Sám hối - Hết Bệnh nhiệm mầu

Thảo luận trong 'BỐ THÍ VẠN SỰ LÀ PHƯƠNG PHÁP CẢI MỆNH TUYỆT ĐỈNH' bắt đầu bởi tutru, 23 Tháng ba 2016.

  1. tutru

    tutru Ban Quản Trị

    Tham gia ngày:
    14 Tháng mười một 2009
    Bài viết:
    513
    Điểm thành tích:
    18
    Giới tính:
    Nam
    Mời các bạn xem Pháp Sư Tịnh Không giảng sám hối nghiệp trướng thật tuyệt

    http://www.tinhkhongphapngu.net/Phap-Ngu-khac-cua-HT-Tinh-Khong/Sam-Hoi-Nghiep-Chuong-182/

    Xin Copi lại nguyên văn như sau:

    Sám Hối Nghiệp Chướng
    Thứ sáu - 14/06/2013 16:31

    Các vị pháp sư, các vị đồng tu, xin mời ngồi!
    Mời xem Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, kinh văn tờ thứ năm, xem ở hàng sau cùng: “Thí giới nhẫn tấn cập thiền định, trí tuệ phương tiện thần thông đẳng”.

    “Thần thông đẳng” là mười Ba La Mật, ba loại sau cùng: “nguyện-lực-trí”. Phía trước chúng ta học mười nguyện Phổ Hiền, đem lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường sơ lược nói qua, tiếp theo là nguyện thứ tư: “sám trừ nghiệp chướng”.

    Trong mười nguyện, mỗi một nguyện đều đầy đủ chín nguyện khác. Đây là trên kinh Hoa Nghiêm đã nói “nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất”, bất cứ một pháp nào đều viên mãn hàm nhiếp tất cả pháp, vì sao vậy? Đến đoạn sau cùng chúng ta liền xem thấy “tự tánh pháp nhĩ như thị”, đích thực là pháp pháp viên dung, không có chướng ngại. Vậy thì ở trong tu hành mà nói, sám hối có thể nói là một điều quan trọng nhất trong mười nguyện. Phía trước là trợ duyên, là thiện căn, là phước đức, đến chỗ này chân thật là thành tựu, nghiệp chướng trừ hết chẳng phải thành tựu rồi hay sao? Mười phương chư Phật Như Lai khác biệt với chúng ta ở chỗ nào? Có thể nói là chư Phật là đem nghiệp chướng trừ sạch hết, giống như trên tựa đề của thiên văn chương này gọi là “Vọng Tận”. Vọng tận là ý nghĩa thế nào? Nghiệp chướng thảy đều sám trừ, không có nghiệp chướng, vậy thì hoàn nguyên. Hoàn nguyên chính là quay về lại tự tánh, viên thành Phật đạo, đây không phải Bồ Đề, là cứu cánh Phật quả viên mãn.

    Trong xã hội hiện tại này, người khỏe mạnh không nhiều, người không khỏe mạnh đến đâu đều có, người không khỏe mạnh là nói gì vậy? Chính là có nghiệp chướng, hay nói cách khác, chính là có bệnh, không phải là thân bệnh, chính là tâm bệnh. Trên thực tế nói, bởi vì bạn có tâm bệnh, cho nên mới có thân bệnh, nếu tâm không có bệnh thì thân thể làm sao có bệnh? Không hề có đạo lý này.

    Ở đây chúng ta có được một cái đĩa do tiên sinh Lưu Hữu Sanh giảng, người ta gọi là Lưu Thiện Nhân, nói về bệnh. Ông trị bệnh cho người, nghi nan tạp chứng, bệnh viện Trung Tây y không còn cách gì trị liệu, tìm đến ông, ông dùng phương pháp gì để trị? Tìm ra cái nguyên nhân mà bạn bị bệnh rồi nói ra, để bạn chính mình sanh tâm hổ thẹn, chân thật sám hối. Khi vừa sám hối thì thân thể lập tức liền có phản ứng, bạn liền sẽ ói ra, ói ra những thứ dơ bẩn, đó chính là bệnh của thân thể. Ói ra hết sạch thì thân thể liền khỏe. Chính ông khi còn trẻ, khi hai mươi mấy tuổi, khắp thân đều là bệnh, gặp được một lão nhân cho ông một quyển sách do lão tiên sinh Vương Phụng Nghi viết, thực tế mà nói đây là nói bệnh. Sớm nhất là tiên sinh Vương Phụng Nghi, ở khu vực Đông Bắc Trung Quốc, cũng là khi trẻ tuổi đã bị bệnh khổ, được cao nhân chỉ điểm, thật tâm sám hối, nhận được hiệu quả rất tốt, về sau liền dùng phương pháp này để giúp người khác, người ta gọi là Thiện Nhân. Học trò của ông đời đời nối nhau, Lưu Thiện Nhân cũng là học trò truyền tiếp của Vương Phụng Nghi, hiện tại rất nổi tiếng ở trong nước. Đĩa CD của ông không có bản quyền, hoan nghênh in chép lưu thông. Tôi xem rồi, chỉ có một đĩa. Còn có một số đồng tu sau khi xem rồi thì đem nó viết thành văn tự, rất tốt, bởi vì khẩu ngữ phương bắc có một số người vẫn là không thể hoàn toàn nghe được hết, nên dùng văn tự để viết ra. Tôi có xem qua, tôi đem nó làm thành một tập, tổng cộng có hai mươi trang. Thế nhưng hiện tại đích thực có rất nhiều đồng tu làm việc rất bận rộn, hai mươi trang đối với họ mà nói là quá dài, họ không có thời gian để xem, cho nên lần thứ hai làm lại, tập sách lần này là tám trang, vậy thì dễ dàng hơn nhiều, hy vọng từ chỗ này để vào cửa, tiếp dẫn. Xem thấy hứng thú rồi, bạn lại xem tập sách làm lần thứ nhất hai mươi trang. Nếu như ưa thích hơn thì bạn xem nguyên văn của ông, nghe đĩa của ông giảng, đại khái khoảng hai giờ đồng hồ, chỉ một buổi học.

    Có đồng tu nói với tôi, xem qua văn tự của ông, hoặc giả xem qua đĩa, chân thật bị cảm động, cảm đến chính mình cả thân bệnh khổ, nghe qua lão tiên sinh nói chuyện rất có đạo lý, chính mình vừa phản tỉnh, đau đớn rơi lệ. Phản tỉnh cái gì? Chân thật là chính mình sai, về trước đều là cho rằng người khác sai, ta không sai, cho nên bị cả thân bệnh. Hiện tại vừa nỗ lực phản tỉnh, mới biết được là chính mình sai, người khác không sai, có cái dũng khí này thừa nhận, thừa nhận lỗi lầm, sám hối với cha mẹ, hoặc giả sám hối với anh em, làm những việc có lỗi với anh em, làm những việc có lỗi với bạn bè, phục vụ ở trong đơn vị, có lỗi với cấp trên, có lỗi với đồng sự, luôn là tự tư tự lợi, khởi tâm động niệm tổn người lợi mình, nặng thì chính mình bị bệnh, có lúc thì ảnh hưởng người nhà của bạn bị bệnh, ảnh hưởng trẻ nhỏ của bạn bị bệnh. Trẻ nhỏ từ 12 tuổi trở xuống, nếu chúng bị bệnh phần nhiều là nghiệp chướng của cha mẹ, như vậy vừa sám hối, chân thật là thống thiết. Thống thiết thì ngũ tạng lục phủ nó liền khởi tác dụng, liền khởi phản ứng, những thứ dơ bẩn nghiệp chướng bên trong liền ói ra ngoài, ói tới mật xanh.

    Trong báo cáo của tiên sinh Lưu Hữu Sinh, lúc ông hai mươi mấy tuổi xem thấy quyển sách này của Vương Phụng Nghi, cảm thấy hổ thẹn, ông đã ói rất nhiều ngày, ói đến mật xanh, chân thật là đem cái bệnh thảy đều ói hết sạch, từ đó về sau những thứ bệnh này không cần trị cũng hết, chính mình khỏe ra. Cái đĩa đó thật ra là không quá lâu, thu âm rất gần, tôi nghe ông ấy nói năm nay ông 67 tuổi, hơn 40 năm qua không hề bị bệnh bao giờ, không hề chích thuốc, không hề uống thuốc, thân thể khỏe mạnh, người ở nơi đâu đến tìm ông, ông liền đi đến nơi đó. Ông vào lúc đó, khi hai mươi mấy tuổi, vào lúc đó sắp chết rồi, không thể sống nổi, nhưng ông sống lại được. Sống lại được ông liền phát ra một cái nguyện, nếu tôi không chết, có thể sống lại được thì cả đời này tôi sẽ không vì chính mình, tôi vì người khác, tôi phải đem phương pháp tốt này phổ biến truyền thụ cho mọi người, chỉ có một mục đích, hy vọng mỗi một gia đình an vui tự tại, lìa xa bệnh khổ, cho nên ông nói bệnh cho người, trị bệnh cho người không cần tiền, không nhận tiền. Vậy chúng ta nghĩ lại xem, tuy ông không phải là tín đồ Phật giáo, có phải ông đang hành Bồ Tát đạo hay không? Đúng vậy, không sai chút nào, đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn.

    Cho nên nhà Phật nói đến tu hành, hành là cái gì? Hành là hành vi, tu là sửa đổi, vậy thì chúng ta liền hiểu rõ, hành vi của chúng ta đã phạm lỗi lầm, đã phạm sai lầm, đem những sai lầm này tu sửa lại, đây gọi là tu hành. Đọc kinh có phải là tu hành không? Ngồi tĩnh tọa có phải tu hành không? Niệm Phật có phải tu hành không? Không nhất định, người xưa có một câu nói: “miệng Di Đà tâm tán loạn, đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công”. Vậy niệm Phật có phải là tu hành không? Một ngày mười vạn danh hiệu Phật, trong tâm là tán loạn, khởi tâm động niệm vẫn là chú ý đến người khác, vẫn làm muốn chiếm tiện nghi của người khác, đó gọi là tu hành sao? Chân thật phản tỉnh, chân thật cải đổi, chân thật tự làm mới, một câu Phật hiệu cũng không niệm, tôi cảm thấy người đó thật là tu hành. Cho nên Tịnh Độ tông niệm Phật vãng sanh, không phải là Phật hiệu niệm được nhiều ít, mà ở cái gì? Ở tâm thanh tịnh. Trên kinh nói được rất rõ ràng: “tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”, vậy liền biết được, chúng ta niệm câu Phật hiệu này, mục đích là gì? Mục đích là niệm ra được tâm thanh tịnh, bởi vì bạn không niệm Phật, bạn liền nghĩ tưởng xằng bậy. Nghĩ tưởng xằng bậy đó không phải là tâm thanh tịnh, tạp tâm vọng niệm, hiện tại người ta gọi là tâm khí bao chao, cho nên một câu “A Di Đà Phật” này là pháp phương tiện tốt nhất. Bạn niệm đến A Di Đà Phật, nghĩ đến A Di Đà Phật, trên kinh, Bồ Tát Đại Thế Chí đã nói “nhớ Phật niệm Phật hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”. Thế nhưng đang niệm Phật, bạn không thể không tận hiếu đạo, vì sao vậy?

    Năm xưa khi Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, đem pháp môn này truyền cho phu nhân Vi Đề Hy. Đây là sự việc của gia đình Vua Tần Bà Sa La, gặp phải con trai đoạt lấy ngôi vị, hại phụ thân của ông, cũng đem mẹ đi cầm tù, gặp tai nạn to lớn như vậy. Câu chuyện này ở trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, duyên khởi của Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh là từ đây mà ra. Phu nhân Vi Đề Hy giác ngộ, thế gian này quá khổ, nên hướng đến Thích Ca Mâu Ni Phật cầu trợ giúp, hy vọng Phật Đà có thể giới thiệu cho bà là trong cõi nước chư Phật có Tịnh Độ hay không? Có nơi nào không có những tai nạn này hay không? Bà muốn cầu vãng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật rất từ bi, dùng thần lực của Phật, đem mười phương cõi nước chư Phật hiện ra ở ngay trước mặt bà, như hiện tại chúng ta xem truyền hình vậy, bà thảy đều xem thấy hết. Bà rất hoan hỉ, bà chọn lấy cõi Tịnh Độ của A Di Đà Phật, bà nói chỗ này tốt, bà mong muốn vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, mong muốn Thế Tôn khai đạo cho bà là đi bằng cách nào? Bà thật đã chọn đúng. Bạn xem, Thích Ca Mâu Ni Phật không hề chủ động giới thiệu bà đến thế giới Cực Lạc, mà là đem cõi nước chư Phật triển hiện ra ở ngay trước mặt bà, để cho bà chính mình chọn, vậy thì quá tốt.

