1. ammay_ngu

    ammay_ngu Guest

    1. NIỆM NIỆM tương tục (không gián đoạn) là như thế này:
    Thí dụ như có người ở nơi đồng vắng bị giặc cướp cầm gươm rượt theo muốn giết (dụ cho sanh tử, vô thường, không tha mạng sống).
    Người đó sợ hải quá, cắm đầu chạy riết, đến chỗ gặp một con sông chắn ngang qua (con sông sanh tử. Bờ bên này là sanh tử ngạn, bờ bên kia là giải thoát ngạn).
    Người ấy vừa chạy trốn vừa thoáng nghĩ trong đầu rằng:
    Nếu ta lội qua khỏi được con sông này, đến BỜ BÊN KIA thì mới mong bảo toàn thân mạng. Nhưng để y phục mà lội hay là cởi bỏ ?
    Nếu để y phục mà lội sợ e vướng mắc, lúng túng tay chân khó bơi. Còn cởi bỏ thì không kịp nữa rồi, vì giặc cướp đã rượt tới sau lưng (đây là dụ cho cái chết đã gần kề không còn xa nữa).
    Bấy giờ người ấy chỉ còn có một NIỆM DUY NHẤT là làm sao cho qua sông được thì thôi chớ không còn có ý nghĩa chi khác...
    Thì người NIỆM PHẬT chúng ta đây cũng y như vậy, nghĩa là:
    Chỉ chuyên tâm tha thiết niệm,
    Ðừng nghĩ ngợi điều chi khác cả (tức là dứt hết mọi tạp tưởng).
    Câu NIỆM PHẬT này vừa DỨT thì câu NIỆM PHẬT khác TIẾP NỐI theo liền (đừng có để phí thời giờ).
    NIỆM NIỆM nối nhau liên tục như vậy cho đến MƯỜI NIỆM.
    Ðây gọi là "THẬP NIỆM tương tục" (Tức là 10 niệm nối nhau không dứt).
    (ÐÀM LOAN PHÁP SƯ dạy).
    2. Ðức PHẬT (Thích Ca và A DI ÐÀ) xót thương, khuyên TA nên chuyên xưng danh hiệu A DI ÐÀ Phật.
    Bởi vì phép niệm "Xưng danh hiệu A DI ÐÀ PHẬT" này rất dễ, nếu có thể giữ mãi mỗi niệm nối nhau như thế, lấy suốt cả đời mình để làm hạn định, thì:
    Mười người tu, mười người vãng sanh.
    Trăm (ngàn) người tu, trăm (ngàn) người vãng sanh.
    Tại sao vậy?
    Bởi vì:
    Không có duyên tạp (Không có suy nghĩ điều chi khác hết) nên được CHÁNH NIỆM.
    Hạp với bản nguyện của Phật A DI ÐÀ (Ðại nguyện thứ 18, 19, 20).
    Vì không trái với lời kinh (kinh vô lượng Thọ, kinh Thập lục Quán, kinh Phật thuyết A DI ÐÀ v.v...).
    Vì thuận theo lời PHẬT dạy, cho nên dễ vãng sanh.
    (Liên Tông nhị Tổ - Thiên Ðạo Ðại Sư dạy).
    3. Chí tâm niệm PHẬT nghĩa là: Ý nghiệp làm lành.
    Xưng danh hiệu PHẬT nghĩa là: KHẨU nghiệp làm lành.
    Chấp tay, cúi mình lạy PHẬT nghĩa là: THÂN nghiệp làm lành.
    Nếu giữ ba nghiệp THÂN, KHẨU, Ý làm lành như vậy trọn đời, thì một câu niệm PHẬT có thể diệt được tội nặng trong 80 ức kiếp sanh tử.
    (HOÀI CẢM ÐẠI SƯ dạy).
    4. Lúc lễ bái, niệm PHẬT và phát nguyện phải:
    - Khẩn thiết, chí thành.
    - Không xen lẫn tạp tưởng.
    - Như người sắp sửa bị giết mà cầu được tha.
    - Như người bị giặc cướp rượt đuổi .. mà muốn được thoát.
    - Như bị nước trôi, lửa cháy, một lòng mong được cứu nạn.
    Niệm Phật phải khẩn cấp và chí thành như thế thì mới thành tựu được công phu.
    Tóm lại nếu:
    Nói một đường, làm một nẻo (Tức là miệng thì nói niệm PHẬT mà lòng không chịu niệm).
    - Lời nói và hành động chẳng giống nhau.
    - Lòng TIN (nơi Tịnh Ðộ pháp môn) không vững chắc.
    - Nay thì niệm, mai mốt lại bỏ bê, biếng trễ vv...
    - Niệm như thế ắt khó được vãng sanh.
    (Liên Tông Lục Tỗ Vĩnh Minh đại sư dạy).
    5. Người tu pháp NIỆM PHẬT, dù cho đang khi làm công việc nặng nhọc chi, song TRONG TÂM LÚC NÀO CŨNG KHÔNG QUÊN CÂU NIỆM PHẬT... Giả sử như lỡ có quên thì phải cảnh tỉnh ngay lập tức và nhiếp tâm niệm trở lại... Tập như thế lâu ngày thành quen...Ðến khi gần lâm chung thì dù cho thân có bị bịnh khổ dày vò, đau đớn, nhưng tâm vẫn KHÔNG QUÊN câu niệm PHẬT...
    Khi vừa tắt thở thì thần thức liền nương theo câu niệm PHẬT ấy mà đi, quyết định sẽ được vãng sanh về nơi CỰC LẠC...
    (Tuân Thức đại sư dạy).
    6. a. Người tu Tịnh độ muốn được vãng sanh thì việc CHÁNH YẾU là phải CHUYÊN TÂM NIỆM PHẬT... còn phần phụ thì phải dứt trừ điều ác, làm những hạnh lành ...
    Ðem các công đức ấy mà hồi hướng và nguyện sanh về chốn Tây Phương, ắt sẽ được mau thành tựu, như thuyền đi xuôi gió, lại còn thêm được thuận dòng (nước) vậy.
    b. Sớm tối chuyên tâm lễ PHẬT như người (làm quan) đi chầu vua không dám sơ sót. Còn như người niệm PHẬT thì phải:
    - Miệng niệm PHẬT, tâm phải tưởng PHẬT.
    - Tâm và miệng đều hợp nhau,
    - Phát lòng chí thành, trân trọng.
    - Tin chắc (nơi lời Phật dạy về pháp môn Tịnh độ) đừng có nghi ngờ.
    - Mỗi ngày đều phải siêng năng chớ đừng nên biếng trễ.
    Thì chắc chắn là sẽ thành tựu được môn NIỆM PHẬT Tam muội. Chừng đó lo gì không được vãng sanh.
    (Từ Chiếu đại sư dạy).
    7. a. Người niệm PHẬT phải nên:
    Giữ một câu Nam mô A DI ÐÀ PHẬT như dựa vào núi Tu di, lay chuyển chẳng động (Tức là dù cho có ai bài bác, phá hoại thế mấy đi nữa quyết cũng chẳng nghe). Thường nhớ, thường niệm. Sáng cũng niệm, tối cũng niệm, đi cũng niệm, ngồi cũng niệm...
    Tâm niệm PHẬT chẳng bỏ qua, câu niệm PHẬT chẳng rời lòng.
    Mỗi giờ, mỗi khác, cũng nhớ niệm, niệm hoài không bỏ lỡ, giống như gà ấp trứng phải thường cho hơi ấm tiếp tục thì trứng mới nở con. Còn niệm Phật hoài mà không bỏ qua thời giờ gọi là "Tịnh niệm tương tục" ắt bông sen của mình sẽ mau nở vậy.
    b. Chuyên lòng xưng danh hiệu PHẬT, nhứt tâm, nhứt ý nắm giữ một câu A DI ÐÀ PHẬT.
    Bởi vì:
    - Chỉ một NIỆM này tức là PHẬT A DI ÐÀ.
    - Chỉ một NIỆM này là viên mãnh tướng (tướng mạnh) phá địa ngục.
    - Chỉ một NIỆM này là thanh gươm báu chém bầy ma, tà.
    - Chỉ một NIỆM này là ngọn đuốc sáng phá cảnh tối tăm (Vô minh).
    - Chỉ một NIỆM này là con thuyền to vượt qua biển khổ.
    - Chỉ một NIỆM này là thuốc hay trị dứt bệnh sanh tử.
    - Chỉ một NIỆM này là đường tắt mau ra khỏi tam giới.
    - Chỉ một NIỆM này là tự tánh DI ÐÀ.
    - Chỉ một NIỆM này là duy tâm Tịnh độ.
    Giữ chắc một câu NIỆM: Nam mô A DI ÐÀ PHẬT này đừng cho quên mất...
    - Có việc cũng niệm như vậy.
    - Không việc cũng niệm như vậy.
    - Có bệnh cũng niệm như vậy.
    - Không bệnh cũng niệm như vậy.
    - An vui cũng niệm như vậy.
    - Buồn khổ cũng niệm như vậy.
    - Sống cũng niệm như vậy.
    - Chết cũng niệm như vậy.
    cứ NIỆM NHƯ VẬY mãi thì cần chi phải hỏi ở nơi người khác để tìm ra đúng đường về ư ?
    (Ưu Ðàm đại sư dạy).
    8. Kinh "Ðại Tập Nguyệt Tạng" dạy:
    Niệm Phật lớn tiếng có 10 công đức là:
    1. Ðánh tan cái tâm hôn trầm, mê ngủ.
    2. Thiên ma kinh sợ.
    3. Tiếng vang xa khắp 10 phương.
    4. Ba đường ác được nhờ vào đó mà dứt khổ.
    5. Tiếng động chung quanh không xâm nhập vào làm loạn thâm mình được.
    6. Niệm tâm không tán loạn.
    7. Mạnh mẽ tinh tấn.
    8. Chư PHẬT vui mừng.
    9. Tam muội hiện tiền.
    10. Ðược vãng sanh Cực lạc.
    9. Nên biết pháp môn TỊNH ÐỘ này chẳng cần lựa chọn kẻ trí, ngu, sang, hèn, nghèo, giàu.
    Cũng chẳng cần phân biệt kẻ nam, nữ, già, trẻ, tăng, tục.
    Chẳng luận kẻ mới tu hay tu lâu.
    Tất cả đều có thể niệm PHẬT được.
    Hoặc niệm lớn, hoặc niệm nhỏ, niệm ra tiếng, niệm thầm, vừa lạy vừa niệm, nghiên cứu mà niệm, nhiếp tâm mà niệm, quán tưởng mà niệm, lần chuỗi mà niệm, vv...
    Giữ câu NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT liên tục không dứt như dòng nước chảy mà niệm, cho đến đi cũng niệm, đứng cũng niệm, ngồi cũng niệm, nằm cũng niệm, ngàn muôn niệm (đời lộn xộn) đều gom về nơi một câu NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT như thế...
    Niệm theo cách nào cũng được, điều cốt yếu là giữ cho lâu bền đừng lui sụt (đây tức là HẠNH đó), phát lòng TIN quyết định đừng cho bị lay chuyển (đây tức là TÍN đó).
    Nếu quả thật hành trì câu niệm PHẬT được đúng như thế, thì cần chi tìm bậc tri thức để hỏi đường (nào về Cực lạc) ư!
    (Tông Bổn đại sư dạy).
    10. a. Niệm Phật có:
    + Niệm thầm (tiếng nhỏ).
    + Niệm ra tiếng (lớn).
    + Niệm không ra tiếng (mặc niệm).
    + Niệm Kim cang trì (se sẽ động môi, lưỡi mà niệm).
    Niệm thầm thì dễ bị hôn trầm.
    Niệm lớn tiếng thì bị mau mệt. (hao hơi)
    Duy chỉ có cách niệm "KIM CANG TRÌ" là có thể bền lâu.
    Tuy nhiên cũng không nhứt định, nếu như thấy cần thiết thì có thể thay qua, đổi lại cũng không sao.
    b. Tâm hôn trầm, tán loạn đã có lâu kiếp nhiều đời rồi, ắt nhiên không thể nào trong một lúc mà an định được. Cho nên người niệm PHẬT nếu thấy tâm không được thanh tịnh cũng đừng có lo ngại chi. Chỉ cần khi niệm PHẬT, mỗi chữ, mỗi câu, đều do từ nơi TÂM mà phát ra, dụng công phu như vậy lâu ngày, sẽ có hiệu quả.
    c. Tạp niệm là bịnh, niệm PHẬT là thuốc.
    Niệm PHẬT chính là hành môn để trị tạp niệm đó.
    Nếu niệm PHẬT mà không thấy hiệu quả, đó là tại mình dụng công chưa được chơn thành và tha thiết.
    Cho nên mỗi khi tạp niệm nổi lên, phải chuyên tâm, cố gắng trì niệm, mỗi chữ, mỗi câu phải rành rẽ, rõ ràng. Thì tạp niệm tự nhiên được dứt trừ.
    d. Người học PHẬT, niệm PHẬT đừng quá nên chạy theo hình thức bên ngoài, chỉ quý là ở nơi CHÂN THẬT TU HÀNH.
    Hàng cư sĩ Phật tử tại gia không cần phải cạo tóc, mặc áo đà làm chi. Tự có thể để tóc, mặc áo trang (lam) mà niệm Phật cũng được.
    Người thích thanh vắng, không cần phải đánh chông mõ. Tự có thể yên lặng mà niệm PHẬT cũng được.
    Người sợ công việc phiền phức, không cần phải kết bè, lập hội làm chi. Tự mình có thể đóng cửa mà niệm PHẬT.
    Người biết chữ, nếu có thật tâm quyết tu, không nhứt định và bắt buộc phải vào chùa nghe kinh. Tự có thể xem kinh, y theo lời dạy trong ấy mà niệm PHẬT.
    Trải qua ngàn dặm xa xôi hành hương không bằng hiếu thuận với cha mẹ mà niệm PHẬT.
    Giao du với bạn bè kém đạo đức, không bằng kẻ dốt nát mà chuyên tâm niệm PHẬT.
    Hạnh thấp mà vọng nói đạo lý cao siêu, không bằng kẻ thiệt thà, chất phát mà niệm PHẬT.
    Tánh ưa thích sự háo kỳ, ham cầu sự lịnh thiêng của thần thánh, ma quỷ, không bằng chánh tâm tin nơi lý nhơn quả mà niệm PHẬT.
    Tóm lại:
    a. Người niệm PHẬT:
    + Giữ lòng ngay.

