả giới thiệu rất công phu, chi tiết và tỉ mỉ. Tuy vậy, nó vẫn tỏ ra phức tạp quá ! Quá nhiều các khái niệm và nguyên lý ! Các nguyên lý và khái niệm này thường chồng chéo và phủ định lẫn nhau khi lập luận dự đoán, khiến cho nhà dự đoán phải có kinh nghiệm để biết chọn nguyên lý nào cho từng trường hợp dự đoán cụ thể. Cách thức lập quẻ căn cứ vào Chu Dịch, nhưng cách dự đoán thì dựa hoàn toàn vào ngũ hành & hệ thống Can Chi. Điều này cho thấy phương pháp dự đoán sáu hào của Thiệu Vĩ Hoa đã biến hình và xích lại gần với môn dự đoán Tứ Trụ. Phương pháp Dự Đoán Sáu Hào cũng đòi hỏi người dự đoán phải có kinh nghiệm.
    Có phương pháp nào không buộc người học phải có kinh nghiệm dự đoán ?
    Bằng việc sử dụng Hệ Thống Lý Luận Đông Y hiện đại, tôi thiết lập một phương pháp dự đoán mới. Phương pháp này được phát triển từ phương pháp dự đoán theo Tượng-Hào.
    Phương pháp mới có 3 lợi điểm sau :
    1. Nó không đòi hỏi người dự đoán phải có kinh nghiệm dự đoán.
    2. Nó không đòi hỏi người học cần phải hiểu cặn kẻ Chu Dịch.
    3. Về mặt ứng dụng, nó dễ sử dụng như khi ta giải phương trình bậc 2 có 1 ẩn số. Nghĩa là, đã có sẵn công thức, chỉ cần áp dữ liệu vào là có ngay kết quả.
    Để có thể áp dụng phương pháp này vào thực tế, Chu Dịch phải được mã hoá thành 2 ký hiệu (+) & (-). Về lý thuyết, công việc này thực hiện được.
    Vòng chung kết bóng đá tháng 6-2002 tại Hàn Quốc, tôi đem phương pháp ra thử nghiệm. Kết quả dự đoán như sau: Đúng 64/64 trận.
    Nhận xét:
    1. Để kiểm nghiệm khả năng dự đoán của phương pháp mới, tôi chọn 64 trận bóng đá vòng chung kết vì nó mang tính hệ thống, thể thức thi đấu chặt chẽ.
    2. Số lượng thử nghiệm nhỏ, 64 trận, nên con số 100% dự đoán đúng không thể mang giá trị thống kê.
    3. Không mang giá trị thống kê, nhưng đã gợi mở rằng: Phương pháp được xây dựng đúng & kết quả dự đoán xác định được giá trị của từng nhóm đối tượng tham gia sự kiện.
    4. Giá trị của từng nhóm đối tượng được xác định theo giá trị cặp Yes-No: Đúng-Sai, Phải-Trái, Có-Không.... Vì thế, phương pháp mới còn có thể áp dụng rộng rãi trong các lãnh vực khác.
    5. Khi ứng dụng vào các lãnh vực khác, người dự đoán cần phải có trình độ với những hiểu biết nhất định trên lãnh vực ấy nhằm chọn các thông số phù hợp cho việc lập bài toán dự đoán.
     
  4. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    Chu Dịch Với Kỹ Thuật Nhân Bản Con Người

    Vấn đề nhân bản con người được các quốc gia có nền khoa học tiên tiến hiện nay xem xét nghiêm túc. Căn cứ vào khuyến cáo của nhiều nhà khoa học, một số chính phủ đã đưa vào luật các điều khoản chi tiết nghiêm cấm việc nhân bản con người. Đúng hay sai, chúng ta để các nhà làm luật, chính trị gia phân định. Ở đây, tôi xin đặt vấn đề như sau: Khả năng nhân bản con người là có thật, vấn đề còn lại chỉ là thời gian. Vậy, nếu có những bản sao con người xuất hiện thì điều gì sẽ xảy ra cho loài người chúng ta ?
    Chu Dịch cung cấp cho chúng ta hình thái Thuần Khôn. Hình thái mô tả tiến trình của sự SAO CHÉP. Hình thái ấy cho chúng ta những thông tin sau :

    Hào 1 : Cẩn trọng ngay từ những bước đầu.
    Hệ quả vật sao chép được cân nhắc rất kỹ lưỡng.
    Hào 2 : Đức của mình thẳng, vuông, lớn.
    Những người thực hiện kỹ thuật nhân bản cho rằng họ chỉ đơn thuần vì mục đích khoa học. Vì thế, họ sẽ thực hiện kỹ thuật này trên con người.
    Hào 3 : Ngậm chứa không lộ ra. Đi theo người trên.
    Có sự bảo lãnh của tổ chức hoặc quốc gia thực hiện kỹ thuật nhân bản con người. Công việc tiến hành này hoàn toàn bí mật.
    Hoà 4 : Như cái túi thắt miệng lại.
    Bị cáo giác. Nhưng họ vẫn không từ bỏ ý định. Công việc vẫn tiến hành và được giữ bí mật ở mức độ cao nhất.
    Hào 5 : Được cái xiêm màu vàng.
    Họ nhân bản thành công. Sau nhiều lần điều chỉnh, con người nhân bản đã có được khả năng tồn tại gần giống với con người.
    Hào 6 : Đánh nhau ở đồng nội. Đổ máu đen, máu vàng.
    Con người nhân bản tranh đấu cho quyền được làm con người như chúng ta.

    Hào 7 : Lâu dài. (6 hào âm biến sang 6 hào dương, Thuần Càn)
    Những người nhân bản tăng thêm số lượng đến một thời điểm họ sẽ quay lại đòi làm chủ. Và họ sẽ tạo lập cho họ một thế giới riêng (Biến sang THUẦN CÀN. Khởi đầu cho một tiến trình mới)

    Yếu tố xã hội, tôi sẽ không đề cập. Dưới góc nhìn lịch sử loài người, căn cứ vào các thông tin từ diễn trình trên, tôi ghi 3 nhận xét sau :
    @ Thứ nhất: Kết quả của kỹ thuật nhân bản sẽ tạo ra những con người nhân bản hoàn hảo tương đối so với con người chúng ta. Vì thế, con người nhân bản vẫn có khả năng tiếp thu kỹ thuật ấy từ chính chúng ta. Hoặc họ có thể tự tạo ra kỹ thuật ấy, một khi thế giới của họ có đủ điều kiện và thời gian cho sự phát triển nền văn minh của riêng họ.
    Như vậy, Chu Dịch xác nhận kỹ thuật nhân bản là khả năng có thật trong tương lai.
    @ Thứ hai: Trong tương lai, kỹ thuật nhân bản vẫn có thể xảy ra vào những thời điểm, ở những không gian khác do con người, hoặc người nhân bản thực hiện. Vậy, chúng ta không thể đoan chắc rằng kỹ thuật này chưa từng được thực hiện trong quá khứ. Vì vậy, tôi đặt vấn đề như sau: Ngoài thuyết tiến sinh tự nhiên đã được nền khoa học hiện nay chấp nhận, vẫn tồn tại một thuyết khác mà chúng ta cần phải xem xét đến : Loài người chúng ta hiện nay là nhân bản của một giống loài “NGƯỜI” tương tự khác. Vì thế, câu hỏi tiếp theo được đặt ra : Chu Dịch nhìn nhận ra sao thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản ? _ Chu Dịch nhìn nhận sự tồn tại của thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản qua tiến trình từ quẻ thứ nhất Thuần Càn đến quẻ thứ 13 Thiên Hoả Đồng Nhân.
    Như vậy, Chu Dịch khẳng định sự tồn tại của thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản.
    @ Thứ ba : Chu Dịch xác định rằng: Ở thời gian đầu khi xuất hiện, khả năng thích ứng & tồn tại của người nhân bản không
    bằng con người. Nhưng với thời gian, người nhân bản sẽ tự hoàn thiện. Đến một thời điểm, khả năng thích ứng & tồn tại của người nhân bản sẽ tương tự như con người. Loài người chúng ta hiện nay, theo thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản, đã có khả năng thích ứng & tồn tại tương tự như loài “NGƯƠI” đã tạo ra chúng ta chưa ? Và nếu đi dần lên, chúng ta sẽ gặp 2 câu hỏi :
    1. Liệu có “Đấng Tối Cao” của loài “Người” ?
    2. Hoặc thuyết tiến sinh theo Nguồn Gốc Nhân Bản có dạng vòng tròn tuần hoàn khép kín. Tức là không có “Đấng Tối Cao” ?
    Câu hỏi thứ hai, Chu Dịch không xác nhận tính hợp lý. Vũ trụ của Chu Dịch là vũ trụ tuần hoàn và mở. Như vậy, Chu Dịch cho rằng có sự tồn tại của Đấng Tối Cao của con người.
    Đến đây, chúng ta sẽ gặp câu hỏi: Nếu có đấng tối cao của con người, vậy ai đã tạo ra đấng tối cao ấy ? Câu hỏi hóc hiểm này thường gặp với những nhà truyền giáo, nhưng với Chu Dịch thì rất dễ trả lời khi căn cứ vào hònh thái Sao Chép_ Thuần Khôn.
    “Loài người chúng ta có đấng tối cao, số lượng đấng tối cao không dừng lại ở con số 1 khi căn cứ vào tuổi của vũ trụ. Số lượng đấng tối cao là nhiều, nhưng vấn đề ở đây liệu họ có còn tồn tại ? Nếu còn tồn tại thì họ có khả năng liên hệ với chúng ta ? Hoặc có khả năng đấng tối cao của loài người chúng ta đang suy vi ? Và chúng ta có thể đặt vấn đề ngược lại rằng: Một trong số Đấng tối cao loài người chúng ta đang ở trình độ phát triển rất cao, và họ khả dỉ có quyền năng lớn thật sự để có thể chi phối chúng ta ?”
    Tóm lại, Đấng tối cao là chỉ vào một nền văn minh cụ thể, không phải chỉ vào 1 con người duy nhất. Và loài người chúng ta hiện nay trong tương lai sẽ là đấng tối cao của loài người nhân bản.
    Đấng tối cao hiểu theo Chu Dịch _ Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Hẹp là như vậy.
     
  5. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    CHU DỊCH VỚI NGÔN NGỮ & CHỮ VIẾT

    Theo thuyết Nhất Nguyên, năng lượng khi phát sinh tạo ra đồng thời 2 dạng vật chất: Vật chất Dương & vật chất Âm. Căn cứ vào thuyết này, luồng suy nghĩ của con người khi phát sinh, luôn tạo ra đồng thời 2 dạng thức tồn tại chứ không phải là 1. Ta tạm gọi chúng là : Luồng Suy Nghĩ Dương & Luồng Suy Nghĩ Âm. Chúng là 1 cặp.
    Phân Tâm Học đã làm rõ sự hiện diện đồng thời của cả hai luồng nhận thức trong hoạt động của bộ não của con người: Ý Thức & Vô Thức (Có khi còn gọi là Tiềm thức) Chúng là 1 cặp.
    Theo nguyên lý Âm Dương, Dương thể hiện tính Hữu Hình, Âm thể hiện tính Vô Hình. Vậy ta có : Luồng Suy Nghĩ Dương là Luồng Suy Nghĩ Hữu Hình & Luồng Suy Nghĩ Âm là Luồng Suy Nghĩ Vô Hình. Ta thấy, chúng chỉ khác Ý Thức & Vô Thức bên Phân Tâm Học ở cái tên.
    Con người suy nghĩ, trình bày ra thành lời. Lời nói được thể hiện bằng chữ viết. Như vậy, chữ viết là một dạng ký tự dùng để mã hoá suy nghĩ của con người. Tức là chữ viết chứa đựng thông tin suy nghĩ của con người. Thông tin này chứa đựng Luồng Suy Nghĩ Hữu Hình (Ý Thức _ Suy nghĩ của con người được thể hiện trực tiếp trên văn bản) Còn Luồng Suy Nghĩ Vô Hình (Tiềm thức) nó có hiện diện trong chữ viết ?
    Đã có một cách tính toán rất ư lạ lùng ở môn Chu Dịch Dự Đoán Học ! Bằng việc phân số lượng chữ & số lượng ký tự có trong văn bản (text), phương pháp này đã tìm ra được một dạng thông tin khác nằm ẩn trong các văn bản (text) Tôi lấy một số ví dụ :
    1. Người Việt Nam chúng ta khi tỏ tình thường nói :
    a. “Anh yêu em” có phân lượng ký tự là 3/ 5, tương ứng với hình thái Hoả Phong Đỉnh. Hình thái này mô tả sự Kết hợp.
    b. “Anh thương em” có phân lượng ký tự 3/8, tương ứng với hình thái Hoả Địa Tấn. Hình thái này mô tả sự Dấn bước,

    Bước tới, Tiến tới (Không có lùi) Câu tỏ tình này thường thấy ở miền trung & miền Nam. Rõ ràng cá tính của con người sống trong khu vực này ảnh hưởng rõ nét lên câu tỏ tình.
    Ngược lại, nếu :
    a. “Em yêu anh” mang hình thái Trạch Thuỷ Khốn. Quả là Khốn thật cho cô gái nào mở lời trước chàng trai với câu tỏ tình này! Có vẻ như người Việt chúng ta không có thói quen dành cho các cô gái mở lời trước với câu tỏ tình này.
    b. “Em thương anh” mang hình thái Trạch Thiên Quải. Hình thái này mô tả sự Quyết liệt. Kể cũng lạ ! Trong thực tế, ở miền Nam (hay miền Trung) câu này lại dễ chấp nhận hơn “Em yêu anh” Nhưng hãy để ý : Cô gái khi mở lời câu này thì tình yêu của họ với người con trai là quyết liệt lắm. Để họ quên là điều rất khó. Và có muốn trốn họ đi tu cũng không dễ.
    2. “Wò ai Nìa”, “Anh yêu em” Wò & Nìa là từ trung tính. Trong tiếng Hoa phổ thông, câu này được dùng chung cho cả 2 phái (Tương tự như tiếng Anh) Đứng về phương diện ngôn ngữ học điều này là đúng, nhưng khi phát âm “ Wò ai Nìa” có vẻ như âm “ Wò” ở đàn ông dễ phát âm hơn so với phái nữ _ Chữ “Tôi” phát âm theo tiếng Hoa phổ thông mang đậm nét uy lực của người phát âm. Trong thực tế, câu tỏ tình này phù hợp cho cánh đàn ông Trung Quốc hơn so với phái nữ.
    Tính số nét, ta có phân lượng ký tự 7/20, tương ứng với hình thái Sơn Lôi Di. Hình thái này mô tả sự Nâng đỡ, chở che. Thông tin nằm ẩn trong câu tỏ tình này phản ánh thật đúng với phong tục, tập quán văn hoá của đất nước mang nguồn gốc Nho Giáo (Trọng nam khinh nữ)
    3. “I love you” mang hình thái Thiên Sơn Độn. Thật lý thú khi kiến giải hình thái này! Về phương diện ngôn ngữ học, nền văn hoá con người phương Tây sử dụng ngôn ngữ mang tính “Tĩnh” khác với người phương Đông dùng ngôn ngữ “Động”. “Vắt giò
    lên cổ mà chạy”, người Anh-Mỹ chỉ có thể hiểu đây là một động tác làm xiếc chứ không thể hiểu như chúng ta, có nghĩa là chạy rất nhanh. Trong ngôn ngữ giao tiếp, người Anh-Mỹ cũng bộc lộ sự rõ ràng & chính xác trong câu nói, khác với ngôn từ nhiều ẩn ý của người Phương Đông. Hình thái Thiên Sơn Độn mô tả rất rõ cử chỉ mời gọi dứt khoát :” Em (anh) hãy từ bỏ tất cả để đi theo anh (em) !” Độn có nghĩa là Lánh đi. Ở các nước có nền văn hoá gốc Anglo-saxon, cô gái lập gia đình phải đổi họ theo họ của chồng. Và họ cũng không có tập quán làm dâu hay giúp đỡ cha mẹ, anh em bên chồng như chúng ta. Vì thế, khi chàng trai “Yes” cho câu “I love you” của cô gái thì điều đó có nghĩa là dù sống trong ngôi nhà của gia đình anh, tôi sẽ là một thành viên thể hiện trách nhiệm chung trong ngôi nhà đó, chứ không hề có chuyện tôi phải thực hiện vai trò làm việc giúp đỡ “Không công” cho gia đình bên chồng. Ở họ rất rõ ràng!
    Ta thấy rằng cùng một cách biểu lộ tình cảm, nhưng khác nhau ký hiệu (ngôn ngữ) là ẩn chứa dưới lời nói ấy là những thông tin khác nhau (tôi tạm gọi là thông tin chìm). Phải chăng thông tin chìm là ngôn ngữ vô thức?
    Ở trên ta xét câu tỏ tình theo nghĩa người bày tỏ nói trọn câu. Trên thực tế, cách biểu lộ câu tỏ tình cũng khác nhau, có khi nói trọn câu “Anh yêu em” có khi câu tỏ tình bị ngắt từ hoặc không trọn câu, ví dụ: “Anh thương....”, “Em thương...” Trong các trường hợp này các thông tin chìm ấy cũng khác nhau. Chu Dịch Dự Đoán Học còn đi xa hơn khi cho rằng cùng câu nói ấy nhưng ở những thời điểm khác nhau sẽ cho kết quả thông tin chìm khác nhau. Vấn đề này tôi sẽ bàn sâu hơn vào dịp khác.
    Để kết luận, tôi ghi nhận rằng: Lời nói, ngoài ý nghĩ được trình bày trực tiếp trên nó, Chu Dịch nhận định rằng có tồn tại thông tin chìm nằm trong nó. Để xác định thông tin chìm đó có phải là Luồng Suy Nghĩ Vô Hình (Ngôn ngữ vô Thức) tôi nghĩ rằng cần phải có cách lý giải khác hợp lý hơn.
     
