1. vtrung

    vtrung Guest

    (Sưu tầm)

    [Hình] tượng Phật chế tạo từ công xưởng chỉ là một tác phẩm nghệ thuật. ‘Khai quang’ chính là thỉnh mời một Pháp thân của Phật vào tượng Phật; rồi sau đó, coi tượng Phật như một thân thể hữu hình [của Phật] nơi người thường để thờ cúng. Người luyện công có cái tâm kính ngưỡng ấy, [thì] khi tu luyện, Pháp thân trên tượng Phật sẽ vì họ mà hộ Pháp, coi sóc họ, bảo hộ họ; đây là mục đích chân chính của khai quang. Chỉ khi phát xuất chính niệm trong nghi thức khai quang chính thức, hoặc có Đại Giác Giả tại tầng rất cao, hoặc có người tu luyện ở tầng rất cao có lực lượng [quyền lực] ấy thì mới có thể thực hiện được sự việc này.

    Trong chùa giảng rằng tượng Phật cần phải khai quang; họ nói rằng tượng Phật chưa qua khai quang thì không linh. [Về] các hoà thượng trong chùa hiện nay, các đại Pháp sư chân chính, đều đã [qua đời] không còn tại thế. Từ sau “Đại cách mạng Văn hoá”, trong những tiểu hoà thượng có những vị không được chân truyền [nhưng] hiện nay làm trụ trì; có rất nhiều điều bị thất truyền. Hỏi họ khai quang để làm gì? Họ nói: ‘Khai quang xong, tượng Phật sẽ linh’. Cụ thể linh [nghiệm] ra sao, họ không nói rõ được. Do đó họ chỉ cử hành nghi lễ, đặt một cuốn tiểu kinh văn vào trong tượng Phật, sau đó lấy giấy hồ [kín] lại, [rồi] hướng vào đó niệm kinh, và họ nói rằng đã khai quang xong. Nhưng đã đạt được khai quang chưa? Còn phải xem họ niệm kinh ra sao. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng chính niệm, [đạt đến được] niệm kinh nhất tâm bất loạn, thì thật sự có khả năng tạo ra chấn động đến thế giới pháp môn tu của Ông, như thế mới mời được Giác Giả. Một Pháp thân của Giác Giả này sẽ đến và nhập lên [tượng Phật], như thế mới đạt được mục đích khai quang. Có hoà thượng ở đó [vừa] niệm kinh, vừa nghĩ trong tâm: ‘Khai quang xong [người ta] đưa mình bao nhiêu tiền nhỉ.’ Hoặc là vừa niệm kinh vừa nghĩ: ‘Người kia xử tệ với mình quá’. Họ ở đó cũng có lục đục tranh chấp, hiện nay vào thời kỳ mạt Pháp, không thể không thừa nhận những hiện tượng ấy; tại đây chúng tôi không [định] phê bình Phật giáo; vào thời kỳ mạt Pháp có những ngôi chùa chẳng hề thanh tịnh. Khi trong đầu họ nghĩ những thứ ấy, phát sinh những niệm đầu không tốt như thế, hỏi các Giác Giả có thể đến không? Hoàn toàn không đạt được mục đích khai quang. Tuy vậy [cũng] không tuyệt đối, cũng có một số chùa và Đạo viện cá biệt vẫn còn tốt.

    Ở một thành phố nọ tôi thấy một hoà thượng, tay đen thui. [Vị ấy] nhét cuốn kinh văn vào tượng Phật, dán dán lại, miệng lẩm nhẩm đọc một chập là coi như khai quang xong. Lại lấy một tượng Phật nữa, lại lẩm nhẩm một chập; mỗi một lần khai quang là 40 đồng. Hoà thượng hiện nay đã biến [khai quang] thành hàng hoá thương mại, kiếm tiền bằng khai quang tượng Phật. Tôi nhìn một cái là thấy ngay khai quang chưa được, hoàn toàn không khai quang; hoà thượng ngày nay còn làm cả những việc như thế. Tôi còn thấy một việc gì nữa? Trong chùa có một vị kia, trông giống như một cư sỹ, nói là khai quang tượng Phật; vị này hướng mặt một chiếc gương về phía mặt trời, để ánh sáng phản chiếu lên thân của tượng Phật, họ nói thế là khai quang xong. Đúng là đã đến mức thật quá tức cười! Phật giáo hôm nay đã phát triển đến mức độ ấy; nó còn là một hiện tượng rất phổ biến. Một bức tượng Phật lớn bằng đồng chế tạo tại Nam Kinh, [được] đưa đến đặt trên Đại Dữ Sơn ở Hồng Kông; tượng Phật rất to lớn. Nhiều hoà thượng trên toàn thế giới đến để khai quang tượng Phật này; trong đó có một hoà thượng hướng mặt tấm gương về phía mặt trời, để ánh sáng phản chiếu rọi lên mặt của tượng Phật [và] gọi đó là khai quang. Một đại hội lớn đến thế, ở một trường hợp nghiêm túc đến thế mà còn làm những việc ấy; tôi nhận thấy rằng thật đáng buồn thay! Không lạ gì, Thích Ca Mâu Ni giảng: Đến thời kỳ mạt Pháp, hoà thượng độ bản thân còn rất khó, độ nhân lại càng khó hơn. Thêm vào đó còn có nhiều hoà thượng đứng tại góc độ của bản thân mình mà giải thích kinh Phật; cái thứ gọi là ‘Vương Mẫu Nương Nương kinh’ cũng lọt được vào trong chùa; những điều không phải là kinh điển trong Phật giáo cũng lọt vào trong chùa; làm loạn lung tung cả, bây giờ thật loạn. Tất nhiên, vẫn có những hoà thượng tu luyện một cách chân chính, và còn rất tốt. Khai quang trên thực tế là thỉnh mời Pháp thân của Giác Giả về ngụ trên tượng Phật; đó là khai quang.