    + Dứt hạnh ác.
    Ðây gọi là THIỆN NHƠN.
    b. Người niệm PHẬT.
    + Nhiếp tâm trừ tán loạn.
    Ðây gọi là HIỀN NHƠN.
    c. Người niệm PHẬT.
    + Tỏ rõ tâm tánh.

    + Dứt được hoặc nghiệp.
    Ðây gọi là THÁNH NHƠN.
    (Liên Tông Bát tổ LIÊN TRÌ đại sư dạy).
    11. a. Pháp môn niệm PHẬT không có chi là kỳ lạ cả.
    Chỉ cần: TIN SÂU, NGUYỆN THIẾT và CỐ GẮNG THẬT HÀNH mà thôi.
    Ðiều cần yếu là phải:
    + TIN cho thấu đáo.
    + GIỮ cho bền lâu.
    + MỘT LÒNG chuyên niệm.
    Mỗi một ngày đêm niệm hoặc là 30 ngàn câu, 50 ngàn câu, 100 ngàn câu niệm PHẬT, nhứt định không để cho thiếu.
    Nếu giữ được như thế trọn đời mà không được vãng sanh thì chư Phật ba đời thành ra vọng ngữ.
    (Nhứt định là không có lẽ đó).
    b. Người chơn thật niệm PHẬT:
    - Buông bỏ cả thân, tâm, ấy là ÐẠI BỐ THÍ.
    - Không khởi tâm Tham, Sân, Si, ấy là ÐẠI TRÌ GIỚI.
    - Không cải cọ, phải quấy, hơn thua, ấy là ÐẠI NHẪN NHỤC.'
    - Không gián đoạn, xen tạp, ấy là ÐẠI TINH TẤN.
    - Không để cho vọng tưởng buông lung, ấy là ÐẠI THIỀN ÐỊNH.
    - Không bị các đường lối tu khác làm cho mê hoặc, ấy là ÐẠI TRÍ HUỆ.
    Trái lại, nếu chẳng như thế thì không được gọi là CHƠN THẬT NIỆM PHẬT.
    c. Niệm PHẬT có SỰ TRÌ và LÝ TRÌ:
    1. SỰ TRÌ là TIN có Phật A DI ÐÀ ở phương Tây, có thế giới Cực lạc, có 9 phẩm sen vàng... quyết chí niệm PHẬT, cầu được sanh về nên niệm PHẬT hoài, thiết tha như con nhớ mẹ không lúc nào quên.
    2. LÝ TRÌ là tin Phật A DI ÐÀ, cõi Tây Phương, 9 phẩm sen vàng... trong tâm mình đều có đủ hết, do tâm mình tạo ra hết cả.
    Rồi đem câu Nam mô A DI ÐÀ PHẬT ấy, tạo thành ra cái CẢNH để buộc chặc Tâm mình vào đó, khiến cho không lúc nào quên.
    (Liên Tông Cửu Tổ NGẪU ÍCH đại sư dạy).
    12. a. Một chữ NGUYỆN bao gồm cả TÍN và HẠNH.
    TÍN là tin nơi TỰ, THA, NHÂN, QUẢ, SỰ và LÝ.
    Tin TỰ là tin tất cả đều do tâm mình tạo, nên nếu mình niệm PHẬT ắt sẽ được PHẬT tiếp dẫn.
    Tin THA là tin Phật THÍCH CA không nói dối, Phật A DI ÐÀ chẳng bao giờ nguyện suông.
    Tin NHÂN là tin niệm PHẬT đó chính là gieo nhân vãng sanh, giải thoát.
    Tin QUẢ là tin sự vãng sanh, thành Phật là kết quả.
    Tin SỰ là tin cõi Tây Phương và tất cả sự tướng nơi nước Cực Lạc mà Phật thuyết ra trong kinh thảy đều có thật (cũng như cõi Ta bà này có thật vậy).
    Tin LÝ là tin "lý tánh duy tâm", tức là TÂM của mình bao trùm hết tất cả các thế giới khắp 10 phương.
    b. HẠNH là thực hành, là chuyên trì danh hiệu (A DI ÐÀ PHẬT) không xen tạp và không tán loạn (suốt cả đời mình).
    c. NGUYỆN là mỗi tâm của mình (khởi ra) đều có lòng ưa thích (cõi Cực Lạc), mỗi niệm của mình (khởi ra) đều có ý mong cầu (được sanh về).
    Trong 3 điều TÍN, HẠNH, NGUYỆN này, người tu Tịnh độ cần phải hội đủ, quyết định không thể thiếu được một điều nào cả.
    NGUYỆN là điều cần yếu nhất.
    Có thể có TÍN, HẠNH mà không có NGUYỆN.
    Chớ chưa từng thấy có việc: có NGUYỆN mà không có TÍN, HẠNH bao giờ cả. (Cho nên nói chữ NGUYỆN bao gồm cả TÍN và HẠNH chính là như vậy).
    d. Niệm PHẬT mà không phát tâm "BỒ ÐỀ" thì không tương ưng (không hợp) với bổn nguyện của Phật A DI ÐÀ, sẽ không được vãng sanh.
    (Tâm Bồ Ðề là tâm: Lợi mình, lợi người, trên cầu thành Phật quả, dưới nguyện độ chúng sanh).
    Còn nếu như vẫn có phát tâm Bồ Ðề mà không chịu niệm PHẬT (thì) cũng không được vãng sanh nữa.
    Vì vậy nên phải:
    Lấy sự phát tâm Bồ đề làm CHÁNH nhơn.
    Niệm PHẬT làm TRỢ (duyên) nhơn.
    Sau đó rồi mới phát nguyện cầu sanh Cực lạc.
    Người Phật tử tu Tịnh độ cần phải biết rõ các điều này.
    (Liên Tông thập nhứt Tổ - TĨNH AM đại sư dạy).
    13. Ðại sư dạy:
    a. Thiệt vì sanh tử,
    Phát lòng Bồ đề.
    Lấy TÍN, NGUYỆN sâu,
    Trì danh niệm PHẬT.
    16 chữ này là tông yếu (Quan trọng bực nhất) của pháp môn Tịnh độ...
    (Bởi tất cả sự khổ trong đời này không gì hơn việc sống, chết. Cho nên nếu tu hành, niệm Phật, mà không cầu để thoát vòng sanh tử là một điều sai lầm rất lớn).
    Nhưng đã phát ÐẠI TÂM (Bồ đề tâm) rồi thì phải tu ÐẠI HẠNH. Mà trong các hành môn tu, thì phương pháp dễ dụng công, mau thành tựu, rất yên ổn, rất viên đốn (đầy đủ) thì không có môn tu nào bằng.
    DÙNG TÍN, NGUYỆN SÂU,
    TRÌ DANH NIỆM PHẬT.
    Nói TRÌ DANH đây là chấp giữ một câu A DI ÐÀ PHẬT trong lòng KHÔNG PHÚT NÀO QUÊN. Nếu quên hoặc là có một niệm nào khác xen vào thì không được gọ là CHẤP GIỮ (chấp trì).
    Như thế mà hành trì cho đến trọn đời, ắt sẽ được vào cảnh "Nhứt tâm bất loạn" mà thành tựu được sự nghiệp Tịnh độ vậy.
    b. Tâm tạo nghiệp được,
    Thì:
    - Tâm cũng chuyển nghiệp được.
    Và:
    - NGHIỆP đã do TÂM tạo,
    Thì:
    - Cũng tùy theo TÂM mà chuyển được.
    Nếu:
    - TÂM mình không chuyển được NGHIỆP
    Thì:
    - Bị NGHIỆP trói buộc.
    Còn như:
    - NGHIỆP mà không chuyển được theo TÂM,
    Thì:
    - Có thể buộc TÂM.
    NHƯNG:
    - DÙNG TÂM THẾ NÀO mới chuyển được NGHIỆP?
    ẤY LÀ:
    - Giữ TÂM hợp với điều kiện ÐẠO ÐỨC, hợp với PHẬT.
    VÀ:
    - NGHIỆP làm sao buộc được TÂM?
    ẤY LÀ:
    - Cứ để TÂM y theo "đường xưa lối cũ", buông lung theo cảnh lục trần.
    (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) vậy.
    (Liên Tông thập nhị Tổ, TRIỆT NGỘ đại sư dạy).
    TRÊN ÐÂY:
    Người giải thích đã vì chư vị PHẬT TỬ và quý LIÊN HỮU mà lược thuật lại đôi lời dạy bảo về phương cách niệm PHẬT của chư Tổ sư, để làm "Kim chỉ nam" trên con đường tu Tịnh độ.
    Những mong sao cho quý chư hiền học PHẬT, niệm PHẬT, nguyện cầu được sanh về cõi CỰC LẠC xem xong rồi nên phát lòng trân trọng, ít nhiều chi cũng nên y theo đó mà cố gắng thực hành...
    Và như thế,
    Mới mong thành tựu bước đường "Tây quy" mà lòng ta vẫn hằng luôn ước ao, mong mỏi. Lành vậy thay!