  6. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    CHU DỊCH VỚI CHIẾN LƯỢC KINH DOANH

    Chu Dịch với kinh doanh đã có nhiều sách bàn đến. Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày một phương pháp khả dĩ nắm bắt chính xác ý đồ kinh doanh ban đầu của các doanh nghiệp. Phương pháp này khá đơn giản trong khâu tính toán & trình bày kết quả. Để hỗ trợ cho phương pháp, tôi đã viết lại 64 thoán từ của Chu Dịch cho phù hợp với lãnh vực kinh doanh.
    Hoạt động doanh nghiệp thể hiện ý chí của người chủ nhằm đạt được mục tiêu thành công trên thương trường. Để đạt được điều ấy, ý đồ kinh doanh phải được thể hiện đúng và cho kết quả tốt. Trong các doanh nghiệp lớn, ý đồ kinh doanh được thể hiện ở chiến lược kinh doanh. Thông thường, chiến lược kinh doanh chỉ được hình thành sau khi tên doanh nghiệp đã có.
    Thông tin chìm trong Tên doanh nghiệp có mối liên hệ gì với chiến lược kinh doanh? Ta hãy xem Chu Dịch Dự Đoán nhìn nhận vấn đề này ra sao.
    1. Café Trung Nguyên mang hình thái Phong Thuỷ Hoán. Hoán là Tách bạch, rạch ròi. Trung Nguyên khi mở rộng địa bàn hoạt động đã thể hiện phong cách: Không ai giống Trung Nguyên. Một Menu không ai có. Một kiểu uống chỉ có ở Trung Nguyên.
    2. Nệm mouse Kymdan mang hình thái Thuần Ly. Ly là Trung tâm, trực tính, cho trước khi nhận (Có hàm ý giá cả phải chăng) Kymdan luôn thể hiện là một doanh nghiệp hàng đầu tại Việt Nam (Trung Tâm) Giá cả phải chăng, không làm giá khi thị trường hút hàng. Có những đối sách tiếp thị như đổi nệm cũ lấy nệm mới, tặng số lượng lớn nệm mouse cho một số cơ quan bệnh viện.
    3. Bánh kẹo Kinh Đô mang hình thái Lôi Trạch Qui Muội. Qui Muội là Còn non, trẻ thơ, vô tư. Các chương trình tiếp thị quảng

    cáo của Kinh Đô đa phần nhắm vào trẻ thơ. Mặc dù bánh kẹo của họ không chỉ dành cho trẻ con.
    4. Bia Sài Gòn mang hình thái Hoả Địa Tấn. Tấn là Chỉ có tiến, không nhận nhượng ai. Chúng ta hãy xem các màn quảng cáo của Bia Sài Gòn trên tivi. Họ không hề ngán ai, kể cả Heneiken. Và có vẻ như trong đầu của các vị trong ban lãnh đạo công ty này không có khái niệm xuống giá hay giảm giá. Bia ngoại lên giá, họ cũng lên. Bia ngoại, bia nội khuyến mãi. Họ chỉ khoanh tay đứng nhìn.
    5. Điện tử Tiến Đạt mang hình thái Phong Lôi Ích. Ích là Giá rẻ, nhiều tiện ích, có chất lượng. Các sản phẩm của Tiến Đạt luôn có giả rẻ hơn nhiều so với các sản phẩm ngoại cùng loại có trên thị trường.
    6. Nước uống Tribeco mang hình thái Hoả Lôi Phệ Hạp. Phệ Hạp là Khắt Khe. Cung cách đầu tư, sản xuất, chủng loại mặt hàng, chất lượng sản phẩm của Tribeco luôn đi theo hướng này.
    7. Honda mang hình thái Hoả Trạch Khuê. Khuê là Đa nghi, thăm dò, ngược ngạo, ngược đời. Cái cách tuồn hàng bằng mọi phương tiện cho xài trước. Thấy được mới chuyển giao công nghệ, nhượng bản quyền, liên doanh, đầu tư trực tiếp 100%. Không chỉ ở ta, ở Mỹ Honda cũng làm thế.
    Các ví dụ trên cho thấy: Thông tin chìm có trong Tên doanh nghiệp thể hiện ý đồ kinh doanh ban đầu.
    Trong hầu hết các trường hợp, tên doanh nghiệp chỉ thể hiện ý nghĩa bên ngoài: Đặc tính nghề nghiệp, ước mong, tên viết tắt…hơn là trình bày ý đồ kinh doanh. Ý đồ kinh doanh là bí mật của doanh nghiệp, nó chỉ được thể hiện trong chiến lược kinh doanh. Chiến lược kinh doanh có thể thay đổi, linh hoạt, mềm dẻo theo từng thị trường, nhưng ý đồ kinh doanh thì không. Như vậy, ý đồ kinh doanh
    ban đầu chính là Tư Duy Định Hướng cho việc xác lập chiến lược kinh doanh.
    Như vậy, tôi cho rằng thông tin chìm có trong tên của Doanh nghiệp chính là Tư Duy Định Hướng. Để minh chứng điều này, ta hãy xem vài ví dụ sau:
    1. Doanh nghiệp Vĩnh Tiến sản xuất tập vở, mang Tư Duy Định Hướng Thuần Tốn. Tốn là Thuận theo. Vĩnh Tiến tung ra thị trường loại tập thông minh, tập giấy màu cùng chiến dịch tiếp thị quảng cáo rầm rộ với ý định cung cấp cho thị trường những sản phẩm mới lần đầu tiên có tại Việt Nam. Điều này đã đi ngược hẳn với Tư Duy Định Hướng Thuận theo. Thực tế thị trường đã không tiếp nhận tốt những sản phẩm mới này.
    Một chiến thuật tiếp thị khác khả dĩ tốt hơn: Lặng lẽ sản xuất, âm thầm đưa một số lượng nhỏ ra ngoài thị trường theo các kênh tiêu thụ sản phẩm cao. Nếu thị trường chấp nhận, sẽ tung số lượng lớn. Điều này phù hợp với Tư Duy Định Hướng Thuận theo. Nếu thị trường không có nhu cầu tiêu thụ lớn, có ngưng lại cũng không muộn.
    2. Pepsi mang tư duy định hướng Trạch Hoả Cách. Cách là Đổi mới Phong cách tiếp thị quảng cáo của Pepsi rất sôi động, mới mẽ và trẻ trung. Có một lần, Pepsi tung ra thị trường một loại sản phẩm có mùi vị tương tự như sản phẩm truyền thống của Coca Cola. Pepsi đã phải ghi nhận một thất bại nặng nề. Chiến lược sản phẩm mới của Pepsi đi theo lối mòn của địch thủ, ngược hẳn với tư duy định hướng Đổi mới của Pepsi.
    3. Biti’s mang tư duy định hướng Thuần Ly. Ly là trực tính, trung tâm, cho trước khi nhận (Giá phải chăng). Biti’s đã thành công trong việc thiết kế slogan (khẩu hiệu quảng cáo) “Nâng niu bàn chân Việt” với những bước chân của Long Quân, Âu Cơ, quân Tây Sơn, bộ đội Trường Sơn đi thẳng vào lòng

    người. Chiến lược quảng cáo của Biti’s phù hợp với tư duy định hướng Trực tính nên rất thành công. Tuy nhiên ở chiến lược bán sản phẩm, Biti’s đã đi theo công thức “Chất lượng tốt nhất cho mọi sản phẩm” với cơ chế “ Một giá” . Chiến lược này ngược hẳn với tư duy định hướng Trung tâm là đa dạng chất lượng, đa dạng giá cả. Do chất lượng tốt nhất nên giá bán lẻ trung bình ở tất cả các mặt hàng là khá cao so với nhu cầu chung của mọi người. Điều này cũng đi ngược lại với tư duy định hướng Giá phải chăng. Kết quả là số lượng các đại lý bán lẻ của Biti’s đã thu hẹp dần so với trước kia.
    Một chiến lược sản xuất & bán sản phẩm mềm dẻo, đa dạng hơn về giá sẽ phù hợp với tư duy định hướng Thuần Ly.
    4. Café Trung Nguyên mang tư duy định hướng Phong Thuỷ Hoán. Hoán là Tách bạch, rạch ròi. Khi Trung Nguyên đạt được thành công mở hàng trăm quán Café Trung Nguyên tại Saigon trong một thời gian ngắn kỷ lục, thì liền xuất hiện các quán nhại theo: Nam Nguyên, Phúc Nguyên, Cao Nguyên… Chiến thuật nhại theo phong cách phục vụ của Trung Nguyên đã khiến doanh nghiệp này thật sự lao đao. Đây là đòn phản công của các doanh nghiệp cùng ngành vô hình trung đẩy Trung Nguyên vào thế đi ngược với tư duy định hướng. Trung Nguyên đã không còn Tách bạch, rạch ròi so với các doanh nghiệp khác. Một quyết định sai vào thời điểm này sẽ có thể đưa doanh nghiệp vào thế phá sản. Trung Nguyên đã không tiếp tục phiêu lưu nâng cấp hàng trăm quán ấy theo kế hoạch đã định ra ban đầu, mà tự thu hẹp, nâng cấp một số quán có diện tích và vị trí thuận lợi. Phương sách này xem ra chưa đủ. Nâng cao khả năng chuyên biệt hoá, tạo sự khác biệt so với các đối thủ là điều Trung Nguyên nên nghĩ đến.
    5. Năm 1997, tôi có mua 1 chiếc xe đạp 650 hiệu Martin 107 loại trung bình khá (theo giá biểu). Sau 4 tháng sử dụng, tôi cất chiếc xe ấy vào góc bếp. Bốn năm sau, vội lấy chiếc xe cũ kỹ mốc meo ấy ra, bơm hơi lên và đạp đi ngay 10 cây số. Nó chạy
    ngon lành ! Thật ấn tượng ! Sau 8 tháng sử dụng liên tục trung bình 1 ngày 3 cây số, một người đề nghị mua lại chiếc xe ấy cho con đi học. Đến lúc ấy, chỉ phải thay miếng chắn xích bằng nhựa do tôi va phải chiếc xe khác.
    Cơ sở Martin 107 đến năm 2001 đứng trong Top 81 doanh nghiệp 5 năm liền đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao. Qua năm 2002 thì không có tên trong danh sách hàng chất lượng cao. Vì sao ?
    Martin 107 mang tư duy định hướng Thuỷ Hoả Ký Tế. Ký Tế là Cầu toàn, hoàn hảo. Tư duy định hướng này còn chứa một thông tin khác: Đỉnh điểm của sự hoàn hảo là khởi điểm của sự rối loạn (Thất bại)
    Điều này không hàm ý cơ sở sẽ thất bại, mà nó cho rằng khi sản phẩm của cơ sở đã đạt đến thành công nhất định, cơ sở nên chuyển hướng mở rộng đầu tư tập trung cho một loại sản phẩm khác hoặc một lãnh vực kinh doanh khác. Lúc này đây, uy tín về sự hoàn hảo sẽ giúp cho doanh nghiệp rất nhiều so với việc khởi nghiệp chiếc xe đạp Martin 107. Nếu ngược lại, doanh nghiệp vẫn tiếp tục nỗ lực với các loại sản phẩm đã từng đưa Martin 107 đạt đỉnh cao thì đó là sự gắng gượng không có hy vọng.
    Như vậy, tên doanh nghiệp ngoài thông tin thể hiện trực tiếp trên văn bản (text) còn chứa đựng trong nó một thông tin khác. Thông tin ấy được xác định là Tư duy định hướng chiến lược hoạt động kinh doanh. Nó có 2 đặc điểm:
    1. Hoạt động doanh nghiệp phù hợp với tư duy định hướng thì dễ đạt được sự thành công. Ngược lại là thua thiệt, thất bại.
    2. Con người có thể thay thế, nhưng tư duy định hướng thì không đổi.
    Chuyển qua một đề tài khác. Trong các tài liệu kinh điển giảng dạy, hướng dẫn hoạt động kinh doanh thường nhấn mạnh đến 4 yếu tố quan trọng để doanh nghiệp có thể hoạt động, hoạt động tốt & hoạt động có hiệu quả:
    1. Hoạt động tài chính chu chuyển điều hoà.
    2. Nguồn nhân lực đầy đủ.
    3. Khả năng tri thức & vận dụng tri thức hợp lý
    4. Thời điểm kinh doanh phù hợp.
    Bốn yếu tố trên không lý giải được trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, vẫn tồn tại những con người có tri thức hạn chế nhưng kinh doanh rất hiệu quả, thành công và ở một số người đạt được sự thành công rất lớn. Thời xưa có nhiều, ngày nay cũng không ít.
    Thương nhân người Nhật kinh doanh rất giỏi. Tất cả họ là do may mắn ? Cộng đồng thương nhân Quảng Châu (Trung Hoa) rất tháo vát kinh doanh và kinh doanh rất tài. Tất cả họ được thiên phú ? Cho rằng đó là do khả năng thiên phú hay may mắn đi nữa thì thật là mù mờ ! Vậy thì do điều gì mà rất nhiều những ông chủ Hoa Kiều tiếng bản xứ bẻ đôi không rành lại kinh doanh thành công ? Nhờ thông dịch ? Công việc ấy chỉ để truyền đạt mệnh lệnh là chính .
    Ta thấy: Thương nhân Nhật Bản trung thực, bền bỉ, Cộng đồng thương nhân Quảng Châu trọng chữ Tín. Tính cách có khác nhau nhưng cùng giống nhau ở 1 điểm, Tính Nhất Quán của họ trong hoạt động kinh doanh…. Chữ Tín chưa chắc khiến họ luôn thành công, nhưng chữ Tín đã giúp họ giữ chắc ý đồ kinh doanh ban đầu (Tư duy định hướng). Trung thực dễ khiến bị gạt, nhưng sự bền bĩ đã giúp họ không lơi lỏng trong việc thực hiện ý đồ.
    Vì vậy, 4 yếu tố trên cần bổ sung như sau:
    1. Hoạt động tài chính điều tiết điều hoà.
    2. Nguồn nhân lực đầy đủ.
    3. Khả năng tri thức & vận dụng tri thức hợp lý
    4. Thời điểm kinh doanh phù hợp.
    5. Tính nhất quán trong việc thực thi Tư duy định hướng chiến lược kinh doanh.

    Trong thực tiễn kinh doanh, chủ doanh nghiệp giữ vai trò điều phối, điều hành guồng máy. Người chủ doanh nghiệp thể hiện vai trò người điều hành tốt, khi chọn các chiến lược kinh doanh ngoài yếu tố mang lại lợi ích theo dự toán còn phải thể hiện phù hợp với Tư duy định hướng chiến lược kinh doanh.
    Yếu tố thứ 5 cũng giải thích được vì sao số thương nhân bị hạn chế ở yếu tố số 3, nhưng vẫn thành công & thành công vượt bực trên thương trường. Với các doanh nghiệp nhỏ như nhà hàng, quán, shop, dịch vụ…. Tên cửa hiệu cũng cho thông tin Tư Duy Định Hướng tương tự. Thật thú vị khi thấy sự thành bại của các cửa hiệu thể hiện rất rõ. Doanh nghiệp lớn thua keo này còn cơ hội và vốn liếng để tính hướng khác, doanh nghiệp nhỏ thua là thấy ngay. Trong thực tiễn, thường chỉ cần nhìn vào ngành nghề, cách bố trí, phong cách tiếp cận khách hàng đem so sánh với thông tin có trên tên bảng hiệu, là có thể tiên liệu được ngay sự thành bại của doanh nghiệp nhỏ.
     
  7. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    CHU DỊCH VỚI KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM (1)

    GIÁC QUAN THỨ 6, THỨ 7, THỨ 8
    Ở bài này tôi sử dụng một số qui luật trong Chu Dịch để phát hiện sự tồn tại của 3 giác quan mà khoa học ngày nay vẫn chưa rõ.
    Năng lực Ngoại Cảm chỉ đến những trường hợp xảy ra ở những cá nhân có khả năng cảm nhận sự việc, hiện tượng không bằng năng lực của 5 giác quan thông thường. Liệu ngoài các chức năng mà chúng ta đã biết rõ về 5 giác quan còn có chức năng nào khác chưa biết ? Hoặc có tồn tại giác quan khác ? Hiện nay, các ý kiến nghiêng về hướng thứ hai.
    Giác quan chưa biết ấy được gọi chung là giác quan thứ sáu. Được gọi chung là bởi cho đến nay vẫn chưa xác định được bao nhiêu giác quan chúng ta chưa biết đến…..Chúng là những giác quan nào ? Bao nhiêu giác quan ? Chúng mang những chức năng gì ? Cơ chế hoạt động ra sao ? Cơ quan của các giác quan này nằm ở đâu ?
    Chu Dịch bằng lối đi riêng đã phát hiện cơ thể con người có 8 giác quan.
    Tôi trình bày như sau:
    Chu Dịch có 8 quẻ ghi nhận 8 hình thái vận động thuần nhất: Thuần Chấn, Thuần Tốn, Thuần Ly, Thuần Khôn, Thuần Đoài, Thuần Càn, Thuần Khảm, Thuần Cấn.
    Mỗi hình thái thuần nhất mang cấu trúc: Là 2 đồ hình cơ bản giống nhau và chồng lên nhau.
    _ _ ___ ___ _ _ _ _ ___ _ _ ___
    _ _ ___ _ _ _ _ ___ ___ ___ _ _
    ___ _ _ ___ _ _ ___ ___ _ _ _ _
    _ _ ___ ___ _ _ _ _ ___ _ _ ___
    _ _ ___ _ _ _ _ ___ ___ ___ _ _
    ___ _ _ ___ _ _ ___ ___ _ _ _ _

    Đây là 8 hình thái thuần nhất của Chu Dịch.
    Ta xét hình thái thuần nhất trong phạm trù giác quan. Có 8 hình thái thuần nhất thuần nhất tương ứng có 8 giác quan. Chu Dịch mô tả 5 giác quan đã biết & 3 giác quan chưa biết như sau :
    5 giác quan đã biết :
    1. Thuần Ly: Hình thái mô tả sự sáng của vật chất. Để cảm nhận vật chất sáng có cơ quan thụ cảm vật chất sáng, Thị giác.
    2. Thuần Chấn: Hình thái mô tả sự lan toả của vật chất. Để cảm nhận vật chất lan toả có cơ quan thụ cảm vật chất lan toả, Khứu giác.
    3. Thuần Tốn: Hình thái mô tả sự cảm nhận của vật chất. Để cảm nhận vật chất có cơ quan thụ cảm vật chất , Xúc giác.
    4. Thuần Cấn: Hình thái mô tả sự ngưng tụ của vật chất . Để cảm nhận vật chất ngưng tụ có cơ quan thụ cảm vật chất ngưng tụ, Vị giác.
    5. Thuần Đoài: Hình thái mô tả tiếng động của vật chất . Để cảm nhận vật chất gây tiếng động có cơ quan thụ cảm vật chất gây tiếng động, Thính giác.
    3 giác quan chưa biết :

    6. Thuần Càn: Hình thái mô tả sự khởi sinh của vật chất . Để cảm nhận vật chất khởi sinh có cơ quan thụ cảm sự khởi sinh. Tôi gọi tên Khởi giác.
    7. Thuần Khôn: Hình thái mô tả vật chất sao chép. Để cảm nhận vật chất sao chép có cơ quan thụ cảm vật chất sao chép. Tôi gọi tên Tái tạo giác.
    8. Thuần Khảm: Hình thái mô tả vật chất tối. Để cảm nhận vật chất tối có cơ quan thụ cảm vật chất tối. Tôi gọi tên Liễm giác.
     
  8. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    CHỨC NĂNG 8 GIÁC QUAN

    QUẺ DỊCH GIÁC QUAN CHỨC NĂNG


    THỤ CẢM
    1 Thuần Ly Thị giác Nhìn Ý thức
    2 Thuần Chấn Khứu giác Ngửi Ý thức
    3 Thuần Tốn Xúc giác Sờ Ý thức
    4 Thuần Cấn Vị giác Nếm Ý thức
    5 Thuần Đoài Thính giác Nghe Ý thức
    6 Thuần Càn Khởi giác Tiếp nhận & phóng xuất suy nghĩ.
    Thoát dương. Ý thức
    7 Thuần Khảm Liễm giác Hấp thu
    năng lượng tối Vô thức
    8 Thuần Khôn Tái tạo giác Sao chép
    sự vật & hiện tượng Vô thức

    Tôi đã xác định tính thụ cảm Ý thức – Vô thức của 8 giác quan như thế nào ?