    Thế Tôn dạy cho bà cách tu như thế nào? Trước tiên dạy bà tu “Tịnh Nghiệp Tam Phước”, đây là nền tảng. Vậy ngày nay chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh, người niệm Phật rất nhiều, người vãng sanh rất ít, vấn đề này do đâu? Quên mất đi Tịnh Nghiệp Tam Phước. Đây là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất. Phật dạy bà cầu vãng sanh, trước tiên làm công tác chuẩn bị, bạn phải đem điều kiện đến thế giới Tây Phương Cực Lạc chuẩn bị cho đầy đủ, thảy đều chuẩn bị tốt, bạn mới có thể đi được. Cho nên ngày ngày niệm một câu A Di Đà Phật, nhưng phải có cái nền tảng của Tịnh Nghiệp Tam Phước, không có cái nền tảng này thì không được.

    Tam Phước, điều thứ nhất là “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu mười thiện nghiệp”. Chúng ta có làm đến được hay không? Chúng ta tưởng tượng xem, chúng ta có tội nghiệp này hay không? Có thể xứng với cha mẹ hay không? Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, hai câu này chính ngay trên Đệ Tử Quy, thực tiễn Đệ Tử Quy 100% thì làm được hai câu này. “Từ tâm bất sát” là làm được Thái Thượng Cảm Ứng Thiên. “Tu Thập Thiện Nghiệp”, mười nghiệp thiện của Phật Đà bạn làm được rồi. Bạn không có được ba cái gốc Nho-Thích-Đạo này, bạn niệm Phật không thể tương ưng với A Di Đà Phật, ngay trong đây có chướng ngại. Không học, không nghe nói đang học, thế nhưng họ niệm Phật thật vãng sanh.

    Năm mươi năm trước, bên đây chúng ta có lão thái thái của Tưởng Quân Hương đứng mà vãng sanh, bà có học qua Đệ Tử Quy hay không? Không học qua. Bà có học qua Cảm Ứng Thiên hay không? Không học qua. Thế nhưng bạn hỏi bà, con người này có hiếu thuận cha mẹ không? Có tôn kính sư trưởng không? Khẳng định là có. Có từ tâm bất sát không? Đầy đủ mười nghiệp thiện hay không? Bạn đi hỏi xem, khẳng định đều đầy đủ, cho nên bà có điều kiện.

    Người ta một câu A Di Đà Phật niệm ba năm thì hữu dụng rồi, thật thành công, chúng ta niệm qua ba năm, niệm 30 năm cũng không có tin tức, nguyên nhân gì vậy? Nghĩ lại xem, chúng ta có thể xứng đáng với cha mẹ không? Chúng ta có thể xứng đáng với sư trưởng không? Phục vụ ở trong xã hội, chúng ta có thể xứng đáng với lãnh đạo hay không? Có thể xứng đáng với đại chúng trong xã hội không? Cố gắng mà phản tỉnh. Cho nên khởi tâm động niệm đều đang tạo nghiệp, như trên Kinh Địa Tạng đã nói, chúng sanh Diêm Phù Đề làm việc gì đều là nghiệp, đều là tạo tội. Lời nói này có phải là quá đáng một chút hay không? Vậy chúng ta chính mình nghĩ xem, khởi tâm động niệm của chúng ta có phải là tự tư tự lợi hay không? Khởi tâm động niệm của chúng ta có phải là danh vọng lợi dưỡng hay không? Có phải là tham-sân-si-mạn hay không? Có phải là tổn người lợi mình hay không? Nếu như đều là những ý niệm này, vậy thì lời nói trên Kinh Địa Tạng là hoàn toàn đúng, bạn khởi tâm động niệm thảy đều đang tạo nghiệp, cho nên tụng kinh, nghe pháp, niệm Phật chỉ là kết một thiện duyên với Phật Bồ Tát, ngay một đời này có kết quả hay không? Không có hiệu quả. Sự việc này chúng ta không thể không biết.

    Nếu như bạn vẫn không thể cảnh giác được, thì bạn thường hay nghĩ tưởng hiện tại ngay trong cuộc sống thường ngày, bạn gặp phải một số khó khăn, nghĩ lại chúng ta ở trong hoàn cảnh hiện tại này, gặp phải rất nhiều thiên tai nhân họa to lớn. Nhân họa to lớn nhất chính là chiến tranh, nhân họa nhỏ thì quá nhiều. Người khác đến muốn uy hiếp bạn, đến hủy báng bạn, đến hãm hại bạn, đây là nhân họa. Trong đại thừa giáo nói “cộng nghiệp, biệt nghiệp”, có người nào không gặp phải? Tại vì sao làm việc khó khăn đến như vậy? Người xưa nói rất hay, cái thế gian này ở người thông thường mà nói, ở tỉ lệ mà nói là tám đến chín phần mười bạn đều sẽ gặp chướng ngại, có rất nhiều chướng ngại không nghĩ đến. Chướng ngại từ do đâu? Nghiệp chướng, nên có câu “việc không vừa lòng thường đến tám, chín phần mười”. Người có tâm cảnh giác cao, họ ở ngay trong hoàn cảnh này sẽ giác ngộ.

    Giác ngộ thì tốt, vừa giác ngộ thì khẳng định liền sám hối, quay đầu lại thay đổi tự làm mới, từ nay về sau làm người mới. Trong cách làm người có một bí quyết, đó chính là lão tổ tông Trung Quốc chúng ta dạy cho chúng ta “hành hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ”. Câu nói này quan trọng. Không luận gặp bất cứ khó khăn nào, thiên tai nhân họa vượt ngoài dự tính, ý nghĩ không tới, chúng ta đã gặp rồi, lập tức phải nhớ đến lời của tổ tông. Bạn gặp cái tai nạn này là quả, có quả ắt có nhân, quả báo hiện tại không thể không nhận. Trong đại thừa giáo nói: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Chúng sanh mê hoặc điên đảo, tạo ra cái ác, tạo nghiệp bất thiện, quả báo hiện tiền thì họ lo sợ. Bồ Tát thông minh, quả báo đến rồi biết được vậy không còn cách nào, chính mình nhất định phải gánh vác, phải tiếp nhận. Chuyển biến quả báo ở chỗ nào vậy? Ở trên nhân mà chuyển, ta phải cố gắng phản tỉnh, cố gắng kiểm điểm, ta đã làm những nghiệp bất thiện gì, nhất định phải tìm cho ra ác nghiệp bất thiện này của chính mình. Làm thế nào tiêu trừ? Sám hối thì tiêu trừ, chân thật sám hối, từ trong nội tâm mà sám hối, phát lồ sám hối. Khi chân thật sám hối, không phải là che giấu người khác, đối diện với người trong nhà, đối diện với đại chúng, chính mình có thể đem những việc sai lầm của chính mình nói ra, đây gọi là phát lồ sám hối. Người khác nghe rồi trách cứ bạn, phê bình bạn, tội của bạn liền tiêu hết. Chân thật thay đổi tự làm mới thì không ai mà không tán thán bạn, không ai không bội phục bạn, không ai không giúp đỡ bạn.

    Vậy chúng ta gặp phải thuận cảnh thì làm sao xử lý? Quyết định không có chút tâm ngạo mạn, luôn phải biết chúng ta làm được quá ít, làm được chưa đủ, người khác tán thán ta tốt, ta không đủ tốt, ta còn kém quá xa, không thể so được với Phật, không thể so được với Bồ Tát, cùng với những tổ sư đại đức này chúng ta đều không thể sánh kịp, có gì đáng để kiêu ngạo chứ? Người khác càng tán thán chúng ta càng lo sợ, càng phải nỗ lực, càng phải cẩn trọng, ngày ngày phản tỉnh, tìm tâm bệnh của chính mình. Tìm bằng cách nào? Không khó, mỗi ngày bạn cầm Đệ Tử Quy, cầm lấy Cảm Ứng Thiên, cầm lấy năm khóa mục tu hành của Tịnh Tông chúng ta. Tam Phước, vừa rồi chúng ta mới giảng một điều là “hiếu dưỡng phu mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Trong điều thứ nhất này, bao gồm ba cái gốc Nho-Thích-Đạo, bạn ngày ngày đọc, ngày ngày phản tỉnh. Ba cái gốc này văn tự không nhiều, phải đem nó đóng vào một chỗ, không đến mười tờ, một quyển sách rất mỏng, dùng cái này để làm tiêu chuẩn. Đây đều là do cổ thánh tiên hiền, chư Phật Bồ Tát dạy bảo chúng ta, đây gọi là kinh điển. Sao gọi là kinh điển? Vì nó siêu vượt không gian, siêu vượt thời gian. Ba ngàn năm trước, thông thường người học tập là chuẩn xác, ngày nay ba ngàn năm sau, chúng ta đến học tập vẫn là chính xác, người Trung Quốc học tập là chính xác, người nước ngoài học tập vẫn là chính xác, chân lý vĩnh hằng bất biến.

    Điều thứ hai trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là “thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”. Bạn nghĩ xem, chúng ta học Phật, chúng ta có thể xứng đáng được với Phật không? Có thể xứng với Bồ Tát hay không? Có thể xứng được với tổ sư đại đức của chúng ta hay không? Ba điều này làm được chưa? Tam quy là cái gì? Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Quy là hồi quy, y là nương tựa, ta có hồi đầu hay không? Ta có chân thật nương vào Tam Bảo hay không? Phật-Pháp-Tăng là ý nghĩa gì? Luôn phải rõ ràng, Phật là giác ngộ, Pháp là chánh tri chánh kiến, Tãng là thanh tịnh không nhiễm.

    Quy y Phật chính là từ mê hoặc điên đảo quay đầu lại, phải nương tự tánh giác. Tam Bảo là tánh đức, ta phải ngày ngày chân thật làm như vậy, đó là chân thật quy y. Giác mà không mê đó là quy y, nương vào tự tánh giác, không làm như vậy vẫn là mê hoặc điên đảo, vậy thì chúng ta có lỗi với Phật, vì sao vậy? Chúng ta quy y là giả, có danh mà không thật, đó chính là tạo tội nghiệp.

    Pháp chính là chánh tri chánh kiến. Hiện tại chúng ta chính là tà tri tà kiến, trong lòng tràn đầy tự tư tự lợi, danh vọng lợi dưỡng, tham-sân-si-mạn, đây làm gì là chánh tri chánh kiến? Từ tà tri tà kiến quay đầu lại nương chánh tri chánh kiến, đây gọi là quy y pháp. Chúng ta đang học kinh giáo, những đạo lý, hiện tượng, nhân quả trong kinh giáo đã nói chúng ta thảy đều tường tận, đem những tri kiến sai lầm từ trước buông bỏ, chúng ta y theo giáo lý Phật đã nói trên kinh nỗ lực học tập, đây gọi là quy y pháp. Phật dạy chúng ta hiếu dưỡng cha mẹ, bạn làm được chưa? Phật dạy chúng ta phụng sự sư trưởng đã làm được chưa? Phật dạy chúng ta từ tâm bất sát, khởi tâm động niệm là đại từ đại bi. “Sát” cái ý này dẫn ra, phàm hễ làm những việc tổn hại chúng sanh thì không được làm. Thật không dễ dàng! Chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm có tổn hại người khác hay không? Nếu là làm cho người khác cảm thấy khó chịu, thì chúng ta làm sai rồi. Bồ Tát ở nơi nào thì khiến cho tất cả chúng sanh sanh tâm hoan hỉ, họ là Bồ Tát. Chúng sanh xem thấy bạn thì chán ghét, vậy ta xem thấy họ, thì ta vội vàng tránh đi, không nên để cho họ phiền não, đây đều là Bồ Tát hạnh.