    Nếu bức tượng Phật ấy chưa được khai quang thì không thể [thờ] cúng; nếu [thờ] cúng thì sẽ mang đến hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng gì? Hiện nay những [người] chúng ta làm khoa học về [thân] thể người đã phát hiện rằng, ý niệm của con người chúng ta, tư duy trong đại não con người có thể sinh ra một loại vật chất. Chúng tôi ở tầng rất cao nhìn thấy nó thật sự là một loại vật chất; tuy nhiên loại vật chất ấy không giống như hình thức sóng điện não mà hiện nay chúng ta nghiên cứu phát hiện ra, mà là một loại hình thức đại não hoàn chỉnh. Bình thường người thường nghĩ tưởng về một vấn đề gì thì phát xuất ra một thứ có hình thái đại não; bởi vì nó không có năng lượng, nên [sau khi] phát xuất ra một thời gian ngắn liền tản mất; nhưng năng lượng của người luyện công thì được bảo trì trong một thời gian lâu hơn. [Tôi] không nói rằng bức tượng Phật ấy sản xuất ra khỏi công xưởng liền có tư tưởng; [nó] không có. Nhưng có những chiếc chưa được khai quang, họ mang [chúng] lên chùa rồi cũng không đạt được mục đích khai quang. Nếu như tìm đến khí công sư giả, [hoặc] người theo tà môn oai đạo để khai quang, thì nó càng nguy hiểm hơn: cáo, chồn sẽ gắn lên đó.

    Như vậy nếu tượng Phật kia chưa được khai quang, chư vị lên đó bái [lạy], thì rất nguy hiểm. Nguy hiểm đến mức độ nào? Tôi đã giảng rằng nhân loại phát triển cho đến hôm nay, hết thảy đều đã bại hoại; hết thảy mọi thứ ở trong toàn bộ xã hội, trong toàn bộ vũ trụ đều theo nhau trở nên bại hoại; hết thảy mọi sự việc ở chốn người thường chúng ta đều là do tự mình tạo thành hết. Muốn cầu chính Pháp, [muốn] theo chính Đạo đều rất khó; can nhiễu đủ mọi phương diện. Muốn cầu Phật, hỏi ai là Phật? Muốn cầu rất khó. [Nếu] không tin [thì hãy] để tôi giảng: Hễ người thứ nhất đến trước tượng Phật chưa được qua khai quang mà bái [lạy] một cái là hỏng rồi. Hiện nay bái Phật hỏi có mấy người mang trong tâm mong muốn cầu Phật đắc chính quả? Những người như thế quá ít. Mục đích của đại đa số người bái Phật là gì? Tiêu tai, giải nạn, phát tài, [họ] cầu những thứ ấy. Đó có phải là những điều trong kinh điển Phật giáo không? Hoàn toàn không phải những thứ ở tầng này.