    Xem xét qui luật vận động thụ cảm trong cặp phạm trù thụ cảm Ý thức – Vô thức, ta có:
    ¾Thuần Ly, Thuần Tốn, Thuần Đoài, Thuần Cấn, Thuần Chấn các hào từ mô tả hình thái vận động có điểm chung là: Vận động thụ cảm bên ngoài, vận động bề nổi
    Vậy ta có thụ cảm tương ứng là thụ cảm Ý thức.
    Suy ra, các giác quan là hoạt động thụ cảm Ý thức.
    ¾Thuần Khôn vận động thụ cảm sao chép kín đáo ngay ở hào 1 cho đến hào 5. Chỉ xuất hiện ở hào 6 & 7 dưới hình thức sử dụng.
    Vậy ta có thụ cảm tương ứng là thụ cảm Vô thức.
    Suy ra, giác quan Tái tạo giác hoạt động thụ cảm Vô thức.
    Thuần Khảm vận động thụ cảm “Bị nhốt” từ hào 1 đến hào 6.¾
    Vậy ta có thụ cảm tương ứng là thụ cảm Vô thức.
    Suy ra, giác quan Liễm giác hoạt động thụ cảm Vô thức.
    Thuần Càn vận động thụ cảm khởi động đi đầu từ hào 2 đến hào 7, chỉ có hào 1 là chìm bât bất động (Ở ẩn)¾
    Vậy ta có thụ cảm tương ứng là thụ cảm Ý thức.
    Suy ra, giác quan Khởi giác hoạt động thụ cảm Ý thức.
    Và xác định chức năng của 3 giác quan 6,7,8 bằng cách nào ?
    Tôi xem xét chức năng các giác quan qua Thoán từ, Hào từ & mối liên hệ giữa các hình thái:
    Thuần Khôn là hình thái Sao chép. Nó vận động theo qui luật Sao chép các sự vật¾ & hiện tượng.
    Tái tạo giác hoạt động theo qui luật vận động của hình thái Thuần Khôn
    Suy ra Tái tạo giác hoạt động thụ cảm sao chép các sự vật & hiện tượng.
    Thuần Càn là hình thái Đầu tiên. Nó vận động theo qui luật Đầu tiên của các sự vật¾ & hiện tượng như sau:
    Hào 1 : vận động tích luỹ.
    Hào 2, 3 & 4 : vận động tiếp thu.
    Hào 5, 6 : vận động phóng xuất.
    Hào 7 : vận động thoát dương.
    Khởi giác hoạt động thụ cảm theo qui luật vận động của hình thái Thuần Càn, tức là, Khởi giác hoạt động thụ cảm tiếp nhận & phóng xuất “Cái” đầu tiên của sự vật & hiện tượng.
    “Cái” đầu tiên ấy trong hoạt động trí não khi giao tiếp chính là suy nghĩ.
    Vậy: Khởi giác hoạt động thụ cảm tiếp nhận & phóng xuất suy nghĩ.
    Vận động tích luỹ nằm trong hoạt động thụ cảm phóng xuất.
    Còn Thoát dương ?
    Hào thứ 7 được biểu thị: toàn bộ 6 hào dương biến sang 6 hào âm, nên tôi gọi đây là sự vận động thoát dương. Tức là sự vận động thoát dương của suy nghĩ. Thoát dương như thế nào?
    Ta xem lời hào 7: “Đang ở một không gian khác. Trong không gian ấy, họ nhìn thấy ta, nhưng ta thì không nhìn thấy họ”
    Vậy ta có: Khi hoạt động của giác quan này đạt đến độ
    thoát dương sẽ “Nhìn” thấy sự vật & hiện tượng ở một không gian khác.
    Thuần Khảm là hình thái “Nhốt” . Nó vận động theo qui luật “Nhốt” sự vật¾ & hiện tượng.
    Để biết giác quan này nhốt cái gì ta xem xét mối liên hệ giữa 2 hình thái: Thuần Khảm & Thuần Ly.
    Thuần Khảm là hình thái ngược của hình thái Thuần Ly. Thuần Ly mô tả vật thể & hiện tượng “Sáng” ngược lại, Thuần Khảm mô tả sự vật & hiện tượng “Tối”
    (Sáng & Tối là 2 khái niệm được hiểu theo nghĩa rộng hơn là ánh sáng hay bóng tối. Bất kỳ vật thể hay hiện tượng nào vận động theo đúng 6 giai đoạn của Thuần Ly sẽ được gọi là vật chất Sáng. Bất kỳ vật thể hay hiện tượng nào vận động theo đúng 6 giai đoạn của Thuần Khảm sẽ được gọi là vật chất Tối)
    Ta xem xét sự vật & hiện tượng trong cặp phạm trù: Năng lượng sáng & Năng lượng tối.
    Thị giác (Thuần Ly) tiếp nhận & phản chiếu ánh sáng từ vật thể phát hoặc phản chiếu năng lượng sáng.
    Ngược lại, Liễm giác (Thuần Khảm) tiếp nhận rồi nhốt luôn năng lượng tối.
    Vậy ta có: Liễm giác hoạt động thụ cảm bằng việc hấp thu năng lượng tối.
    LỜI BÀN
    1. Bằng Chu Dịch tôi xác định được sự tồn tại một dạng vật chất đặc biệt, vật chất Tối cùng với nó là năng lượng Tối. Ở thế kỷ trước, Einstein đã đưa ra giả thuyết về vật chất Tối & năng lượng Tối để giải thích cho các tính toán mà các phương trình vũ trụ phải được thoả mãn. Gần đây bằng các phương tiện đo đạc, giới khoa học đã xác nhận sự tồn tại của dạng vật chất này ở cấp độ thiên văn. Lổ đen mà tôi có giới thiệu trong bài Chu Dịch với thiên văn là một dạng vật chất Tối…. Theo cái cách mô tả của Thuần Ly và Thuần Khảm thì qui trình hấp thụ thức ăn trong cơ thể con người, ngoài việc tạo ra năng lượng calo,
    chúng còn tạo nên 1 dạng năng lượng Tối (Điều này sẽ được trình bày ở bài khác)
    2. Chức năng của Khởi giác do Chu Dịch cung cấp đã cho ta một ý niệm về một không gian khác, khác với không gian mà loài người chúng ta đang tồn tại. Viện hàn lâm Quốc gia Mỹ đưa ra "11 câu hỏi cuối cùng" về vũ trụ, làm định hướng nghiên cứu trong thời gian tới. Các câu hỏi này được những nhà khoa học hàng đầu của ba trung tâm nghiên cứu lớn của Mỹ phác thảo ra: Cơ quan hàng không vũ trụ, Bộ Năng lượng và Quỹ khoa học Quốc gia. Ở câu hỏi thứ 9: “Có tồn tại một hệ không gian - thời gian khác không?” Câu hỏi này được đặt ra một cách nghiêm túc xuất phát từ những thực tế nghiên cứu trong nhiều lãnh vực, nhất là lãnh vực Trường Sinh Học, Cận Tâm Lý…. Có một số người có khả năng nói chuyện với những người đã chết không phải chỉ xảy ra ở Việt Nam chúng ta khi truy tìm hài cốt liệt sỹ, mà còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Chu Dịch có cung cấp cho chúng ta 1 chi tiết khá lý thú: Họ, những người tồn tại trong 1 hệ không gian - thời gian khác nhìn thấy chúng ta tương đối rõ, chúng ta thì không. Đối với chúng ta, họ vô hình.
    Có những hiện tượng được ghi nhận là khá kỳ lạ và rất khó lý giải như một bà lão sau cú vấp té chỉ nói tiếng nước ngoài. Những người thân và người trong làng xác nhận rằng suốt đời bà ấy chưa hề bước chân ra khỏi làng để đi đâu xa, và bà ấy không hề có quan hệ bà con với ai là người nước ngoài. Hay gần đây nhất một người đàn ông ở Đồng Tháp sau ca mổ đã dùng giọng Hà Nội để nói chuyện với mọi người (!?) Trong khi anh ta và cha anh ấy chưa từng một lần ra Bắc (Tin VNexpress) Chỉ có cơ quan thụ cảm Tái Tạo giác mới có thể giải thích được những trường hợp như thế.
     
  9. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    Chu Dịch với Khả Năng Ngoại Cảm (2)

    VỊ TRÍ BA GIÁC QUAN THỨ 6, THỨ 7 & THỨ 8
    Bài trước trình bày sự tồn tại của 3 giác quan cùng với chức năng và hình thức thụ cảm. Bài viết này tiếp tục dùng Chu Dịch để xác định vị trí của 3 giác quan 6,7 & 8
    Tôi trình bày như sau:
    Cơ thể con người hình thành đạt độ hoàn chỉnh cấu trúc hình thể cơ bản trước thời điểm chào đời. Hình thể với cấu trúc cơ bản ấy là bào thai nằm trong bụng người mẹ (mang tính Âm) Bào thai ấy chịu nhiều sự tác động của yếu tố Âm hơn so với Dương (người cha) Yếu tố Âm được thể hiện ở đồ hình Tiên Thiên Bát Quái, vì thế, tôi lấy đồ hình này xác định vị trí các bộ phận thụ cảm 8 giác quan của bào thai.
    Công việc xác định này nằm trong phạm vi các bộ phận thụ cảm bên ngoài của con người.
    1. THUẦN TỐN: Xúc giác

    Ngoại quái: Có 2 vạch (+) 1 vạch (-)ë
    Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+)
    Có 2 vạch (+) nên có 2 bộ phận thụ cảm.
    Tốn thuộc Thái Âm nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lõmë
    Tốn cư vùng (-) nên 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể.ë
    Hình thái Tốn mô tả: Tiến thoái linh động, nép ở cạnh dưới, không có vật bao bọc, lộ ra ngoài.ë
    Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan xúc giác:
    Có 2 bộ phận thụ cảm.¾
    Hình thể có dạng lõm.¾
    2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể¾
    Tiến thoái linh động, nép ở cạnh bên, không có vật bao bọc, lộ ra ngoài.¾

    Xác định:
    Sự mô tả tương thích với 2 bàn tay.
    2. THUẦN CHẤN: Khứu giác
    Ngoại quái: Có 2 vạch (-) 1 vạch (+).ë
    Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+).
    Có 1 vạch (+) nên có 1 bộ phận thụ cảm.
    Chấn thuộc Thái Dương nên hìnëh thể bộ phận thụ cảm có dạng lồi.
    n thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ HìnhëChấn cư vùng (+) nên 1 bộ phậ thái Chấn mô tả: Có dạng gò, liên thông ít nhất với 1 bộ phận thụ cảm khác.
    Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan khứu giác:
    Có 1 bộ phận thụ cảm.¾
    Hình thể có dạng lồi.¾
    1 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.¾
    Có dạng gò, liên thông ít nhất với 1 bộ phận thụ cảm khác.¾
    Xác định:
    Sự mô tả tương thích với cái mũi.
    3. THUẦN ĐOÀI: Thính giác
    Ngoại quái: Có 2 vạch (+) 1 vạch (-)ë
    Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+)
    Có 2 vạch (+) nên có 2 bộ phận thụ cảm.
    Đoài thuộc Thái Âm nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lõm.ë
    Đoài cư vùng (+) nên 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.ë
    Hình thái Đoài mô tả: Nằm ở 2 cạnh bên, liên thông với ít nhất 1 bộ phận thụ cảm khác.ë
    Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan thính giác:
    Có 2 bộ phận thụ cảm.¾
    Hình thể có dạng lõm.¾

    2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.¾
    Nằm ở 2 cạnh bên, liên thông với ít nhất 1 bộ phận thụ cảm khác.¾
    Xác định:
    Sự mô tả tương thích với 2 lổ tai.
    4. THUẦN LY: Thị giác
    Ngoại quái: Có 2 vạch (+) 1 vạch (-)ë
    Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+)
    Có 2 vạch (+) nên có 2 bộ phận thụ cảm.
    Ly thuộc Thái Âm nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lõmë
    Ly cư vùng (+) nên 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.ë
    Hình thái Ly mô tả: Linh động, nằm ở 2 bên, có 2 sắc màu, thể hiện đa dạng sắc thái tình cảm, có chảy ra một loại chất lỏng.ë
    Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan thị giác:
    Có 2 bộ phận thụ cảm.¾
    Hình thể có dạng lõm¾
    2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.¾
    Linh động, nằm ở 2 bên, có 2 sắc màu, thể hiện đa dạng sắc thái tình cảm, có chảy ra 1 loại chất lỏng.¾
    Xác định:
    Sự mô tả tương thích với 2 con mắt.
    5. THUẦN CẤN: Vị giác
    Ngoại quái: Có 1 vạch (+) 2 vạch (-)ë
    Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+)
    Có 1 vạch (+) nên có 1 bộ phận thụ cảm.
    Cấn thuộc Thái Dương nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lồi.ë
    Cấn cư vùng (-) nên 1 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể.ë

    Hình thái Cấn mô tả: Ẩn kín, nó có thể lộ ra ngoài nếu muốn, phần lộ ra ngoài dài ngắn tuỳ ý.ë
    Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan vị giác:
    Có 1 bộ phận thụ cảm.¾
    Hình thể có dạng lồi.¾
    1 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể.¾
    Ẩn kín, nó có thể lộ ra ngoài nếu muốn, phần lộ ra ngoài dài ngắn tuỳ ý.¾
    Xác định:
    Sự mô tả tương thích với chiếc lưỡi.
    Lời bàn:
    Thuần Cấn ghi rằng “một bộ phận thụ cảm nằm phần bên dưới của cơ thể” Căn cứ vào hình thể của con người, phần bên dưới của cơ thể con người không tồn tại cơ phận nào tương thích như thế. Chỉ có chiếc lưỡi là tương thích với sự mô tả của 3 yếu tố còn lại.
    Tuy vậy, từ sự mô tả của Chu Dịch, tôi cho rằng có sự tồn tại của ít nhất một giống loại sinh vật mà giác quan Vị giác của chúng nằm ở phần bên dưới của cơ thể. Điều này tôi xin dành cho các nhà Sinh Vật Học.
    6. THUẦN CÀN: Khởi giác
    Ngoại quái: Có 3 vạch (+)ë
    Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+)
    Có 3 vạch (+) nên có 3 bộ phận thụ cảm.
    Càn thuộc Thái Dương nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lồi.ë
    Càn cư vùng (+) nên 3 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.ë
    ëHình thái Càn mô tả: Ở khu vực cao nhất của cơ thể, 1 điểm nằm ngay đỉnh, 1 điểm nằm ở nơi từng lõm, 1 điểm nằm lệch và khuất phía sau.
    Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan khởi giác:

    Có 3 bộ phận thụ cảm.¾
    Hình thể có dạng lồi¾
    3 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.¾
    Ở khu vực cao nhất của cơ thể, 1 cái nằm ngay đỉnh, 1 cái nằm ở nơi từng lõm, 1 cái nằm lệch và khuất phía sau.¾
    Xác định:
    Sự mô tả tương thích với: gò nhô lên của đỉnh đầu, vùng thóp, vùng chẩm.
    7. THUẦN KHẢM: Liễm giác
    Ngoại quái: Có 1 vạch (+) 2 vạch (-)ë
    Là giác quan hoạt động vô thức: Nên ta xem xét vạch (-)
    Có 2 vạch (-) nên có 2 bộ phận thụ cảm.
    Khảm thuộc Thái Âm nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lõm.ë
    Khảm cư vùng (-) nên 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới cơ thể.ë
    ëHình thái Khảm mô tả: Có dạng cái hố, hố có 2 vùng phân biệt, 2 vùng liên thông với nhau bằng một vùng trung gian, vùng thứ 2 sau vùng trung gian là nơi bít bùng.
    Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan liễm giác:
    Có 2 bộ phận thụ cảm.¾
    Hình thể có dạng lõm.¾
    2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới cơ thể.¾
    ¾Có dạng cái hố, hố có 2 vùng phân biệt, 2 vùng liên thông với nhau bằng một vùng trung gian, vùng thứ 2 sau vùng trung gian là nơi bít bùng.
    Xác định:
    Sự mô tả tương thích với cái rốn.
    Lời bàn:
    Rốn thông với đầu ruột non khi còn là bào thai. Khi trưởng thành, rốn dính với ruột non qua dây chằng ở phúc mạc.
    8. THUẦN KHÔN: Tái Tạo giác
    Ngoại quái: Có 3 vạch (-)ë
    Là giác quan hoạt động vô thức: Nên ta xem xét vạch (-)
    Có 3 vạch (-) nên có 3 bộ phận thụ cảm.
    Khôn thuộc Thái Âm nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lõm.ë
    Khôn cư vùng (-) nên 3 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể.ë
    làëHình thái Khốn mô tả: Nấp sau một cơ phận mạnh mẽ, phía bên dưới nó khoảng trống, có điểm nằm trên cao điểm khác nằm dưới thấp, có một điểm nằm rất kín đáo ở nơi như thắt lại, điểm này nằm trong khoảng từ thắt lưng đến cổ chân, điểm này ở trong khu vực mà vật (+) và vật (-) thẳng thắn gặp nhau
    Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan tái tạo giác:
    Có 3 bộ phận thụ cảm.¾
    Hình thể có dạng lõm.¾
    3 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể.¾
    điểm¾Nấp sau một cơ phận mạnh mẽ, phía bên dưới nó là khoảng trống, có nằm trên cao điểm khác nằm dưới thấp, có một điểm nằm rất kín đáo ở nơi như thắt lại, điểm này nằm trong khoảng từ thắt lưng đến cổ chân, điểm này ở trong khu vực mà vật (+) và vật (-) thẳng thắn gặp nhau.
    Xác định:
    Sự mô tả tương thích với 2 lòng bàn chân & vùng nhỏ nằm giữa bộ phận sinh dục với hậu môn (Hội Âm)
     
  10. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    VỊ TRÍ 8 GIÁC QUAN

    GIÁC
    QUAN BỘ PHẬN
    THỤ CẢM CHỨC NĂNG CẢM NHẬN
    1 Thị giác Mắt Nhìn Ý thức
    2 Thính giác Tai Nghe Ý thức
    3 Khứu giác Mũi Ngửi Ý thức
    4 Vị giác Lưỡi Nếm Ý thức
    5 Xúc giác Bàn tay Sờ Ý thức
    6 Khởi giác Vùng đỉnh,
    Vùng thóp,
    Vùng chẩm Tiếp nhận & phóng xuất suy nghĩ.
    Thoát dương. Ý thức
    7 Liễm giác Vùng rốn Hấp thụ
    năng lượng tối Vô thức
    8 Tái Tạo giác Lòng bàn chân
    & Vùng Hội âm Sao chép sự việc,
    hiện tượng Vô thức
    Lời Bàn :
    Bản thảo đầu tiên bài viết này chỉ trình bày công việc xác định ba giác quan thứ 6, thứ 7 & thứ 8. Công việc luận giải ở giác quan Khởi Giác cho thấy cơ quan thụ cảm nằm ở phần đỉnh đầu. Điều này tương hợp với một số phát hiện gần đây về khả năng tồn tại của một giác quan chưa rõ chức năng nằm ở bên trong, vùng đỉnh đầu. Nhưng khi việc luận giải cho kết quả Liễm Giác nằm ở vùng rốn, và Tái Tạo Giác nằm ở vùng Hội Âm & 2 lòng bàn chân thì tôi đã hết sức ngạc nhiên ! Ngay trong tưởng tượng trước đó, tôi cũng không hề nghĩ rằng cơ quan thụ cảm của hai giác quan lại nằm ở hai vùng khá ngộ nghĩnh này !
    E ngại rằng có thể có sai lầm về cách đặt vấn đề, tôi cho kiểm chứng phương pháp luận này với 5 giác quan thông thường thì kết quả cho hoàn toàn trùng khớp.
     