    Tăng, cho dù chính họ tu hành như thế nào, việc này không liên quan gì với chúng ta. Ta xem thấy hình dáng này của họ, thấy cái hình tướng này lập tức liền phải nghĩ đến “sáu căn thanh tịnh, một trần không nhiễm”. Hình tướng của tăng công đức rất lớn, mỗi giờ mỗi phút họ đang nhắc nhở ta, ta tôn trọng họ, chính họ trì giới hay không trì giới, tu hành hay không tu hành, đó là việc của họ, không liên quan gì với ta. Ta xem thấy cái tướng đó của họ, thì ta liền nghĩ đến ta phải quy y tăng. Quy y Tăng là ta từ tất cả ô nhiễm quay lại, quay đầu lại ta phải nương tâm thanh tịnh, đây gọi là quy y Tăng.

    Đây là tam quy y. Nếu như chúng ta làm được tam quy y, chúng ta xứng đáng với Phật, là học trò tốt của Phật. Tam quy y không làm, chúng ta lừa gạt Phật Bồ Tát, vì sao vậy? Mạo nhận! Mạo nhận là để tử quy y của Phật, tam quy hoàn toàn không làm được, cái làm ra là hoàn toàn tương phản, mỗi ngày làm ra vẫn là mê tà nhiễm, làm gì là giác-chánh-tịnh. Nghĩ đến chỗ này, bạn không đau đớn mà rơi nước mắt hay sao?

    “Cụ túc chúng giới”, năm giới có làm được hay không? Không cần nói nhiều, mười thiện có làm được không? Đây là mức độ thấp nhất, bạn cần phải làm cho được. “Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu”, gọi là năm giới. Trong mười giới cũng bao gồm mấy điều này, nhưng nói nhiều hơn một chút, rõ ràng hơn một chút. Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm thì giống với năm giới. Không vọng ngữ thì nó khai mở: không vọng ngữ, không nói lưỡi hai chiều (lưỡi hai chiều là khiêu khích thị phi), không thêu dệt (thêu dệt là lời nói ngon ngọt), không ác khẩu (ác khẩu là lời nói thô lỗ, người ta nghe qua rất khó chịu). Lại thêm vào không tham, không sân, không si. Vừa vào cửa Phật lão sư liền nói với chúng ta, chúng ta có phải đã thật làm được?

    Hiện tại tai nạn nhiều đến như vậy, ở trong nhà Phật nói, ở trong tôn giáo nói, họ nhận biết không giống như người thông thường. Nhà Phật cùng trong tôn giáo nói, tai nạn là thuộc về nghiệp báo, tự làm tự chịu, nó là quả báo. Quả báo ắt có nhân. Nhân là cái gì? Chúng ta chính mình làm không được tốt mới gặp phải tai nạn này. Tại vì sao chân thật vừa sám hối, sau mấy lần thống thiết rơi lệ bệnh trên thân đều không còn, hết bệnh? Rất nhiều ung thư, trong báo cáo của Lưu Thiện Nhân đã nói rất nhiều, nêu lên rất nhiều thí dụ. Bệnh ung thư rất nghiêm trọng, bác sĩ đều nói họ đại khái nhiều nhất chỉ có thể sống một đến hai tháng, gặp được ông, ông nói cho họ nghe, họ chân thật vừa nghĩ, nghĩ đến cái gì? Xin lỗi với gia đình, xin lỗi với cha mẹ, xin lỗi với vợ, xin lỗi với con cái, vừa hối cải vừa đau lòng, mấy lần ói mửa thì bệnh liền khỏi hẳn, lại đi đến bệnh viện kiểm tra thì không còn. Bác sĩ hỏi họ, ông uống thuốc gì vậy? Ai trị bệnh cho ông vậy? Cách trị của Lưu Thiện Nhân thật cao minh.

    Trước đây tôi có gặp được một thầy thuốc, ông là thầy thuốc gia truyền, cũng là nghi nan tạp chứng như những thứ ung thư vậy, ông trị được rất nhiều người. Phương thuốc của ông là tổ truyền, chính mình lên núi hái thuốc, sau khi hái về rồi đem nó ngâm, phải là ngâm ở trong rượu, thuốc rượu, khi trị bệnh thì đem thuốc này đắp ở trên thân. Thuốc này rất lợi hại, đem độc ở bên trong hút ra bên ngoài da. Dùng phương pháp cạo để cạo ra, khi cạo ra chất dính nhầy nhầy, đem bệnh từ bên trong cạo ra hết. Lưu đại phu thì bảo bạn chính mình ói ra, ông chính là đem nó hút ra bên ngoài, sau khi vừa cạo ra thì bạn rất nhẹ nhàng, những bệnh độc bên trong thảy đều được hút ra bên ngoài. Đích thân tôi xem thấy ông làm qua việc này, đây cũng là rất cao minh, đạo lý là như nhau. Một cái là dùng thuốc hút nó ra rồi cạo đi, một cái là bạn từ miệng của mình ói ra, là một đạo lý. Thế nhưng ói ra, tôi cảm thấy còn cao minh hơn so với cạo ra, cho nên bạn phải thật tâm nhận sai. Bạn không nhận sai thì bạn không thể quay đầu, bạn phải có dũng khí, đó gọi là đại dũng. Đại dũng là gì vậy? Đại dũng là chịu đối mặt với mọi người thừa nhận lỗi lầm của chính mình, phát lồ sám hối, thay đổi tự làm mới. Người nào mà không có lỗi lầm? Nếu không có lỗi lầm thì bạn thành thánh nhân rồi, bạn không phải là phàm phu, nên có câu “nhân phi thánh hiền, thục năng vô quá”, đây chính là bạn không phải thánh hiền thì làm gì mà không có lỗi lầm! Chỉ là bạn chính mình không nỗ lực kiểm thảo, không chịu sám hối, không thừa nhận, nơi nơi vẫn tự cho là đúng, bệnh của bạn làm sao mà hết được?

    Nghiệp chướng, cái gì gọi là nghiệp? Khởi tâm động niệm chính là nghiệp, phân biệt chấp trước chính là chướng, chúng ta có hay không? Phàm phu sáu cõi mỗi mỗi đều có, có ai mà không tạo nghiệp? Niệm niệm nghĩ cho người khác là thiện nghiệp, có tốt không? Tốt, có thể thoát sanh tử vượt tam giới không? Không thể! Vì sao vậy? Bởi vì bạn vẫn còn chấp trước, đây là trên kinh Phật nói được rất rõ ràng, chỉ cần có chấp trước thì không thể ra khỏi sáu cõi, thế nhưng bạn mỗi niệm đều là thiện nghiệp, bạn ở trong sáu cõi được quả báo ở ba đường thiện. Ba đường thiện là cõi người, cõi trời, cõi A Tu La. Tuy là sanh ở ba đường thiện, nhưng ba đường thiện cũng rất dễ dàng bị mê hoặc, sau khi mê hoặc thì tạo nghiệp, họ lại tạo ác nghiệp, sau khi bạn hưởng hết phước báo ác nghiệp hiện tiền, chẳng phải lại phải trở lại ba đường ác hay sao? Lúc nào thì bạn có thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi? Thật muốn thoát khỏi sáu cõi luân hồi phải nương vào Phật pháp, Phật pháp chân thật có thể giúp bạn thoát sanh tử, ra khỏi tam giới, chân thật có thể giúp bạn trở về lại tự tánh, đó là viên mãn thành Phật rồi. Trước tiên bạn phải nhận biết. Nhận biết ở trong Phật pháp gọi là giải ngộ, đem nghiệp chướng sám hối hết rồi đó gọi là chứng ngộ. Do đây có thể biết, tám vạn bốn ngàn hành môn chính là phương pháp tu hành. Môn là lối đi, pháp là phương pháp, gọi là pháp môn, cũng chính là phương pháp sám hối. Tu hành chính là sám hối, chính là buông bỏ, đem những tập tánh của chính mình toàn bộ đều buông bỏ, nghiệp chướng liền sám trừ, mới có thể giúp chính mình nâng lên cao.

    Nghiệp chướng không chỉ là một đời, cho nên tôi cũng từng nhắc đến, bởi vì tôi từ nước ngoài có được rất nhiều tin tức trị liệu từ bác sĩ tâm lý, đã dùng thôi miên mức độ sâu. Tôi khích lệ một số đồng tu học Phật tín tâm không đủ, vẫn có hoài nghi, có thể đi tìm những bác sĩ tâm lý nước ngoài, tiếp nhận thôi miên của họ, để ngay khi bị thôi miên bạn nói ra trong đời quá khứ đã tạo ra nghiệp chướng. Nếu như bạn có nhiều tin tức đến như vậy, biết được đời quá khứ, quá khứ một đời, quá khứ hai đời, quá khứ ba đời, phải có đến năm, sáu đời, đời đời kiếp kiếp đã tạo ra nghiệp gì, nếu bạn đều biết được thì có thể giúp bạn sám hối, có thể giúp đỡ bạn đem bệnh độc trong lục phủ ngũ tạng toàn bộ ói ra hết. Cho nên, nói đến tu hành thì không thể rời khỏi sám hối. Trong Phật pháp không luận là tụng kinh, sám hối, lễ Phật, thậm chí niệm Phật, niệm xong đều có hồi hướng. Hồi hướng chính là thuộc về sám hối. Không thể không nỗ lực. Ngày nay chúng ta cụ thể nhất là dùng Cảm Ứng Thiên, tuy là Đạo giáo, trong nhà Phật tổ sư đại đức dùng nó để giúp sám hối rất nhiều, đặc biệt là hai đời Minh Thanh, ở người đi học thịnh hành là “Công Quá Cách”. Nhà Phật cũng không ngoại lệ, bạn xem thử, tiên sinh Liễu Phàm gặp được Vân Cốc Thiền Sư, Vân Cốc Thiền Sư tặng cho ông một quyển Công Quá Cách. Công Quá Cách không phải là kinh Phật, chính là Cảm Ứng Thiên, điều mục trong đó chính là Cảm Ứng Thiên, dùng nó để giúp bạn sám hối nghiệp chướng rất có hiệu quả. Đây không phải từ Ấn Đồ truyền đến, là Trung Quốc bản địa, chúng ta lật ra xem thì đặc biệt thân thiết, từng điều từng điều, quay đầu lại hỏi chính mình có phạm hay không? Đây gọi là thật tu hành.

    Cho nên hiện tiền chúng ta nhất định phải ghi nhớ, hiện tiền đặc biệt là gì? Thân thể không tốt, tâm bệnh quá nhiều, thanh niên trẻ tuổi cả thân bệnh hoạn, chỉ có chân thật sám hối thì bệnh khổ của bạn mới có thể hóa giải; triệt để sám hối thì sanh tử của bạn có thể thoát khỏi. Tu hành trong Phật pháp, có thể nói từ sơ phát tâm đến Như Lai địa là tu cái gì? Sám hối mà thôi, tất cả pháp môn đều có thể nói là pháp môn sám hối, đặc biệt phải nghĩ đến hiếu thân tôn sư. Trong Tịnh Nghiệp Tam Phước, Thế Tôn đặc biệt nêu ra hai điều này. Ân của cha mẹ báo đáp không cùng, ân của lão sư cũng như vậy. Phải biết được Phật Bồ Tát là lão sư, bạn xem đệ tử Phật chúng ta tự xưng là đệ tử, đệ tử là học trò, chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là “Bổn Sư”. Bổn sư là gì? Thấy giáo căn bản, một lão sư đệ nhất kiến lập Phật giáo ở thế gian này, lão sư kiến lập Phật giáo chúng ta gọi là Bổn Sư, cho nên quan hệ của chúng ta với Phật là quan hệ thầy trò, quan hệ này là thuộc về quan hệ luân lý, luôn phải làm cho rõ ràng. Không như những tôn giáo thông thường, chúng ta cùng Phật Bồ Tát là quan hệ thầy trò. Nếu như cùng với Bồ Tát mà nói, trên thực tế, chúng ta cùng với Bồ Tát là bạn học với nhau, bởi vì họ là học trò của Phật, ta cũng là học trò của Phật, họ là học trò lớp trước, ta là học trò lớp sau, cho nên chúng ta cùng với Bồ Tát là bạn học với nhau. Bồ Tát tu được không tệ, tu được rất tốt, họ có thể dạy ta, cho nên chúng ta đối với Bồ Tát, thậm chí đối với tổ sư đại đức đều có thể dùng lễ của lão sư mà kính lễ. Quan hệ phải làm cho rõ ràng. Cùng một bổn sư, trước sau khác nhau, quan hệ rất là mật thiết. Bồ Tát dạy chúng ta, tổ sư dạy chúng ta cũng giống nhu Thế Tôn dạy chúng ta không hề khác nhau, chúng ta phải y giáo phụng hành.