    Chẳng hạn người bái Phật cầu tiền, bái [lạy] trước tượng Phật, hoặc tượng Bồ Tát Quán Âm, hoặc tượng Phật Như Lai mà nói: ‘Cho con xin phát tài’. Tốt thôi, một ý niệm hoàn chỉnh bèn hình thành. [Vì] nó hướng đến tượng Phật mà phát xuất ra, nên [nó] lập tức gắn lên tượng Phật. [Thân] thể tại không gian khác, có thể phóng lớn thu nhỏ; [nó] gắn lên thân kia rồi, thì tượng Phật ấy sẽ có một đại não, sẽ có tư tưởng; nhưng chưa có thân thể. Những người khác cũng đến bái [lạy], bái tới bái lui, sẽ cấp cho nó một năng lượng nhất định. Đặc biệt nếu người luyện công thì còn nguy hiểm hơn; hễ bái [lạy] thì dần dần cấp năng lượng cho nó; nó sẽ hình thành một thân thể hữu hình; tuy nhiên thân thể hữu hình ấy hình thành tại không gian khác. Sau khi hình thành rồi thì nó ở không gian khác; nó có khả năng biết được một số [Pháp] lý trong vũ trụ; do vậy nó có thể vì người mà làm một chút việc, như thế nó cũng tăng trưởng một chút công; nhưng giúp đỡ người ta là có điều kiện, có tính công. Tại không gian khác nó hành động tự do như ý, khống chế người ta hết sức tự do như ý. Cái thân thể hữu hình ấy so với hình tượng của bức tượng Phật thì giống hệt như đúc; [đây] chính là Bồ Tát Quán Âm giả, Phật Như Lai giả do con người bái [lạy] mà nên, là do con người bái [lạy] mà xuất lai; hình dáng [nó] trông giống hệt như tượng Phật, hình tượng của Phật. Nhưng tư tưởng của Phật giả, Bồ Tát giả [ấy] cực kỳ xấu, [nó truy] cầu tiền. Nó sinh ra ở không gian khác, nó có tư tưởng, nó hiểu biết được một chút [Pháp] lý, nó không dám làm những điều xấu nghiêm trọng, nhưng nó dám làm những điều xấu nhỏ nhặt. Có những lúc nó giúp đỡ con người, nếu không giúp đỡ con người thì [nó] đã hoàn toàn là tà, nên cần phải giết nó. Giúp như thế nào? Một người kia nói: ‘[Con] cầu xin Phật giúp đỡ giúp đỡ, con có người nhà đang lâm bệnh’. ‘Tốt, ta giúp ngươi’. Nó liền để chư vị bỏ tiền vào hòm công đức: tư tưởng của nó cần tiền. Tiền bỏ vào hòm công đức nhiều bao nhiêu, [nó] liền làm bệnh chư vị mau khỏi bấy nhiêu. Bởi vì nó có năng lượng, ở không gian khác có thể thao túng người thường. Nhất là khi người có công đến bái [lạy], thì còn nguy hiểm hơn. Người luyện công cầu điều chi? Cầu tiền ư? Mọi người thử nghĩ, người luyện công cầu tiền tài là sao? Cầu mong giúp thân nhân tiêu nạn tiêu bệnh chính là chấp trước đối với tình cảm thân quyến. Phải chăng muốn chi phối vận mệnh của người khác; mỗi người đều có vận mệnh của mình chứ! Nếu chư vị bái [lạy] nó, lẩm nhẩm: ‘Con xin được phát tài’. Tốt thôi, nó giúp chư vị; nó muốn chư vị cầu nhiều tiền, càng cầu nhiều tiền chút nào, nó lấy được của chư vị thêm chút ấy; giao hoán bình đẳng mà. Người khác bỏ tiền vào hòm công đức cho nó; nó để chư vị được [tiền]. Được như thế nào? Ra khỏi cửa thì nhặt được ví tiền, [hoặc được] đơn vị [công tác] thưởng tiền; dù sao thì nó cũng để chư vị được tiền. [Nhưng] nó không thể giúp chư vị một cách vô điều kiện phải không? Bất thất bất đắc; [nó] lấy một phần công của chư vị; hoặc lấy của chư vị những thứ như đan đã luyện thành, nó cần những thứ ấy.

    Những Phật giả ấy có những lúc rất nguy hiểm. Rất nhiều người chúng ta đã khai thiên mục và tưởng rằng tự mình đã nhìn thấy Phật. Có người nói rằng hôm nay ở chùa có một nhóm chư Phật đến, ông Phật kia tên là gì đã dẫn một nhóm chư Phật đến. [Lại] nói hôm qua một nhóm như thế như thế đã đến, hôm nay một nhóm như thế như thế đã đến, một lúc rồi rời đi, lại một nhóm nữa đến. Là gì vậy? Chính là cái loại này. Chúng không phải là Phật thật, mà chúng là [Phật] giả; loại này rất là nhiều. Nếu như xuất hiện tình huống này ở chùa, thì thật nguy hiểm hơn nữa. Hoà thượng mà bái [lạy] nó, như thế nó sẽ quản hoà thượng: ‘Ngươi chẳng phải đang bái [lạy] ta? Ngươi rất minh bạch đang bái [lạy] ta! Tốt lắm, chẳng phải ngươi muốn tu luyện? Ta sẽ quản ngươi, ta sẽ để ngươi tu như thế như thế’. Nó an bài cho chư vị, vậy chư vị tu thành thì sẽ tu đến đâu? Tu là do nó an bài, thì các pháp môn trên kia đâu có nhận. Nó an bài, thì chư vị tương lai sẽ quy về nó [cai] quản. Vậy chư vị chẳng phải tu cũng như không hay sao? Tôi nói rằng hiện nay nhân loại muốn tu đắc chính quả thật rất khó. Hiện tượng thế này rất phổ biến; tại danh sơn đại xuyên có người chúng ta thấy Phật quang, phần đông là thuộc loại này; chúng có năng lượng, nên có thể hiển hiện ra được. Đại Giác Giả chân chính không tự dưng hiển hiện như thế.

    Trong quá khứ những cái gọi là ‘địa thượng Phật’, ‘địa thượng Đạo’ này tương đối ít; nhưng hiện nay rất nhiều. Khi chúng làm điều xấu, ở trên sẽ muốn giết chúng; định giết thì chúng liền chạy vào tượng Phật. Các Đại Giác Giả thông thường không tự dưng can thiệp vào [Pháp] lý nơi người thường; Giác Giả càng cao càng không phá hoại [Pháp] lý nơi người thường, không động tới một chút nào. Không lẽ đột nhiên đánh sét làm vỡ tan tượng Phật; họ không làm những việc ấy; do đó nó chạy vào tượng Phật thì [họ] cũng không quản. Nó biết là muốn giết nó, nó liền chạy. Vì vậy Bồ Tát Quán Âm mà chư vị thấy có phải là Bồ Tát Quán Âm không? Phật mà chư vị thấy có phải là Phật không? Rất khó khẳng định.