    Trích: TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA
    HT. Thích Thiền Tâm soạn thuật

    http://TINHDO.NET
     
  2. ammay_ngu

    ammay_ngu Guest

    Ðề: KIM CHỈ NAM TU TỊNH ĐỘ

    Thơ gửi Cư Sĩ Trần Tích Châu


    Trong một đời thời giáo của Như Lai, các pháp môn tuy không lường không ngằn, song địa vị chứng nhập rốt lại không qua những ngôi thứ trên đây. Như bên tông Thiền chỉ ngay bản tâm, thấy tánh thành Phật, rất là tròn tắt mau lẹ; nhưng đó là ước theo pháp thân saün có, không trải qua nhân quả tu chứng mà luận, nếu y theo địa vị tu chứng thì cũng không gì khác với bên Giáo. Giữa đời mạt pháp này, bậc thiện tri thức rất ít, căn người lại hèn kém, tìm được kẻ tỏ ngộ còn khó thay, huống chi là thật chứng? Đức Như Lai biết chúng sanh nếu chỉ nương nơi sức mình rất khó được giải thoát, nên ngoài các pháp môn, lại mở riêng môn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Như lòng tín nguyện được chơn thiết, dù cho kẻ phạm tội ngũ nghịch thập ác khi sắp chết tướng địa ngục hiện, có bậc thiện tri thức dạy bảo niệm Phật mười câu hoặc một đôi câu, cũng được nhờ sức từ của Phật tiếp dẫn vãng sanh, huống nữa là người tu các pháp lành không làm ác ư? Nếu là bậc tinh tu phạm hạnh, sức thiền định sâu thì phẩm sen càng cao, thấy Phật nghe pháp mau lẹ, đến như người đại triệt đại ngộ, dứt hoặc chứng chơn cũng nên hồi hướng vãng sanh, để cầu tròn chứng pháp thân, mau thành quả Phật. Các pháp môn khác, nếu nhỏ thì hạng đại căn không cần tu, lớn thì hạng tiểu căn không thể tu; chỉ có môn Tịnh Độ này trùm khắp ba căn, gồm thâu lợi độn, cao siêu như đức Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, không thể vượt ra ngoài, thấp kém như kẻ ngũ nghịch thập ác chủng tánh A Tỳ cũng được dự vào trong. Giả sử đức Như Lai không mở môn này, thì chúng sanh đời mạt pháp chẳng còn hy vọng thoát đường sanh tử. Nhưng pháp môn Tịnh Độ tuy rộng lớn như thế, mà cách tu lại rất dễ dàng. Vì cớ ấy, chẳng những phàm phu khó tin mà hàng nhị thừa cũng đa nghi, cho đến bậc quyền vị Bồ Tát hoặc còn lòng ngờ, trừ những người kiếp trước có gieo căn lành Tịnh Độ và bậc Đại Thừa Bồ Tát quả vị đã cao mới sanh được lòng tin sâu chắc. Như Thái Tử khi vừa sanh ra, tuy tài đức chưa lập, song nhờ thế lực của vua cha, nên sang trọng hơn quần thần, người đủ tín nguyện niệm Phật dù là phàm phu song chủng tánh đã hơn nhị thừa, vì biết đem tâm phàm gieo vào biển giác, thầm hiệp với đạo mầu, nhờ sức Phật mau lên bậc Bất Thối.

    Muốn nói môn Tịnh Độ, nếu không so sánh lược qua sự khó dễ về tự lực của các môn khác cùng tha lực của pháp này, thì dù không nghi pháp cũng sanh ra nghi ngờ chính mình. Và nếu lòng nghi còn một mảy tơ, tất sẽ nhân nghi thành chướng, đừng nói không tu, có tu cũng chẳng được hoàn toàn thật ích. Vì thế tin là điều nên tìm cầu trước nhất. Phải tin nhận chắc cõi Ta Bà thật là khổ, cõi Cực Lạc thật vui. Sự khổ ở Ta Bà không lường không ngằn, ước lại có tám điều: sanh, già, bệnh, chết, thương xa lìa, oán gặp gỡ, cầu không toại ý, năm ấm lẫy lừng. Tám món này, dù sang như vua chúa, hèn như kẻ ăn xin cũng không tránh khỏi. Bảy thứ trước là quả cảm của đời quá khứ, một món sau là nhân khổ của đời vị lai, nhân quả dây dưa nối nhau không dứt, hết kiếp này đến kiếp khác chẳng được thoát ly. Ngũ ấm là năm món che, vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức che lấp chơn tánh như mây đen án mặt trời không cho ánh sáng hiển lộ, và đối với sáu trần khởi hoặc gây nghiệp như ngọn lửa bốc cháy nên gọi là lẫy lừng. Món thứ tám này là cội gốc của tất cả sự khổ. Người tu hành khi sức thiền định đã sâu, không chấp sáu trần, không khởi lòng ưa ghét, từ nơi điểm ấy gia công thì hoặc nghiệp sẽ lần trừ sạch, dứt hẳn nguồn sanh tử. Nhưng công phu ấy rất không dễ, trong đời mạt pháp thật khó có người làm được, nên cần phải chuyên tu tịnh nghiệp cầu sanh Cực Lạc, nhờ sức từ của Phật tiếp dẫn về Tây Phương. Đã đến cõi ấy, hóa sanh nơi hoa sen, thì không còn sự khổ về sanh; thuần tướng đồng nam, sống lâu như hư không, thân không suy biến, thì già, bệnh, chết chẳng còn nghe tên huống là có thật? Từ đó bạn cùng thánh chúng, gần với Di Đà, chim nước rừng cây diễn nói pháp mầu, tùy nơi căn tánh nghe rồi tu chứng, chừng ấy người thân còn không có, lựa là oan gia? Ở cõi Cực Lạc, tưởng ăn được ăn, tưởng mặc được mặc, cung điện lâu đài đều là châu báu tự nhiên hóa hiện, bảy điều khổ ở cõi trược đã đổi thành bảy điều vui, đến như thân thì có thần thông oai lực lớn, không rời chỗ ở, trong một niệm có thể đến khắp mười phương thế giới làm những việc cầu Phật độ sanh; tâm thì có trí huệ biện tài cao, nơi một pháp biết hết thật tướng các pháp, tuy nói việc thế gian đều hợp với lý mầu. Thế là nỗi khổ năm ấm cũng không còn, chỉ hưởng sự yên vui tịch tịnh. Cho nên trong kinh nói: ỏThế giới ấy tên là Cực Lạc, vì chúng sanh ở cõi đó không có các sự khổ, chỉ hưởng những điều vui.õ Tóm lại, nỗi khổ ở Ta Bà tả chẳng xiết, sự vui ở Cực Lạc nói không cùng, nếu cư sĩ dứt hẳn mối nghi ngờ, tin chắc lời của Phật, mới gọi là tin sâu. Nên để ý: đừng đem trí hiểu biết của phàm phu suy độ, nhận lầm rằng: ỏBao nhiêu sự mầu lạ không thể nghĩ bàn ở Tây Phương đều thuộc về ngụ ngôn để thí dụ cho tâm pháp, chớ không phải cảnh thật.õ Nếu có sự hiểu biết lầm lạc ấy, tất sẽ mất điều lợi ích vãng sanh Tịnh Độ, mối hại này rất lớn, phải nên cẩn thận.

    Đã biết Ta Bà là khổ, Cực Lạc là vui, nên phát lòng thệ nguyện thiết thật, nguyện lìa Ta Bà về Cực Lạc. Lòng nguyện ấy ví như người bị sa xuống hầm nhơ cầu mau ra khỏi, lại như kẻ ở lao ngục mong nhớ cố hương. Sự mong cầu cần phải khẩn thiết, vì sức mình không thể tự thoát khỏi, phải nhờ bậc có thế lực lớn dìu dắt. Chúng sanh ở cõi Ta Bà, đối với cảnh thuận nghịch khởi lòng tham, giận, mê, gây nghiệp giết, trộm, dâm, làm ô uế bản tâm trong sạch, ấy là hầm nhơ sâu thẳm. Đã gây nghiệp ác, tất chịu quả khổ, trải nhiều kiếp luân hồi trong sáu nẻo đó là lao ngục lâu dài. Về kiếp trước, đức A Di Đà phát bốn mươi tám lời nguyện độ sanh, trong ấy có một nguyện: ỏNếu chúng sanh nào nghe danh hiệu ta, chí tâm xưng niệm cho đến mười lần, cầu sanh về Cực Lạc, như không được vãng sanh, ta thề không thành Phật.õ Đức từ phụ tuy thệ nguyện độ sanh như thế, nhưng nếu chúng sanh không cần tiếp dẫn, Phật cũng chẳng biết làm sao? Như có người hết lòng xưng danh, cầu lìa cõi Ta Bà, đều được Phật xót thương tiếp dẫn. Đức A Di Đà oai lực rất lớn, có thể cứu vớt loài hữu tình ra khỏi hầm nhơ lao ngục ở cõi trược, đem về Cực Lạc, khiến cho vào cảnh giới Phật, đồng sự thọ dụng của Như Lai. Muốn sanh Tây Phương, trước phải tin sâu nguyện thiết. Thiếu hai điều này, dù có tu hành, cũng không thể cảm ứng với Phật, chỉ được phước báo cõi trời, người và gieo nhân giải thoát về sau mà thôi. Nếu tín nguyện đầy đủ thì muôn người vãng sanh không sót một. Ngài Vĩnh Minh đã bảo: Muôn tu, muôn người về là chỉ cho người có tín nguyện đầy đủ vậy. Đã tin sâu, nguyện thiết lại phải tu hạnh niệm Phật, dùng tín nguyện làm tiên đạo, niệm Phật làm chánh hạnh. Ba món này chính là tông yếu của pháp môn Niệm Phật, nếu thiếu một, quyết không thể vãng sanh.