  11. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    (nguồn: http://thegioi-dudoan.com/KINHDICH1.htm)

    Chu Dịch với Đại Dịch AIDS

    Trong bài viết này tôi nêu ra 3 vấn đề sau :
    1. Chu Dịch có hình thái mô tả qui luật hoạt động của Hệ miễn dịch con người ?
    2. Chu Dịch nói gì về phương cách sử dụng kháng sinh diệt khuẩn ? Một phương cách diệt khuẩn khác Chu Dịch có đề cập đến ?
    3. Khả năng của Hệ miễn dịch cơ thể trước hội chứng Aids, Chu Dịch nói gì ?
    1. Chu Dịch có hình thái mô tả cơ chế hoạt động của Hệ miễn dịch?
    Sơ lược cơ chế hoạt động của Hệ miễn dịch :
    Bạch cầu đóng vai trò chủ yếu trong hoạt động ngăn chận, diệt khuẩn, vật lạ, kháng nguyên xâm nhập cơ thể. Bạch cầu có 5 loại chia làm 2 nhóm :
    ột: Hoạt động ngăn chận, diệt kháng nguyên xâm nhập không mang¾Nhóm M cơ chế “Nhớ”, gồm có: Bạch cầu trung tính, Bạch cầu ưa acid, Bạch cầu ưa baz, Bạch cầu mono.
    ¾Nhóm Hai: Hoạt động ngăn chận, diệt kháng nguyên có cơ chế “Nhớ”. Cơ chế “Nhớ” tạo lập cơ chế kháng khuẩn thứ phát. Cơ chế này giúp cơ thể có khả năng miễn dịch mạnh và lâu dài hơn. Cơ chế này được vận dụng để điều chế vaccine (Vắc xin) chủng ngừa. Chúng là bạch cầu Lympho B & bạch cầu Lympho T. Lympho T đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành hệ miễn dịch tế bào.


    Sơ đồ hoạt động kháng khuẩn của bạch cầu


    Kháng nguyên (Vật lạ đối với cơ thể)



    Đại thực bào (Từ mono bào)
    kích hoạt bạch cầu Lympho bào gốc

    (1)

    Lympho bào gốc tiến vào các mô kích hoạt các lympho bào tự do cư trú ở mô cùng với các bạch cầu khác



    Chống lại kháng nguyên


    Một số lympho bào gốc chuyển thành lympho bào “Nhớ”


    (2)
    Hình thành kháng thể có khả năng chống mạnh & lâu dài hơn so với lympho bào gốc


    (1) Cơ chế kháng khuẩn tiên phát.
    (2) Cơ chế kháng khuẩn thứ phát.

    Ta xem qui luật tự vệ của hình thái SƯ :
    ¾ Từ hào 1àhào 3 : Giai đoạn tự vệ tiên phát.
    Mô tả kết quả : Thua.
    Thua có 2 trường hợp: Thua không hoàn toàn & thua hoàn toàn (bỏ mạng).
    ¾ Từ hào 4àhào 5 : Giai đoạn tự vệ thứ phát.
    Mô tả kết quả :
    Nếu thua không hoàn toàn ở giai đoạn tự vệ tiên phát thì sẽ: Toàn thắng ở hào 5 với điều kiện người cầm tướng soái phải có
    kinh nghiệm trận mạc; sẽ thua hoàn toàn (bỏ mạng) nếu kinh nghiệm trận mạc không có.
    Nhận xét:
    Hình thái Sư mô tả đúng 2 giai đoạn hoạt động đề kháng của cơ thể: Cơ chế tiên phátë & cơ chế thứ phát.
    ëHình thái Sư mô tả đúng kết quả của cơ chế đề kháng tiên phát: Hoặc chết ngay do sức đề kháng yếu, hoặc cầm cự một khoảng thời gian đủ để cơ thể tạo ra kháng thể (Cơ chế thứ phát)
    phát:ëHình thái Sư mô tả đúng kết quả của giai đoạn sau của cơ chế thứ Nếu tạo ra được kháng thể tác nhân gây bệnh sẽ bị tiêu diệt, nếu không, cơ thể sẽ bị tác nhân gây bệnh tấn công toàn diện gây tử vong.

    2. Chu Dịch nói gì về phương cách sử dụng kháng sinh diệt khuẩn ? Một phương cách diệt khuẩn khác Chu Dịch có đề cập đến ?
    Qui luật Trông cậy của hình thái Di mô tả giai đoạn cuối như sau :
    Hào 5: Không vượt sông lớn được.
    Hào 6: Thiên hạ nhờ mình mà được nuôi, trách nhiệm của mình như vậy, nên phải thường lo lắng.
    Nhận xét từ 2 lời hào trên:
    Liệu pháp kháng sinh không không phải là công cụ điều trị bệnh tật hoàn hảo.ë
    Liệu pháp này luôn trong tư thế “Chạy đuổi”.ë
    Liệu pháp kháng sinh sẽ “Đuối sức” với những chủng loại khuẩn có khả năng đột biến nhanh.ë

    Qui luật Chận Lại của hình thái Đại Súc mô tả phương thức diệt khuẩn khác :
    Hào 5: Như thể ngăn cái răng nanh con heo đã thiến.
    Hào 6: Sao mà thông suốt như đường trên trời vậy.
    Nhận xét từ 2 lời hào trên:

    Hình thái Đại Súc đề nghị: Ngăn chận tác nhân gây nhiễm bằng thức “Thiến”, tức là ngăn chận khả năng sinh sản, tái sinh củaëphương ký sinh trùng, vi khuẩn, siêu vi. Với phương thức này, chúng sẽ bị “Tiệt nòi”
    ëNền y khoa hiện đại đang bước vào lãnh vực điều trị bệnh băng việc sử dụng công nghệ kỹ thuật gien. Công nghệ với những kỹ thuật tác động trực tiếp vào gien có khả năng ngăn chận triệt để khả năng sinh sản, tái sinh của ký sinh trùng, vi khuẩn, siêu vi. Điều này hoàn toàn trùng hợp với phương thức mà Chu Dịch đề nghị từ 2 lời hào trên.
    3. Chu Dịch nói gì về khả năng của Hệ miễn dịch trước Aids ?
    Qui luật tự vệ của hình thái Sư, xem xét trong phạm vi kháng siêu vi gây hội chứng Aids:
    Hào 3: Thất trận có thể mang xác về.
    Cơ chế kháng khuẩn tiên phát hoạt động, kết quả: Kháng siêu vi không nổi. Có khả năng xảy ra tình huống tử vong.
    Hào 4: Rút quân về phía tả (Phía hữu đã bị vô hiệu hoá)
    Trường hợp không tử vong, cơ thể sẽ tự tạo kháng thể cho cơ chế kháng khuẩn thứ phát khi rút về phía tả.
    Hoà 5: Dùng người lão thành làm tướng suý, nếu dùng bọn trẻ sẽ chở thây mà về.
    Cơ chế thứ phát không hình thành được, chỉ còn lại sức đề kháng của những bạch cầu thông thường mà không có kháng thể. Sẽ tử vong! Trường hợp cơ thể tạo được kháng thể, cơ chế thứ phát khởi động thì cơ hội vượt qua siêu vi nằm trong tầm tay.
    Hào 6: Sau khi khải hoàn, vua ra lệnh gì liên quan đến việc mở nước trị dân không nên dùng tiểu nhân dù họ có công chiến đấu.
    Cơ chế thứ phát hoạt động có hiệu quả trước siêu vi. Tiểu nhân ở đây chỉ đến những bạch cầu thông thường. Theo cơ chế, chúng sẽ chết sau khi thực bào siêu vi và bị cơ thể đào

    thải. Tướng suý lão thành là các lympho bào “Nhớ”_ những vaccine tự tạo của cơ thể vẫn được sử dụng một thời gian.
    Rút về phía tả ? Phía tả là bên trái. Rút về bên trái sẽ có khả năng tạo ra cơ chế thứ phát. Tôi không đủ khả năng tiếp tục lý giải điều này, xin nhường lời cho các nhà chuyên môn.

    Kết luận cho bài viết :
    1. Qui luật Tự vệ của hình thái Sư mô tả qui luật hoạt động của 2 cơ chế kháng khuẩn: cơ chế tiên phát & cơ chế thứ phát.
    2. Qui luật Trông cậy của hình thái Di cho rằng việc sử dụng kháng sinh trong điều trị không thể đạt được yếu tố chủ động cho dù nền kỹ thuật có đạt đến mức cao. Công nghệ gien và các kỹ thuật tác động gien sẽ thực hiện được điều này. Sẽ làm triệt tiêu hoàn toàn 1 bệnh tật khi can thiệp vào khả năng sinh sản, tái sinh của các tác nhân gây hại.
    3. Qui luật Tự vệ của hình thái Sư cho rằng cơ thể loài người hoàn toàn có khả năng chống lại mọi tác nhân gây hại bằng việc kích hoạt khả năng kháng khuẩn của cơ chế tiên phát, đủ khả năng kích hoạt cơ chế thứ phát khi cơ chế tiên phát bị vô hiệu hoá. Để khả năng này xảy ra, Chu Dịch cung cấp những điều kiện phải thực hiện. Những điều kiện này nằm trong hào 4 của hình thái Sư.
    Lời bàn
    Hình thái Tự vệ của Sư được viết ở dạng ngôn từ khá thô thiển, câu trước câu sau, hào trước hào sau với những câu chữ được viết không ăn nhập gì với nhau! Và điều này xuất hiện ở khắp 64 hình thái. Vì sao như vậy ? Tôi xin lý giải điều này như sau:
    Giả thuyết của tôi vẫn cho rằng đã có một nền văn minh kỹ thuật cao xuất hiện khi tổ tiên loài người còn giao tiếp chủ yếu bằng động tác và hình vẽ, hoặc có thể trễ hơn ở ngay thời nhà Chu. Họ đã lưu lại cho những người thời đại nhà Chu (Trung Hoa) 64 hình thái & qui luật. Để nhanh chóng thực hiện công việc chuyển giao, ngôn ngữ
    hình vẽ là phương thức nhanh nhất được chọn. Tức là, 64 hình thái & qui luật được họ thể hiện bằng hình vẽ. Từ hình vẽ, người thời đại nhà Chu viết lại bằng ngôn ngữ thời ấy.
    Tôi lấy 1 ví dụ để minh chứng cho giả thuyết này :
    Định luật chuyển hoá & bảo toàn năng lượng viết:
    “Năng lượng không tự nhiên sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi. Chúng chuyển hoá và bảo toàn từ dạng này sang dạng khác”
    Hoặc một cách viết khác:
    Vật chất & năng lượng hoán đổi mà không tiêu hao.
    Hoặc thể hiện bằng hình vẽ:
    Hình 1: Cái hồ đầy nước.
    Hình 2: Nước trong hồ bốc hơi vơi dần với đám mây hình thành phía trên.
    Hình 3: Đám mây lớn phía trên cái hồ đã cạn.
    Hình 4: Mưa đổ từ đám mây xuống cái hồ.
    Hình 5: Mây không còn, cái hồ đầy nước như cũ.
    Chu Dịch có hình thái Thuần Khảm với hào 5, 6 viết như sau:
    Hào 5: Nước hiểm chưa đầy, khi đầy rồi thì khỏi hiểm.
    (mô tả được khái niệm “Chuyển hoá”)
    Hào 6: Bị trói bằng dây thừng to, lại đặt vào bụi gai, không ra được.
    (mô tả được khái niệm “Bảo toàn”)
    Ta thấy cái cách hình thái Thuần Khảm mô tả định luật bào toàn & chuyển hoá năng lượng tương tự như khi ta nhìn vào 5 hình vẽ trên mà viết lại, chỉ khác ở cách dùng từ.
    Giả thuyết này lý giải vì sao các câu chữ, hào từ trong Chu Dịch rời rạc như được mô phỏng viết lại từ những bức vẽ. Điều này đồng nghĩa rằng: Người thời nhà Chu chỉ có công mô phỏng viết lại một tác phẩm có xuất xứ từ một nền văn minh kỹ thuật cao.
     
    Last edited by a moderator: 17 Tháng mười hai 2006
  12. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    CHU DỊCH VỚI NGOẠI CẢM 3

    Bài viết chia 2 phần: Phần đầu trả lời những câu hỏi quý vị cùng các bạn gởi nêu lên các thắc mắc về Chu Dịch & những bài viết, phần sau tôi viết về Hệ Không Gian khác mà Chu Dịch có ghi nhận.
    TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI
    Hỏi: Năng lượng tối là gì? Hình thù nó ra sao? Nó có phải là phản vật chất không?

    Trả lời: Vật chất tối & năng lượng tối được Einstein diễn giải đưa ra ở thế kỷ trước, nhằm giải thích thoả đáng cho các phương trình vũ trụ do ông tạo lập. Hiện nay, bằng các thiết bị đo đạc, người ta đã chứng minh được dự đoán của Einstein là đúng ! Theo những tính toán gần đây vũ trụ gồm
    nhìn¾5% vật chất thường có cấu tạo nguyên tử mà chúng ta đã biết rõ và thấy được bằng các thiết bị đo đạc, chỉ có ¼ trong số này có khả năng phát sáng hay phản xạ ánh sáng.
    95% còn lại được chia: 33% là vật chất tối (Lổ đen là một dạng vật chất tối) 67% là năng lượng tối lan toả khắp vũ trụ.¾
    Vật chất tối & năng lượng tối có tác dụng lực ngược chiều với Lực Hấp Dẫn. Nghĩa là lực hấp dẫn kéo vạn vật về phía tâm trái đất, ngược lại, lực của năng lượng tối đẩy vạn vật lên phía trên (trời). Và lực của năng lượng tối là yếu so với lực hấp dẫn.
    Chúng ta không nhìn thấy được vật chất tối & năng lượng tối. Bằng các thiết bị đo đạc chính xác hiện nay, chúng ta cũng chỉ nhìn thấy chúng gián tiếp, ví dụ như khi phát hiện ánh sáng đi từ một thiên hà đến trái đất bị bẻ cong đi 1 góc, thì người ta đoán định rằng giữa thiên hà và trái đất có tồn tại một vật chất tối, dựa theo tính toán người ta định vị vật chất tối. Tức là tất cả các hình ảnh thể hiện vật chất tối hiện nay chỉ mới là ảnh ảo dựa trên sự đoán định.
    Hiểu biết về dạng vật chất này hiện nay còn rất ít.
    Phản vật chất (hay phản hạt) thuộc khái niệm vật chất thông thường.


    Hỏi: Lổ Đen trong vũ trụ chú có nói đến trong bài viết theo cháu nghĩ nó chỉ mới là giả thuyết thôi, có ai chứng minh nó là có thật đâu! Vậy thì làm sao chú có thể đoán chắc là Chu Dịch nói đúng ?
    Trả lời: Tôi không phải là chuyên gia trong lãnh vực vật lý thiên văn, nên chỉ có thể trả lời theo kiến thức chung bên ngoài mà không đi vào chi tiết.
    ¾Năm 1905, khi Einstein đưa ra lý thuyết tương đối hẹp, ông cho rằng khi một vật thể di chuyển đạt vận tốc giới hạn của ánh sáng, thì cái thời gian mà vật thể ấy đang ở trong đó, sẽ chậm hơn so với một vật thể khác di chuyển với vận tốc nhỏ. Tức là theo ông thời gian có thể “Co – Kéo” được. Không như theo cách hiểu thông thường thời gian chỉ có 1 chiều là đi tới.
    ¾Khi Einstein đưa ra lý thuyết tương đối rộng, ông cho rằng phải tồn tại một dạng vật chất Lổ Đen. Lổ Đen mang cấu trúc 1 đầu tối đen hút vật thể vào với tốc độ ánh sáng, đầu kia phải sáng là nơi nhả vật thể ra. Nối liền 2 đầu là 1 đường hầm… Khi vật thể bị hút vào với vận tốc ánh sáng, vật thể sẽ có khối lượng lớn vô hạn. Với khối lượng & lực hấp dẫn khổng lồ, theo tính toán, nó sẽ làm đổ sụp đường hầm và phá vỡ lối ra. Nhưng theo tính toán khác, điều ấy sẽ không xảy ra. Do đó, tất phải tồn tại một năng lượng tối (Âm) giảm thiểu lực hấp dẫn. Tức là theo ông, Lổ Đen là cánh cửa để một vật thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác trong một thời gian rất ngắn so với quãng đường dài có thể là hàng ngàn năm ánh sáng. Và ông cũng cho rằng lổ đen là cánh cửa để đi qua một vũ trụ (Thế giới) khác trong một thời gian khác. Nghĩa là việc đi ngược dòng thời gian là hoàn toàn có thể theo lý thuyết.
    ¾Một vấn đề nan giải nảy sinh: Giả như có 1 người đi ngược dòng thời gian về với quá khứ và sát hại ông Einstein hay ông Newton thì thế giới tương lai không thể có được như bây giờ. Thế là thế nào ? Tính toán đã sai lầm chăng? Chẳng hoá ra ví

    dụ này đã phủ nhận sự tồn tại của Lổ Đen & lý thuyết đi ngược dòng thời gian.
    tồn¾Vật lý lượng tử đã cho câu trả lời. Theo vật lý lượng tử, thế giới tại nhiều vũ trụ song song. Hiểu nôm na là 1 con người tồn tại cùng một lúc ở nhiều nơi khác nhau. Vì thế, nếu như có chuyện sát hại như thế thì vẫn còn 2 ông Einstein & Newton ở nơi khác.
    ¾Đoạn viết trên không phải là chuyện giả tưởng và cũng không phải là giả thuyết. Nó đã được tính toán trên lý thuyết rằng nó phải có, chỉ có điều là chưa được thực tế chứng minh. Nhưng không phải vì thế mà có thể phủ nhận những tính toán ấy. Bởi lẻ, nền tảng của những tính toán ấy đã và đang xây dựng nên nền khoa học kỹ thuật mà chúng ta đang được hưởng.
    Chu Dịch với Thuần Khảm mô tả một dạng vật chất tối đen có cơ cấu & hoạt động y hệt như Lổ Đen của lý thuyết tương đối rộng. Vì thế, tôi nói Chu Dịch nói đúng là vậy.
    Hỏi: Chúng tôi ở nước ngoài, trước đây chỉ biết rằng Chu Dịch là quyển sách bói toán. Gần đây, có người thân gởi sang quyển Chu Dịch Dự Đoán nổi tiếng bên Trung Quốc. Chúng tôi xem quyển này vẫn thấy nói về bói toán là chính…. Nhận được và xem qua tài liệu của ông gởi, tôi thấy ông lấy Chu Dịch bàn về khá nhiều lãnh vực theo quan điểm rất lạ ! Tuy nhiên, mặc dù đã cố công đọc tài liệu này nhưng chúng tôi vẫn chưa thể hiểu được rõ lắm. Vậy nếu có thể được, ông vui lòng cho chúng tôi biết: Phần chính của bản Chu Dịch cổ là gì ? Quyển sách này nói về điều gì là chính ? Ông còn viết thêm bao nhiêu lãnh vực khác nữa ? Có cách nào hiểu dễ dàng hơn là phải cố gắng suy diễn từ những lời lẻ khó hiểu được ghi trong Chu Dịch không ? Và cuối cùng nếu có thể được, ông vui lòng trình bày chi tiết phần lý thuyết đã dùng khi ông lý giải con người có 8 giác quan ?
    Trả lời: Nội dung chính của Chu Dịch chữ Hán nằm gọn trên 5 tờ A4 . Nó là của người Trung Hoa. Người Trung Hoa gọi nó là Chu Dịch. Nhiều học giả Trung Hoa coi nó là một tài sản quý giá về khía cạnh
    nhân văn. Và cũng có nhiều học giả Trung Hoa cho rằng nó là một quyển sách không có giá trị gì mới, ngoài việc cung cấp phương tiện cho giới đồng bóng bói toán.
    Tôi cho rằng: Chu Dịch trình bày 64 Định Luật:
    62 định luật thông thường, mỗi định luật trình bày một hình thái vận động ở dạng qui luật 6 Giai Đoạn.¾
    2 định luật ngoại lệ, mỗi định luật trình bày một hình thái vận động ở dạng qui luật 7 Giai Đoạn.
    ¾Một qui luật “Lớn” duy nhất qui định trình tự từ điểm khởi đầu đến điểm kết thúc của sự vật, hiện tượng và vũ trụ. Được thể hiện bằng trình tự của 64 định luật.
    Công việc giải mã 64 định luật này tôi đang thực hiện. Với bản giải mã, mọi người có thể tiếp cận Chu Dịch dễ dàng hơn. Hy vọng công việc sẽ sớm hoàn thành.
    Tôi sử dụng lý thuyết Âm Dương để trình bày phần lý giải 8 giác quan của con người. Các nguyên lý của thuyết Âm Dương không nhiều, tính luôn phần giải thích chỉ dài khoảng vài trang sách. Quí vị có thể tham khảo chúng trong các sách của Đông Y trình bày về lý luận cơ bản. Từ bài viết này, tôi sẽ cố gắng đưa các nguyên lý này vào để quý vị bạn đọc quen dần. Sẽ còn viết bao nhiêu bài ? Điều này tuỳ thuộc vào công việc giải mã 64 định luật. Những bài viết này, về mặt chuyên môn, nó phụ trợ cho công việc giải mã tôi đang thực hiện.

