Yoga-Thiền và Bí Mật Chưa Giải Đáp

Thảo luận trong 'Cải mệnh = Hatha Yoga và Dưỡng Sinh Thuận Theo Tự Nhiên' bắt đầu bởi dcba, 7 Tháng ba 2007.

  1. dcba

    dcba New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    449
    Điểm thành tích:
    0
    Thiền là phương pháp hiệu quả để thư giãn và giảm các ngưỡng sinh lý, kể cả giảm mức độ hoạt động tinh thần. Thiền giảm lo âu, căng thẳng và tăng cường sự tự tin. Nhiều nhà tâm lý dùng thiền để cải thiện thành tích vận động viên, ít nhất cũng giúp họ trấn tĩnh trước một sự kiện thể thao quan trọng. Cũng có ý kiến cho rằng, thiền có thể giúp phát lộ những tiềm năng còn đang ẩn giấu.

    Khi các phật tử Thiền tông muốn đạt tới một trạng thái "tâm linh" cao hơn, họ thường dùng một quy cách đã có từ ngàn xưa. Đó là thiền, một kỹ thuật tập trung sự chú ý để đạt tới một trạng thái biến đổi của ý thức. Khác với quan niệm thường gặp, thiền xuất hiện trong hầu hết các tôn giáo lớn, như Thiên Chúa hay Do Thái giáo.


    Hiện ở Mỹ, nhiều người tập phương pháp của Maharishi Mahesh, được gọi là thăng thiền TM (transcendental meditation), mặc dù các phương pháp khác cũng rất phổ biến. TM dùng cách thức cơ bản là lặp đi lặp lại một mantra - một âm thanh, một từ hay một vần. Các phương pháp khác thì hướng sự chú ý tới bức tranh, ngọn nến hay một bộ phận cơ thể. Chìa khóa thành công chung là tập trung vào đối tượng cho đến khi quên hết các kích thích bên ngoài và đạt tới một trạng thái khác của ý thức. Nói cách khác, thiền giúp thanh lọc các tạp niệm để vươn tới một trạng thái tinh thần siêu việt nào đó.

    Nói chung, người tập thiền thường cảm thấy thư giãn. Kiên trì tập thiền có thể cải thiện sức khỏe. Năm 1989, Alexander thấy người già tập trên ba năm có tuổi thọ cao hơn, vì thiền có tác dụng hạ mức tiêu thụ oxy, giảm nhịp hô hấp, giảm nhịp tim và huyết áp, hạ mức thán khí và lactate trong máu, thay đổi sóng điện não. Tuy nhiên, những thay đổi đó cũng xuất hiện với các hình thức thư giãn khác, cho thấy chúng còn quá "thô" khi lượng giá một kỹ thuật khá kì lạ như thiền.

    Năm 1993, nhà tâm lý Benson chứng tỏ có thể thiền qua một quy trình khá đơn giản: ngồi nhắm mắt trong phòng kín, thở sâu theo nhịp, lặp đi lặp lại một mantra. Sau 20 phút, đa số người thực hành đều thấy thư giãn rõ rệt. Tập hai lần hàng ngày, kỹ thuật đạt hiệu quả như thiền kinh điển trong việc thư giãn cả thể xác và tâm hồn.


    Ngược với những ý kiến nghi ngờ, hơn 10 năm nay, ngành thần kinh học bắt đầu đo được trạng thái thiền bằng nhiều kỹ thuật tạo ảnh não mới như tạo ảnh bằng bức xạ positron PET hay bức xạ đơn photon SPECT. Nhờ theo dõi dòng máu lưu thông trong não, chúng cho biết vùng não nào hoạt động khi ta đang thiền, đang trải nghiệm một kinh nghiệm tâm linh hay đang hoạt động nhận thức (như học ngoại ngữ chẳng hạn).

    Những nghiên cứu đó được tổng kết trong nhiều ấn phẩm, điển hình là cuốn Thiền và bộ não (844 trang) của James Austin, do Viện Công nghệ Massachusetts danh tiếng của Mỹ xuất bản năm 2001. Tờ Tuần tin tức (Mỹ) ngày 14/5/2001 đưa ra hình ảnh bộ não trong trạng thái thiền. Khi đó, cảm xúc tôn giáo liên quan với hoạt tính vùng giữa, những hình ảnh thiêng gắn với vùng phía sau bên dưới thùy thái dương; còn khi thùy đỉnh trấn dịu, người đang thiền có thể thấy mình hòa làm một với vũ trụ…

    Cần lưu ý hình ảnh vùng Broca ở thùy trán và vùng Wernicke ở thùy thái dương bên trái. Đó là hai vùng liên quan với ngôn ngữ. Người bị tổn thương vùng Broca khó phát âm đúng, nói rất vất vả nhưng nghe và đọc bình thường. Còn khi tổn thương vùng Wernicke, sẽ không còn khả năng hiểu nghĩa của ngôn ngữ nữa. Khi thiền, có người nghe thấy "tiếng nói từ bên trong". Hình ảnh PET cho thấy, khi đó vùng Broca hoạt động. Bình thường thì ta biết đó là tiếng nói bên trong của bản thân, nhưng khi đang thiền thì thông tin cảm giác bị giảm thiểu, nên nhiều người hiểu lầm là chúng gắn với một nguyên nhân bên ngoài, như thánh thần hay ma quỷ. Đó cũng là lý do người tâm thần có thể giết người, khi cho rằng mình đang thực hiện mệnh lệnh của một đấng tối cao nào đó. Nhiều nhân vật lừng danh như Dostoyevsky, Thánh Paul, Mẹ Teresa, Proust… cũng được xem là có ổ động kinh tại thùy thái dương, nên rất giầu cảm xúc tâm linh.