    Trong giới luật, Phật nói với chúng ta “Tam Tụ Tịnh Giới” mà phía trước đã nói qua với các vị. Cái ý này chính là nói, Phật tuy là trụ thế 49 năm, giảng kinh nói pháp vẫn là có hạn, vẫn là còn rất nhiều thứ chưa nói đến, cho nên chỉ đạo chúng ta một cái tổng nguyên tắc:

    - Thứ nhất, phàm hễ lợi ích đối với chính mình, dù Phật không hề nói đến cũng phải cố gắng mà học.

    - Thứ hai, có hại đối với chính mình, dù Phật không có nói đến, bạn cũng phải buông bỏ, không thể nói Phật không có nói thì ta liền có thể phóng dật, vậy thì sai rồi. Thí dụ nói, đây là thông thường chúng ta thường hay nói, trong giới luật Phật không có nói hút thuốc là phạm giới, vậy được rồi, bạn liền đi hút thuốc, thế nhưng hút thuốc đối với sức khỏe thế nào? Quyết định có hại đối với sức khỏe, không hề có chỗ nào tốt, đây là thuộc về trong Nhiếp Thiện Pháp Giới, đây là bất thiện, thì bạn phải nên đoạn tuyệt đó.

    - Thứ ba là “Nhiêu Ích Hữu Tình Giới”, việc này là có lợi ích đối với chúng sanh, có lợi ích đối với đại chúng, thì bạn nhất định phải làm. Cho nên phải thông quyền đạt biến, phải có thiện xảo, giới luật không phải là chết, cho nên nó có khai-giá-trì-phạm, ở trong một tình huống nào đó vận dụng linh hoạt. Việc này không thể không biết.

    Thứ năm, “Tùy Hỷ Công Đức”. Đối trị cái gì? Đối trị một loại phiền não vô cùng quan trọng của chúng ta, loại phiền não này cũng là rất nhiều người đều có, đó là đố kỵ. Chúng ta xem thấy người khác tốt, trong lòng cảm thấy rất là khó chịu, nghiêm trọng một chút thì nghĩ cách chướng ngại họ, nghĩ cách phá hoại họ, đó là đố kỵ. Cái này là chuyên môn đối trị tâm đố kỵ. Phật dạy chúng ta không đố kỵ người khác, phải hiểu được tùy hỷ, công đức của tùy hỷ cùng với những người tạo tác công đức là lớn như nhau, bạn thấy họ tu tích công đức lớn đến như vậy, ta ở đây vừa tùy hỷ, thì công đức của họ ta đều có được, bạn nói xem tiện nghi bao lớn! Nếu như bạn muốn đố kỵ họ, chướng ngại họ, tội nghiệp mà bạn tạo thật to. Ở trong loại cảnh giới này, hà tất phải tạo tội nghiệp, tại vì sao không thành tựu công đức của chính mình? Chân thật tu tùy hỷ, con người này, đặc biệt là người mà chúng ta không ưa thích, hoặc giả là oan gia trái chủ của chúng ta, người mà đối lập với chúng ta, thế nhưng họ làm ra sự việc là có lợi ích đối với xã hội, có nên đến giúp họ hay không? Nên, toàn tâm toàn lực đến giúp đỡ họ, đây gọi là tùy hỷ. Không có sức mạnh, không có sức mạnh lớn, sức nhỏ thì tận tâm tận lực giúp đỡ họ nhỏ, một chút năng lực cũng không có thì hoan hỉ tán thán, tuyên dương họ, hy vọng xã hội đại chúng thành tựu họ, đây là việc tốt.

    Trong xã hội hiện tại, ở trên toàn thế giới, ngày nay động loạn của xã hội, nhân tố rất phức tạp, không phải đơn thuần. Những năm gần đây, tôi có cơ duyên tham gia những hoạt động hội nghị hòa bình quốc tế, cũng quen biết rất nhiều người lãnh đạo quốc gia. Chúng tôi cùng giao lưu với nhau, đều hay nói đến bệnh trạng nghiêm trọng của xã hội, làm thế nào giải quyết, mỗi người đều hy vọng trên thế giới không còn có xung đột nữa, có thể trở lại hòa bình an định.

    Hiện tại xung đột phổ biến nhất, hơn nữa là căn bản trong tất cả xung đột là xung đột gì? Xung đột vợ chồng, đây là cội gốc của mọi xung đột trên toàn thế giới. Cái gì là xung đột vợ chồng? Ly hôn chính là xung đột, nếu họ không xung đột thì làm sao ly hôn? Cho nên không nên xem thường việc ly hôn, nó ảnh hưởng rất to lớn, đây là cội gốc của xung đột. Trong nhà bất hòa, người xưa Trung Quốc thường nói “gia hòa vạn sự hưng’, vợ chồng xung đột thì gia đình bất hòa, nếu như bạn còn có trẻ nhỏ mà nói, cha con xung đột, anh em xung đột. Khi trẻ nhỏ trưởng thành, cần nhất là tình yêu thương của cha mẹ. Vợ chồng vừa phân ly, bị hại nghiêm trọng nhất là ai? Trẻ nhỏ. Khi trẻ nhỏ lớn lên, chúng có oán hận, chúng không có lòng yêu thương, hay nói cách khác, chính bạn tạo ra phần tử động loạn tương lai cho xã hội, bạn có gánh trách nhiệm hay không? Bạn có nên làm như vậy hay không? Không phải được cái thuận tiện cho chính bạn mà bạn làm tổn hại xã hội, bạn tạo cái nghiệp này rất nặng nhưng bạn chính mình không hề biết.

    Cho nên cứu vãn xã hội phải cứu từ chỗ nào vậy? Phải từ nơi giáo học. Dạy cái gì? Dạy luân lý, dạy đạo đức, dạy nhân quả, dạy tôn giáo. Xã hội hiện tại không nói đến những thứ này, thế nhưng ngoài những thứ này ra, không có phương pháp nào cứu vãn xã hội ngày nay, vậy chúng ta liền biết được ngày nay tùy hỷ công đức phải nên làm bằng cách nào. Tôi nhiều năm đến nay, không luận tiếp xúc với người nào, tôi đều nói với họ kết duyên là quan trọng. Luân lý là nói quan hệ, con người sống ở thế gian này không thể không biết giao tiếp với nhau. Trước tiên phải biết quan hệ cha con, quan hệ vợ chồng, quan hệ bạn bè, quan hệ anh em, bước vào xã hội thì có quan hệ quân thần, hiện tại gọi là quan hệ người lãnh đạo và người bị lãnh đạo. Phải rõ ràng mối quan hệ, xử lý tốt quan hệ, vậy thì vấn đề trên mặt giao tiếp sẽ được tốt. Bạn không hiểu những quan hệ này, xử lý không tốt quan hệ giao tiếp, thì nơi nơi sẽ gặp phải chướng ngại.

    Làm thế nào xử lý tốt mối quan hệ? Đó là vấn đề đạo đức, cho nên bạn phải hiểu rõ đạo lý, tự nhiên bạn liền hiểu được làm thế nào để xử lý, còn phải hiểu được nhân quả, bạn làm việc sẽ không vượt quá phần, bởi vì con người không phải một đời thì hết, một đời hết rồi thì dễ tính, họ có đời trước đời sau, sự việc này thì phiền phức lớn. Biết được quá khứ, biết được vị lai, bạn đối nhân xử thế tiếp vật bạn sẽ rất cẩn trọng, hơn nữa bạn biết phải tùy hỷ công đức rất là quan trọng, vì sao vậy? Rộng kết thiện duyên với tất cả chúng sanh, không chỉ kết thiện duyên ngay hiện tại, còn kết thiện duyên ở đời sau. Quá khứ không biết được chân tướng sự thật, đã làm ra rất nhiều việc sai lầm, kết rất nhiều oán thù, hiện tại hiểu rõ rồi thì luôn phải đem những oán kết này hóa giải, không nên để đến đời sau. Ngoài việc này ra, giáo dục tôn giáo rất tốt. Tôi tiếp xúc rất nhiều tôn giáo, nhân sĩ giới tôn giáo, tôi cùng với họ nói chuyện. Người Trung Quốc giải thích đối với hai chữ “tôn giáo” này, chúng ta phải tuyên truyền, đem cái quan niệm về tôn giáo này của chúng ta, hy vọng tất cả tôn giáo đều có thể tiếp nhận. Tôi ở nơi đó thúc đẩy, vẫn chưa gặp phải phản đối, vẫn chưa gặp phải không bằng lòng tiếp nhận, việc này rất khó được. Văn hoá của chúng ta quá tốt, viên dung, sâu rộng, tinh thâm.

    Người Trung Quốc gọi chữ “Tôn”, cái gì gọi là tôn? Tôn có ba ý nghĩa. Thứ nhất là chủ yếu, thứ hai là trọng yếu, thứ ba là tôn sùng, rất là tôn quí, rất là cao cả, chính ba cái ý này gọi là Tôn. Giáo là gì? Giáo là giáo dục, là giáo học, là giáo hóa. Hợp lại là giáo dục quan trọng, giáo học chủ yếu, giáo hóa cao cả, bạn xem ý nghĩa của chữ Tôn Giáo tốt như vậy, mọi người đều bằng lòng tiếp nhận, với đa thần nhất thần không hề gì, bạn xem ý nghĩa của Tôn giáo tốt cỡ nào, cho nên hy vọng các tôn giáo đều cùng thúc đẩy giáo học tôn giáo, giáo dục tôn giáo. Nghi thức của tôn giáo chúng ta không phản đối, nghi thức có thể làm được, thế nhưng giáo học vẫn quan trọng hơn so với nghi thức, cho nên giáo dục tôn giáo là linh hồn của tôn giáo, không thể chỉ có hình thức, không có linh hồn, vậy thì biến thành mê tín. Cho nên chúng ta tìm kinh điển của tôn giáo khác, tôi đã tìm được mười loại, đem những kinh điển của họ có liên quan với giáo huấn luân lý, giáo huấn về đạo đức, giáo huấn về nhân quả, đem nó chép ra thành một quyển sách, phổ biến tặng cho các tôn giáo khác nhau. Bạn xem, học của chính mình đồng thời cũng học của người khác. Thuộc về phương diện này, mỗi một tôn giáo đã nói lớn nhỏ không đồng nhau, cho nên tôn giáo có thể đoàn kết. Chân thật muốn hóa giải tất cả xung đột, có thể đạt được xã hội an định, thế giới hòa bình, nhất định phải bắt tay vào từ giáo học tôn giáo.

    Giáo học tôn giáo, trước tiên đương nhiên phải cầu được đoàn kết tôn giáo, đây là cả thảy cư dân trên địa cầu có phước. Sự việc này chúng ta phải tùy hỷ. Hiện tại chúng ta xem thấy một số lãnh tựu tôn giáo đang làm, giáo hoàng Thiên Chúa Giáo La Mã rất khó được, lần này ông đến thăm viếng X-Lam giáo, thăm viếng Do Thái Giáo, tôi xem thấy tin tức này, là việc tốt, khẳng định tôn giáo là người một nhà, cho nên chúng ta ở nơi đây làm ra tùy hỉ công đức.

    Thứ sáu, “Thỉnh Chuyển Pháp Luân”. Thỉnh Chuyển Pháp Luân ,chúng ta đem bốn chữ này tỉnh lược qua, người Trung Quốc ưa thích đơn giản là thỉnh pháp. Lại thêm “Chuyển” lại thêm “Luân”, trái lại làm cho người mê hoặc. “Thỉnh pháp” thì đơn giản. Việc thỉnh pháp này là ý gì vậy? Chúng ta ở nơi đây thành lập một số Phật Học giảng tòa ngắn hạn, mời một số pháp sư, trưởng giả, cư sĩ để lên lớp cho chúng ta, chính là cái ý này. Bạn xem, hai năm gần đây chúng ta thúc đẩy Đệ Tử Quy, những thầy giáo Đệ Tử Quy này rất có trí tuệ, họ nghĩ ra một giảng tòa ngắn hạn, đặt cho cái tên rất hay: “Giảng Tòa Nhân Sanh Hạnh Phúc”, kỳ hạn thời gian bốn ngày đến năm ngày, ngắn hạn, miễn phí, khích lệ đại chúng thông thường trong xã hội đến học tập. Giảng Tòa Nhân Sanh Hạnh Phúc tổ chức được rất thành công, hai năm gần đây tổ chức các nơi, đại khái đã vượt qua 300 lần, mỗi lần dạy đều rất thành công. Tôi nghe nói Cao Hùng chuẩn bị khoảng tháng chín muốn tổ chức một lần, cũng là từ bốn ngày đến năm ngày, ở Đài Bắc, Đài Trung, dường như Đài Nam cũng đã tổ chức rồi. Việc làm này càng nhiều càng tốt, đây đều là thuộc về Thỉnh Chuyển Pháp Luân. Trong Phật pháp nói, điều này chính là thỉnh người xuất gia, hoặc là những đại đức ở tại gia đến vì chúng ta giảng giải kinh điển.