    Rất nhiều người chúng ta liên tưởng về vấn đề này: ‘Tượng Phật ở nhà mình thì thế nào nhỉ?’. Có thể có nhiều người đã nghĩ đến tôi. Để trợ giúp học viên tu luyện, tôi dạy chư vị làm thế này: chư vị vừa cầm cuốn sách của tôi (vì trong sách có ảnh tôi) hoặc ảnh chụp hình tôi, tay chư vị bê tượng Phật, làm thủ ấn đại liên hoa, sau đó như là cầu tôi vậy: ‘Cầu Sư phụ khai quang cho’. Sau nửa phút là vấn đề giải quyết xong. [Tôi] nói với mọi người rằng, [việc này] chỉ giới hạn trong những người tu luyện chúng ta; khai quang cho bè bạn thân quyến là không được, chúng tôi chỉ quản người tu luyện thôi. Có người nói rằng đưa [hình] tượng Sư phụ đến nhà bạn bè thân quyến để trừ tà; tôi [ở đây] đâu phải để trừ tà cho người thường; ấy là [hành vi] bất kính lớn nhất đối với Sư phụ. Giảng đến vấn đề địa thượng Phật và địa thượng Đạo. Còn một tình huống nữa, Trung Quốc cổ đại có rất nhiều người tu luyện tại núi sâu rừng già. Vì sao hiện nay không có? Kỳ thực không phải là không có, mà là không để người thường biết; cũng không thiếu đi chút nào; những vị này đều có công năng. Mấy năm nay không phải là những vị này không có mặt, họ đều có cả đấy. Hiện nay trên thế giới còn có vài nghìn; Trung Quốc nước ta tương đối nhiều hơn. Đặc biệt là ở các danh sơn đại xuyên đều có, một số núi cao cũng có. Họ dùng công năng bít [hang] động lại, do đó không thấy được sự tồn tại của họ. Họ tu luyện rất chậm, chiêu [pháp] của họ không lanh lợi, [vì] họ không nắm được trung tâm của tu luyện. Còn chúng ta trực chỉ nhân tâm, chiểu theo đặc tính tối cao của vũ trụ chúng ta mà tu luyện, chiểu theo hình thức ấy của vũ trụ mà tu luyện, nên đương nhiên công tăng trưởng rất mau. Vì các pháp môn tu luyện cũng như hình kim tự tháp, chỉ có ở giữa là đại đạo [đường lớn]. Còn tiểu đạo [đường nhỏ] ở các bên, thì tâm tính tu luyện không nhất định là cao; có khi tu chưa cao đã khai công rồi; còn so với các đại đạo tu luyện chân chính thì [chúng] khác biệt nhiều lắm.

    Họ cũng có đồ đệ truyền thừa; môn của họ tu cao đến đó, tâm tính của họ cũng cao đến đó; do đó đồ đệ của họ cũng tu được cao đến đó [thôi]. Là tiểu đạo thế gian càng ở biên thì thuyết pháp càng nhiều, phương pháp tu trì cũng phức tạp, không có nắm trúng trung tâm mà tu. Người ta tu luyện chủ yếu là tu tâm tính, họ vẫn không hiểu rõ điểm này; họ tưởng rằng nhờ chịu khổ là có thể tu luyện. Do vậy họ trải qua một thời gian rất lâu dài, tu qua hàng mấy trăm năm, trên nghìn năm, thì họ mới tăng được một chút công ấy thôi. Thực ra không phải là họ dựa vào chịu khổ mà tu xuất lai; vì sao tu xuất lai? Giống hệt như con người: vào thời trẻ tâm chấp trước rất nhiều; cho đến lúc già, thì thuận theo năm tháng trôi qua, tiền đồ vô vọng, thì những cái tâm kia đã tự nhiên dứt bỏ đi, rơi rụng đi; những loại tiểu đạo ấy cũng dùng phương pháp như vậy. Nên khi họ dựa vào ngồi đả toạ, định lực, chịu khổ, thì họ phát hiện rằng cũng có thể tăng công. Tuy nhiên họ lại không biết rằng cái tâm chấp trước của người thường kia đã dần dần từ bỏ qua những năm tháng gian khổ; cái tâm kia dần dần rơi rụng đi thì công tăng lên được. Chúng ta có phương hướng rõ ràng, thật sự chỉ thẳng vào cái tâm ấy, vứt bỏ cái tâm ấy; như vậy tu được mau lẹ phi thường. Tôi từng đi qua một số địa phương, thường hay gặp những người kia, đã tu rất nhiều năm. Họ nói: ‘Không ai biết được chúng tôi ở đây; công việc của ông chúng tôi không quan tâm, cũng không gây rối loạn’. Đó là thuộc về những người tương đối tốt.