    Thiền và học ngoại ngữ

    Tuy chưa được theo lớp học của Giáo sư Lê Khánh Bằng cũng như chưa đọc giáo trình Phương pháp tự học và hướng dẫn tự học ngoại ngữ có chất lượng và hiệu quả cao, người viết bài này vẫn mạnh dạn cho rằng, cách đặt vấn đề của phương pháp học ngoại ngữ bằng thiền như thế có nhiều điều chưa ổn.

    Thứ nhất, giáo trình vẽ hai trung khu tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ tách biệt nhau trên não người. Đây là điều khá lạ vì khi nói về cấu trúc vỏ não của ngôn ngữ, người ta thường vẽ hai vùng Broca và Wernicke. Ngoài ra là các vùng thị giác (để đọc), thính giác (để nghe), vận động (để đọc), cũng như nhiều cấu trúc dưới vỏ não khác. Điều đó là hiển nhiên vì nhận thức là sự kết hợp tinh diệu giữa các hoạt động ý thức vỏ não và các hoạt tính vô thức dưới vỏ. Chúng ta rất băn khoăn vì không hiểu tiếng Anh và tiếng Pháp có nằm trong cùng một trung khu hay không. Theo giáo trình thì chắc là không vì với người Mỹ chẳng hạn, tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ, còn tiếng Pháp là ngoại ngữ. Vậy một người biết 20 ngoại ngữ sẽ có 20 trung khu trên vỏ não?
    [​IMG]
    Vì không có máy móc kiểm chứng giả thuyết của Giáo sư Lê Khánh Bằng, nên ta đành bằng lòng với những suy luận vậy. Rất khó tin là trên vỏ não lại có nhiều trung khu ứng với từng ngôn ngữ, vì đó chính là sự lãng phí lớn. Một cách thô thiển, có thể xem não là một máy tính với khả năng tính toán song song siêu hạng. Có lẽ, bộ não chỉ dùng các vùng nói trên chung cho mọi ngôn ngữ mà thôi. Tất nhiên, nếu các tác giả đưa ra được những bằng chứng thuyết phục, chúng tôi sẽ rút lại suy luận này.

    Thứ hai, dường như đó không phải học ngoại ngữ qua thiền, vì "việc đầu tiên mà các học viên phải làm là… thư giãn và thở. Sau đó học viên bước vào thiền tĩnh, mắt nhắm nghiền, toàn thân bất động". Và họ được hướng dẫn "tập đọc chữ cái, các âm cơ bản" rồi tiến lên học các bài cụ thể. "Tiếp theo là thiền động, vẫn tập trung cao độ vào môn học, nhưng có sự hỗ trợ của tay viết, cử chỉ, điệu bộ nếu cần, sau đó học viên viết ra những suy nghĩ của mình bằng tiếng Anh hay tiếng Việt, tùy theo trình độ".

    Đối chiếu với kỹ thuật thiền nói ở trên, ta thấy kỹ thuật học ngoại ngữ như thế không phải là thiền. Bản chất của thiền là giảm các hoạt động tinh thần để hướng tới sự thư giãn như một cách thanh lọc tinh thần, giữ bỏ tạp niệm. Vì thế nó thích hợp với các xã hội phương Tây vốn quay cuồng với nhịp sống công nghiệp. Bí quyết thành công của thiền là sự cách ly cảm giác, tức hạn chế kích thích bên ngoài mà chỉ tập trung vào mantra. Theo lời Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương thì đó là cách "làm trống" bộ não. Còn khi học ngoại ngữ, ta phải tập đọc, tập phát âm, tập các bài học theo hướng dẫn; tiếp đó lại suy nghĩ và viết ra các suy nghĩ đó… Đó đều là kích thích cảm giác, theo một nghĩa nào đó thì đều là "tạp niệm" cả. Nói cách khác, thiền và học ngoại ngữ là hai việc khác nhau về bản chất.

    Thứ ba, chỉ 5 buổi tập trong 5 tuần mà hình thành được trung khu ngoại ngữ thì thật khó tin, vì điều đó trái với cách thức vận hành chung của vũ trụ. Làm gì có chuyện chi phí tối thiểu mà kết quả lại tối đa như thế? Kinh nghiệm thông thường cho thấy, phải lao tâm khổ tứ rất nhiều mới có thể bước đầu làm chủ một sinh ngữ. Vậy các tác giả hãy đưa ra bằng chứng thuyết phục cho sự tồn tại của một trung khu ngoại ngữ như thế sau mỗi khóa học. Và nếu đúng như thế thì tại sao ta không phổ biến phương pháp ra toàn thế giới để nhân loại không còn vất vả khi tìm hiểu nhau?

    Cuối cùng, đúng như một chuyên gia tiếng Anh đã nhận xét, thực chất của phương pháp có lẽ chỉ là: thiền giúp đầu óc thanh thản, loại bỏ các suy tư không cần thiết để tập trung toàn bộ tinh lực vào bài học. Vì thế kết quả có thể tốt hơn. Trẻ em Làng SOS mạnh dạn, hoạt bát và phát âm tốt hơn cũng có thể giải thích như vậy, vì như đã nói, thiền có thể phát lộ những tiềm năng còn đang ẩn giấu. Còn lại những lập luận như tạo được trung khu ngoại ngữ chỉ sau 5 buổi tập, tình trạng "leo cột mỡ"… đều mang dấu ấn suy luận chủ quan. Chúng chưa được khẳng định bằng khoa học (như các trắc nghiệm tâm lý hay chụp ảnh não chẳng hạn). Vì thế ta cũng không nên căn cứ vào những lời động viên, khuyến khích của một số nhà khoa học nổi tiếng mà cho rằng, phương pháp học ngoại ngữ bằng thiền nói trên đã là đáng tin cậy về mặt học thuật

    Đỗ Kiên Cường
     
  2. cabachlong

    cabachlong New Member

    Tham gia ngày:
    20 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    1,152
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Yoga-Thiền và Bí Mật Chưa Giải Đáp

    NGHIÊN CỨU UY LỰC CỦA THIỀN ĐỊNH

    Stephen S Hall joins a neurological investigation into the power of meditation

    Nguyên tác: Stephan S Hall
    Việt dịch: Trần Như Mai




    Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ. Vị lãnh đạo tinh thần lưu vong của Phật Giáo Tây Tạng đã viết thư đề nghị rằng Ngài sẵn sàng cho phép các vị sư đệ tử của Ngài được tham gia cuộc nghiên cứu khoa học về não bộ của các vị sư ấy, đặc biệt là năng lực Thiền định của họ.