    Chúng ta muốn học Phật, học Phật điều kiện tiên quyết chính là phải tin tưởng, không tin thì không có ý nghĩa gì để bạn đến học. Trước tiên phải tin tưởng. Sau khi tin rồi phải cầu giải, sau khi tin rồi mà không cầu giải rất dễ dàng thoái tâm, vậy thì phải lên lớp. Việc này rất quan trọng. Chân thật lý giải tường tận rồi, tu hành là chính mình, cho nên mọi người cùng cộng tu với nhau. Cái thí dụ này không nhiều, Phật Đà ở đời không có, như Thích Ca Mâu Ni Phật ở đời cả đời chính là lên lớp, chính là giảng kinh, không có cùng nhau cộng tu. Cùng nhau cộng tu là người Trung Quốc chúng ta, tổ sư đại đức các ngài đề xướng, khi Phật Đà ở đời không đề xướng việc này. Bạn xem qua trong kinh Phật, không có bộ Phật kinh nào nói khi Phật Đà tại thế, mọi người cùng tu Phật thất, cộng tu thiền thất cũng không có, thảy đều là giáo học, nghiên cứu thảo luận, giải đáp bàn luận, việc này khi Phật Đà ở đời thì có. Cho nên, đích thực ra là, dùng lời hiện đại mà nói, nó là học thuật, không giống như những tôn giáo ở phương tây. Phật giáo truyền đến Trung Quốc, đem giáo học xếp ở hàng đầu, mãi đến đầu thời kỳ nhà Thanh vẫn là như vậy, cho nên chúng ta xem thấy ghi chép trong lịch sử, trước nhà Thanh Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, mãi đến thời Đại Gia Khánh, trong mỗi tự miếu đều là giảng đường, đều là lên lớp. Cái phong hóa này dần dần bị suy thoái phải là ở vào sau năm Gia Khánh, thực tế mà nói cũng là dần dần suy theo vận nước của nhà Thanh. Sau Gia Khánh là Đạo Quang, Hàm Phong, Đồng Trị thì biến chất rồi, phong hóa giảng kinh dạy học bị suy, những kinh sám Phật sự siêu độ dần dần nhiều lên, pháp hội cũng nhiều. Những lịch sử này chúng ta không thể không biết.

    Thế nhưng hiện tại bạn nói chúng ta thỉnh pháp, ở trong xuất gia tại gia những ai là thiện tri thức? Gần như không tìm được. Vào thời trước, người giảng kinh dạy học không chỉ là họ có tu, mà họ có chứng. Lão sư Lý hồi trước nói với tôi, vào thời xưa, những đại đức lên đài giảng kinh, có thể viết sách truyền lại cho đời sau, đều không phải là người thông thường, chí ít cũng chứng được nhị quả tam quả, chí ít cũng có được sơ quả. Chỉ cần có chứng thì gọi là thánh nhân, tiểu thánh. Chúng ta gọi tiểu thừa là tiểu thánh. Tiểu thừa có bốn quả: sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả đều gọi là tiểu thánh, chí ít cũng là vị thánh nhỏ, đó chính là sơ quả Tu Đà Hoàn, họ đã chứng cái gì? Chúng ta có thể sánh được với họ không? Họ đã buông bỏ thân kiến rồi, cũng chính là họ không còn chấp trước cái thân này là ta, hay nói cách khác, họ không còn tự tư tự lợi, chúng ta có thể làm được hay không? Tiểu thừa giác ngộ rồi, năm loại kiến hoặc đoạn dứt. Kiến hoặc là gì? Hoặc là mê hoặc, kiến là kiến giải. Năm loại kiến giải sai lầm họ buông bỏ rồi, họ đoạn hẳn rồi. Năm loại này chính là “thân kiến”. Bạn thấy chúng ta, chúng sanh trong sáu cõi, có ai mà không đem cái thân xem là ta? Phật nói với chúng ta, thân không phải là ta, thân là cái gì? Thân là sở hữu của ta, không phải ta, cũng giống như quần áo vậy, quần áo không phải là ta, quần áo là sở hữu của ta. Thân thể là sở hữu của ta, thân thể không phải là ta, cho nên cái thân thể này đã dùng mấy mươi năm, không còn sử dụng tốt nữa, đổi một cái khác, đây chính là người thông thường chúng ta gọi là sanh tử. Sanh tử là cái gì? Đổi thân thể. Mỗi ngày chúng ta đều phải đổi quần áo, thay đổi quần áo có khó lắm hay không? Không khó lắm, nếu như bạn hiểu được cái thân này không phải là ta, đổi thân thể cũng giống như thay bộ quần áo thì rất tự tại. Sáu cõi chính là quần áo không như nhau.

    Tâm địa của bạn thiện, hành vi thiện, thân thể của bạn càng đổi càng tốt. Nếu như bất thiện, thì càng đổi càng xấu. Bạn đầu thai đến cái thế gian này, thân thể không tệ, rất tốt, tại vì sao hai mươi mấy tuổi ba mươi mấy tuổi bị cả thân bệnh? Cái bệnh đó tuyệt đối không phải là cha mẹ họ mang đến, đó là gì vậy? Đó là bạn tạo nghiệp bất thiện. Lưu Thiện Nhân nói, 12 tuổi về trước, thân thể của bạn chịu ảnh hưởng của cha mẹ, 12 tuổi về sau bạn chính mình tạo nghiệp thì ảnh hưởng chính bạn, cho nên ông nói trẻ nhỏ bị bệnh là do tâm hạnh của người lớn bất thiện, chúng bị cảm nhiễm, nên gọi là “nhi nữ đích thân, phụ mẫu đích tâm”, chúng thật có cảm ứng. Tâm địa của cha mẹ lương thiện thì con cái khỏe mạnh, tâm của cha mẹ bất thiện, trẻ nhỏ từ 12 tuổi trở xuống, nếu như chúng bị bệnh, nhân bệnh là ở cha mẹ. Sau 12 tuổi, nghiệp của chúng tạ, thì chúng chính mình phải gánh lấy. Ngay đến cái điểm này chúng ta đều có thể xem thấy ra. Hiện tại cái thân này do ý niệm của chúng ta đang làm chủ tể, tâm của chúng ta thanh tịnh thì thân liền thanh tịnh, tâm ô nhiễm thì thân liền ô nhiễm, tâm thiện thân thể liền khỏe, tâm bất thiện nó liền bị bệnh, bệnh không phải từ bên ngoài đến. Như bệnh truyền nhiễm ôn dịch này ngày nay là có truyền nhiễm, nếu như tâm địa lương thiện thì cũng như nói bạn có năng lực miễn dịch rất mạnh, chúng không thể truyền đến trên thân bạn, bạn có một vòng bảo vệ. Chân thành, thanh tịnh, từ bi, đây là bảo hộ tốt, không thể bị truyền nhiễm. Nếu như tâm tư bất chánh, tự tư tự lợi, tham-sân-si-mạn, vậy thì dễ dàng bị cảm nhiễm. Đây là đạo lý nhất định, chúng ta không thể nào không biết.

    Hiện tại chúng ta muốn tìm một thầy giáo tốt, đến nơi đâu để tìm? Người xưa nói rất hay: “học trò tìm một thầy giáo tốt, có thể gặp không thể cầu”, việc này phải nhờ vào cảm ứng, thiện với thiện tương ưng. Chúng ta chân thật muốn học đạo, chân thật muốn học tốt, trời cao không phụ lòng người tốt, bạn sẽ gặp được thầy giáo tốt. Nếu như không có loại nguyện vọng khẩn thiết này, cả đời bạn không thể gặp được, cho dù gặp được, bạn cũng không có được lợi ích, gặp được thì thế nào? Hoài nghi đối với họ, không có lòng tin đầy đủ đối với họ, bạn không thể thành tựu.

    Khi tôi còn trẻ ở Đài Loan, gặp được ba thầy giáo tốt, thế nhưng ba thầy giáo tốt này không phải dạy cho một mình tôi, họ có rất nhiều học trò. Học trò của lão sư Phương nhiều, đại sư Chương Gia thì càng nhiều, học trò của lão sư Lý cũng không ít, tôi ở Đài Trung mười năm, tôi nhẫm tính chí ít cũng vượt qua năm mươi vạn. Theo lão sư Lý tu Tịnh Độ, nhiều học trò đến như vậy, có mấy người thành tựu? Có được một người nào có thể siêu vượt Lý lão sư không? Không cần nói vượt qua, cùng bình đẳng với cảnh giới lão sư Lý có hay không? Không có! Đây chính là nói rõ đời sau không bằng đời trước, cái phiền phức này lớn rồi. Tại vì sao chúng ta đời sau không bằng đời trước? Hiện tại chúng ta hiểu rõ, học được nhiều năm đến như vậy, thấu hiểu được rõ ràng, nền tảng của chúng ta không bằng họ. Giống như xây cái lầu to, họ là mấy mươi tầng chúng ta có xây cách nào cũng xây không được, vì sao vậy? Không tạo nền móng được tốt. Nền móng không tốt thì làm thế nào hướng lên trên? Muốn lên trên cũng không thể nào lên được. Nền tảng của họ tốt hơn so với chúng ta, họ chân thật là từ nhỏ, thời kỳ thơ ấu, cha mẹ đã đem Đệ Tử Quy biểu diễn cho họ thấy, gốc của họ đã được cắm xuống từ lúc nào vậy? Từ mới sanh ra đến ba tuổi, một ngàn ngày này chân thật gọi là giáo dục nền tảng. Khi giáo dục loại này, trẻ nhỏ vẫn chưa biết nói chuyện, vẫn chưa biết đi, chúng vừa sanh ra, mắt của chúng liền có thể thấy, lỗ tai liền có thể nghe, người lớn hành động lời nói ở ngay trước mặt chúng, ấn tượng của chúng đã quá sâu, cho nên trong ngạn ngữ Trung Quốc có câu “ba tuổi xem tám mươi, bảy tuổi thấy trọn đời”, có đạo lý.

    Hiện tại chúng ta, người đời này giảng nền tảng là gì? Là truyền hình. Các vị thử nghĩ xem, hiện tại trẻ nhỏ vừa sanh ra, vừa mở mắt ra xem cái gì? Xem truyền hình, học ở trong truyền hình, học bạo lực, học sắc tình, học sát đạo dâm vọng, đây là gốc của chúng thì còn gì để nói! Vậy thì đem luân lý đạo đức thánh thiện dạy cho chúng, vậy thì thật phí sức! Cho nên hiện tại càng ngày càng khó khăn, nhất là hiện tại cùng học với người nước ngoài, đi theo người nước ngoài thì vấn đề nghiêm trọng, vì sao vậy? Phụ thân không thể dạy con cái, thầy giáo không thể dạy học trò. Người xưa chúng ta nói: “nghiêm phụ xuất hiếu tử, nghiêm sư xuất cao đồ”, hiện tại cha mẹ nếu là phân xử con cái, đánh mắng chúng, thì bạn xâm phạm nhân quyền. Ở nước ngoài là như vậy. Người lân cận cảm thấy bất bình liền gọi điện cho cảnh sát, để cảnh sát đến mang trẻ nhỏ đi, xử phạt cha mẹ của chúng, bạn đối với trẻ nhỏ của bạn ngược đãi chúng, không nhân đạo, bạn phải làm sao? Không thể dạy chúng. Thầy giáo ở trường học, hiện tại tôi nghe nói trường học ngày nay, học trò bình phân cho thầy giáo, thầy giáo này dạy có được tốt không, để học trò nhận định, cho nên thầy giáo muốn ở lại trường học phải đối tốt với học trò, phải nịnh bợ học trò, học trò không vui đều nói bạn không tốt, học kỳ sau trường học liền sẽ khai trừ bạn, sẽ không dùng bạn nữa, vậy phải làm sao?