    Hỏi: Âm Dương là gì? Thái Cực Đồ là gì? Đồ hình bát quái có giống với tấm kính chiếu yêu thường thấy được treo ở trước cửa nhà người Hoa không?
    Trả lời:
    Lý thuyết Âm Dương cho rằng: Vũ trụ là sự hiện hữu của 2 mặt đối lập:
    ¾Vật chất có thuộc tính: Cứng, mạnh, sáng, rực rỡ, hưng phấn, ly tâm, hướng ngoại, lồi, nhanh nhẹn,… qui ước là Vật Chất Dương ( ____ )
    hướng nội, lõm, chậm chạp,… qui ước là Vật Chất Âm ( __ __ )¾Vật chất có thuộc tính: mềm, yếu, tối, mù mờ, ức chế, hướng tâm,
    Lý thuyết Âm Dương cho rằng: Vũ trụ không tồn tại Dương tuyệt đối hay Âm tuyệt đối khi vận động.
    Thái Cực Đồ là đồ hình giản lược trình bày ý niệm trên:
    Một bên sáng, biểu thị Vật Chất Dương. Có 1 điểm đen nhỏ biểu thị Vật Chất Âm.¾
    Một bên đen, biểu thị Vật Chất Âm. Có 1 điểm sáng nhỏ biểu thị Vật Chất Dương.¾
    Kích thước lớn, nhỏ chỉ mang ý nghĩa tượng trưng.
    ¾Tính tuyệt đối có tồn tại ở trạng thái tĩnh & đơn lẻ, như khi ta nói vận tốc ánh sáng là vận tốc tuyệt đối, điều này là đúng đối với thuyết tương đối. Hay mọi vật sẽ rơi tự do dưới lực hấp dẫn của trái đất, điều này là tuyệt đối đúng ở vật lý cổ điển.
    Lý thuyết Âm Dương cho rằng: Để tồn tại Vật Chất Dương & Vật Chất Âm phải vận động
    Khi chúng vận động, ta có 4 đồ hình từ ( ____ ) & ( __ __ ) là:
    ____ __ __ _____ __ __
    ____ __ __ __ __ _____

    4 đồ hình này được gọi là Tứ Tượng.
    Từ Tứ Tượng vật chất tiếp tục vận động biến dịch (Như khi ta ghép các số liệu bên toán xác suất)
    ___ _ _ ___ _ _ ___ _ _ ___ _ _
    ___ ___ _ _ _ _ ___ ___ _ _ _ _
    ___ ___ ___ ___ _ _ _ _ ___ _ _

    8 đồ hình trên được gọi là Bát Quái.
    Cực kỳ đơn giản! Chu Dịch khái quát toàn bộ vật chất của vũ trụ vào 8 đồ hình cơ bản này.
    Việc có ai đó lấy đồ hình bát quái sử dụng cho mục đích niềm tin, tín ngưỡng không phải là việc làm của phái Dịch Học.
    Hỏi: Vì sao việc ghép dừng lại 3 vạch cho mỗi đồ hình mà không phải là 4,5 hay 6,7 ?
    Trả lời: Chu Dịch có một nguyên lý cơ bản mà đồ hình cơ bản phải dừng lại ở 3 vạch. Nguyên lý ấy có tên gọi là Thiên Địa Nhân (Hay Tam Tài) Nguyên lý ấy nói rằng vật chất vận động trong môi trường gồm 3 yếu tố:
    1. Yếu tố Thời gian (Thiên)
    2. Yếu tố Không gian (Địa)
    3. Yếu tố Khả năng vận động của vật chất (Nhân)
    Đồ hình cơ bản 3 vạch thể hiện 3 yếu tố của nguyên lý. Vì thế, không thể là 4,5 hay 6,7. Hiểu theo một cách khác: Mỗi đồ hình thể hiện một khối vật chất cơ bản, 8 đồ hình là 8 khối vật chất cơ bản của vũ trụ.
    Hỏi: Nhận định của ông cho rằng Chu Dịch là bản chép lại từ một bản hình vẽ có xuất xứ từ một nền văn minh đã phát triển cao, vậy thì những học thuyết như Âm Dương, Tam Tài xây dựng nên Chu Dịch, chúng có từ đâu ?
    Trả lời: Những khai quật di tích cho thấy rằng có vẻ như người Trung Hoa đã hiểu Âm Dương từ rất lâu trước khi có quyển Chu Dịch. Tuy nhiên, điều ấy không thể cho rằng Chu Dịch do người Trung Hoa tạo ra là cách giải thích duy nhất. Vẫn còn có cách giải thích khác cho vấn đề này.
    Nhận định chính thống hiện nay cho rằng Chu Dịch là do hai cha con Chu Văn Vương & Chu Đán (Chu Công) sắp xếp hoàn chỉnh lại là hoàn toàn phi lo-gic ! Vì 2 lý do sau:
    1. Quyển Chu Dịch không thể được viết rời rạc trước đó rồi sắp xếp lại cho hoàn chỉnh. Nhìn tổng thể Chu Dịch, nó đã được viết nên từ một cái sườn, một cái khung đã định hình ban đầu.
    2. Tri thức nằm trong Chu Dịch hoàn toàn bất tương xứng với trình độ hiểu biết vào thời kỳ ấy.
    Vì lẻ đó, tôi ngờ rằng Chu Dịch không phải là sản phẩm sắp xếp hoàn chỉnh của hai cha con Chu Văn Vương. Những bài viết trước đó và sau này của tôi là đi chứng minh & lý giải cho sự ngờ vực ấy !
    Tôi cho rằng Ý niệm Âm Dương trước Chu Dịch mang tính sơ khai. Chỉ khi có Chu Dịch ý niệm này mới phát triển thành học thuyết.
    Nhìn vào Chu Dịch, chúng ta sẽ thấy được tất cả khởi nguồn của: Học thuyết Âm Dương, Khổng Học, Lão Tử, Tam Tài, Ngũ Hành, Thuyết Chủ Vị…. xuất hiện sau này. Sau đó, họ đã dùng những học thuyết này quay lại để lý giải Chu Dịch. (Cần phân biệt lý thuyết Âm Dương với học thuyết Âm Dương. Các học thuyết xuất hiện sau này là phát triển nên từ lý thuyết Âm Dương)

    Hỏi: Tôi là Lương Y. Trong các sách dù trực tiếp hay gián tiếp đều ám chỉ lý luận cơ bản của Đông Y có nguồn gốc từ Chu Dịch. Thuyết Âm Dương, Khí Hóa hay thuyết Thiên Địa Nhân thì có thể, riêng Ngũ Hành tôi cho rằng không thể. Và cũng không có quyển sách nào cho biết Ngũ Hành có từ đâu. Đọc tài liệu của ông tôi thấy rất thú vị… Ông có thể vui lòng cho biết quan điểm của ông về Ngũ Hành qua Chu Dịch ?
    Trả lời: Tôi cũng giống như trường hợp của ông (và có lẻ còn nhiều người khác) khi học lý luận cơ bản Đông Y, Ngũ hành được xem như một nguyên lý phải chấp nhận trước. Thậm chí ngay trong giáo trình chính qui, để giải thích sự tồn tại của nó, người ta lại đem nguyên lý Hồi tác (Feed back) ra để minh chứng cho sự tồn tại của Ngũ Hành !
    Trong khi đi lý giải cho tính hợp lý và sự tồn tại hiển nhiên của Tiên Thiên & Hậu Thiên Bát Quái Đồ, tôi mang cảm nhận rằng Ngũ Hành ở đâu đây trong Chu Dịch. Và chỉ mới đây, tôi phát hiện đồ hình Ngũ hành nằm ngay trong Chu Dịch.
    Người Trung Hoa xưa kia đã tìm ra Ngũ hành từ Chu Dịch ? Hay Ngũ Hành là quà tặng đi kèm của nền văn minh cao kia ?
    Các nhà khảo cổ học xác nhận trước nhà Chu, là nhà Thương, chưa hề có đồ hình bát quái của Chu Dịch. Sử liệu cũng cho biết rằng đời nhà Chu sử dụng 3 loại Dịch để bói: Liên Sơn Dịch, Qui Tàng Dịch & Chu Dịch. Chu Dịch đã hay đến thế, hai quyển kia chắc chẳng kém. Nhưng tiếc rằng chúng, 2 quyển ấy, đã thất truyền !
    Trong quyển 2, tôi sẽ trình bày một quan điểm khác về mối liên hệ giữa ngũ hành với Chu Dịch.
    Hỏi: Trong các sách dạy dự đoán của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, Ngũ hành được sử dụng rất nhiều và thường xuyên. Trong tài
    liệu của ông không thấy nói đến. Vì sao như vậy? Mong được ông giải thích…. Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ sinh Kim còn có thể gượng ép mà chấp nhận, thế còn Thuỷ sinh Mộc thì tôi không hiểu. Nghe thật vô lý !
    Trả lời: Tôi chưa chứ không phải không đưa. Bởi lẻ Chu Dịch đã rất khó đọc lại thêm cái Ngũ hành nữa khiến bạn đọc chưa biết gì về Chu Dịch sẽ rối tinh lên.
    Vấn đề này thật ra rất đơn giản ! Nếu ta thay 5 cái tên nghe kỳ quặc Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ bằng 5 con số 1,2,3,4,5 thì sẽ như vầy:
    5 sinh 1 và 1 sinh 2 thì 5 khắc 2
    1 khắc 3 và 3 khắc 5 thì 5 sinh 1
    Đọc như thế thì khó nhớ quá ! Người Trung Hoa xưa kia đã nghĩ ra cái cách đặt tên như trên, dễ nhận biết và dễ nhớ hơn. Tức là, chúng là những cái tên, chỉ có vậy !
    Thật ra không phải chỉ có Đông Y mới sử dụng Ngũ Hành. Tây Y, nền y học hiện đại, vẫn thường xuyên sử dụng một nguyên lý tương tự nhằm lý giải các mối tác động qua lại của các phản ứng sinh hoá học trong cơ thể con người, được gọi là cơ chế Hồi tác (Feed back)
    Hỏi: Ông chứng minh rằng con người có 2 cánh tay, nhưng sinh vật có những loài đâu chỉ có 2, như loài bạch tuộc có rất nhiều vòi, hay như côn trùng có rất nhiều chân, chúng đâu có tay. Chu Dịch chỉ đúng cho con người thôi à ? Ông giải thích như thế nào về điều này ?
    Trả lời: Chúng ta hãy đi vào phần cơ bản sẽ rõ ngay:
    Mỗi vạch ( ___ ) hay vạch ( _ _ ) trong Chu Dịch được biểu thị cho 1 dạng, 1 nhóm, 1 khối vật chất,….. Không chỉ là 1 cái.
    Nên khi kết luận tôi ghi rằng con người có 2 bộ phận thụ cảm xúc giác, chứ không phải là 2 bàn tay.
    Bàn tay là tên định danh cho bộ phận trên cơ thể. Bàn tay mang 2 bộ phận thụ cảm xúc giác, chứ không phải bàn tay là cơ quan xúc giác.
    Tôi không biết nhiều về sinh vật học, nhưng căn cứ vào Chu Dịch tôi cho rằng loài vật khác cũng vậy. Cho dù có nhiều vòi hay nhiều chân cũng chỉ có 2 nhóm bộ phận thụ cảm xúc giác.
    Bạch tuộc mang bộ phận thụ cảm Vị giác ở trên 8 chiếc vòi với những giác hút. Điều này hoàn toàn đúng khi qua Chu Dịch tôi đã phát hiện rằng: Có tồn tại những loài sinh vật mà cơ quan thụ cảm vị giác nằm ở phần dưới của thân mình (Xem Ngoại cảm 2)
     
  13. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    HỆ KHÔNG - THỜI GIAN KHÁC

    Một tổng kết mới đây của Viện hàn lâm Quốc gia Mỹ đưa ra "11 câu hỏi cuối cùng" về vũ trụ, làm định hướng nghiên cứu trong thời gian tới. Các câu hỏi này được những nhà khoa học hàng đầu của ba trung tâm nghiên cứu lớn của Mỹ phác thảo ra: Cơ quan hàng không vũ trụ, Bộ Năng lượng và Quỹ khoa học Quốc gia. Ở câu hỏi thứ 9:
    Có các hệ không - thời gian khác không?
    Để hình dung được hệ không - thời gian khác là thế nào đã có một ví dụ sau: Giả thiết khi ta sút quả bóng vào hệ không - thời gian 2 chiều, thì người ở sống ở hệ ấy chỉ có thể nhìn thấy 1 điểm đen phẳng lì xuất hiện trong khoảng thời gian tích tắc khi quả bóng tiếp xúc với hệ 2 chiều. Tức là, tất cả họ chỉ nhìn thấy điểm đen phẳng ấy, ngoài ra họ không thấy gì. Tương tự, chúng ta sống trong hệ 3 chiều không thể thấy rõ những gì trong hệ 4 chiều nếu nó có tồn tại.
    Trong cuộc truy tìm hài cốt liệt sỹ gần bãi biển thuộc khu vực miền Trung. Sau khi mục kích trực tiếp khả năng đặc biệt chỉ dẫn chính xác địa điểm chôn cất, tên tuổi của các liệt sỹ đã mất hơn 40 năm qua. Ông chủ tịch hội Trường Sinh Học Việt Nam hỏi cậu bé 14 tuổi:
    Làm thế nào cháu có thể biết được những mẫu xương nằm lẫn lộn này là của ai mà trả lời nhanh vậy ?¾
    Họ nói cho cháu biết.¾
    Họ là ai ?¾
    Những người mấy chú đang đi tìm ấy.¾
    Họ đang ở đâu ?¾
    Họ đang đứng quanh đây.¾
    Cháu nói chuyện với họ được à ?¾
    Không, cháu chỉ nghe họ nói thôi.¾
    Giới khoa học có ghi nhận những trường hợp xảy ra tương tự như thế ở các nơi khác trên thế giới. Họ ngờ rằng có sự tồn tại một thế giới khác mà vài người có khả năng tiếp xúc với thế giới ấy.
    Ta xem xét hình thái Thuần Càn với qui luật 7 giai đoạn. Hào thứ 7 :
    “Kiến quần Long vô thủ, cát”
    Dịch nghĩa: Thấy bầy rồng không đầu. Tốt
    Lời hào thật tối nghĩa ! Nó đã được bàn cãi rất nhiều suốt mấy ngàn năm qua. Tác giả Nguyễn Hiến Lê có thu thập một số cách giải thích của các nhà Dịch học cổ kim: Những nhà Dịch học giải thích lời hào này trên quan điểm triết học, tư tưởng, đạo làm người, thuật làm tướng. thì càng thấy tối nghĩa hơn, đến bí lối !
    Tôi chú ý đến lời giải nghĩa của cụ Phan Bội Châu: “Rồng không đầu ý nói rồng ẩn hiện trong mây, nên không thấy rõ hình dáng của rồng”
    Lời giải này rất gần với ý tưởng một thế giới khác.
    Quan điểm trình bày của tôi với lời hào thứ 7 quẻ Thuần Càn như sau:
    Để kiến giải lời hào thứ 7, ta cần phải hiểu rõ nghĩa của 6 lời hào trước đó. Để hiểu rõ được 6 lời hào này, ta cần xác định rõ mục tiêu cho công việc kiến giải. Mục tiêu rõ đó được hiểu là sự vận động của 6 lời hào phải được kiến giải trong một phạm trù cụ thể. Phạm trù cụ thể được chọn ở đây là Đời Người. Ta xem xét:
    Hào 1: Rồng ở ẩn, chưa dùng được.
    Thai nhi nằm trong bụng người mẹ.
    Hào 2: Rồng bước ra ngoài trời rộng, ra mắt người trên.
    Đứa trẻ chào đời.
    Hào 3: Người quân tử (lúc này không được coi là rồng nữa) hăng hái làm việc. Đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ, nhưng không lỗi.
    Đứa trẻ học hành.
    Hào 4: Rồng (trở lại là rồng) bay nhảy, có khi lên cao, khi nằm dưới đáy vực.
    Đã có một vị trí riêng trong xã hội. Biết tiến thoái đúng mức.
    Hào 5: Rồng lên cao. Cùng với các người trên.
    Ở tuổi được xem là người trên (Người có tuổi)
    Hào 6: Rồng lên cao quá, có hối hận.
    Tuổi thọ cuộc đời. Qua đời.
    Để kiến giải hào 7, ta xem cấu tạo của hào 7:
    Hình thái vận động của hào thứ 7 có lối vận động riêng biệt.
    Riêng biệt như thế này:
    Nó vận động thoát sang vùng khác. Từ vùng Dương thoát qua vùng Âm.¾
    -¾Chúng thoát như sau: Toàn bộ 6 hào dương (+) chuyển thành 6 hào âm ( ) 6 hào âm này được gọi là hào thứ 7. Hào thứ 7 lúc này đã nằm trong vùng Âm.
    Hào 7 nằm trong vùng Âm. Theo Âm Dương, vật thể vẫn còn tồn tại, tồn tại trong vùng Âm.¾
    Vậy tôi Kiến giải hào 7 như sau:
    Hào 7: Thấy bầy rồng không đầu. Tốt.
    “Người đã qua đời” tồn tại trong một “ Không Gian Khác” Ở không gian này, “Người đã qua đời” vẫn trông thấy loài người chúng ta, nhưng trông thấy không rõ ràng. Họ có cuộc sống tốt đẹp.
    Kết luận:
    1. Lời giải thích lời hào thứ 7 Thuần Càn của cụ Phan Bội Châu rất thoả đáng. Nhìn thấy bầy rồng không đầu phải được hiểu là thấy
    không rõ hình dáng bầy rồng. Lời kiến giải hào thứ 7 gần với ý niệm rằng có tồn tại một thế giới khác sau khi trải qua 6 hào.
    2. Chu Dịch cho rằng vẫn tồn tại một thế giới khác, để con người chúng ta hiện hữu trong thế giới ấy sau khi sống qua giai đoạn thứ 6. Ở thế giới ấy, “Con Người” vẫn trông thấy con người chúng ta với hình dáng không rõ ràng.
    3. Nếu vào được thế giới này, con người sẽ có cuộc sống tốt đẹp (?)
    4. Sự vận động hình thái Thuần Càn dành cho giới tính Nam.
     