    Cũng có [kẻ] không tốt; không tốt thì chúng ta cũng cần xử lý. Ví dụ, lần đầu tiên tôi đến Quý Châu truyền công, trong lúc ở trên lớp, thì có một người đến tìm tôi, nói rằng lão sư gia anh ta muốn gặp tôi, rằng sư gia của anh ta là người như thế như thế, đã tu luyện rất nhiều năm. Tôi nhìn một cái thì thấy người này mang theo âm khí, rất không tốt, mặt vàng như sáp. Tôi bảo tôi không gặp ông ấy, không có thời gian, từ chối thẳng. Kết quả ông lão của anh ta không vừa ý, [và] bắt đầu phá quấy tôi, hàng ngày phá rối. Cá nhân tôi không thích đấu với người ta, tôi cũng không thèm đấu với ông lão ấy. Ông ta quăng đến cái gì không tốt thì tôi thanh lý, thanh lý hết xong, tôi lại truyền Pháp của mình. Quá khứ vào triều Minh có một người tu Đạo, khi tu Đạo bị mắc phụ thể là rắn; sau đó người tu Đạo tu không thành kia chết đi, và con rắn này đã chiếm hữu thân thể của người tu Đạo ấy, rồi tu xuất được hình người. Ông sư gia của anh kia chính là hình người mà con rắn kia tu thành. Vì bản tính của ông ta không đổi, [ông ta] lại hoá thành con rắn lớn đến phá rối tôi. Tôi thấy vậy là thái quá, tôi bèn bắt nó trong tay, dùng một loại công mạnh mẽ phi thường, gọi là ‘hoá công’, hoá phần nửa dưới của nó, hoá thành nước; nửa thân trên của nó bỏ chạy về.

    Một hôm trạm trưởng trạm phụ đạo Quý Châu của chúng ta được đồ tôn của ông ta tìm đến, nói rằng sư gia muốn gặp bà. Bà trạm trưởng đến, vào đến hang động thì thấy tối đen không trông thấy gì cả; chỉ thấy một hình ảnh ngồi ở đó, mắt phóng ra ánh sáng xanh lục; hễ [ông ta] mở mắt thì động sáng, còn nhắm mắt thì trong động lại tối đen. Ông ta nói bằng thổ ngữ địa phương: ‘Lý Hồng Chí lại đến, lần này chúng tôi không có ai làm chuyện kia nữa; tôi đã nhầm. Lý Hồng Chí đến để độ nhân’. Đồ tôn hỏi ông ta: ‘Thưa sư gia, thầy đứng dậy đi, chân của thầy bị sao thế?’ Ông ta nói: ‘Tôi không dứng dậy được nữa, chân của tôi bị thương rồi’. Hỏi ông ấy bị thương ra sao, ông ta bèn bắt đầu kể về quá trình phá rối của mình. Đến Hội Sức khoẻ Đông phương năm 1993 tại Bắc Kinh ông ta lại phá rối tôi. Vì ông ta cứ làm điều xấu, ông ta phá hoại việc tôi truyền Đại Pháp, nên tôi đã triệt để tiêu huỷ ông ấy. Sau khi tiêu huỷ, những sư tỷ, sư muội, sư huynh, sư đệ của ông ta đều muốn hành động. Lúc đó tôi nói với họ mấy câu; họ đều cảm thấy kinh hoàng, khiếp sợ lắm, không ai dám hành động gì nữa, và cũng hiểu ra chuyện này. Trong số họ một số [người] vẫn hoàn toàn là người thường, [mặc] dù đã tu một thời gian rất dài. Đây là vài thí dụ được nêu ra khi giảng về vấn đề khai quang.

    (trích trong http://phapluan.org/book/zfl_v.doc)
     
  2. wonbin88

    wonbin88 New Member

    Tham gia ngày:
    13 Tháng tư 2008
    Bài viết:
    77
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Khai Quang

    xin lỗi ,tôi đọc những điều của bạn post ,và cảm thấy
    bạn chẳng hiểu gì về Đạo Phật cả
    bạn đã nghe câu này chưa "Tâm xuất thì Phật biết"
    chẳng cần phải đến khi khai quang ,mới thành tượng Phật
    điều quan trọng là tâm mình ,những việc làm của mình có
    đúng đạo lý không ?
    càng là bậc chân tu ,sự linh ứng càng lớn ,chứ không cứ gì phải
    khai quang mới cả điểm nhãn cả
    những thông tin trên tôi lấy từ www.thuvienhoasen.org
    1 website của giáo hội Phật giáo Việt Nam
    I. Khái niệm:
    Khai: mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu.
    Quang: sáng.

    Khai Quang: là lễ dâng cúng Đức Phật ( Khai Quang còn có nghĩa là Lễ Điểm Nhãn cho tượng Thần, Phật. Cũng có một số quan niệm hòa đồng cùng lễ Hô Thần Nhập Tượng ).

    Điểm Nhãn: là lễ vẽ con mắt Phật.

    Tóm lại, Khai Quang là khai mắt cho tượng Phật. Khi vẽ xong 1 tượng Phật, khi tạo xong một cốt Phật, trước khi thờ phượng, người ta làm lễ, niệm kinh, đọc Chú và điểm vào cặp mắt Phật, ấy là lễ Khai Quang. Cũng gọi là lễ Khai Quang Điểm Nhãn

    II. Vấn đề Khai Quang Điểm Nhãn:

    " Khai Quang " và " Điểm Nhãn " là 2 vấn đề hoàn toàn khác biệt với nhau trong một Nghi Thức Phật Giáo.