    Hầu hết các nhà nghiên cứu về thần kinh học có lòng tự trọng đều thối lui, nếu không nói là bỏ chạy trước một lời mời nghiên cứu về Thiền định Phật giáo, vì họ xem đây là một lãnh vực rất khó xác định rõ ràng, và như Davidson vừa qua đã thú nhận là “rất mơ hồ ”. Nhưng vị Giáo sư của Viện Đại học Wisconsin này đã nhảy lên vì vui mừng trước cơ hội này, vì chính ông là một người đã hành Thiền lâu năm – ông ta đã xin phép nghỉ dạy ở đại học để đi du hành qua Ấn độ và Sri Lanka để học phương pháp hành Thiền của Đông phương .


    Vào tháng 9 năm 1992, ông đã tổ chức và khởi đầu một cuộc hành trình đầy tham vọng để thu thập dữ kiện ở miền bắc Ấn Độ, ông phải nhọc nhằn mang theo máy phát điện xách tay, máy điện toán xách tay, các trang bị điện tử để ghi nhận những tổn thương não bộ, và đi đến tận dưới chân các ngọn đồi của rặng Hy- mã- lạp- sơn . Mục tiêu của ông là để đo lường một thực thể rất đặc biệt, nhưng cũng có vẻ rất phù du : đó là những đặc điểm thần kinh não bộ của một vị sư Phật giáo đang lúc hành Thiền. Giáo sư Davidson nói “ Những vị sư này là những lực sĩ Thế vận hội, những lực sĩ đoạt huy chương vàng của bộ môn Thiền định”.


    Công việc đã bắt đầu từng khoảng thời gian ngắn – lúc đầu các nhà sư đã từ chối không chịu để cho mình bị nối vào dây điện – nhưng bây giờ công trình nghiên cứu về Thiền đã đạt được uy tín mà trước đây một thập niên người ta khó có thể tưởng tượng nổi. Trong 10 năm qua, một số nhà sư Phật giáo do Matthieu Ricard dẫn đầu – ông này là một người Pháp có bằng Tiến sĩ về sinh học phân tử - đã thực hiện một loạt nhiều cuộc thăm viếng từ miền Bắc Ấn Độ và nhiều quốc gia Á châu cho đến phòng thí nghiệm của Giáo sư Davidson ở Madison. Ricard và các bạn đồng sự đã đeo một mớ dây điện rối rắm giống như một vòm cung gồm 256 điện cực của mạng lưới điện não đồ trong lúc ngồi trên sàn nhà của một phòng nhỏ và đáp ứng lại các kích thích thần kinh thị giác. Họ đã trải qua từ hai đến ba giờ mỗi lần trong cái máy chụp hình cọng hưởng từ tính (magnetic resonance imaging machine), cố gắng hành Thiền giữa những tiếng động lách tách và rì rầm của dàn máy điện từ đang chụp hình não bộ.


    Chưa có dữ kiện nào từ những cuộc nghiên cứu ấy được xuất bản chính thức, tuy nhiên , trong tập “ Những Viễn Kiến về Lòng Từ Bi”, một công trình sưu tập các bài diễn văn được xuất bản năm qua, Giáo sư Davidson đã ghi nhận rằng, trong số 175 đối tượng của công trình nghiên cứu, một vị sư được mời tham dự đã có những dấu hiệu năng động nhất khi bị kích thích nhiều điểm ở vùng thùy não trái phía trước đỉnh đầu, đây là vùng não bộ được liên kết với những tình cảm tích cực theo các công trình nghiên cứu gần đây.


    Trong những năm kế tiếp kể từ khi Giáo sư Davidson nhận bức điện thư từ Ngài Đạt Lai Lạt Ma, việc nghiên cứu thần kinh học về phương pháp hành Thiền của các vị sư Phật giáo đã vượt qua ngưỡng cửa của những điều có thể chấp nhận được để trở thành một đề tài đáng chú ý về mặt khoa học. Một phần của lý do này nằm ở chỗ ngày càng có nhiều kỹ thuật hiện đại đo lường não bộ có khả năng tiết lộ không những tình trạng tâm thức của hành giả đang lúc hành Thiền mà lại còn những đổi thay lâu dài trong sinh hoạt não bộ sau một thời gian hành Thiền liên tục. Và cũng chẳng có gì phải tổn thương tự ái khi các khoa học gia về thần kinh nổi tiếng trong ngành này bây giờ cũng bị tính tò mò kích thích do các phúc trình sơ khởi về những năng lực tinh thần phi thường của các vị sư Phật giáo. Giáo sư Paul Ekman của Đại học California ở San Francisco và Giáo sư Stephen Kosslyn của Đại học Harvard đã bắt đầu các công trình nghiên cứu riêng của họ về những năng lực tinh thần của các vị sư. Thêm vào đó, một vài cuộc nghiên cứu được kiểm soát chặt chẽ đã gợi ý cho thấy là những bệnh nhân Tây phương thực hành kiểu Thiền định Phật giáo có thể tạo nên những thay đổi về sinh lý não bộ và hệ miễn nhiễm.