  14. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    CHU DỊCH VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI

    Ở bài Chu Dịch Với Chiến Lược Kinh Doanh, tôi có trình bày một nhân tố cần phải có khi triển khai chiến lược kinh doanh. Đó là tính nhất quán trong việc thực thi Tư Duy Định Hướng khi triển khai chiến lược kinh doanh. Ở bài viết này, tôi sẽ đề cập đến một chiến lược quan trọng nằm trong chiến lược kinh doanh, chiến lược quảng bá thương hiệu và sản phẩm của doanh nghiệp.
    Điều tiên quyết trong lý thuyết kinh tế hiện đại khi xây dựng chiến lược quảng bá thương hiệu, sản phẩm là phải tìm hiểu và nắm vững phản ứng của thị trường mà ta nhắm đến khi thương hiệu và sản phẩm được tung ra. Để thực thi hiệu quả công việc nắm bắt này hiện có 2 phương cách thường được sử dụng:
    1. Phương cách thứ nhất: Tìm hiểu tâm lý tiêu dùng qua các kênh chính thức như: Bảng thăm dò, mời các chuyên gia tâm lý, dò hỏi ở các doanh nghiệp cùng ngành hàng…. Sau đó lên chiến lược quảng bá thích hợp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường sử dụng phương cách này.
    2. Phương cách thứ hai: Sau khi thăm dò tâm lý phản ứng của người tiêu dùng, sử dụng bài bản chiến lược quảng bá đã từng sử dụng có hiệu quả ở những thị trường tương tự. Công việc quảng bá này được thực hiện ồ ạt trên diện rộng và kéo dài. Các tập đoàn đa quốc gia có cùng ngành hàng đang cạnh tranh khốc liệt với nhau thường sử dụng bài bản này.
    Dù ở phương cách nào thì bước đầu tiên là phải thăm dò phản ứng tâm lý của người tiêu dùng nơi thị trường ấy. Việc thăm dò, Chu Dịch cung cấp cho chúng ta những thông tin đáng quan tâm. Các ví dụ sau đây sẽ cho thấy rõ điều ấy.
    Người Việt Nam:
    Mang hình thái tâm lý (Dân Tộc Tính) Phong Hoả Gia Nhân.
    Phong Hoả Gia Nhân là: Khoan hoà, thân thiện, bao dung.
    Tương Hợp với Phong Hoả Gia Nhân là: Sơn Thuỷ Mông.
    Sơn Thuỷ Mông là: Mông lung, mập mờ, ví von.
    Như vậy, để gây ấn tượng và hấp dẫn được người Việt Nam nhiều nhất trong chiến lược quảng bá, hình ảnh thương hiệu hay sản phẩm phải được thiết kế sao cho người xem phải ở trong trạng thái: “Của ai thế nhỉ ? Để xem…. À, thì ra là của….. !”
    Người Trung Hoa:
    Mang hình thái tâm lý (Dân Tộc Tính) Lôi Hoả Phong.
    Lôi Hoả Phong là: Cởi mở mà kín kẻ. Quảng giao mà ngạo nghễ.
    Tương Hợp với Lôi Hoả Phong là: Trạch Thuỷ Khốn.
    Trạch Thuỷ Khốn là: Mộc mạc, đơn giản.
    Như vậy, để gây ấn tượng và hấp dẫn được người Trung Hoa nhiều nhất trong chiến lược quảng bá, hình ảnh thương hiệu hay sản phẩm phải được thiết kế sao cho người xem phải ở trong trạng thái: “À ! của công ty X ” , “À ! Nó dùng để rửa nhà vệ sinh.” , “À ! Nó chỉ dùng cho đàn ông.”
    Hình ảnh quảng bá không quá màu mè đến khó hiểu. Nó phải được thiết kế sao cho được hiểu ngay. Thật khác với cách tiếp cận ở người Việt Nam.
    Người Nhật Bản:
    Mang hình thái tâm lý (Dân Tộc Tính) Lôi Phong Hằng.
    Lôi Phong Hằng là: Kiên trì, kiên nhẫn, dai lì.
    Tương Hợp với Lôi Phong Hằng là: Trạch Sơn Hàm.
    Trạch Sơn Hàm là: Giao cảm. Tình thương. Tình cảm (Trai gái)
    Như vậy, để gây ấn tượng và hấp dẫn được người Nhật Bản nhiều nhất trong chiến lược quảng bá, hình ảnh thương hiệu hay sản phẩm được thiết kế sao cho phải mang những nét cảm động, thương yêu, thương nhớ, tình cảm trẻ thơ, tình cảm trai gái sâu sắc thuỷ chung, tính giao cảm gái trai ướt át, mùi mẫn….
    Người Pháp:
    Mang hình thái tâm lý (Dân Tộc Tính) Thuần Ly.
    Thuần Ly là: Phấn khích, lịch sự, quý phái.
    Tương Hợp với Thuần Ly là: Thuần Khảm.
    Thuần Khảm là: Lặng lẻ, tối tăm, trần trụi.
    Như vậy, để gây ấn tượng và hấp dẫn được người Pháp nhiều nhất trong chiến lược quảng bá, hình ảnh thương hiệu hay sản phẩm được thiết kế sao cho phải mang những nét trần trụi. Trên thực tế, người Pháp rất thích các màn quảng cáo sex, gợi cảm. Các pha quảng cáo trên truyền hình Pháp đua nhau thực hiện điều này.
    Tuy nhiên, Thuần Khảm là tương hợp với Thuần Ly và cũng tương phản với Thuần Ly. Đây là một hình thái đặc biệt ! Nó giống như con dao 2 lưỡi. Thái quá sẽ hỏng ngay! Theo nguyên lý Âm Dương là như vậy.
    Người Pháp đã không làm thái quá (!?) Có lẻ chính vì thế mà người Pháp dù nổi tiếng thích những màn quảng cáo sex, nhưng vẫn được xem là dân tộc thưởng thức sành sõi cái đẹp.
    Người Anh:
    Mang hình thái tâm lý (Dân Tộc Tính) Hoả Lôi Phệ Hạp.
    Hoả Lôi Phệ Hạp là: Phân minh. Là phẩm bình, phán xét, chỉ trích.
    Tương Hợp với Hoả Lôi Phệ Hạp là: Thuỷ Trạch Tiết.
    Thuỷ Trạch Tiết là: Tiết chế, kín đáo. Là vừa phải không quá lố.
    Như vậy, để gây ấn tượng và hấp dẫn được người Anh nhiều nhất trong chiến lược quảng bá, hình ảnh thương hiệu hay sản phẩm được thiết kế sao cho phải mang tính hợp lý, không nhiều quá cũng không ít quá, không phô bày thái quá. Hình ảnh phải mang nét kín đáo như đánh đố mà lời giải dễ nhận ra. Nét cổ điển trong hình ảnh quảng cáo đối với người Anh dễ gây nên cảm xúc hơn cả.
    Hoa Kỳ:
    Chỉ có người Mỹ, không có dân tộc Mỹ.
    Liệu có 1 “Dân Tộc Tính” chung cho quốc gia đặc biệt này không ?
    USA mang hình thái Thiên Trạch Lý.
    Thiên Trạch Lý là: Nói theo lý, làm theo lý.
    Tương Hợp với Thiên Trạch Lý là: Địa Lôi Phục.
    Địa Lôi Phục là: Lập đi lập lại. Nhắc đi nhắc lại.
    Như vậy, để gây ấn tượng và hấp dẫn được người Mỹ nhiều nhất trong chiến lược quảng bá, hình ảnh thương hiệu hay sản phẩm được thiết kế sao làm được 2 điều:
    1. Nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong 1 pha quảng cáo. Lập đi lập lại nhiều lần ở mọi lúc mọi nơi.
    2. Gợi nhớ lại các giá trị mang tính truyền thống. Ví như nhắc lại các giá trị của cội nguồn người Mỹ gốc Anglo-Saxon. Gợi lại những giá trị văn hoá dân tộc mà chương trình quảng cáo hướng đến 1 cộng động dân tộc.
    Trên đây đề cập đến Dân Tộc Tính khi thực hiện chiến lược quảng bá thương hiệu, sản phẩm trên bình diện của một quốc gia. Trong một quốc gia, tính Dân Tộc Tính, thực tế được thể hiện là khác nhau ở từng vùng, mỗi khu vực, mỗi thành thị. Dưới đây sẽ trình bày sự khác nhau ấy:
    Tại Việt Nam: Phong Hoả Gia Nhân
    Phong Hoả Gia Nhân là: Khoan hoà, thân thiện, bao dung.
    Tương hợp Phong Hoả Gia Nhân: Sơn Thuỷ Mông.
    Sơn Thuỷ Mông là: Mông lung, mập mờ, ví von.
    Ở Hà Nội: Hoả Lôi Phệ Hạp
    Hoả Lôi Phệ Hạp là: Phân minh. Là phẩm bình, phán xét, chỉ trích.
    Dân Tộc Tính Gia Nhân thể hiện trong hình thái Hoả Lôi Phệ Hạp.
    Tương Hợp với Hoả Lôi Phệ Hạp là: Thuỷ Trạch Tiết.
    Thuỷ Trạch Tiết là: Tiết chế, kín đáo. Là vừa phải không quá lố.
    Như vậy: Hình ảnh quảng bá ví von, mập mờ mà vừa phải không quá lố, không nhiều quá cũng không ít quá, phải hợp lý, kín đáo mà gọn ghẽ. Nét cổ điển ở hình ảnh quảng bá phải được ưu tiên.
    Ví như: “Của ai thế nhỉ ? Xem nào… À ! ra là của công Ty X. Hình ảnh đẹp, trang nhã mà lịch sự”
    Ở Hải Phòng: Lôi Thuỷ Giải
    Lôi Thuỷ Giải là: Có thế nào bày ra thế ấy. Lý giải được thì càng tốt.
    Dân Tộc Tính Gia Nhân được thể hiện trong hình thái Lôi Thuỷ Giải.
    Tương Hợp với Lôi Thuỷ Giải là: Trạch Hoả Cách.
    Trạch Hoả Cách là: Phá cách, model. Là mới nhất, “Xịn nhất”.
    Như vậy: Hình ảnh quảng bá ví von, mập mờ mà ưu tiên những hình ảnh thể hiện cái gì mới nhất, “Xịn nhất”, model nhất, phá cách nhất.
    Ví như: “Của ai vậy ? Để đấy xem… Ừ! Công Ty X. Được đấy! ”
    Ở Saigon: Thuần Chấn
    Thuần Chấn là: Nổi trội, năng động, ham nổi tiếng
    Dân Tộc Tính Gia Nhân được thể hiện trong hình thái Thuần Chấn.
    Tương Hợp với Thuần Chấn là: Thuần Đoài.
    Thuần Đoài là: Vui vẻ, vui thích.
    Như vậy: Hình ảnh quảng bá ví von, mập mờ mà ưu tiên cho những hình ảnh thể hiện sự vui vẻ, sôi nổi, hào hứng gây thích thú.
    Ví như: “Của ai dzậy ? Để coi…. À! Công ty X đây nè! Dzui thiệt !”
    Tại Trung Hoa: Lôi Hoả Phong
    Lôi Hoả Phong là: Cởi mở mà kín đáo. Quảng giao mà ngạo nghễ.
    Tương hợp với Lôi Hoả Phong là : Trạch Thuỷ Khốn
    Trạch Thuỷ Khốn là: Mộc mạc, đơn giản.
    Ở Thượng Hải: Hoả Trạch Khuê
    Hoả Lôi Khuê là: Đa nghi.
    Dân Tộc Tính Lôi Hoả Phong thể hiện trong hình thái Hoả Trạch Khuê.
    Tương Hợp với Hoả Trạch Khuê là: Thuỷ Sơn Kiển.
    Thuỷ Sơn Kiển là: Lòng tin, tin tưởng, tin cậy.
    Như vậy: Hình ảnh quảng bá mộc mạc, đơn giản mà bày tỏ được lòng thành, sự tin cậy vào một con người (Nổi tiếng chẳng hạn) Lòng tin vào một điều thiêng liêng cao cả.
    Ví như: Hình ảnh thể hiện lòng tin đến cuồng si của 1 chàng trai. Lòng tin vào 1 điều khó hiểu đến thật thà, ngây ngô.
    Ở Bắc Kinh: Phong Địa Quán
    Phong Địa Quán là: Ôn hoà, nhỏ nhẹ.
    Dân Tộc Tính Lôi Hoả Phong thể hiện trong hình thái Phong Địa Quán.
    Tương Hợp với Phong Địa Quán là: Sơn Thiên Đại Súc.
    Sơn Thiên Đại Súc là: Chứa lớn.
    Như vậy: Hình ảnh quảng bá mộc mạc, đơn giản mà ưu tiên thể hiện những hình ảnh chứa chất điều gì thật to, thật lớn, thật vĩ đại.
    Ví như: Tạo 1 hình ảnh kép vi tính xách tay cạnh bên đống vi tính tính để bàn chất đống cao ngất ngưỡng.


    Tại Pháp : Thuần Ly
    Thuần Ly là: Phấn khích, lịch sự, quý phái.
    Tương hợp với Thuần Ly là : Thuần Khảm.
    Thuần Khảm là: Trần trụi.
    Ở Paris: Trạch Hoả Cách
    Trạch Hoả Cách là: Phá cách, model. Là mới nhất, “Xịn nhất”.
    Dân Tộc Tính Thuần Ly thể hiện trong hình thái Trạch Hoả Cách.
    Tương Hợp với Trạch Hoả Cách là: Lôi Thuỷ Giải.
    Lôi Thuỷ Giải là: Có thế nào bày ra thế ấy. Giải thích có đầu có đuôi.
    Như vậy: Hình ảnh quảng bá trần trụi mà rõ ràng có sao nêu ra y như vậy, thuần chủng, thuần khiết không màu mè. Phải giải thích đúng, chính xác nguồn gốc xuất xứ. Và tính kiểm định phải được xác lập rõ.
    Ví như: Trái cam sành Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long với hình ảnh người thật, việc thật là các thiếu nữ xinh xắn trong áo bà ba bó chẽn, tóc búi cao hoặc quấn khăn rằn thu hái tại vườn, đi cùng với hình ảnh kiểm định ở Viện Pasteur.
    Lời Bàn:
    Chu Dịch đã cho thấy được một ứng dụng thật đáng kinh ngạc! Kiểm định tính đúng đắn của ứng dụng này không phải là công việc khó khăn. Ứng dụng này cho một nhận xét rằng: “Ngồi trong màn trướng quyết sách ngàn dặm” không phải là điều bịa đặt mà người xưa nói về tài năng kỳ lạ ở vài nhân vật quân sự, chính trị trong lịch sử Trung Hoa. Thật đơn giản đến tài tình ! Chu Dịch bằng vài dòng suy luận đã cung cấp ngay được những thông tin quý giá, mà nếu thực hiện bằng các phương pháp thông thường hiện nay phải tốn rất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc.
     
  15. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    CHU DỊCH VỚI CÁC DANH NHÂN.

    Trong lý thuyết Âm Dương của Chu Dịch, có một phương pháp xác lập đặc tính luôn hiện hữu ở những người có tài, là tài năng. Điều này có nghĩa rằng: Trong những người được giới thiệu là tài năng, được cho là tài năng Chu Dịch có thể thẩm định được ai là những người có tài năng thật sự, ai là người “Núp sau tấm bằng”. Điều lạ lùng là việc thẩm định lại rất đơn giản! Và tất nhiên, để thẩm định phương pháp này, các nhân vật lịch sử sẽ được nêu lên như minh chứng cho sự chính xác của nó.
    Việc gọn gàng trong việc thẩm định dưới đây của Chu Dịch vẫn gần gủi với quan điểm hiện đại rằng: “Quan sát sự vận động thể hiện bên ngoài của sự vật, hiện tượng chúng ta có thể suy đoán và xác lập sự vận động bên trong căn cứ vào lý thuyết và các tính toán đã xác lập trước đó” Trong việc thẩm định tài năng, Chu Dịch cũng tuân theo nguyên tắc này.
    Theo lập luận phương pháp này, ở hình thức giao tiếp bên ngoài, những người nổi tiếng luôn bày tỏ Tính Cách Thật. Tức là, họ nhất quán với tính cách thật trong suy nghĩ, lời nói, thái độ và hành vi. Ba dạng còn lại: Tính Cách Giả, Thật Thái Quá, Giả Cực Đoan kia chỉ tồn tại trong họ như các thuộc tính phụ trợ.
    Trường hợp 1 : 3 nhân vật chủ chốt cuộc khởi nghĩa Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.
    Tính Cách Thật :
    Nguyễn Nhạc : Sơn Phong Cổ
    Tính Cách Thật : Bảo thủ¾
    Tính Cách Giả : Cách Tân, linh hoạt.¾
    Nguyễn Nhạc, người anh cả, mang Tính Cách Thật. Ông đã dẫn dắt cùng hai người em làm nên nghiệp lớn. Khi giao quyền hành lại cho Nguyễn Huệ, ông đã linh hoạt xử lý điều khó khăn lớn nhất của đời ông. Chấp nhận mang Tính Cách Giả, ông trở về làm người dân bình thường.
    Nguyễn Lữ : Sơn Hoả Bí
    Tính Cách Thật: Bề ngoài, khách sáo¾
    Tính Giả: Bình dị, đơn giản.¾
    Nguyễn Huệ : Sơn Lôi Di
    Tính Cách Thật: Trông cậy, mềm dẻo dùng người.¾
    Tính Giả: Tự lập, tự chủ¾
    Nguyễn Huệ khi lên ngôi, trong công việc triều chính Ông vừa nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, biết dùng người tài triều Lê và kỹ thuật của người Phương Tây.
    Sử sách có ghi : Do không hài lòng với tầm nhìn và cách cầm quân của anh mình là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem quân đến dựng trại dưới chân thành người anh. Nguyễn Nhạc đã bật câu nói nổi tiếng : “Nồi da sáo thịt sao em nỡ !” Nguyễn Huệ nghe xong bèn rút quân. Nhân vật Nguyễn Lữ, sử sách ghi không nhiều về người anh thứ hai của Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, có ghi nhận rằng cụôc tranh quyền cầm quân chỉ diễn ra giữa người anh cả Nguyễn Nhạc và người em út Nguyễn Huệ. Sau này, Nguyễn Nhạc đã giao toàn bộ quyền bính (Cách Tân) cho người em là Nguyễn Huệ ... Nêu rõ tinh thần độc lập tự chủ, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế lấy niên hiệu Quang Trung. Trong công cuộc thống nhất đất nước, ông biết dùng người tài của Triều Lê, vời được La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.... Về đối nội, ông lấy chữ Nôm làm Quốc ngữ (Tự chủ). Đối ngoại, Quang Trung mở cửa đón nhận tinh hoa kỹ thuật phương Tây (Dùng người). Tiếc rằng ông đã mất sớm khi chưa qua 40 tuổi.
    VÍ DỤ 2 : Đại Thi Hào Nguyễn Du mang hình thái Sơn Trạch Tổn
    Tính Cách Thật : Bất bình, giúp đỡ.¾
    Tính Cách Giả: Tình cảm ướt át.¾
    Nguyễn Du tỏ thái độ bất bình “Giùm” cho thân phận phụ nữ xã hội đương thời qua nhân vật Thuý Kiều. Tôi nói như thế không rõ có đúng không ?
    VÍ DỤ 3 : Hàn Mặc Tử (Biệt danh) mang hình thái Lôi Sơn Tiểu Quá
    Tính Cách Thật : Hơi quá, hoa mỹ¾
    Tính Giả: Đơn giản.¾
    Tôi chưa nhìn thấy chân dung nhà thơ nổi tiếng này. Nhưng qua cái biệt danh mà nhà thơ tự đặt cho mình, thấy rằng : Hàn Mặc Tử rất xem trọng cái đẹp bên ngoài. Ở phụ nữ, nhà thơ cũng thế, rất tôn sùng vẻ đẹp bên ngoài. Một con người thích cái đẹp bề ngoài, một nhà thơ tôn sùng và biết thưởng thức cái đẹp bên ngoài của phụ nữ, chắc rằng ông phải rất đẹp trai !
    VÍ DỤ 4 : Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn (Biệt danh) mang hình thái Thuỷ Sơn Kiển
    Tính Cách Thật: Thân thiện, tin người.¾
    Tính Cách Giả: Đa nghi.¾
    Về khoản tin người thì ông nổi tiếng là rất cả nể bạn bè. Là một nhạc sỹ, Ông là một nhân vật vô cùng độc đáo của Việt Nam! Đứng giữa muôn trùng mà nối vòng tay. Thế giới ở dạng người này thật ít lắm! Mohammed Gahndi của Ấn Độ, Tổng Thống huyền thoại Nam Phi Nelson Mandela.
    VÍ DỤ 5 : Bác sỹ Tôn Thất Tùng mang hình thái Hoả Trạch Khuê
    Tính Cách Thật : Đa nghi, Chống lại, phản biện¾
    Tính Giả: Chấp Nhận¾
    Vị Bác Sỹ tạo ra phương pháp cắt gan được giới y khoa thế giới gọi tên “Phương Pháp Cắt Gan Tôn Thất Tùng” Với cá tính như thế chả trách vị Bác Sỹ nổi tiếng nóng tính và đa nghi khai sinh ra được cái phương pháp chưa nơi nào có.
    VÍ DỤ 6 : Bill Clinton. Tổng Thống Hoa Kỳ mang hình thái Lôi Sơn Tiểu Quá
    Tính Cách Thật : Hơi quá, hoa mỹ
    Tính Cách Giả: Đơn giản.
    Ta hãy xem cái cách vị Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ này giải quyết, sau khi vụng trộm nhẹ nhàng (Hơi quá) với cô thư ký tập sự Monica ở Whitehouse như sau : Bị tố cáo (Bị sốc) vị Tổng Thống đã đưa ra 1 giải pháp rất ngắn gọn là gật đầu chịu tội, xin lỗi với dân & vợ con (đơn giản).
    Vị Tổng Thống này quả thật rất đẹp trai ! Tài hùng biện thì không phải bàn. Nhưng cái cách ông ta nói chuỵện mới hấp dẫn và duyên dáng làm sao (Hoa mỹ) Coi cho vị Tổng Thống này không thể không nhắc đến nhân vật có liên quan Monica Lewinsky.
    VÍ DỤ 7 : Cô thư ký tập sự của White House, Monica Lewinsky có hình thái Thuỷ Địa Tỉ
    Tính Cách Thật : Dễ làm thân.¾
    Tính Cách Giả : Xa lánh.¾
    Vị Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton hào hoa phong nhã quả là khó cưỡng lại trước của cô thực tập sinh Monica đầy sức quyến rủ. Ở đây tôi không phân định lỗi phải của bên nào. Nhưng việc sắp xếp
    cô thực tập sinh Monica có tính cách thật là Dễ làm thân gần bên vị Tổng Thống đẹp trai và hào hoa sẽ như ông bà ta thường nói : “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén.”
    VÍ DỤ 8 : Một nhân vật gây nên nhiều tranh cãi, tốn hao biết bao công sức của nhiều thế hệ các nhà sử học Trung Hoa, Tần Thuỷ Hoàng mang hình thái Trạch Thiên Quải
    Tần Thuỷ Hoàng viết theo chữ Hán 秦 始 皇
    Tính Cách Thật : Quyết liệt¾
    Tính Cách Giả : Hoà dịu¾
    Trong những năm cầm quyền của vị vua này, ta luôn thấy ông ta luôn có cách xừ lý các sự việc rất quyết liệt.
    Tôi xin đưa ra 1 tên tuổi nổi tiếng khác, được đời sau phong tặng danh vị “Vạn Thế Sư Biểu” Người đó là Khổng Tử.