    1.Điểm Nhãn:

    Theo sự hiểu biết của Chúng tôi thì " Điểm Nhãn " không hề dính líu gì đến Nghi Thức Phật Giáo mà phát xuất từ giới họa sĩ của Trung Quốc thời xưa. Họ quan niệm rằng trong những bức tranh vẽ về người hay thú vật, tài nghệ của người họa sĩ được thể hiện qua việc vẽ con mắt. Họa sĩ chân tài thì vẽ con mắt có " Thần ", làm cho bức tranh linh hoạt, sống động, y như thật. Thế nên trong một họa phẩm, con mắt thường được vẽ cuối cùng và nếu như người họa sĩ này tôn trọng một bậc họa sư nào đó trong vùng thì cố thỉnh mời cho được vị này đến để " Điểm Nhãn " , tức là hoàn thành nét vẽ cuối cùng của bức tranh: con mắt.

    Việc này lấy từ Điển Tích Vẽ Rồng Điểm Nhãn của Trung Quốc:" Lương Võ Đế sùng mộ việc trang hoàng Chùa Phật, nên thường sai Tăng Dao họa nơi các Chùa; Chùa An Lạc ở nơi Kim Lăng có vẽ 4 con rồng trắng song không có vẽ mắt. Tăng Dao thường bảo nếu chấm vẽ mắt rồng ( Điểm Nhãn ) thì nó sẽ bay đi. Người ta cố nài chấm vẽ mắt. Trong chốc lát, sấm sét nổi lên phá vỡ bức tường, 2 con rồng cỡi mây bay lên trời, còn 2 con chưa vẽ mắt vẫn ở chỗ cũ " (Theo Lịch Đại Danh Họa Ký Đời Lương ). Do đó, trong quảng đại quần chúng mới ứng dụng Điển Tích này trước khi bắt đầu Lễ Hội Múa Lân Sư Rồng: Trước khi " Khai Trương " 1 con Lân mới, họ phải làm lễ " Khai Quang Điểm Tinh " tức là " Điểm Mắt Cho Lân " ( Khi chế tạo đầu Lân, các nghệ nhân bao giờ cũng chừa lại 2 con mắt ). Lân sau khi hoàn thành tại cơ sở sản xuất, thì phải tới Chùa hoặc trước bàn thờ Sư Tổ để làm lễ " Tinh Điểm Khai Quang " trước khi đem biểu diễn. Sau khi lựa ngày tốt, các chú Lân-Rồng sẽ thực hiện Nghi Thức " Khai Quang Điểm Nhãn " với 1 dấu chấm CHÂU SA vào Giữa Trán hoặc Lưỡi để chính thức hoạt động. Cúng Tổ và điểm mắt rồi thì Lân-Rồng mới " sống dậy " và múa được; Khi Lân-Rồng đã cũ, thì người ta đốt cháy nó để " trả lại cho Trời "...Như vậy việc " Điểm Nhãn " là như thế.

    2. Khai Quang:

    Khai Quang theo như chúng tôi được biết là một phần nằm trong Nghi Lễ An Vị Phật. Một số Phật tử khi mới thiết lập bàn thờ Phật trong gia đình, hay khi thỉnh tôn tượng của Phật hay Bồ Tát về thờ, thường mời quý Thầy đến làm lễ an vị Phật, trong đó có Nghi Thức Khai Quang. Cũng có khi Phật tử mang những tôn tượng này đến Chùa để nhờ 1 vị Thầy Khai Quang dùm. Nghi Thức này bao gồm các điểm chính yếu như sau: Vị Thầy dùng cái Kính đàn ( Tức là kính soi mặt mới mua về chưa có ai soi vào đó ), 1 chén nước và 3 nén hương. Tôn tượng đó được phủ bằng 1 tấm vải vàng, sẽ được vị Thầy chủ lễ vừa đọc kinh vừa từ từ kéo ra và làm những công việc cụ thể như chiếu kính vào bức tượng, rảy nước...đồng thời vừa đọc Chú vừa lấy tay vẽ chữ " Án " ( OM ) bằng tiếng Phạn (Theo người Atlantis: Thượng Ðế là đấng tối cao, ít khi được nói đến tên, mà chỉ tôn xưng là Ngài. Khi cần cầu đến Thượng Ðế thì chúm môi lại tròn như chữ o và phát âm thanh "o" để chỉ mặt trời, và ngậm miệng lại phát âm thanh "om"( Nhiều câu chú trong kinh Phật có chữ "Ôm", ta thường đọc là "Úm" hoặc "Án"). Nếu được như thế thì đó là căn nguyên của tiếng "Om" trong khi thiền vậy). Nghi thức " Khai Quang " tựu chung là như vậy và quý Thầy của tất cả các tông phái Bắc Tông, Nam Tông và Mật Tông của VN đều sử dụng Nghi thức này nếu có yêu cầu của Phật tử.

    III. Theo Huyền Môn:

    Vì đời này không có Phật nên sau khi tạo thành hình tượng Phật Bồ Tát thì chúng ta làm lễ thỉnh Chư Phật Bồ Tát đến chứng minh gọi là Lễ An Vị Phật.