    Tính chất sinh học của Thiền định ngày càng được kính nể, dù có vẻ miễn cưỡng, và gần đây đã đạt được một điểm mốc quan trọng khi một số khoa học gia hàng đầu của Hoa kỳ về khoa thần kinh và tâm lý ứng xử đã gặp gỡ các vị sư Tây Tạng, gồm cả Đức Đạt Lai Lạt Ma, ở một hội nghị được tổ chức tại Viện Kỹ Thuật Massachusetts ( MIT). “Bạn có thể nghĩ đến các nhà sư như những trường hợp chứng minh tiềm năng gì có thể đạt được trong lãnh vực Thiền định”, Jon Kabat- Zinn, vị cựu giáo sư Y khoa ở Đại học Y khoa Massachusetts, người đã có những nghiên cứu tiền phong về những lợi ích sức khỏe của Thiền. “ Nhưng bạn không cần phải làm một người kỳ dị, hay là một Phật tử, hoặc ngồi trên đỉnh một ngọn núi ở Ấn độ, để có thể rút ra được những lợi ích của Thiền. Kiểu nghiên cứu này đang còn trong thời kỳ phôi thai, nhưng chúng ta đang tiến gần đến việc khám phá ra nhiều điều vô cùng hấp dẫn”.


    Trong 2500 năm lịch sử của Phật giáo, tôn giáo này đã hướng năng lực của họ vào nội tâm trong một nỗ lực rèn luyện tâm thức để hiểu được trạng thái tinh thần của hạnh phúc, nhận diện và giảm thiểu nguồn gốc của những tình cảm tiêu cực, nuôi dưỡng và phát triển những trạng thái tình cảm như là lòng từ bi để đem lại niềm an lạc cho cá nhân và xã hội. Trong nhiều thập niên, các cuộc nghiên cứu khoa học ở phương Tây đã tập trung vào những ảnh hưởng ngắn hạn của Thiền trên hệ thống não bộ, họ đã tìm thấy rằng Thiền giúp giảm thiểu những dấu hiệu của căng thẳng như là nhịp đập của tim và sự bài tiết mồ hôi. Cuộc nghiên cứu này đã trở thành căn bản cho phương pháp “đáp ứng thư giãn” do Giáo sư Herbert Benson của Viện Đại học Harvard phổ biến trong những năm 1970. Tuy nhiên, Thiền Phật giáo nhấn mạnh đến những thay đổi lâu dài trong hoạt động tinh thần chứ không phải chỉ những kết quả ngắn hạn. Và chính tác dụng thần kinh và vật lý của những đổi thay dài hạn đạt được sau nhiều năm tinh tấn hành Thiền đã kích động tính tò mò của các khoa học gia.


    Giáo sư Davidson giải thích “ Trong truyền thống Phật giáo,‘Thiền’ là một từ có ý nghĩa tương đương với chữ ‘thể thao’ của Mỹ. Đó là một nhóm các hoạt động liên hệ với nhau chứ không phải chỉ một hoạt động”. Theo các hành giả Phật giáo, mỗi phần thực hành Thiền định đòi hỏi những kỹ năng tinh thần khác nhau. Ví dụ, các nhà nghiên cứu ở đại học Wisconsin đang tập trung vào ba hình thái Thiền định Phật giáo. Giáo sư Davidson nói : “Hình thái thứ nhất là tập trung sự chú ý . Với hình thái này, họ tư huấn luyện để tập trung sự chú ý vào một đối tượng trong một thời gian dài. Hình thái thứ hai là họ phát nguyện tu tập lòng từ bi. Đó là điều họ làm hằng ngày, và họ có những luyện lập đặc biệt mỗi khi họ tiên liệu sắp có những biến cố tiêu cực xảy ra, những gì làm họ tức giận hay bực bội, và rồi họ tìm cách chuyển hóa nó và truyền cho nó một liều thuốc giải độc, đó là lòng từ bi. Họ nói họ có thể làm điều đó dễ như búng ngón tay” Ông ta nói và búng ngón tay để diễn tả, “ Hình thái thứ ba gọi là ‘ tỉnh thức’. Đây là một trạng thái nhận biết rất rõ ràng bất cứ ý niệm, tình cảm hay cảm giác nào đang khởi lên mà không có phản ứng gì cả. Họ mô tả việc đó như là một sự tỉnh thức thuần tuý”.


    Não bộ có thể nhận biết, thích ứng và tự điều chỉnh các phân tử trên căn bản kinh nghiệm và sự luyện tập, điều này cho thấy rằng Thiền tập có thể để lại dấu tích sinh học trên não bộ - và chúng ta có thể chụp hình và đo lường được dấu tích này nhờ kỹ thuật chụp hình não bộ hiện đại ngày càng tinh xảo. Nhà thần kinh học Kosslyn nói: “Điều này cũng phù hợp với các văn bản nghiên cứu chuyên khoa thần kinh học, trong đó người ta nghiên cứu trí nhớ về không gian của những tài xế xe taxi và cảm giác về độ cao âm thanh của các nhạc sĩ dàn nhạc hoà tấu . Nếu bạn làm một cái gì đó, bất cứ cái gì, ngay cả chơi bóng bàn, trong 20 năm, mỗi ngày 8 giờ, thì trong não bộ của bạn sẽ có một cái gì đó khác với những người không làm những việc ấy. Nó phải như vậy thôi.