    VÍ DỤ 9 : Khổng Tử trong tiếng Hán là 孔 子
    孔 子 4 / 3, là Lôi Hoả Phong
    Ta có :
    Tính Cách Thật : Giới thiệu, phổ biến¾
    Tính Cách Giả : Hạn chế KHỔNG TỬ¾

    Cuộc đời của Đức Khổng Phu Tử thật chẳng khác cái tên của Ngài là mấy. Bôn ba khắp các nước, mời chào những vị quân vương nhằm phổ biến (Quảng bá) cái Đạo Trị Quốc của Ngài. Rồi cũng có nước Lỗ tin dùng phong cho chức Thừa Tướng. Đạo của Khổng Tử được trải rộng đem lại sự thịnh vượng cho nước Lỗ. Nước Lỗ thịnh vượng thì Ngài bị ghét. Bời Đạo của Ngài khó quá (!?) Khi khổ cực mọi người có thể chịu nhịn để chắt chiu. Nhưng khi khó khăn đã qua, dư ăn có của để thì vua quan nước Lỗ vẫn bị Đạo của Ngài bắt nhịn. Thế là Ngài bị đuổi ! Bị sốc, Khổng Tử rời chốn quan trường về nơi thôn dã mở trường, mở lớp thu nhận học trò (Hạn chế).

    Lời Bàn
    Nhìn vào người được cho là có tài mà ta có thể nhanh chóng thẩm định được điều âý. Nghe người ấy có tài mà ta có thể cung cấp các thông tin cần thiết để thẩm định. Hiện tại hay quá khứ thẩm định đều được. Gần hay xa điều ấy cũng không quan trọng. Một cái tên chính xác sẽ cho chúng ta cái nhìn thật đúng về một con người cụ thể có thực tài hay không.
    Đi xa hơn, Chu Dịch cho rằng tạo nên những con người có tài là điều không khó. Chúng ta có thể thực hiện được điều ấy bằng việc tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho đứa bé luôn phát huy được Tính Cách Thật của chúng. Theo nguyên lý Chủ Vị của Chu Dịch, Tính Cách Thật là Chủ, là “Đầu Tàu”. “Đầu Tàu” đã xuôi thì cái đuôi sẽ lọt. Giải quyết tốt cái “Đầu Tàu” thì mọi việc còn lại rồi sẽ ổn, sẽ giải quyết dễ dàng hơn. Như câu ngạn ngữ: “Đầu xuôi đuôi lọt” là chỉ đến trường hợp thực hiện phương pháp này.
    Như vậy chẳng hoá ra con người là không có số phận ư? Cần có một cái nhìn thật đúng với Chu Dịch trong vấn đề này. Chu Dịch không phủ nhận rằng con người với những hệ quả trong cuộc sống của họ, là xuất phát từ những nguyên nhân chính, do con người đó tạo ra. Và Chu Dịch cũng cho rằng: “Nguyên nhân và hệ quả ở một con người cụ thể còn chịu những sự tác động khác từ môi trường, hoàn cảnh sống. Mà hai tác nhân sau này nằm ngoài khả năng nắm bắt, chi phối ở một con người cụ thể” Do đó, Chu Dịch cho rằng số phận con người mang tính Khả Biến.
    Như vậy, con người có số phận và số phận là khả biến. Chu Dịch là như vậy! Chu Dịch không có dáng dấp gì là bói toán cả. Thậm chí nó còn đả phá bói toán khi khẳng định về số phận rằng: Số Phận không hề mang tính Bất Biến.
    Phương pháp này do tôi tạo lập nên mà gọi là Chu Dịch Tướng Học.
     
  16. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    CHU DỊCH VỚI BỆNH TÂM THẦN

    Trong cuộc sống, đôi khi do các tác động mạnh xung quanh mà gây nên cho ta những cảm giác khó chịu. Cảm giác khó chịu lập đi lập lại nhiều lần sẽ tạo nên sự căng thẳng. Cảm giác căng thẳng này ta hay gọi là stress. Stress kéo dài lâu ngày có thể gây ra sự mất thăng bằng tâm lý. Sự mất thăng bằng này ta gọi là bị Rối Loạn Tâm Lý. Rối loạn tâm lý gây nên các xáo trộn trong nhận thức, suy nghĩ khiến cho thái độ, hành động trong giao tiếp khác với ngày thường theo một trong hai xu hướng: Hoặc hưng phấn thái quá, hoặc ức chế mà trầm mặc.
    Hưng phấn thái quá hay ức chế mà trầm mặc trong các trường hợp này thường bị người gán cho hai chữ là Lập Dị. Lập dị thể hiện ra bên ngoài bằng tính khí thất thường. Như vậy, những ai mang tính khí thất thường trong giao tiếp hàng ngày là những kẻ bị rối loạn tâm lý. Rối loạn tâm lý chưa phải được định là bệnh nhân tâm thần cần phải điều trị. Nhưng nó đã chính là biểu hiện của chứng Rối loạn tâm thần.
    Theo số liệu của một cơ quan nghiên cứu nước ngoài thì 1/3 nữ sinh Saigon bị trầm cảm (Số liệu 2002) Không rõ cách đánh giá này có chính xác ? Một báo cáo thống kê của một cơ quan y tế ở thành phố Hồ Chí Minh thì 15% dân số thành phố có biểu hiện rối loạn tâm thần (Tức là trung bình cứ 1,5 căn nhà là có 1 người bị) . Theo thống kê của Bệnh viện Tâm Thần Trung ương, hiện cả nước có trên 10 triệu người đang trong tình trạng rối loạn tâm thần cần phải điều trị (Số liệu đầu năm 2003) cũng có tỉ lệ gần 15%. Đem so sánh với dân số cả nước 70 triệu thì con số này kinh khủng quá !
    Với hệ thống y tế hiện nay trên thế giới thì ai thấy điên quá thì vào viện điều trị, còn chưa thấy gì rõ lắm thì ngồi nhà hay đi làm như bình thường. Ngặt một nỗi, Rối loạn tâm lý thì chưa thấy “Điên” rõ lắm, nhưng nó đã là triệu chứng của bệnh tâm thần rồi (Bệnh ở đây là chỉ chung, chưa định dạng bệnh) Tức là hệ thống y tế hiện nay chưa có biện pháp gì trong việc nhìn thấy trước, phòng ngừa hay ngăn chặn bệnh “Điên Chờ Thời” như thế này.
    Chu Dịch kết hợp với lý thuyết Âm Dương có cung cấp cho chúng ta một phương thức nhìn thấy trước, phòng ngừa và ngăn chặn “Điên Chờ Thời”. Phương pháp này khá đơn giản!
    Đứng trên quan điểm khoa học chính thống, có lẻ phương pháp này chưa đủ sức thuyết phục được các vị chuyên gia tâm lý, các vị bác sỹ chuyên ngành thần kinh. Nhưng nếu có thể được, rất mong các vị vui lòng xem qua và sử dụng thử bảng tiên liệu người mắc chứng tâm thần theo Chu Dịch & Lý thuyết Âm Dương của Đông Y. Rất mong !
    Phương pháp này có 1 điểm khác biệt so với cách đánh giá hiện nay. Nó khác như sau:
    • Theo cách đánh giá trên Những ai mang tính khí thất thường trong giao tiếp hàng ngày là những kẻ bị rối loạn tâm lý (Tâm thần)
    • Theo Chu Dịch: Tính khí thất thường mang 2 đại lượng đầu vào, không phải chỉ có một. Điều này có nghĩa là: Có trường hợp mang tính khí thất thường trong giao tiếp hàng ngày, nhưng không phải là bị rối loạn tâm lý (Tâm thần).
    Chu Dịch gọi trường hợp này là Thật Thái Quá. Cũng mang tính khí thất thường hàng ngày, nhưng không phải thuộc dạng rối loạn tâm lý.
    Tức là: Nếu anh mang tính khí thất thường Giả Cực Đoan trong giao tiếp hàng ngày thì anh mới bị. Còn tính khí thất thường ở Thật Thái Quá thì không.
    Chu Dịch xác định Giả Cực Đoan & Thật Thái Quá như sau:
    Theo các bước :
    • Ghi nhận thông tin : Tên Họ do cha mẹ đặt nên.
    Tên Họ phải ghi theo chữ quốc ngữ của dân tộc người ấy, VD: Người Nhật phải ghi theo chữ Nhật.
    • Chia đôi số lượng từ. Trường hợp số lượng là Lẻ, chia theo nguyên tắc “Trước ít, Sau nhiều” , VD: Trần / Thế Tài
    • Đếm số lượng ký tự theo ký âm, VD: Các dấu “Sắc, Huyền, Ngã, Hỏi “ trong tiếng Việt được tính là 1, nhưng trong tiếng Pháp không được tính (e’) vì nó không phải là 1 ký âm riêng trong tiếng Pháp.
    Nếu :
    @ Số lượng ký tự nhỏ hơn 8 (<8) ta giữ nguyên trị số.
    Vd: Trần / Thế Tài : 5 / 4 + 4 là 5/8 hay 58
    @ Số lượng ký tự lớn hơn 8: Ta trừ đi 8.
    VD: Trần / Quốc Tuấn: 5 / 5 + 5 là 5/2 hay 52.
    @ Trường hợp số lượng ký tự lớn hơn 16: Ta trừ đi 16.
    • Kiểu viết từ trái qua phải, cho dù tên trước họ sau như ở đa số người phương tây, ta vẫn tính số lượng chữ từ trái qua phải. Ví dụ: Bill Carter là 46.
    • Có được con số, ta xem bảng:
    VD: Người có tên họ 58.
    Tính khí thất thường trong giao tiếp: Ngang tàng.
    Kết luận: Đã có dấu hiệu mang triệu chứng rối loạn tâm thần.
    VD: Người có tên họ 52.
    Tính khí thất thường trong giao tiếp: Vòng vo, quanh co, lấp liếm.
    Kết luận: Đã có dấu hiệu mang triệu chứng rối loạn tâm thần.

    Tên Họ THẬT THÁI QUÁ GIẢ CỰC ĐOAN
    88 Chìu chuộng, xua nịnh, quyến rủ Mạnh bạo, độc đoán. Duy ngả độc tôn
    81 Ai nói chi cũng cười Dữ tợn
    82 Liều lĩnh Hãi sợ, nhút nhát.
    83 Luôn chấp nhận sự thiệt thòi về mình Quyết ăn thua đủ bằng mọi giá
    84 Luôn ở thế thủ Cầu thân. Mong muốn được đoái hoài.
    85 Cực kỳ tham Vô tư đến vô tâm
    86 Thẳng như ruột ngựa. Dễ nổi nóng, gây gỗ Ba phải
    87 Nhún nhường Trịch thượng, ngạo mạn.
    18 Dữ dằn Ai nói chi cũng cười
    11 Mạnh bạo, độc đoán. Duy ngả độc tôn Chìu chuộng, xua nịnh, quyến rủ.
    12 Trịch thượng, ngạo mạn Qui luỵ
    13 Ba phải Thẳng như ruột ngựa. Dễ nổi nóng, gây gỗ
    14 Vô tư đến vô tâm Cực kỳ tham
    15 Cầu thân. Mong muốn được đoái hoài Luôn ở thế thủ
    16 Quyết ăn thua đủ bằng mọi giá Chấp nhận mọi thiệt thòi về mình
    17 Hãi sợ, nhút nhát. Liều lĩnh
    28 Cúc cung tận tuỵ Khó chịu. Đòi hỏi quá đáng
    21 Hằn học Nhũn nhặn, lấy lòng
    22 Lộng ngôn Lầm lì
    23 Đổi ý liên tục Cố chấp, ương ngạnh, cứng đầu
    24 Ngã nghiêng
    Xoay như chong chóng Bảo thủ, cứng ngắc
    25 Ôm đồm, Việc gì cũng gánh Sợ việc, biếng nhác
    26 Luộm thuộm Đỏm dáng
    27 Ngọt ngào Lạnh lùng
    38 Liến thoắng, Không nhân nhượng Trầm lặng, thờ ơ, thụ động
    31 Lớn lối, khinh thường Hạ mình, cúi đầu
    32 Đa nghi, độc đoán Điều gì cũng gật, cũng tin
    33 Ăn nói lung tung, lộn xộn Ù lì. Lạnh lùng
    34 Phê phán, chỉ trích gay gắt Cam chịu, nín nhịn
    35 Phản ứng
    không suy nghĩ Do dự, dùng dằng, không tự quyết được
    36 Ảo tưởng. Sùng tín Cầu toàn. Sòng phẳng, thực dụng
    37 Phóng túng Khắc kỷ
    48 Xởi lởi, lạc quan tếu Cáu kỉnh, quạu cọ, bi quan
    41 Mạnh bạo, Bặm trợn Rụt tè, nhu nhược
    42 Liến thoắng Lừ đừ
    43 Lập lờ khó hiểu Toạc móng heo
    44 Huênh hoang, Chơi trội Ẩn dật
    45 Ky bo, keo kiệt Xả láng. Ngồi không yên chỗ
    46 Lý sự dông dài. Đa sự Dễ tha thứ, xí xoá. Ác, Thiện bất phân
    47 Giả tạo, Trí trá Có sao nói vậy, chưa hỏi đã nói. Rất ư thật thà.
    58 Rụt rè Ngang tàng
    51 Cáu kỉnh, quạu cọ, bi quan Xởi lởi, lạc quan tếu.
    52 Có sao nói vậy, chưa hỏi đã nói. Rất ư thật thà. Vòng vo, quanh co, lấp liếm
    53 Dễ tha thứ, xí xoá. Ác, Thiện bất phân Lý sự dông dài. Đa sự
    54 Xả láng Ky bo, keo kiệt
    55 Theo đuôi Huênh hoang, chơi trội
    56 Toạc móng heo Lập lờ khó hiểu
    57 Lề mề, Chậm chạp Liến thoắng, nhanh nhảu
    68 Thích được gần gủi, va chạm Lớn lối, khinh thường
    61 Thụ động. Sai gì làm nấy Độc đoán, dữ dằn
    62 Ngậm tăm
    Lặng thinh Phóng túng. Tênh hênh
    63 Cầu toàn. Sòng phẳng, thực dụng Ảo tưởng. Sùng tín
    64 Do dự, dùng dằng, không tự quyết được Phản ứng không suy nghĩ
    65 Cam chịu, nín nhịn Phê phán, chỉ trích gay gắt
    66 Ù lì. Lạnh lùng Nói năng lung tung, lộn xộn
    67 Điều gì cũng gật Đa nghi độc đoán
    78 Tự ái, sĩ diện Chai lì, bất cần
    71 Khó chịu. Đòi hỏi quá đáng Cúc cung tận tuỵ
    72 Nói năng khô khốc Tình cảm, ngọt ngào
    73 Đỏm dáng Luộm thuộm
    74 Hay nhờ vả Bỏ ngoài tai mọi ý kiến
    75 Cổ hũ Ngã nghiêng, xoay như chong chóng
    76 Nguyên tắc, cứng ngắc Ai sao mình vậy
    77 Lầm lì Lộng ngôn
    Lời Bàn:
    Cách đánh giá (Tiên liệu) người mắc chứng tâm thần của phương pháp này nêu lên 2 điểm chính khi thẩm định một người có mắc chứng tâm thần hay không :
    1. Tính khí thất thường trong giao tiếp mang 2 đại lượng đầu vào: thật Thái Quá & Giả Cực Đoan. Chỉ có tính khí Giả Cực Đoan mới đúng là thể hiện triệu chứng bệnh tâm thần.
    2. Xác định đúng Giả Cực Đoan trong nhiều tính cách mà một con người có thể biểu hiện. Vì thế, nếu một người thể hiện Giả Cực Đoan không đúng theo Tên Họ, thì cũng không phải mắc chứng tâm thần.
    Với 2 tiêu chuẩn tiên liệu trên, thiết nghĩ rằng con số 10 triệu (trên 70 triệu dân) bị bệnh tâm thần ở Việt Nam cần phải điều trị “e rằng” sẽ phải nhỏ hơn ? Chúng ta thường đôi khi bông phèng với nhau rằng các nhà khoa học nghiên cứu nhiều quá nên tính khí thất thường có hơi “Điên” (?!) Và thực tế cho thấy rằng nhiều khoa học gia tên tuổi lẫy lừng lại rất đãng trí, đuểnh đoãng trong đời thường. Họ điên thật chăng ? Những thành tựu xuất sắc tạo nên thế giới này là từ những người có chút điên trong người ? Quả thật là như thế, nếu chúng ta dựa trên các chuẩn liệu thông thường hiện nay mà đánh giá. Chu Dịch & Lý thuyết Âm Dương đã định ra một chuẩn tiên liệu khác.

