Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

Thảo luận trong 'Kiến thức Phong Thủy: Sơn quản Nhân đinh, Thủy quản Tài' bắt đầu bởi Zodiac, 6 Tháng tám 2006.

  1. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    TỪ CUỐN GIA PHẢ DẤU KÍN TRONG HANG CHÚA
    ...ĐẾN KIỂU ĐẤT LƯỠNG NGƯU ẨM THỦY...

    MẢ TỔ VI-VĂN-ĐỊNH Ở ĐÂU





    Trong thời lệ thuộc, đồng bào Bắc Việt, và có khi ở cả Trung Nam phần, không mấy ai không biết đến cái tên Vi Văn Định : một quan đại thần được Triều đình Huế phong tới Hiệp Tá Đại Học Sỹ, thay họ Hoàng, làm Tổng Đốc tỉnh Hà Đông, một địa điểm kế cận cố đô Thăng Long, chỉ cách Hà Nội có 11 cây số.

    Đối với thực dân, họ Vi tuy không được kính trọng bằng họ Hoàng, nhưng thục sự lại được tín nhiệm hơn nhiều, vì một lẽ rất dễ hiểu : Vi Văn Định trung thành tuyệt trần với... Mẫu Quốc, bất cứ trường hợp nào hay hoàn cảnh nào cũng đều hết lòng xả thân thờ nhà nước Bảo Hộ, để sẳn sàng diệt trừ tất cả mọi mầm mống, mà y gọi là phản loạn, muốn khuynh đảo... nước Mẹ !

    Thiên hạ cho rằng : y sở dĩ bạo ngược, ác độc tới mức độ dã man, mọi rợ ăn xương, uống máu người Việt Nam không biết hôi tanh, không cần tiêu ớt, chỉ là vì y không có một chút máu huyết Lạc Hồng nào trong huyết quản, mà thực sự là con cháu người Thổ ở miền Lạng Sơn, Cao Bằng gì đó...

    Người ta đã trưng thêm bằng cớ : họ Vi hiện thời, còn có nhiều sản nghiệp dinh cơ ở đất Lạng Sơn gần sông Kỳ Cùng, để minh chứng cho lời kết tội trên là đúng !

    Nhưng sự thực ra sao ? Vi Văn Định là người Việt hay là người Thổ ?

    Đó là điều thắc mắc mà ai cũng muốn tìm cho ra lời giải.

    Hồi ấy, tôi còn nhớ rõ về mùa hè năm 1941, nhờ có một người bạn học làm Tri Châu ở Bắc Quang, tôi đã lên thăm phong cảnh tỉnh Hà Giang và ở chơi Bắc Quang tới hơn ba tháng trời.
    Một thầy Nho già, người giúp việc án từ rất đắc lực cho quan Châu huyện, tuy là dân miền suôi, nhưng vì lưu lạc lên mạn ngược từ thuở ấu thời, nên rất am hiểu phong tục, địa dư trong các thôn bản ở khắp tỉnh Hà Giang, đã thuật lại cho tôi nghe nhiều giai thoại cực kỳ huyền bí, quái dị, mà nếu ai không sống qua một thời gian nào đó với dân chúng miền sơn cước, hẳn cũng khó tin là chuyện thực.

    Một hôm, đáp bè xuống Ngòi Xảo, nhìn thấy phong cảnh đẹp như tranh vẽ, núi non trùng điệp, vươn mình sừng sững trên dòng sông cuồn cuộn nước chảy về suôi, tôi hỏi thì thầy Nho già chỉ về phía một trái đồi ở ngay đầu bến Vạn, nơi các lái buôn gổ thường kết bè, thả cây về miền Việt Trì, Hà Nội mà nói rằng :

    -Đấy kìa là đồi Tướng, trên đó có ngôi mả tổ của Vi Văn Định, lúc đó đang làm Tổng Đốc Hà Đông.