    Về hạnh niệm Phật, đều tùy theo hoàn cảnh của mỗi người mà lập, không thể chấp định một lề lối. Như thân được nhàn nhã, nên từ mai đến chiều, chiều lại mai, đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh, mặc áo, dùng cơm, cho đến lúc đại tiểu tiện, tất cả thời, tất cả chỗ, làm sao cho câu niệm Phật chẳng rời lòng. Như khi tắm gội sạch sẽ, y phục chỉnh tề và chỗ nơi thanh khiết thì niệm thầm hay ra tiếng đều được. Nếu lúc ngủ nghỉ, mình trần, đi đại tiểu tiện, và chỗ nơi không sạch, chỉ nên niệm thầm; chớ nói những khi không nghiêm sạch như thế chẳng nên niệm, chỉ e lúc ấy niệm không được đó thôi. Tuy rằng niệm Phật là công việc suốt đời đừng cho xen hở, nhưng mỗi buổi sớm mai phải lễ Phật, trước tụng Kinh A Di Đà qua một lần, chú vãng sanh ba lần, rồi đọc bài kệ ỏA Di Đà Phật thân sắc vàng...õ Đọc kệ xong, niệm ỏNam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Đại Từ Đại Bi, A Di Đà Phật.õ Kế tiếp niệm ỏNam Mô A Di Đà Phậtõ hoặc năm trăm câu, một ngàn câu, càng nhiều càng tốt. Khi niệm nên đi nhiễu quanh bàn Phật, nếu chỗ đi nhiễu không tiện, thì quì, hoặc ngồi, hoặc đứng niệm đều được. Niệm sắp xong lại quì trước bàn Phật niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng, mỗi thánh hiệu 3 lần, rồi đọc bài văn Tịnh Độ, phát nguyện hồi hướng vãng sanh. Đọc văn Tịnh Độ là y theo nghĩa trong văn mà phát tâm, nếu chẳng thế thì thành đọc suông, không được thật ích. Sau bài phát nguyện, niệm Tam Quy Y, lễ Phật lui ra. Đây là thời khóa buổi mai, chiều cũng như thế. Nếu muốn lạy Phật nhiều, hoặc sau khi niệm Phật, tùy ý đảnh lễ, kế tiếp chín lần xưng danh Bồ Tát, lễ chín lạy rồi phát nguyện hồi hướng; hoặc lúc công khóa xong, muốn lạy bao nhiêu cũng được. Lễ Phật phải chí thành khẩn thiết, chẳng nên lếu láo thô sơ; bồ đoàn không được quá cao, cao thì mất sự cung kính.

    Như công việc đa đoan không rỗi rảnh, nên định vào buổi sáng sớm sau khi súc miệng rửa mặt, có bàn Phật thì đến trước lễ ba lạy, rồi đứng thẳng chắp tay niệm ỏNam Mô A Di Đà Phậtõ hết một hơi là một niệm. Niệm đủ mười hơi, tiếp đọc bài kệ ỏNguyện cùng người niệm Phật. Đều sanh về Cực Lạc. Thấy Phật thoát sanh tử. Như Phật độ tất cả.õ Đọc kệ xong, lễ Phật ba lạy lui ra. Nếu không bàn Phật thì chắp tay hướng về phương Tây cũng như cách thức trên mà niệm. Đây là phép Thập Niệm của ngài Từ Vân Sám Chủ lập ra cho hàng vua quan, việc chánh rối nhiều không đủ thời giờ tu tập. Tại sao phải niệm luôn hết một hơi? Vì tâm chúng sanh tán loạn lại không rảnh để chuyên niệm, niệm như thế là mượn hơi nhiếp tâm khiến cho quy nhứt. Nhưng phải tùy hơi dài ngắn không nên ép, ép thì hao hơi; lại chỉ giữ đủ mười niệm không nên hai hoặc ba mươi, nhiều cũng lao hơi. Bởi vì tán tâm niệm Phật khó được vãng sanh, phép này làm cho tâm chuyên nhất, tuy số niệm có ít nhưng công đức rất sâu, quyết định sẽ sanh về Cực Lạc. Lúc rảnh và gấp đã có cách thức, thì khi bình thường không rảnh gấp, nên châm chước mà lập phép tắc tu trì.

    Lại người niệm Phật, mỗi việc phải gìn lòng trung thứ, mỗi niệm đề phòng sự lỗi lầm, biết lỗi mau cải, thấy việc nghĩa vui làm, mới hợp với Phật. Nếu chẳng thế, tất nơi lòng còn có sự chướng ngại, không hợp với tâm Phật, quyết khó cảm thông. Và, khi lễ bái, tụng Kinh Đại Thừa cùng làm tất cả việc hữu ích trong đời, đều phải hồi hướng về Tây Phương, không nên chỉ đem hạnh niệm Phật hồi hướng vãng sanh, còn bao nhiêu công đức kia để hồi hướng về phước báo thế gian. Nếu như thế là tâm không quy nhứt rất khó vãng sanh. Phải biết người chân thật niệm Phật, tuy không cầu phước báo thế gian, song cũng được sống lâu, mạnh khỏe, cửa nhà yên vui, con cháu phát đạt, tóm lại bao nhiêu phước báo ở đời đều được đầy đủ. Nếu riêng cầu phước không chịu hồi hướng vãng sanh, thì trái lại phước báo rất kém ít, có hại đến sự vãng sanh. Pháp môn Niệm Phật các Kinh Đại Thừa đều khen ngợi, Kinh Tiểu Thừa tuyệt không nói đến, người chưa thông giáo lý bác niệm Phật là Tiểu Thừa, ấy là nói càn, chớ nên nghe theo. Đến như sự cầu cơ mà cư sĩ nói, phần nhiều thuộc về loài linh quỉ dựa theo trí thức của người cầm cơ để viết ra. Trong ấy nếu bàn về việc thế gian thì có phần đúng, còn về Phật Pháp, vì không phải chỗ họ hiểu biết, nên lầm đặt ra diêu ngôn như sau quyển Kim Cang Trực Giải có phụ thêm những hiệu Tiên Thiên, Cổ Phật v.v... Ấy là lời ma rất ác, làm mất trí huệ, hại chánh kiến của người, nếu đem ra truyền bá, đã không phước còn mang tội lớn nữa.



    Ấn Quang đại Sư
     
  3. ammay_ngu

    ammay_ngu Guest

    Ðề: KIM CHỈ NAM TU TỊNH ĐỘ

    Thơ đáp anh em một vị Cư Sĩ ở Vĩnh Gia

    Từ độ trọng xuân biệt nhau, không mấy chốc đã sang tiết hạ, bóng thiều quang mau lẹ, rất dễ kinh người! Mỗi khi nghĩ đến nhị vị lòng tin tuy chơn thiết, nhưng lẽ đạo chưa rõ thông, đến nỗi bỏ chỗ cao minh theo nơi thấp tối, không những mình mất chánh kiến, để cười cho bậc đại gia, mà chính như Ấn Quang này đã mang tiếng là kẻ quen biết với nhau, cũng tự thấy sanh lòng hổ thẹn! Trong bức thơ gởi đến, cư sĩ nói: Về sau có viết được quyển chi sẽ tùy thời xin phủ chánh; nhưng tôi mắt yếu thể suy, nếu vô sự tất không gần gũi nghiên bút, dù có việc phải cần đến, xét lại cũng như nhóm một đống chữ, có chỗ nào đáng xem? Tuy nhiên, e rằng luống phụ lòng nhị vị hằng mong tưởng, tôi xin đem chút canh thừa cơm hẩm sơ lược sắp bày, như không hiềm vì nặng mùi, thì cũng có thể tạm đỡ lòng, để lần lượt nếm đến món cao lương tự tánh.

    Về bài Tứ Liệu Giản, nghĩa lý rất sâu xa thiết đáng, nên tìm xét kỹ, muôn lần xin chớ lấy sự giải thích cạn cợt của một vài người mà khinh thường. Nếu như thế, rất uổng phụ tấm lòng đại từ bi của ngài Vĩnh Minh, một phen cạn lời, khuyên bảo. Quyển Trì Kinh Lợi Ích Tùy Tâm Luận sở dĩ có, là vì người đời nay khi thọ trì kinh điển, phần nhiều không mảy may kính sợ. Muốn được sự thật ích trong Phật Pháp phải tìm nơi lòng kính sợ; nếu chí thành cung kính, còn có thể mau chứng quả Phật, huống nữa là địa vị thấp ư? Thiện Đạo Hòa Thượng vốn là hóa thân của đức A Di Đà, có thần thông trí huệ lớn, nhưng lối giáo hóa về tông Tịnh Độ, Ngài không chuộng nơi huyền diệu, chỉ trọng sự thiết thật bình thường. Về điểm chuyên và tạp tu của Ngài chỉ dạy, rất có lợi ích vô cùng! Chuyên tu là thân nghiệp chuyên lễ, khẩu nghiệp chuyên xưng (khi tụng kinh chú, nếu chí tâm hồi hướng vãng sanh cũng có thể gọi là chuyên xưng) ý nghiệp chuyên nhớ. Được như thế, thì muôn người tu đều vãng sanh không sót một. Tạp tu là gồm tu nhiều pháp môn khác hồi hướng Tây Phương, vì tâm không thuần nhất nên khó được lợi ích, trong trăm ngàn người chỉ hy vọng được ba bốn người vãng sanh mà thôi. Đây là lời vàng chắc thật, ngàn đời không thay đổi. Nhị vị nên y theo những lời này để tự lợi, và đem khuyên tất cả mọi người. Đến như phép trì chú chỉ được dùng làm trợ hạnh, không nên làm chánh hạnh kiêm với niệm Phật. Phép trì chú tuy không thể nghĩ bàn, nhưng phàm phu vãng sanh toàn nhờ nơi tín nguyện chơn thiết hợp với sức hoằng thệ của đức A Di Đà, đạo cảm ứng thông nhau mà được tiếp dẫn. Nếu chẳng rõ ý này cho rằng các pháp không thể nghĩ bàn, tu môn nào cũng được, tất sẽ thành không thiền, không tịnh, muôn đời chìm đắm, chừng ấy biết nương tựa cùng ai? Như xét nghĩ mình là phàm phu dẫy đầy nghiệp chướng, nếu không nhờ sức hoằng thệ của Phật, trong đời này quyết khó thoát khỏi luân hồi, mới thấy Pháp môn Tịnh Độ lực dụng hơn tất cả các giáo pháp khác.