    Giáo sư Jonathan D Cohen, một chuyên gia về sự chú ý và khả năng điều khiển nhận thức của Đại học Princeton, đã bị kích động tính tò mò khi đọc các phúc trình nói rằng một số vị cao tăng Phật giáo có thể duy trì sự chú ý trong một thời gian dài. Ông nói : “ Kinh nghiệm của chúng ta – và bằng chứng ở phòng thí nghiệm thì rất nhiều – cho biết rằng con người có một khả năng chú ý giới hạn. Khi chúng ta cố gắng duy trì sự chú ý trong những khoảng thời gian dài hơn, giống như các nhà điều khiển không lưu cần phải làm, thì chúng ta xem điều đó là một nỗ lực phi thường và hết sức căng thẳng. Phật giáo lại nói nhiều về khả năng điều khiển sự chú ý một cách linh hoạt, và họ nói đến một sự tập trung chú ý đươc duy trì lâu dài mà hành giả vẫn ở trong một trạng thái an lạc chứ không còn căng thẳng nữa”.


    Nếu không có gì thay đổi thì hội nghị ở Viện Kỹ thuật Massachusetts (MIT) chứng tỏ rằng Giáo sư Davidson, một trong số những người tổ chức hôị nghị, đã tìm cách thuyết phục được một số nhân vật danh tiếng cùng tham gia với ông để khẳng định rằng nghiên cứu các phương pháp hành Thiền là một công việc đáng kính nể về mặt khoa học. Các thành phần tham dự gồm những nhà khoa học chính mạch như Eric Lauder, nhân vật lãnh đạo của dự án Di Truyền Tử của Con Người; Cohen, một nhà nghiên cứu danh tiếng về các cơ cấu thần kinh của những quyết định đạo đức và kinh tế; và Daniel Kahneman, một nhà kinh tế đoạt giải Nobel ở Viện Đại học Princeton, người đã đi tiền phong trong việc nghiên cứu tâm lý của những quyết định tài chánh.


    Giáo sư Cohen thú nhận: “Các nhà thần kinh học muốn duy trì cả phẩm chất lẫn hình ảnh nghiêm túc trong phương pháp nghiên cứu, vì thế họ không muốn thiên hạ thấy họ phóng vào một vùng đất mơ hồ của việc nghiên cứu tâm thức. Mặc khác, riêng cá nhân tôi thì tin rằng lịch sử khoa học đã hạ thấp giá trị của chúng ta khi làm cho chúng ta ngạo mạn nghĩ rằng chúng ta đã biết tất cả mọi thứ”.


    Cuộc “ thí nghiệm với các nhà sư” ở Madison đang bắt đầu chen lẫn một số nghiên cứu nhỏ nhưng gợi ý chứng tỏ rằng Thiền định Phật giáo có thể mang lại hiệu quả không những về mặt tình cảm mà còn có những hiệu quả rõ ràng về mặt sinh lý nữa. Có nghĩa là, năng lực Thiền định có thể được những người không theo Phật giáo vận dụng bằng một cách nào đó để đồng thời với việc giảm căng thẳng và lắng dịu những tình cảm tiêu cực, họ còn có thể cải thiện các chức năng miễn nhiễm nữa.


    Sức mạnh tinh thần có ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng của cơ thể là điều mà các nhà khoa học đã quan tâm từ lâu, nhất là những liên hệ giữa hệ thống não bộ, hệ miễn nhiễm và tuyến nội tiết. Chẳng hạn, Janice Kiecolt-Glaser và Ronald Glaser, là hai nhà nghiên cứu ở Viện Đại Học Ohio State University, đã thực hiện một loạt nghiên cứu chứng tỏ rằng sự căng thẳng đã làm suy yếu chức năng miễn nhiễm, mặc dù bản chất đích thực của những liên hệ đó vẫ còn chưa rõ ràng.


    Thật là thú vị khi chính những đối tượng nghiên cứu là các nhà sư Phật giáo lại rất cởi mở đối với việc giải thích khoa học về những công phu tu tập của họ. “Phật giáo, cũng giống như khoa học, dựa trên nền tảng kinh nghiệm và nghiên cứu thực nghiệm, chứ không phải trên giáo điều”. Tháng qua, Tiến sĩ Ricard đã giải thích cho tôi như vậy. “Tôn giáo này có thể được xem như là ‘một khoa học về Thiền định’ ”, ông viết như vậy, và nói thêm: “Đức Phật luôn luôn nói rằng người ta không nên chấp nhận giáo lý của ngài chỉ vì kính trọng ngài, nhưng phải khám phá lại sự thật qua chính kinh nghiệm bản thân, cũng như khi chúng ta kiểm tra phẩm chất của vàng bằng các chà xát nó trên một miếng đá hay nấu chảy nó… vv”.


    Vào tháng 7, tôi (tác giả bài này) đã tham gia vào cuộc nghiên cứu của Giáo sư Davidson và nhiều đồng nghiệp khác của ông khi chúng tôi đứng trong phòng điều khiển để theo dõi diễn tiến của cuộc thí nghiệm. Trên một màn hình vô tuyến trong phòng điều khiển, một thiếu nữ ngồi trên một cái ghế ở một phòng kế bên, ngồi trầm tư một mình. Những ý niệm ấy – và nói một cách chính xác hơn, cách cô ta cố gắng kiểm soát chúng khi bị kích động – là trọng tâm của cuộc thí nghiệm.


    Davidson đặt giả thuyết rằng một thành tố trong cơ cấu tình cảm của con người phản ảnh một sức mạnh tương đối, hay là tính bất tương xứng, trong hoạt động của hai vùng võ não phía trước đỉnh đầu – mà cuộc nghiên cứu của Giáo sư Davidson đã lý luận rằng phía bên trái liên hệ với tình cảm tích cực, và phía bên phải khi tăng cường hoạt động thì có liên hệ với sự lo âu, trầm cảm và những biến đổi tâm tính bất thường khác.