    Con người ở đời hai việc này là đại căn đại bổn, cho nên bạn xem, câu đầu tiên trong Tam Phước là “hiếu dưỡng cha mẹ phụng sự sư trưởng”, bạn xong rồi, hai điều này không có, căn bản của căn bản đoạn mất, bỏ mất rồi, về sau thì không còn thứ gì, bạn nói xem vậy có đáng sợ không! Vậy phải làm sao? Cho nên thân cận thiện tri thức, không có cái tâm hiếu thân tôn sư thì bạn không được thứ gì, chúng ta theo lão sư còn có thể được chút xíu, được một phần trăm của lão sư, không dám nói nhiều, là dựa vào cái gì? Dựa vào lúc nhỏ cha mẹ dạy hiếu thân tôn sư. Người hiện tại không hiểu, không có loại tâm trạng này, thì bạn không học được thứ gì. Nhất là học trò hiện tại tâm khí lăng xăng, lúc trước chúng ta không xem trọng đối với tâm khí lăng xăng, nói qua thôi, hiện tại nói đến lời nói này, chúng ta chân thật xem thấy, hơn nữa còn xem nguy cơ, cho nên chúng ta muốn mở lớp đến nơi đâu để tìm thầy giáo? Ngày nay mấy thầy giáo tốt gọi là lông phụng hoàng sừng kỳ lân, đến nơi đâu để tìm?

    Mỗi lần họ thành lập Giảng Tòa Nhân Sanh Hạnh Phúc vẫn có thể tìm được bảy, tám thầy giáo, không dễ dàng! Tôi cảm thấy đây là Tam Bảo gia trì, có thể là Phật Bồ Tát ứng hóa cũng không chừng, thế nhưng trên lý mà nói là có khả năng. Những thầy giáo này nhiệt tâm đến như vậy, không từ lao nhọc đến giảng dạy cho mọi người, giảng được cảm động người đến như vậy đâu dễ dàng gì. Chúng ta xem thấy rất hoan hỉ. Số người tuy là không nhiều, thế nhưng những thầy giáo này, nếu như nói không thoái tâm, nỗ lực học tập cổ thánh tiên hiền, tương lai thành tựu của họ thì không thể nghĩ bàn. Đây cũng là nhờ tâm hảo cầu của đại chúng, mới có thể được cảm ứng của Phật Bồ Tát, cho nên chúng sanh có cảm, Phật Bồ Tát liền có ứng, cảm ứng tương thông không thể nghĩ bàn, đây là thật không phải là giả. Ngày nay việc tốt chân thật là chúng ta làm thế nào bồi dưỡng thầy giáo thế hệ sau ưu tú. Nho-Thích-Đạo đều thiếu thầy giáo, ai đến làm? Khuyên người không bằng khuyên chính mình, chính mình chân thật giác ngộ, chân thật hồi đầu phát tâm, sự việc này không có người làm, ta đi làm, thật làm.

    Thật có thể thành tựu thì phải giữ lấy hai điều kiện, đây là trước khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ, lưu lại di giáo sau cùng. Việc thứ nhất là “lấy giới làm thầy”, việc thứ hai là “lấy khổ làm thầy”, bạn chuẩn bị đầy đủ hai điều kiện này thì bạn liền có thể thành tựu. Cái gì là giới? Đệ Tử Quy là giới, Cảm Ứng Thiên là giới, đó là căn bản của giới luật. Khi Thế Tôn ở đời không có Cảm Ứng Thiên, không có Đệ Tử Quy. Giáo học của Thế Tôn là bắt đầu từ Tiểu thừa, tại vườn Lộc Dã giảng Kinh A Hàm 12 năm, giáo nghĩa của Đệ Tử Quy, giáo nghĩa của Cảm Ứng Thiên đều ở trong kinh A Hàm. Số lượng của kinh A Hàm quá lớn, đều ở trong Kinh A Hàm. Cảm Ứng Thiên cùng Đệ Tử Quy là ở trong giáo huấn của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc đem nó chép ra rồi tập hợp nó lại. Việc làm này khó làm. Cho nên Thế Tôn dạy học, dạy bảo người sau phải trước học tiểu thừa sau học đại thừa, không trước học Tiểu thừa liền học Đại thừa Phật không thừa nhận, đây không phải đệ tử Phật. Thế nên Phật giáo truyền đến Trung Quốc, kinh điển Tiểu thừa phiên dịch được rất hoàn bị. Tứ A Hàm của chúng ta cùng kinh điển Văn PaLi của hiện tại, nam truyền, đối chiếu hai loại, tôi không làm công việc này, lời nói này đại sư Chương Gia nói với tôi, ngài nói vừa đối chiếu, kinh điển của văn PaLi so với Kinh Điển Tiểu thừa chúng ta đại khái chỉ nhiều hơn 50 bộ thôi, vậy thì rất ít. Kinh Tiểu thừa phải có gần 3000 bộ, bạn xem nhiều hơn 50 bộ, số lượng này rất nhỏ, có thể thấy được phiên dịch được rất là hoàn chỉnh. Lúc đó ở Trung Quốc có hai tông phái là Thành Thật Tông và Câu Xá Tông, đều là từ chỗ này mà xây nền tảng. Thế nhưng sau thời Trung Diệp Nhà Đường, giới Phật giáo Trung Quốc chúng ta không học Tiểu thừa, cho nên hai tông này cũng không c̣n. Vậy không học thì làm sao? Người Trung Quốc chúng ta không luận tại gia xuất gia, dùng Nho, dùng Đạo để thay thế Tiểu thừa, vẫn được, cho nên hơn 1500 năm gần đây, đời đời đều có cao tăng đại đức xuất hiện, nói rõ dùng Nho Đạo để thay thế là có thể được. Vậy ngày nay chúng ta học Phật bỏ mất đi Tiểu thừa, Đệ Tử Quy không chịu học, Cảm Ứng Thiên, Âm Trắc Văn không chịu học, cho nên chúng ta học Phật liền xảy ra vấn đề, bởi vì không có gốc thì làm thế nào hướng lên trên cũng không lên được. Vấn đề chính ngay chỗ này. Có thể cắm gốc ngay chỗ này thì sẽ có thành tựu. Bạn cắm được sâu thì bạn có thành tựu lớn, bạn cắm được cạn thì thành tựu nhỏ, không có cái gốc này thì không thể nào có được thành tựu, chỉ có thể nói bạn ở trong Phật pháp kết một chút duyên nhỏ mà thôi.

    Cho nên ngày nay “Thỉnh chuyển pháp luân” khiến chúng ta nghĩ đến không có sư chất. Việc lớn quan trọng nhất ngay trước mắt, chúng ta làm thế nào giúp Phật pháp? Phải bồi dưỡng sư chất. Chúng ta thật có tâm thì liền có cảm, chúng ta tin tưởng Phật Bồ Tát sẽ có ứng. Chân thật có người cầu Phật Bồ Tát nhiều, tôi thêm chữ “chân chính”, chân chính cầu Phật Bồ Tát, cái gì gọi là chân chính? Chúng ta y giáo phụng hành chính là chân chính, trên miệng cầu Phật Bồ Tát, trong lòng lưu luyến năm dục sáu trần thì sẽ không có cảm ứng. Chúng ta thật có thể đem tự tư tự lợi, tôi thường hay nói mười sáu chữ: “tự tư tự lợi, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần, tham-sân-si-mạn”, phải buông bỏ mười sáu chữ này, đó chính là chân tâm, sẽ có cảm ứng. Chúng ta khải thỉnh như thế, Phật Bồ Tát sẽ ứng, Phật Bồ Tát sẽ xuất hiện ở thế gian này chúng ta, tiếp nhận cúng dường của chúng ta, tiếp nhận hộ trì của chúng ta, các ngài đến làm biểu mẫu, như Thích Ca Mâu Ni Phật tám tướng thành đạo, như tổ sư đại đức thị hiện đến Trung Quốc, một mảng Phật độ rộng lớn này để giáo hóa chúng sanh. Nếu như không phải chân thật làm, cái nguyện đó là giả, không phải là thật. Khởi tâm động niệm vẫn là tổn người lợi mình, niệm Phật như vậy có ích gì? Cầu Phật như vậy cũng không ích gì, không thể khởi tác dụng cảm ứng tương thông với Phật.

    Lần này tiến sĩ Giang Bổn Thắng có buổi diễn giảng ở Cao Hùng, rất đồng tu đều đến nghe. Giang Bổn Thắng cũng là bạn cũ với tôi, mười mấy năm trước thí nghiệm kết tinh nước của ông làm rất tốt, tôi rất tán thán. Thí nghiệm nước nói rõ việc gì vậy? Cảm ứng tương thông. Bạn xem người chúng ta có cảm, có khởi tâm động niệm cảm, nó liền có ứng. Chúng ta dùng thiện tâm cảm, thì kết tinh của nó rất đẹp. Các vị có thể từ trên hình chụp thấy được. Hình chụp này là chụp ra từ kính hiển vi phóng to lên. Nếu tâm hạnh của chúng ta bất thiện, bạn đối với nước này, nước đó kết tinh liền sẽ rất xấu.

    Chúng ta làm thế nào cùng với Phật khởi cảm ứng? Thiện, thuần tịnh thuần thiện liền có thể khởi cảm ứng với Phật Bồ Tát. Tâm của chúng ta bất thiện, thì khởi cảm ứng với yêu ma quỷ quái. Đây là chân lý, không sai một chút nào. Cho nên hiểu rõ cái đạo lý này, bạn mới chân thật hiểu rõ lão tổ tông chúng ta dạy chúng ta “hành hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ”, vấn đề liền giải quyết rồi. Giải quyết vấn đề không phải ở ngoài, giải quyết vấn đề ở ngay chính mình. Giải quyết vấn đề xã hội, giải quyết vấn đề thiên hạ thảy đều ở chính mình, thật tuyệt diệu. Hướng ngoại quyết định không thể giải quyết được vấn đề, dù cho giải quyết được nhưng chỉ là nhất thời, sau đó vẫn có di chứng, chỉ có hướng vào nội tâm cầu giải quyết thì không có bất cứ di chứng nào, giải quyết viên mãn. Đây là Phật pháp, đây là giáo huấn thánh hiền.

    Hôm nay thời gian hết rồi, chúng ta chỉ học đến đây thôi. A Di Đà Phật!

    SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG

    (Trích từ Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán giảng giải, tập 30)

    Người giảng: Lão Hòa Thượng Tịnh Không

    Địa Điểm: Cao Hùng - Đài Loan

    Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ.

    Biên tập: Phật tử Diệu Hiền

    Tác giả bài viết: Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ

    Nguồn tin: TinhKhongPhapNgu.com
     
    Chỉnh sửa cuối: 24 Tháng ba 2016
  2. tutru

    tutru Ban Quản Trị

    Tham gia ngày:
    14 Tháng mười một 2009
    Bài viết:
    513
    Điểm thành tích:
    18
    Giới tính:
    Nam
    VĂN PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI
    (Pháp Sư Tịnh Không)

    [​IMG]
    Tại sao phải hành sám hối? Tôi nhận thức rằng muốn nghĩ đến vãng sanh Tịnh Độ cần phải sám hối trước, phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật. Chỉ có sám hối nghiệp chướng của mình thề không tái tạo, mới được vãng sanh.

    Tại sao không thoát ra khỏi tam giới? Vì từ vô số kiếp đến nay, không nhận thức được tội chướng vô lượng vô biên của mình. Những điều tội chướng này đến từ đâu? Nguyên nhân từ đời trước hoặc từ lâu đời đến nay cùng chúng sanh có sự ràng buộc và tranh chấp với nhau, có khi giữa hai người có sự quan tâm chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau mà tạo ra thiện duyên. Có khi giữa ta và đối phương có sự tranh chấp, tước đoạt, xâm phạm, tổn thương, lăng nhục v.v… mà tạo ra ác duyên. Nhân duyên nghiệp lực của chúng ta với người xung quanh ràng buộc càng thâm sâu, bất luận đó là thiện duyên hoặc bất thiện duyên, chúng ta với người đó sẽ dễ lâm vào thế luân hồi và kiếp sau gặp lại. Lúc bấy giờ nếu nghiệp duyên do tình cảm sinh ra, sẽ dùng hình thức tình cảm giải quyết, nghiệp duyên do vật chất hoặc sinh mạng gây ra, lần nầy sẽ dung hình thức tương đồng đáp trả.