    Trì chú, tụng kinh dùng để trồng phước huệ, tiêu tội nghiệp thì được, nếu vọng ý muốn cầu thần thông, đó là bỏ gốc theo ngọn, không khéo dụng tâm. Thảng như tâm ấy cố kiết, lại thêm đạo lý không minh, giới lực không chắc, niệm bồ đề không sanh, lòng hơn thua lừng lẫy, e có ngày bị ma dựa phát cuồng! Muốn được thần thông trước phải đắc đạo; đắc đạo thì thần thông tự đủ, như không gắng sức nơi đạo, chỉ cầu thần thông, đừng nói là không được chi, dù có được cũng trở thành chướng đạo. Vì thế, chư Phật, Tổ đều nghiêm cấm không cho tu học theo đường lối ấy. Bởi người đời thường có những tâm niệm như vậy, nên tiện đây tôi cũng nói qua. Nhị vị trên nhà hãy còn lệnh thân, nên thường đem pháp môn Tịnh Độ và những sự tích cảm ứng giảng giải, khiến cho người sanh lòng vui đẹp tin làm theo. Nếu không lấy điều này báo hiếu, dù có thể làm đạo hiếu của đời, kết cuộc có ích lợi gì cho song thân đâu? Vua Võ vốn bậc thánh nhân, còn không thể cứu cha là ông Cổn hóa làm con rùa ba chân đọa vào súc loại. Xem việc này há không tỉnh ngộ, gấp cầu dẫn thần thức song thân dự hội Liên Trì, hầu gần đức Phật để người chứng được bản tánh Vô Lượng Quang Thọ ư?

    Sự khổ hạnh của cư sĩ Chí Liên tuy cũng tốt, nhưng e cô chưa hiểu tông chỉ Tịnh Độ, hoặc không thể buông bỏ hết những tâm niệm chuyển nữ thành nam và mong hưởng phước báo ở cõi trời, người, thì sự lợi ích vô biên vì cái vui nhỏ thế gian mà thành ra uổng mất! Nên đem điều này giảng rõ để chí hướng cô được thêm quyết định. Vả lại, khuyên một người sanh Tịnh Độ, chính là thành tựu một chúng sanh làm Phật, và đã thành Phật tất độ vô lượng chúng sanh, công đức không ngần ấy sẽ về phần mình. Lại nữa, người tu Tịnh Độ đã đem pháp môn này khuyên bảo mọi người, đối với vợ con đâu nỡ không dìu dắt để cho kẻ trong nhà một phần lợi ích lớn hay sao? Như người trong thân quyến saün có căn lành thì còn gì hay hơn; bằng không được thế, cũng phải lần lượt un đúc khiến cho mỗi ngày càng gần với lẽ đạo. Đây mới gọi là lòng từ ái sâu rộng, nếu bỏ điều này mà gọi là từ ái thì cũng chỉ có danh không thật mà thôi. Lời tôi nói chẳng qua sơ lược một đôi điều để nêu ra phần đại khái, không đủ lấy làm khinh trọng, xin xem rõ các bộ Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục; Lạc Bang Văn Loại.... tự có chỗ nương theo, chẳng còn nghi ngờ gì nữa.

    Nỗi khổ ở Ta Bà nói không cùng, dù cho gặp thuở thanh bình, chúng sanh cũng vẫn chen chúc trong bầu nhiệt não, nhưng vì nhẫn chịu lâu ngày thành quen, nên không tự biết đó thôi. Gần đây, ở Trung Hoa thường bị nạn binh lửa, sự khổ không thể tả xiết! Nhìn ra các nước ngoài, cuộc đại chiến đã ba năm, số người chết quá nhiều mà thế chiến tranh vẫn còn thạnh, chưa biết ngày nào mới thôi. Thảm cảnh ấy do nghiệp ác của chúng sanh gây nên, cũng chính là trạng thái của kiếp đao binh mở đầu; nỗi khổ về sau, nếu nghĩ đến thật đáng kinh sợ! Mong nhị vị phát đại tâm mau cầu vãng sanh để sớm chứng đạo quả, rồi trở lại hóa độ chúng sanh nơi cõi Ta Bà này. Kinh nói: ỏBồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả.õ Bồ Tát e mang ác quả nên dứt ác nhân, chúng sanh tranh tạo ác nhân, để rồi chịu ác quả. Trong khi chịu quả khổ lại không biết sám hối còn gây thêm điều dữ để đối trị, thế nên oan oan tương báo nối mãi khôn cùng, nghĩ đáng thương mà cũng đáng sợ!

    Biết được lẽ này, không cầu sanh Tây Phương chưa phải là trượng phu!

    Ấn Quang Đại Sư
     
  4. ammay_ngu

    ammay_ngu Guest

    Ðề: KIM CHỈ NAM TU TỊNH ĐỘ

    1. Nhìn thấu mới buông xả được.

    Thông thường hai ngày đầu của Phật thất, tâm [của người tham dự] còn chưa an định, công phu không thể nào đắc lực. Ðến ngày thứ bảy vì Phật thất gần kết thúc, trong tâm lại phóng dật, buông lung trở lại nên cũng không thể đắc lực. Do đó niệm Phật trong 7 ngày, thiệt có thể đắc lực là trong ngày thứ năm và thứ sáu, đây là một hiện tượng rất bình thường.

    Nguyên nhân người đời nay niệm Phật không bằng người đời xưa cũng là vì không thể ‘nhìn thấu, buông xả’. Chữ nhìn thấu là trình độ hiểu rõ đối với trạng thái sanh hoạt hiện thực; nếu chúng ta không hiểu rõ, ham mê luyến tiếc thế gian thì đương nhiên sẽ không buông xuống nổi. Cho nên hơn phân nửa những người niệm Phật vãng sanh là người già bảy tám chục tuổi, vì họ nhìn thấy nhiều, từng trải nhiều, biết hết thảy những việc trong thế gian đều là hư ảo không thật, bất luận sinh sống trong cảnh thuận hoặc nghịch, trải qua một thời gian dài thì sẽ chán chường, sinh sống cảm thấy chán ghét, không muốn ở lại thêm nữa, đến lúc này thì buông xuống hết, đây là một yếu tố rất quan trọng. Nếu cảm thấy thế gian này còn rất đẹp đẽ, vẫn còn muốn sống thêm vài năm nữa, thậm chí muốn sống thêm vài chục năm, vài trăm năm nữa, họ buông xả, buông xuống hết không nổi thì công phu làm sao có thể đắc lực cho được! Phật pháp nói đến chuyện giác ngộ tức là giác ngộ việc này.

    Chú thích: Buông xả và nhìn thấu là hai việc bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, nếu bạn có thể buông xả một phần thì bạn sẽ nhìn rõ, nhìn thấu thêm một phần; nếu có thể nhìn thấu một phần thì bạn có thể buông xả thêm một phần. Nói cách khác, Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm đến lúc thành Phật đạo đều tức là công phu nhìn thấu, buông xả bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau.

    Trong sáu Ba La Mật, Bát nhã Ba La Mật là nhìn thấu, năm thứ còn lại đều là buông xả:

    Bố thí là buông xả tâm tham.

    Trì giới là buông xả ác niệm.

    Nhẫn nhục là buông xả tâm sân nhuế, đố kỵ

    Tinh tấn là buông xả giải đãi, làm biếng.

    Thiền định là buông xả tán loạn.


    Năm thứ này đều là buông xả, Bát nhã tức là minh bạch, rõ ràng. Cho nên sáu Ba La Mật quy nạp lại tức là 4 chữ: ‘nhìn thấu, buông xả’.



    Trích từ “Thái thượng Cảm ứng thiên’, tập 21, 8/6/1999 Trai đường Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba)

    Trong kinh đức Phật dạy chúng ta buông xả là buông xả phiền não, buông xả dục vọng, chứ không phải buông xả công việc làm. Ngược lại còn phải nỗ lực hết lòng làm việc. Nếu cả công việc làm cũng buông xuống thì đức Phật không cần phải giảng kinh thuyết pháp nữa.



    2. Hiểu rõ nhân quả không oán hận và hối hận.

    Mọi người đều biết chuyện đời vô thường, biết chuyện trong đời không có gì chẳng là nhân duyên quả báo cả, nhưng hiểu không được chắc thật, không cụ thể. Lúc trước lão cư sĩ Ô Dư Khánh đã kể lại một câu chuyện thật. Vào thời kháng chiến [chống Nhật] bắt đầu, cụ ở Thượng Hải quen một thương gia, ông này làm ăn buôn bán rất thuận lợi, có một người con trai duy nhất, người con này rất nghịch ngợm. Một hôm người con đi học mang theo 10 đồng trong túi, làm rớt tờ giấy 10 đồng này trên đường lộ, lúc đó có một người quen đi ngang nhìn thấy nên lượm lên rồi nói chơi với đứa bé: ‘Em kêu tôi bằng Bác thì tôi trả tiền này cho em’. Ðứa bé này trả lời: ‘Nếu ông kêu tôi bằng Bác thì tôi cho ông thêm 10 đồng nữa’. Nghịch ngợm đến như vậy!

    Một hôm ông thương gia này ăn mừng sinh nhật và mời rất nhiều bạn bè đến nhà dự tiệc. Hôm ấy ông đột nhiên nhìn thấy gương mặt của đứa bé này và vô cùng kinh ngạc, ngay lúc ấy liền tuyên bố với mọi người hiện diện ông sẽ giao toàn bộ tài sản cho đứa bé. Sau này ông giải thích với bạn bè rằng toàn bộ tài sản của ông vốn là của một người Ðức; lúc trước chiến tranh ông làm việc cho người Ðức này, khi ông chủ trở về Ðức nhờ ông quản lý dùm công ty. Một thời gian sau ông chủ này mất ở bên Ðức và không quay trở lại [Thượng Hải] nữa. Hôm ăn sinh nhật ông đột nhiên nhìn thấy gương mặt của đứa bé hiện ra giống hệt như gương mặt của ông chủ người Ðức, từ đó ông mới biết đứa bé này chính là ông chủ lúc trước (người Ðức) trở lại đầu thai nên ông lập tức trả lại toàn bộ tài sản. Nhờ vậy mà quan hệ cha con mới có thể duy trì.