    Nói rồi, thầy Nho bắt trạm phu phải ghé bè cho tôi lên bộ, đoạn hướng dẫn tôi lên đồi xem phong cảnh.

    Dây leo chằng chịt, những cổ thụ lớn tay ôm, đa số là loại cây bồng sắc (gổ quý) sần sùi, cao vút, cành lá rậm rạp đan kết thành một vòm trời xanh thẳm, khiến cho khu đồi núi mát rượi, mặc dầu lúc đó đang là giữa mùa hè nóng bức.

    Rẽ lau, vạch lá một cách khó khăn tới hơn nửa giờ, chúng tôi mới lên được tới đỉnh đồi.
    Đến trước một ngôi mả lớn, cỏ mọc xanh um, thầy Nho nói :

    - Mả tổ họ Vi này, theo lời bô lão thổ dân thuật lại thì đã được an táng từ đời nhà Lê Trung Hưng. Rồi bể dâu biến chuyển, họ Vi di cư qua đất Lạng Sơn, xưng hùng, xưng bá một cỏi giang sơn, không khác gì một vị tiểu vương quyền khuynh thiên hạ.

    Thầy Nho điểm nụ cười nhạt nhẻo nói tiếp :

    - Mà đúng thật ! Dù không được quyền khuynh thiên hạ thì họ Vi cũng là anh hùng một cõi, đúng với lời dân chúng sở tại vẫn còn truyền tụng cho đến bây giờ những lời đồng giao về kiểu đất quý báu, hiếm lạ này :

    " Lưỡng Ngưu ẩm thủy,
    Bột phát Công Khanh,
    Huynh đệ hiển danh,
    Anh hùng nhất Khoảnh..."

    Nói xong, thầy Nho sợ tôi không hiểu, vội đưa tay chỉ qua hai gò đất, đứng cao sừng sửng ở hai phía tả hửu Ngòi Xảo giải thích thêm :

    - Đấy ông coi, có phải hai cái gò ở bên bờ Ngòi bên kia giống hệt hai con trâu mộng, đang cúi đầu xuống dòng nước không ?

    Đó là "lưỡng ngưu ẩm thủy" đấy !

    Chỉ tay về đàng trước mặt, thầy nói tiếp lời :

    Nếu đây là chánh huyệt, thì ngôi mả này trông thẳng ra trái Cao Sơn, một hòn núi cao ngất tới trời xanh mà thiên hạ đồn đải là có một làng Mèo sống biệt lập ở trên núi cao ấy từ đời nhà Trần, khi Chiêu văn Vương Trần Nhật Duật đem quân triều đình đến điều phạt mấy động chúa ở vùng Lĩnh Nam. Ngôi mả tổ của họ Vi trông thẳng ra ngọn núi Cao Sơn kia, tựa lưng vào dãy Trường Sơn, tay long, tay hổ là hai dãy đồi thoai thoải chạy dài theo dòng sông Cả, tạo thành một kiểu đất kỳ thú vô cùng quý báu, mà theo lời thuật lại của các bô lão sở tại thì hình như Bà chúa Rừng đã cố ý để dành riêng cho dòng họ Vi vậy.

    Rồi vừa dẫn tôi đi coi quanh khu đồi, thầy Nho vừa thuật lại giai thoại mà chính thầy đã được nghe thổ dân kể lại rất rõ ràng về những sự tình cờ kỳ dị xảy ra chung quanh ngôi mả dòng họ Vi, lúc đó đang là những nhân vật hét ra lửa ở đất Bắc Hà.
     
  2. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    VÀO HANG SÂU TÌM DI CHÚC

    Sau thấy Thành mạnh tợn, có lần đánh nổi một con heo rừng, lại khôn ngoan, quyền biến, hiếu thảo, thông minh, ông mới yên tâm, ngày nào ông không về bản được, lại cho phép con đến thăm, để luôn tiện mang theo các thứ thực phẩm cần thiết cho hai người ở ngoài thung lũng.