    Nhóm nghiên cứu của ông đã thực hiện những cuộc thí nghiệm trên các ấu nhi và các vị cao niên, những thiền giả tài tử và các vị cao tăng Đông phương, trong một nỗ lực xác định một mạch thần kinh phức tạp nối liền võ não trước đỉnh đầu với các cấu trúc não bộ khác như hạch amygdala, là nơi phát xuất sự sợ hãi, và hạch vòng đai cingulate phía trước, được xem là có liên hệ đến việc “theo dõi xung đột”. Một vài cuộc thí nghiệm cũng đã chứng tỏ rằng kích thích hoạt động ở thùy não trái phía trước đỉnh đầu có liên hệ đến việc nâng cao hoạt động miễn nhiễm nhờ các tế bào có khả năng tiêu diệt tự nhiên và các dấu hiệu miễn nhiễm khác.


    Khi một khoa học gia trong phòng kiểm soát nói: “Được rồi, đây là bức hình thứ nhất”, người thiếu nữ có vẻ rất căng thẳng, nắm chặt khuỷu tay. Các điện cực bò ra khỏi da đầu và từ hai điểm ngay dưới mắt trái của cô. Và rồi, nhìn chăm chú vào màn hình, người thiếu nữ ngắm một loạt các hình ảnh rùng rợn đang chiếu trên màn ảnh trước mắt cô - một thân thể con người bị cắt rất ghê rợn, một bàn tay bị chặt đứt, một con rắn độc đang chuẩn bị tấn công. Qua ống nghe, cô gái được nhắc nhở để điều chỉnh các phản ứng tình cảm khi mỗi hình ảnh xuất hiện, hoặc nâng cao hoặc đè nén nó, trong lúc điện cực dưới mắt cô âm thầm đập nhẹ vào một mạch thần kinh chứng tỏ rằng cô đã điều chỉnh thành công các phản ứng tình cảm tích cực hoặc tiêu cực trước các hình ảnh đó”. Davidson giải thích rằng “ Cái đang được đo lường là khả năng của một người có thể tự ý điều chỉnh phản ứng tình cảm của họ.”


    Daren Jackson, trưởng nhóm nghiên cứu nói thêm: “Thiền định có khả năng thúc đẩy việc loại trừ các phản ứng tiêu cực nhanh hơn và tự nhiên hơn”.


    Những vị sư được mời tham dự, cũng như một nhóm nhân viên văn phòng có thực tập Thiền ở một công ty sinh học gần đó, đã được cho nhìn những hình ảnh rùng rợn ấy với cùng một mục đích: để xác nhận cái mà Davidson gọi là “ phong cách tình cảm” ( Ví dụ, nếu họ có khuynh hướng cứ bám chặt những phản ứng tình cảm tiêu cực ) và tìm hiểu xem những phong cách ấy có thể điều chỉnh nhờ những nỗ lực tinh thần theo kiểu Thiền định hay không. Chính Giáo sư Davidson và các cộng tác viên của ông là Giáo sư Kabat-Zinn hy vọng rằng uy lực của Thiền định có thể được trang bị để hỗ trợ không những cho sự an vui về tình cảm mà còn về sức khỏe thể chất nữa.


    Kể từ khi thành lập Trung Tâm Y Tế Giúp Giảm Thiểu Căng Thẳng ở trường Y Khoa thuộc Viện Đại học Massachusetts vào năm 1979, Giáo sư Kabat-Zinn và các đồng nghiệp đã chữa 16,000 bệnh nhân và dạy cho hơn 2,000 chuyên viên y tế về kỹ thuật “Thiền Tỉnh Thức”, theo đó họ giảng dạy một phương pháp Phật giáo về sự tỉnh thức toàn diện trong phút giây hiện tại “ mà không phê phán”, như một cách để giảm thiểu căng thẳng. Trong thời gian đó, ông đã xuất bản những công trình nghiên cứu nhỏ nhưng rất đáng chú ý, ông đã chứng minh rằng những người mắc bệnh vẩy cá có thực tập Thiền đã lành bệnh nhanh gấp 4 lần những người không thực tập Thiền, và các bệnh nhân ung thư có thực tập Thiền đã có những biểu hiện tình cảm tốt hơn rất nhiều so với nhóm người không thực tập Thiền; và không những Thiền đã giúp các bệnh nhân chấm dứt các triệu chứng của bệnh lo âu và đau nhức mãn tính mà lại còn kéo dài những lợi lạc ấy đến 4 năm kể từ khi được huấn luyện để hành Thiền. Giáo sư Kabat-Zinn đang thực hiện một công trình nghiên cứu cho công ty Chăm Sóc Sức Khoẻ Cigna để xem thử có phải Thiền giúp giảm bớt phí tổn chữa trị các bệnh nhân có hội chứng mệt mỏi kinh niên, bệnh sưng khớp và hội chứng ruột già bất ổn.


    Trong thời gian chờ đợi này, khoa học về Thiền định vẫn còn mắc kẹt vào một địa hạt văn hóa đang còn trong vòng tranh chấp, giữa một điều có vẻ như mâu thuẫn nghịch lý và một cái gì có vẻ rất có thực. Davidson nói: “Chúng tôi đang ở trong giai đoạn đầu của cuộc nghiên cứu”, và ông công nhận rằng “đại đa số các cuộc nghiên cứu về Thiền đều có phẩm chất kém”. Nhưng một công trình nghiên cứu được hoạch định kỹ lưỡng do Davidson, Kabat-Zinn và các đồng nghiệp của họ xuất bản vào tháng 7 sẽ cung cấp thêm bằng chứng cho thấy đề tài nghiên cứu là hợp lý.