    Ðức Phật nói những người trong nhà như cha con, chồng vợ, anh em đều có quan hệ báo ân, báo oán, đòi nợ, hoặc trả nợ nên mới ở chung một nhà. Ðứa bé này đến là để đòi nợ, nhân duyên quả báo tơ hào chẳng sai. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này thì thử nghĩ nếu chúng ta có lỗi đối với người, hiếp đáp người, hãm hại người, nếu người này đầu thai đến nhà chúng ta thì trong tương lai nhất định sẽ làm cho nhà tan cửa nát. Thế nên bất cứ ai trong thế gian đều nhất định không có việc bị thiệt thòi, và cũng không có việc chiếm tiện nghi, lợi dụng người khác được.

    Thi ân cho người, giúp đỡ người sẽ nhận được báo đền; hiếp đáp người, dày xéo người, sĩ nhục người, hãm hại người cũng sẽ có báo đền. Nếu sự báo đền này chỉ vừa đúng [không hơn, không kém] thì cũng còn được; nhưng sự báo đền luôn luôn quá đáng, biến thành hận thù oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp không nhường nhịn lẫn nhau, oán hận không bao giờ chấm dứt. Chiến tranh giữa quốc gia này với quốc gia khác cũng như vậy. Tuy dân chúng của hai nước không có oán thù gì với nhau, những người có oán thù chỉ là thiểu số, nhưng nếu họ có quyền lực thì sẽ liên lụy đến rất nhiều người chịu tai họa, tổn hại đến tài sản và sanh mạng của nhiều người, tai hại vô cùng, làm sao có đạo lý không đọa địa ngục cho được? Chúng ta hiểu được đạo lý, hiểu rõ chân tướng sự thật, thì mới biết không nên làm việc này.

    Thế nên lục đạo luân hồi chỉ là ân ân oán oán báo đền lẫn nhau mà thôi, chúng ta hiểu được thì sẽ buông xả, biết được thế gian này không vui chút nào. Chư Phật, Bồ Tát nhìn thấy được rõ ràng, chỉ cho chúng ta một con đường quang minh, rộng lớn, đây tức là Ðại thừa Phật pháp, cõi nước chư Phật ở thập phương. Trong pháp Ðại thừa, [các Ngài] lại nói cho chúng ta biết một pháp môn đặc biệt, trong số các cõi nước chư Phật thì cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà là cõi nước thù thắng tốt đẹp nhất. Không những đức Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho chúng ta, trong bản dịch kinh A Di Ðà của đại sư Cưu Ma La Thập nói đến sáu phương Phật tán thán; bản dịch kinh A Di Ðà của Huyền Trang đại sư nói đến mười phương Phật tán thán. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói đến mười phương Phật tán thán. Hết thảy chư Phật Như Lai đều khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh Ðộ Di Ðà. Chư Phật, Bồ Tát không gạt người, chúng ta đừng nên hoài nghi lời nói của chư Phật, Bồ Tát. Từ xưa đến nay kinh điển được trao truyền từ đời này sang đời khác, đích thực là được phiên dịch từ tiếng Phạn ở Ấn Ðộ, có người phiên dịch, có nơi chốn phiên dịch, chứng thật những kinh điển này có thể tin được.

    Cả đời xưa và đời nay những người chiếu theo phương pháp này tu hành được vãng sanh rất nhiều. Chúng ta quan sát kỹ càng điều kiện của họ, nói chung so với chúng ta thì không khác gì mấy, không tốt hơn chúng ta nhiều lắm. Nhưng quan trọng nhất là họ có lòng tin vững chắc, nguyện vọng khẩn thiết, buông xả hết thảy, chắc thật niệm Phật. Họ đã làm được điểm này, trên phương diện này chúng ta còn rất kém, chúng ta phải nỗ lực học tập theo họ.


    Pháp Sư Tịnh Không
     
  5. ammay_ngu

    ammay_ngu Guest

    Ðề: KIM CHỈ NAM TU TỊNH ĐỘ

    2. Hoằng pháp phải địa phương hóa và hiện đại hóa

    Chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp tùy theo căn cơ, căn cơ của chúng sanh không giống nhau, sai khác rất lớn, cho nên Phật mới mở vô lượng pháp môn để phù hợp cho mỗi loại căn cơ khác nhau. Nếu không biết điểm này, không những tự mình học Phật đến nỗi sai lầm, nếu dạy người ta thì cũng sẽ dạy sai. Trong suốt 37 năm giảng kinh tôi thường thường nhắc đến điểm này nhưng nhiều người cũng không thể hội, không giác ngộ. Kinh Kim Cang nói rất rõ ràng: ‘Phật không có pháp nhất định nào để nói, Phật không có pháp để nói’. Phật đều ‘ứng cơ nhi thuyết’ (tuỳ theo trường hợp, căn cơ mà thuyết), ‘nói mà không nói’.

    Vì thời xưa và thời nay khác nhau, đông tây chẳng đồng, nên Phật pháp cần phải ‘hiện đại hóa’ và ‘địa phương hóa’, được vậy mới có thể đem lại lợi ích cho đa số chúng sanh hiện nay. Hơn 2000 năm trước (năm 67 sau công nguyên), Phật giáo chính thức truyền đến Trung Quốc, lúc đó Hán Minh Ðế phái sứ giả đến Tây Vực, đón mời 2 vị cao tăng Ấn Ðộ: Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan đến Trung Quốc. Hai vị pháp sư này rất có trí huệ, sau khi đến Trung Quốc họ liền Trung Quốc hoá (thay đổi để thích hợp với người Trung Quốc). Họ ăn mặc và sinh sống theo kiểu dân bản xứ, đây gọi là sinh hoạt Trung Quốc hoá. Lúc đó nếu họ vẫn sanh hoạt theo cách thức và văn hoá Ấn Ðộ, người Trung Quốc sẽ không tiếp nhận một cách dễ dàng. Do đó khi họ vừa đến Trung Quốc liền thay đổi, họ hiểu được [sự quan trọng của nguyên lý] ‘bổn thổ hoá’ và ‘hiện đại hoá’. Kiến trúc của đạo tràng được xây dựng bắt chước theo cung điện vua chúa, người Trung Quốc nhìn thấy rất ưa thích! Người Trung Quốc thời xưa rất tôn trọng vua chúa, đạo tràng Phật giáo được xây giống cung điện thì không ai chẳng thích đi vào.

    Chúng ta hãy xem những năm gần đây Phật giáo từ Trung Quốc được truyền đến Mỹ, kiến trúc [của đạo tràng] vẫn còn dùng kiến trúc của cung điện Trung Quốc thời xưa làm cho người Tây phương vừa nhìn thấy liền tránh né vì họ nghĩ đây là văn hoá ngoại lai, không muốn chấp nhận. [Cho nên] ở Mỹ phải xây đạo tràng giống tòa Bạch Cung vậy, người Âu Mỹ nhìn thấy sẽ vui thích đi vào; tượng Phật phải đúc giống gương mặt của người Mỹ, cũng như tượng Phật ở Trung Quốc giống người Trung Quốc, ở Nhật giống người Nhật, ở Tây Tạng giống người Tây Tạng, tượng Phật ở Thái Lan có cằm nhọn nhọn giống người Thái Lan.

    Mấy năm trước tôi giảng kinh ở Miami, có người Mỹ đến nghe, tôi nói với họ: ‘Phật giáo chưa truyền đến Mỹ quốc’. Họ rất ngạc nhiên! Tôi giải thích [bằng câu hỏi]: ‘Quý vị xem có tượng Phật nào có gương mặt giống người Mỹ không?’. Chư Phật, Bồ Tát không có gương mặt nhất định, biến hoá tùy theo tâm niệm của chúng sanh, chúng sanh chịu dùng thân gì để được độ thì Bồ Tát sẽ hiện ra thân đó, như vậy mới có thể phổ độ chúng sanh. Chúng ta đến chỗ này nếu chỉ độ người Trung Quốc hoặc Hoa kiều không thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Xây dựng đạo tràng ở chỗ nào thì phải độ hoá chúng sanh ở nơi đó, thế mới là hoằng pháp lợi sanh. Cho nên chúng ta xây dựng đạo tràng ở đây phải dùng kiến trúc của Mỹ. Chúng ta xây dựng đạo tràng như vậy nếu không có sự biểu quyết của hội đồng thành phố (city hearing), những người hàng xóm chung quanh cũng sẽ vui vẻ, không phản đối. Chúng ta dùng phương pháp dễ hiểu rõ ràng, giới thiệu Phật pháp cho người địa phương thì họ sẽ hoan hỷ tiếp nhận.
     
  6. ammay_ngu

    ammay_ngu Guest

    Ðề: KIM CHỈ NAM TU TỊNH ĐỘ

    4. Ăn chay vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm (bảo vệ sinh thái, bảo vệ tánh đức, bảo vệ tâm tánh)

    Hiện nay nhiều người thường gặp phải khó khăn trên phương diện ăn uống. Khi bạn học Phật, đã ăn chay trường, nhưng người nhà chưa học Phật. Lúc bạn chưa học Phật cả nhà đều hoà thuận nhưng sau khi bạn học Phật, trong nhà mỗi ngày đều vì vấn đề ăn uống mà cãi lộn làm cho cả nhà không vui. Người hàng xóm nhìn thấy như vậy sẽ khuyên mọi người đừng học Phật và nói rằng học Phật sẽ phá hoại hạnh phúc gia đình. [Người ăn chay này do vậy đã] phá hoại Phật pháp mà cứ tưởng mình có công đức. Tam Phước dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ là cơ sở cho người học Phật; ‘hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng’ tức là hiếu thuận, nếu không thể tùy thuận theo cha mẹ thì là bất hiếu. Học Phật phải có trí huệ trong lúc tuỳ thuận phải giải thích rõ, làm cho họ thay đổi, cần phải có sức nhẫn nại lớn lao, cần phải có phương pháp khéo léo. Nếu vừa mở miệng liền nói: ‘Quý vị ăn thịt, tương lai phải trả nợ này’, người ta vừa nghe liền sanh phản cảm, làm sao có thể nghe theo lời khuyên được!

    Ăn chay đối với việc vệ sinh đích thực có rất nhiều lợi ích. Ðặc biệt là hiện nay chất độc trong thịt cá rất nhiều nên người ta thường mắc phải nhiều bịnh kỳ quái. [Người xưa có câu:] ‘Bịnh từ miệng vào’; những tâm niệm tham, sân, si, mạn, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều là nguồn gốc của bịnh tật. Thức ăn là duyên. Có nghiệp nhân lại cộng thêm nghiệp duyên thì sẽ sanh ra bịnh tật (tất cả bịnh tật là quả báo). Từ đời Lương Võ Ðế trở về trước, người xuất gia ở Trung Quốc cũng ăn thịt. Việc ăn chay là do Lương Võ Ðế đề xướng, ông dùng oai quyền của ông vua nhiệt tâm khởi xướng chuyện ăn chay cho nên từ đó những người theo Phật giáo ở Trung Quốc bắt đầu có thói quen ăn chay. Ăn chay đích thật có nhiều ích lợi, nhưng chẳng phải không ăn chay thì không thể thành Phật.