    Một tháng trời trôi qua.

    Bệnh tình lão hành khất đã thuyên giảm rõ rệt, mặc dầu lão vẫn còn phải chống gậy mỗi khi muốn xê dịch.

    Thấy thế, Vi Đạt liền tính chuyện đưa lão hành khất về bản cho tiện việc săn sóc, và đỡ phiền phức trong sự làm ăn của mình, nhưng lại sợ các bô lão vẫn còn giữ thành kiến không hay với ông già bệnh hoạn.

    Vì vậy, ngay ngày hôm sau, họ Vi phải đi thăm các hương chức để dò xét ý kiến của mấy người nắm quyền hành trong bản.

    Các hương chức thấy bệnh tình lão hành khất đã gần bình phục, hơn thế, người hàng ngày sống gần bệnh nhân là họ Vi, vẫn khoẻ mạnh, cường tráng như thường nên họ cũng không quá khắc nghiệt khó khăn như trước, bằng lòng cho họ Vi rước lão hành khất về nhà.

    Vi Đạt mừng rỡ quá, vội chạy ra nhà mồ, thuật lại tin đó cho lão hành khất biết, rồi ung dung dẫn lão về nhà.
    Vị Thành cũng hớn hở theo chân hai người, trên vai vác một bọc đồ dùng cần thiết.

    Đến lúc ấy, lão hành khất mới cho biết : lão họ Lương tên Nhất Kiếm, vốn là người Trung Hoa, nguyên quán ở huyện Lịch Thanh, qua Việt Nam từ hơn hai chục năm nay, vẫn quanh quẩn ở vùng biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, sống bằng nghề xem tướng số.

    Vi Đạt thấy người bạn già đã tỉnh táo, vui vẻ vô cùng, ngoài ra họ Vi không hề nghĩ gi đến sự đền ân đáp nghĩa của Lương lão.

    Nhưng ba hôm sau, vào hồi quá nửa đêm, giữa lúc cha con họ Vi đang say sưa trong giấc ngũ ngon lành thì Lương lão chợt đến bên, lay gọi cha con Vi Đạt dậy, bảo Thành đi sửa soạn pha trà uống, để lão nói một câu chuyện cực kỳ quan trọng cùng ông Vi Đạt.

    Cha con họ Vi kinh ngạc, ngỡ ngàng nhìn lão già, tưởng Nhất Kiếm cuồng ngôn, loạn trí...

    Nhưng thoáng thấy, nét mặt nghiêm trang trịnh trọng của Lương lão, không chứa đựng một vẻ điên dại hay đùa giởn, diểu cợt gì, nên cũng lẳng lặng làm theo lời yêu cầu của Lương lão.

    Ấm trà tươi vừa pha xong, lão hành khất cầm chén nước trên tay, nhưng không uống, lại đăm đăm nhìn thẳng vào mắt chủ nhà, luồng nhỡn quang như muốn xoáy chặt lấy người đối diện.

    Họ Vi chợt rùng mình, khi nhận thấy ánh mắt của Lương lão lúc nãy sáng ngời một cách kỳ dị, không lờ đờ, đần độn, ngây dại, chất phác như bình nhật nữa.

    Vi Đạt bất giác rùng mình, lơ láo nhìn quanh như muốn tìm một cái gì để tự vệ.

    Không ! Nhất định tổ phụ lão không lầm lộn đâu ! Cứ xem cách thức các cụ dấu diếm cuốn gia phả nơi thâm sơn cùng cốc, khó khăn, gian hiểm, cũng đủ hiểu mức độ quan trọng của khu linh địa.

    Vậy như lời lão vừa trình bày, ngày mai đây, lão sẽ cùng đi với tiên sinh đến Hang Chúa, để tìm tập sách quý, mà theo chúc thư, có ghi chú rõ ràng phương pháp hộ thần, án hướng, tự mình phân kim an táng lấy, chứ không cần phải nhờ thầy địa lý.