    Vào tháng 7, 1997, Davidson đã tuyển mộ các đối tượng nghiên cứu ở một công ty kỹ thuật sinh học bên ngoài Madison gọi là Promega để nghiên cứu tác dụng của Thiền định Phật giáo trên các hoạt động thần kinh và hệ miễn nhiễm của nhân viên văn phòng Mỹ bình thường. Não bộ của các nhân viên này được gắn dây điện và đo trước khi họ bắt đầu một khóa huấn luyện về Thiền do Kabat-Zinn giảng dạy. Đây là một công trình nghiên cứu trong đó các đối tượng được chọn một cách tình cờ và được kiểm soát kỹ, và sau 8 tuần, các nhà nghiên cứu đã trắc nghiệm lại não bộ và các dấu hiệu miễn nhiễm để đánh giá tác dụng của Thiền.


    Có vài nhân viên tỏ vẻ do dự không muốn tình nguyện tham gia, nhưng cuối cùng khoảng 48 nhân viên đã tham dự cuộc nghiên cứu. Mỗi tuần một lần trong vòng 8 tuần, Giáo sư Kabat-Zinn sẽ xuất hiện ở công ty Promega với cái hộp có cán dài, các băng cassette nhạc Thiền màu đỏ và tím, và cái chuông chùm kiểu Tây Tạng, và số nhân viên của công ty Promega đã được tập họp lại - gồm có các nhà khoa học, nhân viên tiếp thị, nhân viên kỹ thuật phòng thí nghiệm và cả những viên quản đốc nữa - họ sẽ ngồi trên sàn nhà của phòng hội nghị và thực tập Thiền trong 3 giờ.


    Vào tháng 7, kết quả cuộc thí nghiệm ở công ty Promega đã được xuất bản trong tạp chí Y Học về Thân và Tâm, và các nhà khoa học gợi ý rằng quả thật Thiền có thể để lại một dấu ấn rõ ràng và kéo dài trên tâm thức và thân thể của hành giả. Trong số các nhân viên của công ty Promega có thực tập Thiền trong 2 tháng, các nhà nghiên cứu ở Viện Đại học Wisconsin đã tìm thấy sự gia tăng đáng kể các hoạt động trong nhiều vùng của thùy não trái phía trước đỉnh đầu – các hoạt động gia tăng này đã kéo dài ít nhất 4 tháng sau cuộc thí nghiệm, khi các đối tượng được trắc nghiệm trở lại. Hơn nữa, những người có thuỳ não trái phía trước đỉnh đầu gia tăng hoạt động nhiều nhất sau khi thực tập Thiền thì họ cũng chứng tỏ có khả năng tạo ra các kháng thể mạnh mẽ hơn để chống trả vi khuẩn khi họ được chích ngừa bệnh cúm. Giáo sư Kabat-Zinn gợi ý rằng, kết quả cuộc nghiên cứu chứng tỏ những chuyển đổi chất lượng trong hoạt động của não bộ chỉ sau 2 tháng hành Thiền đã phù hợp với những kết quả sơ khởi được tìm thấy nơi các hành giả chuyên nghiệp như các vị sư Phật giáo.


    Vào thời điểm thuận lợi nhất, những kết quả ấy vẫn còn được đón nhận một cách thận trọng. Thật vậy, theo giáo sư Davidson, cuộc nghiên cứu của Viện Đại học Wisconsin phải mất 5 năm mới được xuất bản từng phần bởi vì nhiều nguyệt san danh tiếng đã từ chối ngay cả việc gửi các kết quả nghiên cứu ấy cho các nhà chuyên môn thẩm định giá trị. Tuy nhiên, vào lúc cuộc nghiên cứu chấm dứt, những kinh nghiệm chủ quan cuả các tham dự viên đã bổ sung cho các dữ kiện khách quan: Thiền tập cuối cùng đã giúp cho con người cảm thấy khỏe mạnh hơn, tích cực hơn và giảm bớt căng thẳng. Michael Slater, một nhà sinh học phân tử ở công ty Promega đã nói :“Quả thật tôi là một nhà khoa học thực nghiệm trong mọi lãnh vực của đời tôi. Tôi nghi ngờ giáo điều, và tôi đã thử thực tập Thiền. Tôi đã thực hành tại phòng thí nghiệm nhưng cũng tại nhà riêng. Và Thiền đã hấp dẫn tôi bởi vì tôi có thể cảm nhận được sự hạ giảm căng thẳng trong tôi. Tôi có thể nói là tôi bớt cau có gắt gỏng. Tôi có khả năng tiếp nhận nhiều áp lực công việc hơn. Vợ tôi cũng cảm thấy tôi thoải mái hơn khi bà ấy đến gần. Như vậy đã có những tác dụng rõ rệt. Đối với một nhà khoa học thực nghiệm, như vậy là đủ”.


    Cứ cho vậy là đúng đi, nhưng điều đó cũng chưa đủ đối với nhiều người khác, nhất là những người đa nghi về khoa học. Nhưng Slater đã buột miệng đưa ra một lời nhận xét mà tôi cho là một cách thẩm định giá trị có tính thuyết phục rất cao, mặc dù hoàn toàn không chính thức. Slater nói rất nhỏ nhẹ: “ Vợ tôi hết sức cầu mong cho tôi bắt đầu hành Thiền trở lại”.

    -------------------

    Sources: Australian Financial Review, 7 November 2003. Bài báo này xuất hiện lần đầu tiên trên tờ New York Times Magazine.

    Stephen S Hall là tác giả của cuốn Merchants of Immortality: Chasing the Dreams of Human Life

    Nguồn: http://www.quangduc.com/Thien/66thien-uyluc.html

    ( Theo bác Xinchao-tuvilyso.com)
     
    Last edited by a moderator: 22 Tháng tư 2007
  3. uyenuyen

    uyenuyen Guest

    Ðề: Yoga-Thiền và Bí Mật Chưa Giải Đáp

    Nhận thức bản thân mình và sự phát triển cá nhân

    Ta đã nên người trong một nền văn hóa có thói quen dưới hai hình thái đối lập: vật chất và tinh thần. Chúng ta có thể thống nhất với nhau rằng: toàn bộ kiến thức của chúng ta về tâm lý đều là tạm thời. Tính tạm thời về tâm lý này, dựa vào nền tảng sinh học của mỗi người. Tâm lý thường nằm ở bên ngoài ý thức của mỗi người.