    Lúc trước thầy Lý ở Ðài Trung dạy chúng tôi khi tiếp dẫn người sơ cơ phải ghi nhớ 2 việc: việc thứ nhất tuyệt đối không khuyên người ta ăn chay, thứ hai tuyệt đối không khuyên người ta thọ giới. Vì khi nghe nói học Phật phải ăn chay sẽ gây chướng ngại cho rất nhiều người không dám học Phật, như vậy sẽ cắt đứt cơ duyên học Phật của họ mất hết, tội này rất nặng. Thọ giới rồi nếu phá giới thì tội tăng thêm một bậc. Nếu không thọ giới thì sẽ không phạm tội phá giới; nếu thọ giới xong tự nhiên kết tội nặng hơn. [Phương pháp] đức Phật dạy chúng ta đều có thứ tự đàng hoàng, khi cảnh giới nâng cao lên một bậc thì giới cấm cũng khai mở thêm một chút, giống như khi học trong trường vậy. Quy tắc, quy củ của lớp tiểu học rất nhiều, đến trung học thì giảm bớt một chút vì trí huệ [của học sinh trung học] đã phát triển; đến đại học thì hầu như hoàn toàn mở rộng, hết giới cấm, vì [học sinh đại học] đã hiểu chuyện rồi, rất nhiều việc gò bó, quản thúc đã được bỏ [vì không cần thiết nữa], Phật pháp cũng giống như vậy. Trong ngũ thừa Phật pháp: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa, tinh thần của giới Bồ Tát và giới Tỳ Kheo hoàn toàn khác nhau.

    Học Phật phải hiểu lý, phòng ngừa không bị bịnh, thân tâm khỏe mạnh, tự tại vui vẻ. Thân tâm của bạn khỏe mạnh thì người nhà sẽ vui thích vì họ không cần phải đặc biệt lo lắng cho bạn. Nếu người học Phật mà cứ bị bịnh hoài, khi người nhà nhìn thấy bạn nhăn nhó, âu sầu, làm cho người ta sợ không dám học Phật, thế thì rất sai lầm.

    Không cần phải đề cập đến lợi ích và nhân quả báo ứng của việc ăn chay, đây là một chuyện mà nhiều người bắt đầu học Phật thường gặp phải khó khăn và chống đối. Chúng ta có thể giải thích rõ ràng bằng những lý do [thông thường] mà họ có thể chấp nhận. Phần đông người ta đòi hỏi việc ăn uống phải vệ sinh, không ăn những thức ăn dơ bẩn và hư thối. Không những chúng ta đòi hỏi vệ sinh mà còn phải ‘vệ tánh’. Tánh tức là tánh tình lương thiện. Người theo Hồi giáo (Islam) dạy người ta không ăn những động vật có tánh tình không tốt, sự lựa chọn của họ kỹ càng hơn phần đông người khác. Sự ăn uống trong Phật giáo còn cao minh hơn Hồi giáo, đệ tử Phật phải có tâm từ bi, không ăn thịt tất cả chúng sanh, vì vậy việc ăn uống trong Phật giáo là vệ sinh, vệ tánh, và vệ tâm. Họ có thể hiểu những lý luận này mà không khởi lên phản cảm. Thói quen của việc ăn uống trong Phật giáo rất tốt, rất uyển chuyển hoạt bát, và ‘thông quyền đạt biến’ -- có thể biến chuyển tùy theo trường hợp mà không phải chỉ là những giới điều cứng ngắc.

    ‘Diễn thuyết cho người khác’ có một nguyên tắc rất quan trọng, trong kinh đức Phật đã dạy chúng ta ‘bất thủ ư tướng, như như bất động (không chấp vào tướng, như như bất động)’, ý nghĩa này vô cùng sâu rộng. Trong sinh hoạt thường ngày bất cứ chuyện gì chúng ta đều không chấp tướng. Phần trước trong kinh này dạy chúng ta ‘ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm’, thế pháp và Phật pháp đều không nên chấp trước, không nên giữ chặt trong tâm. Không chấp vào tướng là ‘tu đức’, như như bất động là ‘tánh đức’. Nếu không có công phu tu tập thì làm sao kiến tánh được? Chúng ta dùng phương pháp ‘không chấp vào tướng’ để chứng được chân tâm ‘như như bất động’. Ðây là cương lĩnh tu học mà đức Phật dạy chúng ta từ lúc sơ phát tâm mãi cho đến khi thành Phật.

    Pháp Sư Tịnh Không
     
  7. ammay_ngu

    ammay_ngu Guest

    Ðề: KIM CHỈ NAM TU TỊNH ĐỘ

    5. Vũ trụ nhân sanh chỉ là mộng huyễn bào ảnh

    Lúc chúng ta khởi tâm động niệm, vọng tưởng, chấp trước đều là trước tướng, thủ (nắm giữ) tướng. Tại sao không nên thủ tướng, không chấp tướng?

    Ðoạn cuối kinh này đức Phật dùng 4 câu kệ để giải đáp vấn đề, nói rõ đạo lý tại sao như vậy:

    Nhất thiết hữu vi pháp, (Tất cả pháp hữu vi,

    Như mộng huyễn bào ảnh, Như mộng huyễn, bọt, ảnh

    Như lộ diệc như điển, Như sương cũng như chớp

    Ưng tác như thị quán Nên quán sát như vậy)


    ‘Hữu vi pháp’ là những pháp ‘có sanh có diệt’. Tất cả động vật có sanh, lão, bịnh, và tử, thực vật có sanh, trụ, dị, và diệt, khoáng vật có thành, trụ, hoại, và không, tất cả đều là hữu vi pháp. Nếu chúng ta bình tĩnh quan sát [thì sẽ thấy] hầu như những gì sáu căn tiếp xúc đều là pháp hữu vi. Nếu quý vị học Duy thức thì có thể giải thích những vấn đề này rất dễ dàng. Trong quyển Bách Pháp Minh Môn Luận của Duy thức nhập môn, Thiên Thân Bồ Tát quy nạp tất cả các pháp thành 100 loại. Nói thật ra 100 pháp này bao gồm tất cả vô lượng vô biên pháp trong thế gian và xuất thế gian, và lại có thể chia thành 5 loại.

    Loại thứ nhất là ‘Tâm pháp’, có 8 thứ gọi là tám thức, tám tâm vương.

    Loại thứ nhì là ‘Tâm sở hữu pháp’, tức là tác dụng tâm lý, hiện tượng tâm lý, lại chia thành 51 thứ.

    Loại thứ ba là ‘Sắc pháp’, tức là vật chất, gồm có 11 thứ. Những ngoại cảnh mà sáu căn tiếp xúc: những gì mắt thấy, những gì tai nghe, thân cảm nhận, lưỡi nếm, mũi ngửi, tất cả những cảnh giới đều dùng ‘sắc’ để tượng trưng.

    Loại thứ tư là ‘Tâm bất tương ưng hành pháp’, triết học ngày nay gọi là khái niệm trừu tượng, gồm có 24 thứ. Tổng cộng những thứ trên thành 94 thứ, đều gọi là ‘pháp hữu vi’.

    Loại thứ năm là ‘Vô vi pháp’, gồm có 6 thứ. ‘Tất cả hữu vi pháp’ là chỉ 94 thứ này, bao gồm tất cả pháp trong thế gian và xuất thế gian. Thế gian là chỉ lục đạo, xuất thế gian là chỉ Tứ Thánh pháp giới – Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, và Phật. Lục đạo và thập pháp giới đều không vượt ra ngoài phạm vi này. Không những pháp thế gian giống như mộng huyễn, bọt, ảnh, mà pháp giới của Tứ Thánh cũng như mộng huyễn, bọt, ảnh, thế nên mới dạy chúng ta Thế pháp và Phật pháp đều không thể trụ, và cũng không thể thủ (nắm lấy). Nếu trụ vào Phật pháp, bám víu Phật pháp thì cũng sai luôn. Thí dụ trong bài kệ này có 6 chữ: ‘mộng’ là thí dụ chung. Không những đời người như mộng, trời cũng như mộng, Phật, Bồ Tát trong thập pháp giới cũng như mộng. Nếu bạn cho là thật thì sai lầm quá đỗi.

    Tại sao có sự khác biệt to lớn giữa y báo, chánh báo trang nghiêm của thập pháp giới?

    Kinh nói: ‘Nhất thiết thánh hiền, giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt’ (Hết thảy thánh hiền đều vì pháp vô vi mà có sự sai khác). Câu này nói rõ Phật, Bồ Tát, thập pháp giới, lục đạo luân hồi từ đâu đến, đến như thế nào. Lục đạo luân hồi là vì ‘pháp hữu vi’ mà có sự sai khác. Tứ thánh pháp giới từ Pháp Thân Ðại Sĩ, Viên Giáo Sơ Trụ cho đến Diệu Giác, 41 vị Pháp Thân Ðại Sĩ đều là vì ‘pháp vô vi’ mà có sự sai khác. Do đó có thể biết lục đạo, thập pháp giới là vì pháp hữu vi mà có sự sai khác. Pháp hữu vi tức là ‘nhân duyên quả báo’. Vạn pháp đều không, chỉ có nhân quả chẳng không, đây là chân tướng của vũ trụ nhân sanh.

    Tại sao lại nói ‘nhân quả chẳng không’?

    Nhân là năng biến, thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm là quả báo sở biến. Hết thảy sự khởi tâm động niệm đều là đang tạo nhân, đều là đang tạo tác. Ðừng nói đến ngôn ngữ, động tác, [chỉ cần] động một tâm niệm cực kỳ nhỏ bé thì đã có tạo tác rồi. Ðức Phật dùng ‘mộng’ để thí dụ, trong mộng có những sự việc này, có hiện tượng nọ, nhưng sự việc và tướng trong mộng đều là giả. Nếu chúng ta có thể xem tất cả pháp như mộng, huyễn, bọt, ảnh thì sẽ không tạo nghiệp, tâm sẽ định, sẽ thanh tịnh. Ðịnh có thể sanh huệ, ‘lòng tin thanh tịnh ắt sanh thật tướng’, tánh đức của tự tánh tự nhiên xuất hiện, mới đạt được sự thọ dụng chân thật trong sanh hoạt thường ngày.