    Tôi nhận thức được, thực chất căn bản của lục đạo luân hồi đó là giữa chúng sanh với nhau, oan oan tương báo, trả nợ lẫn nhau, vô tận vô biên, không bao giờ chấm dứt, trong thời gian đó nếu không chấp nhận thọ báo, sẽ tạo thêm nghiệp mới, khiến cho việc thọ báo sau nầy lại trồng thêm nhân mới, tìm trăm phương ngàn kế, lấy của người làm của ta, kết quả là nếu số mạng có sẽ có, số mạng không có, trộm cũng không được. Nếu số mạng của chúng ta có bằng cách dung hình thức ăn trộm để đoạt được, sẽ tạo ra tội nghiệp thâm sâu.

    Bất cứ việc gì, bất cứ người nào, trong gia đình, ngoài gia đình, bề trên, cấp dưới, phàm làm khiến cho ta tổn hại, đều phải gánh chịu thọ báo. Gia quyến lục than, đều do tứ nhân tương tụ (tứ nhân là trả nợ, đòi nợ, trả ơn và báo oán) bất luận chúng ta thọ báo bao nhiêu oan ức, không những không được sân hận, ngược lại phải sám hối cho nghiệp chướng của chính ta, tội nghiệp của đời trước nay phải trả, nếu đem lòng sân hận, làm sao không tạo thêm nghiệp mới?

    Tất cả mọi nơi đều có oan gia trái chủ đến gây nạn (làm khó dễ) chúng ta phải phản tỉnh lại, tại sao họ không tìm người khác để gây phiền phức, đều do trong đời quá khứ, chúng ta có làm điều gì sai lỗi với họ, ta phải tu nhẫn nhục, làm nghịch tăng thượng duyên.

    Tôi còn nhận thức được, tu học Phật Pháp, y theo Tam Bảo lực gia trì và tâm lực sám hối, có thể khiến tội nghiệp chuyển nhẹ, hoặc tiêu diệt. Nếu bị phỉ bang hoặc làm ô nhục, chúng ta vui vẻ chấp nhận thì đều được diệt tội, gặp thiện tri thức tu đạo, tu thiện, khiến người này có thể chuyển tội nặng của hậu thế thành tội nhẹ của hiện thế. Niệm Phật là sám hối. Khi niệm Phật tinh tấn thường thấy bệnh nghiệp hiện tiền, đó là một hiện tượng chuyển nghiệp, đem tội nặng của quá khứ, biến thành tội báo nhẹ như hiện tại. Vì nguyện lực lớn hơn nghiệp lực, tôi nhận thức rằng, nếu chân thành sám hối, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, nhất tâm chuyên niệm Phật hiệu A Di Đà Phật, ta có thể nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà và nguyện lực phát nguyện vãng sanh của ta, cho dù kiếp trước có phạm trọng tội, chỉ cần phát tâm niệm Phật vãng sanh, niệm niệm bất đoạn, kiếp này không tạo thêm ác nghiệp, nguyện lực hiện hành sẽ chống lại nghiệp lực của quá khứ, trong lúc lâm chung, nguyện lực niệm Phật cầu sanh, chiêu cảm được nguyện lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà, trong giây lát sẽ siêu thoát tam giới, thoát ly tất cả “nghiệp duyên” vãng sanh Tây Phương Thế Giới Cực Lạc, vĩnh viễn xa lìa cái khổ của luân hồi.

    Nhưng vì lúc trước tôi không có cái trí tuệ này, cũng không nhìn nhận rằng mình có nhiều nghiệp chướng như thế, càng không nhận thức đó là do chính mình tạo nên, không biết được những điều bất thuận lợi, đều do quả báo tội nghiệp của quá khứ, không biết được mình sở dĩ mình đến thế giới này là để tiếp nhận quả báo nên cứ hờn trách người khác xâm hại mình. Thật ra đều do tạo tác của mình không một việc gì liên can đến người khác. Vì tạo tác ra thiện ác nghiệp mới nảy sinh ra “số mệnh”, số mệnh ở đây chính là tổng kết của sự thọ báo. Nhưng số mệnh ở đây có thể thay đổi bởi sự tu hành và sám hối. Số mệnh không tốt có thể tu hành thành tốt, và còn có thể tu thành Phật. Người tạo ác nghiệp mà số mệnh lại không tốt, sẽ rất thê thảm. Luận nhân quả còn gọi là pháp nhân duyên, cần gặp duyên mới có kết quả, chỉ cần không tái tạo duyên, ác nhân của kiếp trước sẽ không có thể kết quả, cho nên đoạn ác tu thiện mới chính là sám hối.

    Lúc sắp lâm chung, nghiệp chướng hiện tiền, là do oan gia trái chủ tìm đến đòi nợ bức ép đưa vào tam ác đạo, lúc đấy nhất định phải niệm Phật cầu siêu, hồi hướng cho họ, sám hối tội nghiệp của mình. Vào lúc này những người thân cận nhất hoặc gia quyến cũng đến đòi nợ, phá hoại sự thanh tịnh niệm Phật của người lâm chung, vì vậy trước tiên phải hồi hướng cho họ, sám hối nghiệp chướng của chính mình, giúp cho con đường vãng sanh được thuận buồm xuôi gió. Nếu là người thân gia quyến đến báo ơn tự nhiên sẽ giúp mình thành tựu.

    Những nghiệp chướng của tôi thật sâu nặng, trong lòng cảm thấy rất áy náy bất an, tôi muốn nhận tội, thề không tái tạo, nếu không nghiệp lực thọ báo sẽ tiếp diễn không ngừng nghỉ.

    Kiếp trước, kiếp này và kiếp sau liên tục nghiệp cũ chưa trả dứt, lại không chấp nhận thọ báo, tạo thêm nghiệp mới, chồng chất liên tục. Bắt đầu từ hôm nay, tôi không oán giận ai, và tôi sẽ không còn kẻ thù nữa.

    Nghĩ đến những chúng sanh đã từng bị tôi tổn hại, chúng phải gánh chịu sự đau khổ và áp lực vô lượng kiếp, chính tôi đã tạo ra những “oán hận” đó như cái gông cùm xiềng xích vào sự đau khổ của họ không tháo gỡ được. Như lửa hận trong lòng, giam họ vào trong ngục lửa, khiến họ tự giày vò từng giây từng khắc, sự đau khổ của họ lớn như thế, cho thấy sự đòi nợ của họ là đương nhiên, tôi thông cảm họ một cách sâu sắc. Tâm tôi tự sám hối, tất cả họ phải chịu đựng những khổ nạn to lớn, tôi hoàn toàn phải vì họ làm việc sám hối, nhận thức ra tội nghiệp của mình, tìm cách bù đắp lại, độ thoát cho họ mãi cho đến khi thành Phật. Với tấm lòng chí thành, tôi hướng về họ thành tâm tạ lỗi. Tôi có lỗi quá nhiều đối với họ. Nghĩ đến đây, lòng tôi hổ thẹn đau xót vô cùng, tôi muốn khóc vì nước mắt không kiềm chế được, vậy hãy dùng nước mắt để rửa sạch trái tim ô uế của tôi, dùng giọt nước nhân từ tâm và đại bi tâm rưới lên đầu họ, tôi tin tưởng rằng loại nước nầy sẽ hóa thành cam lồ. Tôi muốn hướng về pháp giới để phát ra lời thệ nguyện: Tôi muốn đem tất cả công đức tu hành hồi hướng cho họ, cùng hồi hướng pháp giới hữu tình, đồng thành Phật đạo. Từ nay về sau thề không tái tạo ác nghiệp. Nay tôi phát nguyện cho họ lìa khổ được vui. Tôi muốn giới thiệu đến họ pháp môn đương sanh niệm Phật thành Phật, để họ sớm có ngày thành Phật. Nếu khi tôi được thành tựu, trước tiên tôi sẽ độ thoát cho họ đến được Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, cùng gặp Phật A Di Đà, và tôi cũng muốn độ tận pháp giới hữu tình sớm đến bờ giác, vĩnh viễn thoát khỏi cái khổ luân hồi.

    Tại đây, tôi cũng muốn hướng về những chúng sanh bị hại, nói một chút về đạo lý Phật Pháp, tranh thủ sớm ngày tháo được gông cùm, nhảy ra khỏi địa ngục tâm hỏa.

    Các bạn thân mến của tôi: hành vi phục thù, xác thực là do tôi gây nên, nhưng hành vi phục thù không thể xóa bỏ cái khổ thâm sâu trong tâm hỏa, chỉ có hóa giải “oán hận” mới đạt giải quyết được. Hiện tại trong chúng ta có một trái tim “vọng tâm” không có chủ thể bất biến, nó sinh ra rồi lại tiêu diệt như “mộng” như “huyễn”, như “bọt bong”, như “sương” cũng như “điện”! Lúc chúng ta không tìm ra trái tim thật chất, cho nên chúng ta cảm thấy bị lăng nhục, bị tổn thương, bị sát hại rồi nảy sinh ra oán hận, thì phải bám dựa vào đâu? Nếu như trái tim thật chất không tìm thấy thì sự “oán hận” trong “tâm” đó chỉ là hoa trong không, trăng trong nước hư ảo không thật? Cho nên tất cả oán hận toàn do trái tim hư ảo, trái tim “chấp trước” tạo ra. Nếu không nhìn thấu đó là trái tim hư ảo chấp trước, trái tim đó sẽ làm cho chúng ta chìm đắm trong luân hồi sinh tử, ái dục khổ hải.

    Thưa các bạn, chúng ta hãy phát lòng sám hối, vì sám hối là cam lồ, sám hối có thể rửa sạch ô uế quá khứ của tâm linh để trong quá trình đó sẽ đạt được tịnh hóa và tái sanh không ngừng nghỉ. Một người không sám hối, tính linh sẽ không thể tiến triển và tiến hóa, vì không sám hối nên tính linh tiếp tục bị ô nhiễm, trái tim tiếp tục vọng tưởng chấp trước. Không sám hối thì không nhìn nhận và tiêu trừ sai lầm quá khứ, vọng tưởng sai lầm mới sẽ tiếp tục tạo ra.

    Khi một người không tái phạm lỗi lầm lần thứ hai, chúng ta đã sám hối quá khứ. Chúng ta không những phải sám hối tội nghiệp đã biết, càng phải sám hối cho những tội nghiệp không biết, luôn luôn sám hối. Cổ đức nói: “Tội từ tâm khởi dùng tâm sám, nếu tâm diệt thời tội cũng không. Tâm vọng tội diệt cả hai đều không, đó chính là chân thật sám hối”. Một người biết sám hối là người được phước, lại càng được cứu. Sám hối chính là ánh hào quang của tâm linh, là vốn liếng lương thực trên con đường vãng sanh Tây Phương.

    Vì vậy khi có tâm sám hối, thề không tái tạo, tức là đã sám hối. Khi đã có căn bản này, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, nhất định sẽ thành Phật. Phàm phu chúng ta có thể làm được nếu phàm phu không làm được, Phật đã không tuyên dương pháp môn này. Vì vậy, tôi đối với pháp môn Niệm Phật, không hoài nghi, không xen tạp, tranh thủ không gián đoạn, khi đã thành tựu hãy nhanh chóng tiếp cứu vô lượng vô biên chúng sanh, trong đó có cha mẹ vô lượng kiếp của chúng ta. Nghĩ đến họ đang quằn quại trong dầu sôi lửa bỏng, tim của ta thật sự tan nát, đặc biệt tưởng niệm đến tất cả họ còn đang chìm đắm trong khổ hải, vươn hai tay lên, hít thở một hơi thở, mới phát ra được tín hiệu cầu cứu. Còn rất nhiều vô lượng vô biên chúng sanh tất cả đều đang kêu cứu, nếu tôi không tinh tấn mau thành tựu đi cứu hộ, thì tôi là người ác, là một người có tội lớn, họ đang mong đợi và kỳ vọng tôi, cho dù lửa ngập tam thiên cũng phải vượt qua, cũng phải đem pháp môn Niệm Phật thành Phật này, giới thiệu cho họ để họ được chóng thành Phật.