    Các Pháp Sư có những bài Chú hay những linh phù mượn sắc lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế, làm " Phép Trấn Thần " vào bát nhang hay ảnh tượng mới mua (thỉnh ) về, nhằm không cho các vong linh hỗn tạp tá vào. Sau đó sên bùa hay dùng Thần Chú để gia trì vào tượng hoặc hình, cuối cùng dùng sắc lệnh đó để Hô Thần Nhập Tượng. Khi gia trì thì sẽ được nguyện lực của Thần Chú sên vào tượng hoặc hình, vì vậy mới có các vị theo chứng minh cho thân chủ khi van vái cúng bái và tạo được linh khí để có thể giúp đỡ cho họ. Nếu không thì chỉ là một tượng hoặc hình bình thường mà thôi, có thể dùng để An Tâm ( Khai Quang Điểm Nhãn là làm tăng linh khí cho pho tượng chứ không phải điểm nhãn cho các vị Phât-Tiên-Thánh-Thần. Mỗi vị đều có 1 bài Chú thỉnh riêng ).

    Ngưới Á Đông chúng ta rất tin tưởng vào vấn đề tâm linh, 1 bức tượng, 1 vật thể, nếu gọi đúng tên, đúng lúc thì sự linh thiêng sẽ ứng nghiệm. Sự cầu khẩn đó ứng nghiệm không phải là ngẫu nhiên mà các vật thể đó đã được vị Thầy làm cho trở nên linh vật, huyền bí. Như vậy, việc khai mở một vật từ vô tri trở nên linh thiêng thì phải có những vị Thầy biết được bộ môn Khai Quang Điểm Nhãn, tức là phải biết mật mã để khai mở (Nếu không có khả năng Khai Quang thì 1 bức tượng chỉ là 1 khối đồng, 1 khối đất mà thôi ). Sự khác biệt giữa vật vô tri và vật linh thiêng là nhờ các Thầy Pháp Sư đọc Thần Chú, cộng thêm những nguyên tắc về tâm linh. Đi sâu vào vấn đề này rất phức tạp.

    IV .Theo Phật Giáo Chánh Tín:

    An vị Phật là một nghi thức do các hàng tín đồ xưa tổ chức là một nghi lễ rất rườm rà, lắm khi sai lệch tôn chỉ từ bi và giáo lý chơn truyền của Ðạo Phật, điển hình như: làm lễ khai nhãn, hay truyền oai lực từ tượng Phật cũ sang tượng Phật mới v.v... đây là những việc làm không cần thiết và không liên quan đến việc thực hành theo giáo lý của Ðức Phật.

    Tại sao chúng ta thờ phượng và lễ bái Ðức Phật, trong khi Ngài không có mặt để thọ lãnh sự lễ bái đó, mà chỉ là một hình tượng vô tri vô giác. Ðứng trước pho tượng Phật người Phật tử chỉ hồi nhớ lại những đặc tánh của Ngài, chúng ta phải tri ân vì Ngài đã khám phá chơn lý và vạch ra con đường giải thoát cho chúng sanh. Do đó không có việc xem tượng Phật là một thần linh cần phải truyền oai lực.

    Vậy người Phật tử muốn làm lễ an vị Phật, chỉ cần thỉnh tượng Phật về tư gia, tịnh xá, niệm Phật đường hay chùa chiền, an vị một nơi trang nghiêm và thỉnh chư Tăng chứng minh lòng thành của mình đối với Tam Bảo bằng thân, khẩu, ý, cúng dường đến chư Tăng sau khi các vị tụng thời kinh An Vị. Ðó là một cách an vị Phật rất giản dị và đúng theo nghi thức Phật giáo.

    Khi thỉnh tượng Phật Bồ Tát về nhà, nhiều người thích làm lễ gọi là "khai quang". Theo quan điểm Phật giáo chính thống thì nghi thức đó không cần thiết. Bởi vì tượng Phật và Bồ Tát chỉ là những công cụ để tu hành. Điều quan trọng ở đây là đức tin và lòng thành, lòng sùng kính, chứ đâu phải ở nơi tượng Phật và Bồ Tát.

    Khi Phật Thích Ca còn tại thế, lúc Phật lên cõi trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ ba tháng, dân chúng ở cõi người chúng ta có tạo tượng Phật để cúng dường. Lúc bấy giờ không thấy chép có nghi thức khai quang. Về sau này kinh sách Phật, tranh tượng Phật, các pháp khí chùa chiền, bảo tháp đều có ý nghĩa biểu tượng cho tính thường trụ của đức Phật và Phật pháp. Nghi thức càng long trọng càng thu hút nhiều người phấn khởi tín tâm. Vì vậy càng ngày càng có nhiều nghi thức cúng dường, mà khai quang tượng Phật, Bồ Tát là một trong những nghi thức đó. Các nhà chùa, tu viện hiện nay, mỗi lần đặt tượng Phật, Bồ Tát mới đều có triệu tập đông đảo tín đồ làm lễ khai quang, cũng tương tự như lễ khai giảng năm học mới, khai mạc công ty hay cửa hàng mới, khánh thành một công trình kiến trúc mới phải tổ chức để công bố cho đông đảo quần chúng biết.

    Còn như đặt tượng, tranh Phật, Bồ Tát ở gia đình thì không cần cử hành nghi thức khai quang làm gì, cũng không cần triệu tập đông người đến chứng kiến. Chỉ cần có lòng thành kính, đem tượng Phật Bồ Tát bố trí ở nơi thích đáng, rồi ngày ngày cúng hương hoa quả trái, không ngày nào quên. Lễ vật cúng dường phải đảm bảo thường xuyên tươi tốt và mới, như vậy sẽ phát huy đầy đủ tác dụng của bàn thờ Phật, Bồ Tát, đạo tâm của người cúng dường nhờ vậy mà được tăng tiến.