    (nguồn: http://thegioi-dudoan.com/KINHDICH1.htm)
     
    Last edited by a moderator: 17 Tháng mười hai 2006
  17. uyenuyen

    uyenuyen Guest

    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    KINH PHONG VA KINH THI DICH TRUYEN
    (Nguyen cuu ve BOC DICH)

    KINH PHÒNG
    KINH THỊ DỊCH TRUYỆN​



    Kinh Phòng (77 – 37 tr.CN) người Tây Hán, là người khai sáng ra Kinh thị Dịch học kim văn. Người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông họ Lý. Cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học Chu Dịch. Ông học Dịch ở Tiêu Diên Thọ người nước Lương, sau ông lại học thêm Dịch từ một ẩn sĩ, ông rất thích âm luật, sau đắc tội và chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

    Đặc trưng của Dịch học Kinh Phòng là chiêm nghiệm, Kinh thị Dịch học mở đầu cho phái tượng số, là gốc của tượng số, gốc của thuật số. Bốn cống hiến lớn của Kinh Phòng là: Bát cung quái thuyết; Nạp Giáp thuyết; Quái khí thuyết; Âm dương ngũ hành thuyết. Do làm rõ được về tai dị nên được nhà Vua ban thưởng. Với đặc điểm học thuật chiêm nghiệm khí số cho xã hội thông qua tai dị trong thiên nhiên trên nền tảng “thiên nhân cảm ứng”.

    Bát cung quái thuyết lấy cơ sở về thứ tự các quẻ Càn-Chấn-Khảm-Cấn-Khôn-Tốn-Ly-Đoài của “Thuyết quái”. Trong đó 4 quẻ Càn-Chấn-Khảm-Cấn là 4 cung Dương, còn 4 quẻ Khôn-Tốn-Ly-Đoài là 4 cung Âm.

    Căn cứ vào sự phân vạch của quẻ, 8 quẻ thuần là quẻ “thống suất” gọi là quẻ mẹ, các hào của quẻ “thống suất” đều cố định không biến, 7 quẻ bị “thống suất” đều gọi là “kiến quái”, gọi là quẻ con, vì những hào của chúng đều có biến đổi. Kinh Phòng căn cứ vào Dịch nói: “tinh khí vi vật, du hồn vi biến”. Quy luật biến đổi là hào Dương biến đổi thành hào Âm, hào Âm biến đổi thành hào Dương.

    Quẻ Đời 1 lấy hào 6 là hào bất biến.

    Gọi là quẻ Đời 2, là từ 8 quẻ mẹ mà Dịch gọi là “Bát thuần”, do hào đầu tiên biến đổi mà thành.

    Quẻ đời 3 là do sự niến đổi của 2 hào đầu của quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 1 biến đổi hào 2 mà thành.

    Quẻ Đời 4 là do sự biến đổi của hào 1-2-3 của quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 2 biến đổi hào 3 mà thành.

    Quẻ Đời 5 là do sự biến đổi của hào 1-2-3-4 từ quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 3 biến đổi hào 4 mà thành.

    Quẻ Đời 6 là do sự biến đổi của các hào 1-2-3-4-5 từ quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 4 biến đổi hào 5 mà thành.

    Quẻ Đời 7 được gọi là quẻ Du hồn, căn cứ từ quẻ Đời 6 mà biến đổi hào 4

    Quẻ Đời 8 được gọi là quẻ Quy hồn, căn cứ từ quẻ Đời 7, biến đổi cả 3 hào hạ quái quẻ Du hồn mà thành.

    Kinh Phòng căn cứ vào cấu tạo ngôi vị của quẻ 6 hào, lấy hào Sơ (hào 1) làm Khởi đầu (chung), lấy hào Trên (hào 6) làm Kết thúc (thủy), với nền tảng Càn Khôn làm đầu cuối của Âm Dương, nên hào 6 của quẻ “Bát thuần” không biến đổi.

    Chữ “đời” ở đây là gọi là Thế là do hào biến đổi làm chủ của quẻ biến, gọi là hào “cư Thế”. Quẻ Đời 1-2 gọi là Địa dịch, quẻ Đời 3-4 gọi là Nhân dịch, quẻ Đời 5-6 gọi là Thiên dịch. Quẻ Du hồn và Quy hồn gọi là Quỷ dịch. Quẻ Đời 1 ở đây lấy hào bất biến làm chủ, tức là hào 6 của quẻ “bát thuần”.

    Về phương diện ngôi vị hào, hào đầu gọi là Nguyên sĩ, hào 2 gọi là Đại phu, hào 3 gọi là Tam công, hào 4 gọi là Chư hầu, hào 5 gọi là Thiên tử, hào 6 gọi là Tông miếu, gọi như vậy với mục đích để phân rõ đẳng cấp tôn ti.

    Gọi là Thế - Ứng, tức là chỉ sự tương ứng của 3 hào dưới với 3 hào trên trong mỗi cung, tức là hào đầu tương ứng với hào 4, hào 2 tương ứng với hào 5, hào 3 tương ứng với hào trên. Trong đó, hào làm chủ là hào “cư thế”, thì khi chiêm nghiệm, hào Ứng phải theo hào làm chủ, đó là hào Thế, hào Ứng (để phán đoán) là hào có quan hệ mật thiết với đối tượng chiêm nghiệm, ví như giữa vợ chồng, giữa anh em, vì giữa họ có tình cảm tương ứng với nhau. Định cát hung thì lấy hào cư Thế làm chủ.



    THUY ẾT NẠP GIÁP



    Càn Khôn là gốc của Âm Dương, là đầu cuối của Âm Dương 64 quẻ cho nên lần lượt nạp Giáp Ất Nhâm Quý. Khi nạp Thiên can vào quẻ thì căn cứ theo số thứ tự Tiên thiên bát quái của quẻ phối với thứ tự của 10 Thiên can như sau: Càn 1 đứng đầu nạp Giáp mộc đứng đầu của Thiên can, Càn thuộc dương nạp Giáp cũng thuộc dương. Tiếp đến Đoài 2 phối với cặp Thiên can Bính-Đinh thuộc Hỏa, Đoài thuộc Âm nên phối với Đinh cũng thuộc Âm. Tiếp đến Ly 3 phối với cặp Thiên can Mậu-Kỷ thuộc Thổ, quẻ Ly thuộc Âm nên phối với can Kỷ thuộc âm. Tiếp đến Chấn 4 phối với cặp Thiên can Canh-Tân thuộc Kim, quẻ Chấn thuộc Dương nên phối với can Canh thuộc Dương. Càn Khôn đối ứng, trời đất định vị, Giáp dương nạp Càn dương, nên Ất âm nạp vào Khôn âm. Cấn Đoài đối ứng, núi đầm thông khí, Đoài âm nạp can Đinh âm, nên Cấn dương nạp can Bính dương. Khảm Ly đối ứng, Thủy Hỏa tương tề, Ly âm nạp Kỷ âm nên Khảm dương nạp Mậu dương. Chấn Tốn đối ứng, sấm gió cùng nhau, Chấn dương nạp can Canh dương, nên Tốn âm nạp can Tân âm. Còn lại cặp Nhâm Quý thuộc Thủy, nạp vào 2 quái phụ mẫu Càn Khôn, Nhâm dương nạp theo Càn dương, Quý âm nạp theo Khôn âm. Kinh Phòng căn cứ theo thứ tự Ngũ hành Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy phối ứng với số Tiên thiên Ngũ hành 3-2-5-4-1, cặp số 3-2 thuộc Xuân-Hạ mà Dương trước Âm sau, cặp 4-1 thuộc Thu-Đông mà Dương sau Âm trước.



    THUYẾT NẠP ĐỊA CHI




    “Định cát hung chỉ lấy tượng của một hào”.

    Kinh Phòng lần lượt cho 6 hào của 64 quẻ đối ứng với 12 địa chi, với quy luật phân theo Chi âm và Chi dương tương ứng với số chẵn lẻ rồi cho đối ứng với 384 hào. Chi dương đi thuận chiều vì dương chủ tiến, Chi âm đi ngược chiều vì Âm chủ lùi, vì 8 quẻ thì có 4 quẻ thuộc dương, 4 quẻ thuộc âm, mà 12 Chi lại có những 6 chi dương và 6 chi âm. Âm theo Ngọ, Dương theo Tý, Tý-Ngọ phân đường đi, Tý đi phía trái, Ngọ đi phía phải. Tháng 11 tháng 5 là tháng Tý Ngọ lần lượt phối hợp với hào Sơ và hào 4 quẻ Càn. Tháng 12 và tháng 6 là tháng Sửu Mùi lần lượt phối hợp với hào Sơ và hào 4 của quẻ Khôn, vì căn cứ theo “thuyết quái” nói Càn Khôn là quẻ Cha Mẹ. Thể của quẻ Dịch phải đủ 6 vạch mới thành, 6 vạch lại phân chia ngôi âm ngôi dương mới thành quẻ, mới phản ánh cụ thể mối quan hệ sinh khắc giữa Bố Mẹ và Con của 8 cung quái với vị trí 6 hào. Như quẻ Càn thuộc Kim là quẻ Bố Mẹ, hào Sơ thuộc Thủy, Kim sinh Thủy, mẹ sinh con, cho nên là cát, hào 4 thuộc Hỏa, Hỏa khắc Kim, con khắc mẹ là hung. Như vậy có nghĩa là tương sinh là thuận, tương khắc là hung, mẹ sinh con là đại cát, con khắc mẹ là đại hung. Kinh Phòng nói: Quỷ bát quái là hào “học”, tài là hào “chế”, trời đất là hào “nghĩa”, phúc đức là hào “bảo”, đồng khí là hào “chuyển”.



    THUYẾT QUÁI KHÍ



    Kinh Phòng lấy 64 quẻ 384 hào ứng với 1 năm, nói “ hào đầu trên, hào hai giữa, hào ba dưới, số của tháng 3 thành ra tháng 1. Hào đầu 3 ngày, hào hai 3 ngày, hào ba 3 ngày, tất cả là 9 ngày, còn dư ra một ngày gọi là ngày nhuận. Mười ngày của hào đầu là Thượng tuần, mười ngày của hào hai là Trung tuần, mười ngày của hào ba là Hạ tuần, 3 tuần là 30 tích tuần”.

    “ Thành tháng, tích tháng thành năm, 8 lần 8 là 64 quẻ, chia ra 64 quẻ phối với 384 hào thành 32 x 360 = 11520 thẻ. Khí dịch 24 tiết khí phối hợp với Ngũ hành, thì mọi việc từ đạo Trời, đến vận mệnh con người, đến Trăng, Sao, ta đều có thể thấy được mọi chuyện cát hung rõ ràng”.

    Âm sinh dương tiêu, dương sing âm diệt, hai khí giao nhau, thì vạn vật mới sinh ra. Dương nhập vào âm, âm nhập vào dương, hai khí giao hỗ không ngừng, cho nên gọi thế là “sinh”. Dương trong âm, âm trong dương, hai khí âm dương hòa vào nhau mà thành “tượng”. Kinh Phòng căn cứ vào âm dương khí hóa, âm dương thăng giáng và âm dương tiêu trưởng chuyển hóa đưa ra nguyên lý quẻ ẩn - hiện, trong đó quẻ “hiện” là quẻ hướng ngoại, lộ mặt, còn quẻ “ẩn” thì hướng nội, tiềm ẩn. Nói chung, tượng quẻ dương phần nhiều là quẻ “hiện”, tượng quẻ âm phần nhiều là quẻ “ẩn”. Ví như quẻ Càn có tượng thuộc dương, phối Thiên thuộc Kim, nó với quẻ Khôn là một cặp đối ứng “ẩn - hiện”. Quẻ Khôn có tượng thuộc âm, phối hợp với Địa thuộc Thổ, khi phối với quẻ Càn là một cặp đối ứng “ẩn - hiện”. Nguyên lý “ẩn - hiện” trong tượng hào của quẻ vốn “ngụ hàm” với nhau, như hào Sáu đầu của quẻ Khôn nói “ lý sương kiên băng chí” thích là “ rồng đánh nhau ở cánh đồng, máu chúng chảy ra đen vàng”. Rồng tính dương là đặc tính của Càn dương, nói nên mối quan hệ “ẩn - hiện” của hai quẻ Càn – Khôn, cấu thành cặp quẻ đối ứng với nhau. Không những hai quẻ Càn Khôn đối ứng với nhau, mà giữa 64 quẻ cũng cấu thành từng cặp “ẩn - hiện” với nhau. Khi chiêm nghiệm theo “ẩn - hiện”, ta có thể từ hai mặt chính - phản, tăng lượng thông tin về chiêm nghiệm được nhiều hơn, đó là mối quan hệ giữa hai mặt chính - phản của âm – dương. Theo Kinh Phòng, sự biến hóa âm dương là nguyên nhân khiến cho các thiên thể trong vũ trụ vận động, âm dương thăng giáng là quy luật vận động của Vũ trụ, sự chuyển hóa âm dương tiêu trưởng phản ánh mối liên hệ nội bộ âm dương.

    Kinh Phòng nhấn mạnh rất nhiều vào sự chiêm nghiệm, ông cho rằng mục đích của sự nghiên cứu Dịch quái là ở chỗ “định cát hung, rõ được mất”, do đó ông sáng tạo ra quẻ 8 cung, phát huy mối quan hệ ngang dọc, là cốt để “định dự cát hung”. Ông nói “ Nghĩa về cát hung, bắt đầu ở Ngũ hành, kết thúc ở Bát quái. Nghĩa lý về âm dương là sự phân định về Năm, Tháng. Một khi Năm, Tháng đã phân định thì sẽ đoán định được cát hung”. Phần lớn vật chất dương là “hư”, vật chất âm là “thực”, “hư” là bề ngoài của dương, “thực” là bên trong của âm, “hư” là bề gnoài của “thực”, “thực” là phần bên trong của “hư”.

    Thuyết Quái khí là sự đối ứng giữa 64 quẻ và 34 tiết khí, bao gồm Tứ thời và 24 khí, thuyết này bắt nguồn thuyết quái khí của Mạnh Hỷ, bao gồm ba nội dung sau:

    - Thuyết quái khí Tứ chính quái: lấy bốn quẻ Khảm - Chấn – Ly – Đoài làm tượng ứng với 24 tiết khí, mỗi quẻ có 6 hào ứng với 6 tiết khí. Trong đó, quẻ Khảm ứng với 6 tiết khí từ tiết Đồng chí đến tiết Kinh trập. Quẻ Chấn ứng với 6 tiết khí từ tiết Xuân phân đến tiết Mang chủng. Quẻ Ly ứng với 6 tiết khí từ tiết Hạ chí đến tiết Bạch lộ. Quẻ Đoài ứng với 6 tiết khí từ tiết Thu phân đến tiết Đại tuyết. Trong bốn quẻ này, 6 hào của mỗi quẻ, từ hào Đầu đến hào Trên, lại phân ra làm chủ 6 tiết, như hào Đầu quẻ Khảm, làm chủ việc của tiết Đông chí, hào 2 tiêt Tiểu hàn, hào 3 tiết Đại hàn, hào 4 tiết Lập xuân, hào 5 tiết Vũ thủy, hào Trên tiết Kinh trập.

    - Thuyết Thập nhị bích quái (nguyệt quái): là thuyết 12 quẻ ứng với 12 tháng. Mỗi một quẻ ứng với 2 tiết khí, 12 quẻ ứng với 24 tiết khí.
     
  18. hcthinh

    hcthinh New Member

    Tham gia ngày:
    14 Tháng bảy 2010
    Bài viết:
    17
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    viết tiếp đi bạn, mình đang ghiền, đợi lâu quá
     
  19. timlaicuocdoi

    timlaicuocdoi New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng bảy 2010
    Bài viết:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    Bác dcba ơi , bác vui lòng chỉ giúp tôi pp dự đoán này đi .
    Thanks Bác nhiều lắm
     
  20. vo_danh_00

    vo_danh_00 New Member

    Tham gia ngày:
    21 Tháng ba 2008
    Bài viết:
    77
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: KINH DỊCH ỨNG DỤNG TRONG DỰ ĐOÁN

    chào bác dcba !
    bài viết của bác thật tuyệt vời! =D>
    nó đem lại cho tôi nhiều hơn ý niệm về cơ sở ý thức của tri thức cổ xưa, bên cạnh đó cũng cần ghi nhận răng kiến thức của bác thật phong phú và rất có chiều sâu nhất là kiến thức về dịch lý. :-bd
    tôi có nghiên cứu về dich nhưng về phần hào từ quả thật là một vấn đề nan giải,. mặc dù có nhiều sách có giải thích kèm theo cả quẻ dẫn chứng nhưng dường như là rất khó nắm bắt. Tôi thường hình dung toàn đồ của dịch là 1 bức tranh xã hội bao gồm nhiều vấn đề có liên quan tới nhau và mọi vấn đề đều phất triển như quy luật sinh lão bệnh tử của con người vậy.Và như vậy mọi lời hào có vẻ dễ nắm bắt hơn, tuy vậy trong dự đoán tôi gặp nhiều khó khăn do không thể quyết đoán vấn đề, vậy không biết bác có thể chỉ giáo giúp tôi không!
    trong bài viết của bác, đoạn nói về các giác quan của con người rất ấn tượng với tôi, tuy vậy xin bác lám rõ thêm một số điểm :cool::
    thứ nhất: trong 5 giác quan được khoa học công nhận thì chung ta đẽ dàng nhận thấy:
    80% thông tin ghi nhận do thị giác, hơn 10% thông tin ghi nhận do thính giác, còn lại là các giác quan khác. Dịch có ghi nhận gì vếuwj chênh lệch này không? ~_coffee
    về các giác quan chưa được khoa hoc công nhận thì ở 1 số người đó là khả năng thiên phú, 1 số người khác do luyện tập mà có (luyện các công phu và "luyện ý thức"), 1 số người thì sau các tai nạn thảm khốc mà thường thì họ mất 1 vài giác quan thực và được bù đắp bởi 1 giác quan mới mà chung ta thường coi là khả năng tâm linh. Tôi thường nghĩ các giác quan này vốn có sẵn trong mỗi chung ta nhưng chung ta không ý thức được sự tồn tại của chúng và không sử dụng, nhưng mà thực tế là chung ta chỉ có nhu cầu sử dung các giác quan khi ta cần chúng mà thôi. Vậy dịch có chỉ ra được các giác quan này dùng cho nhu cầu nào của con người ? ~_coffee
    vấn đề cuối: dịch nói gì về con người và ý thức của con người ! ~_coffee
    PS/ Chắc bác cung đã lớn tuổi, nhung xin phép xưng hô với bác là "bác" cho nó thân mật. :eek: Mong bác chỉ giáo! bác có tài liệu nào giúp tôi về các hào từ xin gủi cho tôi vào địa chỉ vodanh,mai@gmail.com
    vô cùng cảm ơn và mong trả lời của bác ! ~_rose
     

Chia sẻ trang này