    ‘Huyễn’ ví như hư không. Hư không như huyễn, chẳng phải chân thật. Nhà Phật thường nói ‘minh tâm kiến tánh’, người kiến tánh không có đen tối. Nếu đã nhìn thấy toàn là ánh sáng thì đã kiến tánh; nếu mở mắt ra mà nhìn thấy đen tối thì chưa kiến tánh, tại vì còn kẹt trong vô minh. Sau khi phá vô minh rồi thì thiệt là nhìn thấy ‘đại quang minh tạng’. Tự tánh là quang minh, tự tánh mê mờ thì biến thành một màn đen tối, cho nên xưng là ‘vô minh’.

    Hư không là cảnh giới trong mộng. Lúc chúng ta nằm mộng, trong mộng cũng có hư không, lúc tỉnh dậy, chẳng thấy hư không, thế nên hư không chẳng phải thiệt. Khoa học gia ngày nay rất thông minh, cũng đã thể hội được rằng hư không là có giới hạn; ngày xưa cứ tưởng rằng ánh sáng đi theo đường thẳng, ngày nay biết được ánh sáng là có cường độ. Có cường độ tức là có sai biệt, tức là không phải lớn vô hạn, nghĩa là có giới hạn, có phạm vi. Thế nên đức Phật dùng ‘huyễn’ ví cho hư không.

    ‘Bọt’ ví cho thế giới. Thí dụ tinh cầu rất yếu mềm, cũng giống như bọt nước, rất dễ vỡ tan. [Khoa học gia] dùng viễn vọng kính hiện đại để quan sát, mỗi ngày đều phát hiện thấy tinh cầu mới và cũng thấy rất nhiều tinh cầu bị huỷ diệt, thế giới này không phải thật. Trong kinh Bát Ðại Nhân Giác đức Phật nói ‘quốc độ mong manh’, [thế thì] có gì phải tranh giành, tính toán, chấp trước nữa? Nếu nhìn thấy và hiểu rõ chân tướng sự thật thì tự nhiên sẽ buông xả. Sau khi buông xả rồi, cái niềm vui vẻ khinh an (thong dong, thảnh thơi), tự tại, khoái lạc, cho dù tôi có thể diễn tả được thì quý vị cũng không thể tưởng tượng ra. Nhất định phải buông xả thì mới thể hội (nhận biết) được; nếu không chịu buông xả thì vĩnh viễn sẽ không thể hội được niềm vui sướng chân thật. [Hết thảy] sự khổ đều do mình tự tạo ra, buông xả được thì sẽ có trí huệ chân thật, thì mới hiểu rõ ràng chân tướng sự thật.

    ‘Ảnh’ (bóng) ví như thân thể. Ảnh là giả, không thật.

    ‘Mộng, huyễn, bọt, ảnh’ mỗi chữ ví cho một sự vật và đều nói rõ tất cả hư không, thế giới, thân thể đều là giả tạo, không có một thứ nào là thiệt. Mỗi ngày vì cái thân giả này tạo nghiệp, bạn nói có oan uổng hay không? Tại sao chúng ta lại làm cái việc ngu xuẩn này! Thí dụ như trong việc ăn uống, rất nhiều người thích ăn sinh vật sống. Chỉ vì ba tấc lưỡi, thiệt ra sau khi nuốt vô cuống họng rồi thì không biết mùi vị chi nữa, nhưng vì mùi vị của cái lưỡi này mà tạo ra tội nghiệp nặng nề, vả lại mỗi ngày đều tạo nghiệp nặng, tạo mãi cho đến hết cuộc đời! Sau khi chết đi, đến đời nào kiếp nào mới có thể trả hết? Ðây đều là chân tướng sự thật, người thế gian không tin, mê hoặc điên đảo. Học Phật ở mức độ thấp nhất phải hiểu rõ ràng, thấu suốt những lý luận, trạng huống của nghiệp nhân, quả báo. Không những phải rõ ràng trong đời này, mà còn biết quá khứ, vị lai, chuyện này không phải là thần thông. Nếu tâm có thể đạt được vài phần thanh tịnh, thì tự nhiên sẽ minh liễu (hiểu rõ), không cần phải hỏi người ta. Hỏi người ta rất đáng sợ vì đời nay rất ít người nói thiệt mà gạt người thì rất nhiều. Nói láo thì bạn vui vẻ [thích nghe], nói thiệt thì bạn nổi giận không thích nghe, không chịu nghe. Vì vậy cho nên ai chịu nói thiệt với bạn? Ðây là sự bi ai của người đời nay.

    ‘Như sương cũng như chớp’ thí dụ cho thời gian tồn tại của hiện tượng dài hay ngắn. ‘Sương’ là hơi nước đọng lại [vào buổi sáng sớm] có thời gian tồn tại khá dài, cỡ khoảng mấy chục phút, sau khi mặt trời mọc thì sương sẽ tan. Ðây là thí dụ cho sự tương tục, tiếp nối của các pháp, hình dung thời gian tồn tại không lâu dài. Một người từ lúc sanh ra đến lúc mất đi, sinh sống trên thế giới này được vài chục năm ngắn ngủi, thọ mạng ngắn thì khoảng hai ba chục năm, dài thì bảy tám chục năm; [ai có thể sống đến] trăm tuổi thì rất hiếm hoi, đều là những người trong đời quá khứ và hiện tại đã tạo ra rất nhiều nghiệp thiện. Chớp tức là điện chớp, hình dung cho tướng sanh diệt trong từng sát na, rất ngắn. Thí dụ như màn ảnh chiếu phim, từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc kéo dài 2 giờ đồng hồ đều là tướng tương tục tiếp nối.

    ‘Như chớp’ cũng giống như từng tấm phim trong cuồn phim. Phần đông máy chiếu phim hiện nay chớp 24 tấm phim trong một giây (ống kính mở ra, chiếu một tấm xong rồi đóng lại, mở ra chiếu tấm kế tiếp rồi đóng ống kính lại, …) tốc độ rất nhanh, chúng ta bị ảo tưởng này gạt và có cảm giác như [những màn ảnh này] là thiệt [là liên tục]. Ðức Phật xem tất cả thế giới, thập pháp giới chúng sanh đều là tướng liên tục, của từng chút từng chút tiếp nối lại, đều không phải thiệt, thế nên mới nói ‘đương thể tức không, liễu bất khả đắc’ (bản thể ngay lúc đó tức là không, không thể [giữ lấy] được). Thân thể chúng ta đến đây nghe kinh, trải qua một giờ rưỡi đồng hồ không biết đã thay đổi hết bao nhiêu tấm phim! Hiện nay không phải là tấm phim lúc ban đầu, tấm ban đầu đã biến mất tiêu rồi, đó tức là ‘như chớp’.

    Trong kinh Nhân Vương đức Phật nói với chúng ta một cái khảy ngón tay có 60 sát na. Thời gian khảy ngón tay rất ngắn, một phần sáu mươi của thời gian khảy ngón tay gọi là ‘sát na’; một sát na có 900 lần sanh diệt, đây là hình dung ảo tượng sanh diệt nhanh như chớp. Chân tướng của những tướng hiện ra trong thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm đều là ‘tướng sanh diệt từng sát na’. Nếu khảy ngón tay thật nhanh, trong một giây có thể khảy 4 lần; 4 x 60 x 900 bằng 216.000. Màn ảnh trên phim điện ảnh một giây đồng hồ sanh diệt 24 lần nên chúng ta không cảm giác nó là giả, huống hồ những hiện tượng trước mắt chúng ta mỗi giây có đến hai trăm mười sáu ngàn lần sanh diệt. Ðức Phật nói ‘vạn pháp giai không liễu bất khả đắc’ (vạn pháp đều là không, không thể [nắm giữ] được), như thị như thị (đúng là như vậy). Sau khi hiểu rõ chân tướng sự thật thì tự nhiên không tạo nghiệp nữa, tâm tự nhiên sẽ định trở lại. Tâm định được thì mới sanh trí huệ chân thực, mới hiểu rõ ràng minh bạch chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Tuy đức Thế Tôn nói một sát na có 900 sanh diệt, nhưng vì thời gian sanh diệt quá nhanh, nhìn không thấy sự sanh diệt này nên đức Phật mới nói ‘chẳng sanh, chẳng diệt’. Thiệt ra có phải là chẳng sanh, chẳng diệt hay không? Ðích thực là có sanh có diệt đấy; nhưng tốc độ quá nhanh – ‘sanh diệt đồng thời’, vì vậy nên dùng ‘điện’ để thí dụ cho việc này.

    Vận tốc của điện cùng vận tốc ánh sáng gần bằng nhau. Vận tốc ánh sáng là 300 ngàn km một giây, nghĩa là [ánh sáng] đi qua một kí lô mét cần một phần 300 ngàn của một giây. Từ đây mà suy đoán [thời gian đi qua] 1 mét, 1 cm, 1 mm, một phần mười mm, một phần trăm mm, một phần ngàn mm, một phần vạn mm, [cứ thế mà tính] thì mới thể hội được việc ‘sanh diệt từng sát na’ nói trong kinh Phật, mới hiểu được danh từ ‘không sanh không diệt’ nói trong kinh Phật, -- nó đích thực có sanh có diệt, nhưng vì thời gian quá ngắn, chúng ta không thể nào phát hiện được. Trong kinh điển Ðại thừa đức Phật nói người có thể quan sát được hiện tượng này là ‘Bát Ðịa Bồ Tát’. Ðịnh công sâu và tâm thanh tịnh như Bát Ðịa Bồ Tát mới có thể nhìn thấy những ba động vi tế (làn sóng nhỏ bé) này (hiện tượng sanh diệt từng sát na). Phật pháp nói y báo, chánh báo trang nghiêm trong thập pháp giới đều chỉ là hiện tượng của những làn sóng mà thôi. Trình độ càng lên cao thì làn sóng từ tâm của chư Phật, Bồ Tát càng nhỏ bé, càng đi xuống thì tần số của những làn sóng trong tam ác đạo càng lớn. Không kể tần số lớn hay nhỏ, tất cả đều là hiện tượng tương tục của làn sóng với vận tốc một phần ức vạn của một giây, đây mới là chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Lời nói của đức Phật câu nào cũng chân thật. Thế giới này không chân thật, nếu coi tất cả hiện tượng đều là chân thật thì là mê hoặc điên đảo, sai lầm quá đỗi. Hiểu rõ chân tướng mới chịu buông xả, mới không còn để những thứ này trong tâm; tất cả mọi sự việc đều tùy duyên chớ không phan duyên, nhất quyết không làm những chuyện điên rồ này. Nếu cứ tưởng là mình làm chuyện tốt, nhưng đây vẫn là chuyện không tốt. Chư Phật, Bồ Tát làm tất cả việc nhưng trong tâm coi như không có việc gì cả, hoàn toàn không khởi tâm, không động niệm, như vậy mới thiệt là làm việc thiện. Hễ những gì [lọt vào trong] tương đối đều không cứu cánh viên mãn. Xa lìa cả hai bên thiện và ác mới là chân thiện.

    Pháp Sư Tịnh Không
     

Chia sẻ trang này