    Tôi thật căm giận chính mình, một niệm vô minh, bản tính lạc hướng, vọng tâm tạo nghiệp cho chúng sanh và cho chính mình đau khổ vô lượng kiếp. Hoàn toàn không hiểu hại người tức là hại ta, tổn người tức tổn mình. Cũng quên đi tất cả vì mọi người, tức là vì chính mình. Chỉ có làm lợi cho người khác, mà không làm lợi cho chính mình mới chính là Phật, và ai làm được sẽ là Phật, không phải chỉ làm trên hình thức, là thật tâm hiển hiện. Tôi muốn dùng trái tim chân thật, tâm bình đẳng, tâm từ bi, đối xử với mọi người, đây mới là thật sự sám hối. Tôi cùng chúng sanh đồng một bản tánh, sao lại vì một niệm vô minh mà tổn hại chúng sanh? Thật sự mê hoặc điên đảo, tại sao phải vác viên gạch tự đập lên chân mình? Giống như cổ nhân đã nói: “Bổn thị đồng căn sanh, tương chiên sao quá gắp?” Đau thay, đau thay! (ý nói cùng sinh trong một rễ, tại sao phải tương tàn lẫn nhau gấp rút như vậy?).

    PHÁP NGỮ CỦA TỊNH KHÔNG PHÁP SƯ

    Chúng ta đời đời kiếp kiếp học phật tu hành không được thành tựu, không có biện pháp thoát khỏi luân hồi, là vì có oan gia trái chủ đến gây phiền phức, làm ma chướng. Người không học phật, không biết hóa giải oán thù, vì vậy oan oan tương báo khổ không kham nổi. Người học phật, đối với tất cả chúng sanh bất luận họ đến đòi nợ hoặc trả nợ đều khuyên họ niệm Phật, như vậy có thể chuyển tất cả thiện ác, oán thành pháp duyên, nhân tình thế gian cũng có thể chuyển thành pháp quyến thuộc tu hành mới được thành tựu.

    Mọi người đều có nghiệp chướng, nếu không có nghiệp chướng sẽ không phải sanh đến thế gian này. Làm sao để tiêu trừ nghiệp chướng? Cổ đức khai thị rằng phương pháp tốt nhất là niệm A Di Đà Phật.

    Để giúp các vị cư sĩ trong quá trình tu hành không bị chướng ngại, như lý như pháp, tiêu trừ nghiệp lực, cùng hội một thuyền, thuận qua bờ giác, dưới đây, tôi xin giới thiệu phương pháp tiêu trừ nghiệp lực của Trịnh Hạ Tường sư phụ như sau:

    LỜI DẠY CÁCH GIẢI TRỪ OÁN THÙ CỦA OAN GIA TRÁI CHỦ

    1. 1. Đầu Tiên Khuyên Dạy Cách Giải Trừ Oán Thù.
    Tôi tên (xxxxx), Những oan gia trái chủ trên mình tôi (tức nghiệp lực, của một bộ phận nào trên thân thể) xin quý vị hãy nghe rõ, từ vô thủy kiếp đến nay, vì tôi bị mê hoặc trong thế giới Ta Bà, trong nhiều kiếp luân hồi, trong lúc vô ý đã làm tổn hại đến quý vị, khiến cho quý vị phải thọ vô lượng tội nghiệp trong lục đạo luân hồi, hứng chịu biết bao đau khổ, tăng thêm biết bao phiền não, tôi thường cảm thấy tội chướng sâu nặng hối hận vô cùng. Tất cả đều do tôi mê hoặc vô tri tạo nên, đời này nhờ nguyện lực từ bi gia hộ của Phật tôi được kết pháp duyên với Phật, tôi không quên quý vị, thành khẩn hy vọng quý vị cùng nhau học phật, niệm Phật tu hành, tranh thủ sớm ngày tu hành chánh quả. Đồng thời hy vọng quý vị tha thứ cho tôi, đừng trả thù tôi, nếu quý vị nhất định muốn báo thù tôi, tôi cũng không có cách nào lẩn tránh, vì nhân đó là do tôi tạo ra, nên cũng phải chấp nhận quả báo, nhưng nếu như vậy đối với quý vị cũng không có lợi ích gì, chỉ khiến quý vị cảm thấy khoái lạc nhất thời, nhưng đến cùng quý vị không giải quyết được vấn đề căn bản, vì quý vị không những không tránh được sanh tử, cùng thoát ra khỏi lục đạo luân hồi. Tôi nhận thấy cách này vừa tổn người lại không lợi ích gì cho chính mình, đối với hai bên chúng ta đều không tốt lành, vì vậy tôi thành khẩn hy vọng quý vị cùng tôi học Phật, niệm Phật hiệu A Di Đà Phật, xin ghi nhớ chỉ cần quý vị thâu lại thân tâm niệm Thánh Hiệu A Di Đà Phật, một niệm tương ứng hoành siêu tam giới, siêu thoát tam giới tức được đắc đạo, chỉ cần tinh tấn tu hành sẽ được thành Phật. Chỉ cần thâu lại thân tâm niệm Thánh Hiệu A Di Đà Phật, một niệm tương ứng phước thọ tăng trưởng, tiêu tai diệt chướng, chỉ cần thâu lại thân tâm niệm Thánh Hiệu A Di Đà Phật, một niệm tương ứng, tu gì được nấy. Nhưng chúng tôi hy vọng quý vị đừng tu nhân thiên quả báo, cố gắng tu tập, phát tâm Bồ Đề, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật thánh hiệu, chỉ cần tu hành đúng pháp, tất nhiên đắc đạo tu hành chánh quả.

    1. 2. Quy Y Tam Bảo Cho Oan Gia Trái Chủ
    Tôi tên (xxxxx), oan gia trái chủ trên thân tôi (tức nghiệp lực) quý vị hãy nghe rõ, quý vị không nghe Tam Bảo không hiểu Quy Y, cho nên thọ khổ luân hồi. Nay tôi truyền thọ Quy Y Tam Bảo, quý vị phải lắng nghe, tôi niệm một lần, quý vị hãy theo tôi niệm một lần (phải niệm ba lần)

    Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng.Quy Y Phật, Lưỡng Túc Tôn,Quy Y Pháp, Ly Dục TônQuy Y Tăng, Chúng Trung Tôn.Quy Y Phật, Không Đọa Địa Ngục,Quy Y Pháp, Không Đọa Ngạ Quỷ,Quy Y Tăng, Không Đọa Súc Sanh(niệm ba lần)
    Lễ Quy Y viên mãn, bây giờ tôi vì quý vị niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật hai ngàn tiếng. Xin mời quý vị thâu lại thân tâm cùng tôi chuyên tâm trì niệm thánh hiệu A Di Đà Phật.

    (niệm Phật 4 chữ hoặc 6 chữ tùy ý)

    1. 3. Niệm Xong Thánh Hiệu, Vì Oan Gia Trái Chủ, Tụng Tâm Kinh Một Lần.
    BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

    Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

    Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

    Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức. Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí, diệc vô đắc.

    Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.

    Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.

    Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:

    Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha (3 lần)

    1. 4. Tụng Xong Tâm Kinh, vì oan gia trái chủ, tụng Chú Vãng Sanh 21 lần.

    Chú Vãng SanhNam mô a di đa bà dạĐa tha dà đa dạĐa địa dạ tha.A di rị đô bà tỳA di rị đa, tất đam bà tỳA di rị đa tì ca lan đếA di rị đa tì ca lan đaDà di nị dà dà naChỉ đa ca lệ ta bà ha.Kệ Hồi HướngNguyện đêm công đức này,Trang nghiêm Phật Tịnh Độ,Trên đền bốn ơn nặng,Dưới cứu khổ tam đồ,Nếu có ai thấy nghe,Đều phát tâm Bồ Đề,Hết một báo thân này,Đồng sanh cõi Cực Lạc
    1. 5. Lời Kết Thúc:
    Tất cả oan gia trái chủ trên thân tôi, lúc nãy tôi vừa quy y Tam Bảo cho quý vị, tụng niệm Phật hiệu A Di Đà Phật hai ngàn tiếng, tụng Tâm Kinh một lần, tụng chú vãng sanh 21 lần. Những pháp ngữ này đều tặng cho quý vị, hy vọng quý vị đừng làm chướng ngại cho tôi, mau rời khỏi thân tôi, tìm một chỗ tốt lành mà tu hành, phá mê khai ngộ, minh tâm kiến tánh, lìa khổ được vui, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

    Nam Mô A Di Đà Phật (ba lần)

    Chú Giải:

    1. Nhất tâm chuyên niệm vạn đức hồng danh A Di Đà Phật, có thể tiêu tai chướng, phá mê khai ngộ, thuận đạt bờ giác.
    2. Khi nghiệp lực hiện tiền, tu hành tinh tấn, nhức đầu, đau chân hoặc các bộ phận khác trên thân thể không khỏe, có thể dùng phương pháp này.
    3. Trong lúc tu hành gặp chướng ngại, dùng phương pháp này, đừng dùng những văn hồi hướng khác, nên tụng chú vãng sanh siêu độ cho họ vãng sanh, tức là hồi hướng cho họ rồi, phương pháp này linh nghiệm, xin quý vị đồng tu chứng nghiệm.


    Lời Khuyến Khích


    Thuyết pháp giảng kinh, viết sách về giáo lý nhà Phật cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ, bỏ ác hành thiện. Được như thế thì công đức vô lượng.

    Nếu không có điều kiện làm những việc ấy, thì thỉnh một số kinh sách rồi chịu khó đem đến từng nhà mượn đọc, và nên khuyên họ đọc xong photo ra them nhiều bản truyền cho người khác xem hoặc đọc cho những người lớn tuổi nghe, nhất là người không biết chữ. Được như thế công đức vô lượng, vô biên. Đó gọi là pháp thí, giống như ngọn đèn mồi qua trăm ngọn đèn khác đều sang.

    Chính đức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí thì chỉ có pháp thí là công đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng”.

    Vì thế, chúng tôi tha thiết mong cầu các hang đệ tử Phật xuất gia cũng như tại gia, chúng ta cố gắng đóng góp kẻ công, người của ấn tống kinh sách truyền bá giáo lý để duy trì mạng mạch Phật pháp làm lợi ích an lạc cho chúng sanh

    Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Mười Công Đức Của Việc Ấn Tống Kinh

    1. Đã lỡ phạm tội, nếu tội nhẹ thì liền được tiêu tan, nếu tội nặng thì được chuyển thành nhẹ.
    2. Thường được thiện thần ủng hộ, tránh khỏi tất cả ôn dịch, đao binh, giặc cướp, tù tội, lửa cháy, nước trôi v.v…
    3. Nhờ chánh pháp mà những kẻ oán thù với mình trong kiếp trước được giải thoát nên tránh được sự khổ sở về tội báo thù.
    4. Ác Quỷ Dạ xoa không thể xâm phạm, cọp đói, rắn độc không hại được.
    5. Tâm được yên ổn, ngày không có sự nguy hiểm, đêm không có ác mộng, nhan sắc sáng sủa tươi tắn, khí lực dồi dào, việc làm tốt, lợi.
    6. Hết lòng phụng sự chánh pháp, tuy không mong cầu nhưng cơm ăn áo mặc tự nhiên đầy đủ, gia đình hòa thuận phước thọ miên trường.
    7. Lời nói và việc làm, trời, người đều hoan hỷ; đến nơi nào cũng được nhiều người kính mến.
    8. Nếu ngu si thì chuyển thành trí huệ, bệnh tật chuyển thành lành mạnh, nguy hiểm chuyển thành yên ổn, nếu là đàn bà sau khi chết sẽ chuyển thành đàn ông.
    9. Xa lìa các đường dữ ( địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ), được sanh vào các cõi thiện ( người, trời ) tướng mạo đoan chánh, thông minh, xuất chúng phước lộc hơn người.
    10. Đủ năng lực để gây căn lành cho chúng sanh, lấy tâm chúng sanh làm ruộng phước và sẽ thâu hoạch được nhiều quả tốt. Sanh vào chỗ nào cũng được thấy Phật, nghe pháp; ba thứ trí huệ ( văn, tư, tu ) mở rộng, chứng được sáu thần thông ( thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, thần túc và lậu tận thông) . Ấn tống Kinh, Tượng được nhiều công đức thù thắng như thế. Cho nên, gặp khi chúc thọ, cầu an, sám hối, cầu siêu, nên hoan hỷ cố gắng ấn tống.

    Người gửi bài: Thiện Thông
     

Chia sẻ trang này