    Những người thờ Phật tại gia khi lập bàn thờ Phật trước hết phải nhờ người làm lễ khai quang các tượng Phật, Bồ Tát, lại phải chọn ngày tốt, hương tốt. Đó cũng là do tín ngưỡng dân gian hoặc phong tục dân gian. Theo quan điểm "vào làng nào theo tục lệ làng ấy" mà nói thì tục lệ đó cũng không có gì sai trái lắm, làm lễ khai quang là để tỏ ý thận trọng, chọn ngày chọn hướng là để tỏ ý cầu mong tốt lành. Nhưng theo quan điểm Phật giáo thì chư Phật, Bồ Tát có ở khắp mọi nơi, không một chỗ nào không ứng hiện. Tất cả mọi hướng đều có chư Phật thập phương, Tam bảo thập phương, Long thiên hộ pháp. Như vậy, đương nhiên là không hề có những vấn đề do tín ngưỡng dân gian tưởng tượng ra. Chỉ cần chọn một chỗ nào mình cho là tôn quí nhất, rồi với tình cảm thành kính nhất và chọn một thời điểm thích đáng nhất để đặt tượng thờ Phật là được.

    V. Kết Luận:

    Như vậy, các tranh ảnh tôn tượng Phật Bồ Tát thỉnh về thì đã có mắt rồi, đâu cần có ai " điểm nhãn ", mà " điểm nhãn " để làm gì cơ chứ ?

    Những bức tượng vô tri vô giác thì làm thế nào mà linh được? Nên vấn đề " Khai Quang Điểm Nhãn "là khai như thế nào? Mà chúng ta phải khai cho ai? Khi mua (thỉnh) 1 bức tượng về để thờ cúng, người ta thường nhờ 1 bậc chân tu " Khai Quang Điểm Nhãn " cho người muốn thờ ảnh tượng đó! Đây là lúc mà vị chân sư sẽ chỉ điểm cho hành giả cách hành lễ thờ cúng, giữ giới luật, những điều kiêng kỵ, sau cùng là " Phép Trấn Thần " nơi bức tượng ấy không cho vong linh hỗn tạp tá nạp vào. Đó chính là Khai Quang Điểm Nhãn cho người trần tục khi bước vào con đường tu hành chứ chẳng phải Khai Quang Điểm Nhãn cho các Đấng Thiêng Liêng (Vì Các Đấng này lúc nào cũng linh hiển và biết rất rõ, và thấy rất rõ, chứ chẳng phải đợi có người Khai Quang Điểm Nhãn thì mới thấy được ). Như vậy mục đích Khai Quang Điểm Nhãn chính là việc khai thị cho người mới tập tu hành vậy. Thật vô lý và nực cười làm sao! Khi mình là một con người trần tục mà lại đi Khai Quang Điểm Nhãn cho Bậc Đại Giác và Chư Tôn Bồ Tát cùng hàng Tiên Thánh? Chỉ có nhờ vào sức mạnh của lòng tin và kiên trì tu tập thì Ảnh-Tượng đó sẽ hiển linh do tư tưởng chân chính của chính hành giả gia trì hằng ngày (Linh tại ngã, bất linh tại ngã).

    Nghi thức này do đâu mà có? Sỡ dĩ có chuyện Khai Quang hay An Vị là vì người ta tin rằng nếu không làm lễ Khai Quang tức là đưa Thần Lực của Phật an ngự vào tôn tượng thì có những loài ma quỷ sẽ nhập vào đó để hưởng hương khói và sự cúng dường, Và như vậy, chúng ta quỳ lạy tôn tượng Phật Bồ Tát mà thực sự ra là quỳ lạy ma quỷ. Niềm tin này xét về phương diện giáo lý của Đạo Phật là không có cơ sở vì như vậy đã biến Đấng Giác Ngộ của chúng ta thành 1 ông Thần! Chưa kể việc dùng Kính đàn có phần nào giống với việc làm của những ông thầy cúng ( thầy phù thủy )! Nghi thức này, theo như chúng tôi thấy thì không phải là một Nghi thức chánh truyền, theo bộ phận nghi lễ của Giáo Hội trước đây thì không hề có 1 văn bản chính thức nào nói về Nghi lễ này cả. Khi tham bác một số Chư Tôn Đức về vấn đề này thì các Ngài tỏ ra không tán đồng, thậm chí còn xem Nghi lễ này là do các ông thầy cúng bày ra để kiếm ăn! Nói thì nói như vậy, thế nhưng có những chuyện " Xưa bày, nay làm ", nếu có Phật tử thỉnh quý Ngài đến để An vị Phật thì quý Ngài cũng sẽ đi, bởi vì " Phụng sự chúng sanh là phụng sự Chư Phật ",nếu có chúng sanh nào cần có Nghi thức " An vị Phật " mới có thể "an " được thì quý Ngài cũng giúp cho họ được " an " vậy. Tùy duyên mà.
     

Chia sẻ trang này