    Vòng cuốn của đô thị hóa, mỗi chúng ta còn rất ít thời gian hay cơ hội để nhận thức. Cuộc sống rộng lớn luôn luôn thách thức cho sự tồn tại. Khoa học tự nhiên và kỹ thuật, giúp loài người chiếm lĩnh ngày càng mạnh mẽ, và ngày càng có hiệu quả thế giới bên ngoài, thiết lập một nền văn minh vật chất phong phú và hùng hậu chưa từng thấy. Mọi hoạt động của chúng ta chủ yếu, hay gần hết, đều hướng ra bên ngoài; Theo đó, đời sống tinh thần bên trong cũng được lôi cuốn, thôi thúc và huy động vào mục đích này: văn minh vật chất.

    Sự tương ứng đồng thuận giữa "nội tâm và ngoại giới", xuyên suốt quá trình tiến hóa của loài người, hình thành thể thống nhất ở con người những mối quan hệ: đời sống vật chất, đời sống sự sống và đời sống tinh thần. Những hoạt động bên trong của nội tâm, nhất là những hoạt động của đời sống tâm linh, luôn là mục đích tự thân của con người, để lập lại sự cân bằng giữa " nội tâm và ngoại giới". Thiết lập lòng tin cho sự tồn tại. Con đường đời sống tâm linh hình thành giấc ngủ Vũ trụ.

    Sự thức tỉnh tâm linh cho con người có hai " Cái ta". Một "Cái ta thật" và một "Cái ta giả". " Cái ta giả" là cái thế giới hiện tượng vô cùng phong phú và đa dạng, là một chuỗi sinh thành sinh động. Thế giới hiện tượng bên ngoài tái tạo những ý nghĩ, ý muốn bị dồn vào tiềm thức mà chính ta không biết.(Vô minh). " Cái ta thật" là cái phổ biến cùng khắp Vũ trụ, cái ta sáng suốt, thanh tịnh, tuyệt đối, bất biến. Cái Siêu thức - Sự bùng nổ năng lương Trí tuệ (Ấn độ giáo gọi là Brahman, Phật giáo gọi là Chân như, Niết bàn ). Năng lượng Trí tuệ bùng nổ, không phải bằng giác quan thông thường, cũng không phải bằng tư duy lo gich, mà bằng Trí tuệ thực nghiệm, đó là sự thống nhất chủ thể tri giác và đối tượng tri giác, trên con đường TƯ DUY CHÍNH ĐÁNG. Một sự trở về có ý thức, mọi người hãy trở về với " Cái ta thật" của mình. Trung tâm của trường ý-thức, khi cái tôi có ý-thức về chính bản thân nó - đó là cái Siêu thức.

    Trao đổi thông tin, là trao đổi những ý-chung, một ý nghĩa không tùy thuộc chúng ta. Với lưu lượng mười từ mỗi phút. Mỗi ngày, ta tái tạo vài chục nghìn ý-chung đó. Cái gì, có thể tạo ra hiệu ứng trong một hiện thực (khác), thì chính nó cũng phải được coi như một hiện thực.

    Ta quan hệ với chính ta nhiều hơn, hay là quan hệ với bên ngoài ? Ký ức tự nhớ lại, tái tạo ở ta một nghiệm sinh. Đôi khi, chỉ nhớ lại một chuyện buồn xa xưa mà ta ứa lệ, chuyện ấy đã lún sâu vào quá khứ, nhưng nỗi buồn và nước mắt là hiện tại của ta. (Quá khứ và hiện tại là một). Ta nghĩ tới buổi hẹn hò ướt át sắp tới với người yêu, thì một loạt phản ứng trong ta, ta cũng nghiệm sinh tức khắc điều ấy (hiện tại và tương lai cũng chỉ là một). Đó là mối quan hệ nội tại ta với chính ta, là mối quan hệ Tâm-động.

    Khi sự thức tỉnh của tâm linh đòi hỏi một sự trả lời: " qua đâu mà sự sống sinh ra tư duy ? Cái gì tái tạo ra tư duy ?"
     
  4. phac

    phac New Member

    Tham gia ngày:
    7 Tháng năm 2007
    Bài viết:
    16
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Yoga-Thiền và Bí Mật Chưa Giải Đáp

    Bí mật chưa giải đáp

    Mọi ý chung đều phải chứa đựng một sự thật nào đó ! Kiến thức của chúng ta ngày một phát triển khả năng tác động vào vật giới, nhận thức ở mỗi chúng ta ngày một tinh vi, chân trời ngày một mở rộng nhờ tiến bộ của khoa học công nghệ. Con người sáng tạo khả năng và giới hạn trong mối quan hệ giữa mình với vật chất, càng ngày con người càng biết thay đổi cấu trúc của sự vật, điều khiển quỹ đạo vận động của chúng trong Vũ trụ.

    Không phải ai cũng có khả năng đào bới thế giới thầm kín của vật chất và bí mật của Sự sống !
     
  5. phac

    phac New Member

    Tham gia ngày:
    7 Tháng năm 2007
    Bài viết:
    16
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Yoga-Thiền và Bí Mật Chưa Giải Đáp

    Tôi chưa thể nhận thức được tại sao ? Sự thức tỉnh Tâm linh lại có quan hệ với sự hình thành giấc ngủ Vũ trụ. !!!
    Với ngôn ngữ Toán học: chia bất cứ số nào với số Không, kết quả đều Vô tận.
     

Chia sẻ trang này