    Đó là một lối đề phòng rất cẩn thận, chu đáo của các Cụ, ví các Cụ sợ kẻ tiểu nhân, sẽ lợi dụng cơ hội này, để chiếm đoạt khu đất quý.

    Sau khi đã tìm được cuốn gia phả, ghi dấu rành mạch phương hướng rồi, tiên sinh sẽ trở về quê quán kiếm hài cốt ông cha, còn lão thì nằm... chờ chết ơ Ngòi Xảo, vì lão biết mình, lão không sông được mấy ngày nữa đâu ?

    Lương lão thở dài, đoạn cười gượng :

    - Làm người ai không một lần phải chết ! Huống chi sinh, ký, tử, quy (sống gửi thác về), người có nhẹ nợ, mới sớm được về với cát bụi. Vì thế, lão tính rằng : muốn cho khỏi lỡ việc, chúng ta phải đi ngay vào Hang Chúa mới kịp !

    Vi Đạt vội dơ tay phác một cử chỉ phản đối, rối nghiêm nghị cắt ngang :

    - Không được ! Sao lão trượng lại nghĩ quẩn như vậy ! Đã biết có huyệt tốt, thì cứ đánh dấu đấy, ai dám tranh cướp mà sợ ! Người đang khoẻ mạnh sao lão trượng lại bàn đến chuyện chết chóc làm chi ?

    Lão trượng cùng tôi đi thăm đường đất, rồi lão trượng cứ về đã, chung sống với tôi, bao giờ Trời Phật rước đi, sẽ hay ! Tiên sinh đừng câu nệ, nghi ngại chi hết. Bốn bể đều là anh em cả mà !

    Lương lão nắm chặt cánh tay họ Vi, tỏ ý bùi ngùi, cảm động :

    - Lão rất đội ơn chiếu cố của Tiên sinh, nhưng lão nói vậy không phải là không tính toán, suy nghĩ, kỷ lưỡng đâu ? Lão biết vận mệnh của mình lắm !

    Vậy tiên sinh khá yên tâm, đừng thắc mắc chi cho số phận của lão, mà cứ lưu ý lo việc riêng của Tiên sinh, chỉ cốt sao cho khỏi lỡ làng đại sự, thì dù lão nhắm mắt, cũng được ngậm cười nơi chín suối.

    Trọn đêm đó, đôi bạn già nằm nói truyện cho tới sáng, mới sai Vi Thành đi đun nước, pha trà, khi cơm nước xong suôi, hai người dắt nhau đi lần vào núi sâu, trèo đèo, vượt suối, rẽ lau, vạch sậy cực kỳ vất vả, gian nan, nhiều chỗ hiểm trở quá họ Vi lại phải nâng đở, dìu dắt hay cõng Lương lão lên lưng mới vượt qua được những gềnh đá cheo leo, chung quanh toàn đá tai mèo nhọn hoắt, sắc bén chơm chởm như mớ giáo gươm dựng ngược, kẻ yếu bóng vía rùng mình, cơ hồ muốn xây xẩm mặt mày, ngã lộn nhào xuống những vượt sâu thăm thẳm.

    Đốt nến xem lại bản di chúc, Lương lão đi lần vào phía sau, tìm được một cái rương đã gắn liền với vách Hang.

    Vi Đạt dùng rìu bổ mạnh, nắp rương bật ra, để lộ ra một gói lớn, bọc vải sơn, chằng buộc rất kỷ lưỡng bằng gân nai. Lấy dao găm cắt đứt dây và mớ bọc vải ra, thì thấy bên trong có một cái địa bàn, một lá cờ ngũ sắc, trên vẽ chi chít những hình bát quái và ghi nhiều chữ triện rất dị kỳ, lạ mắt.

    Trong một cái hộp đồng vuông, còn có một con rùa đất, miệng ngậm đầy bùa chú và một lọ thủy tinh gắn kín, ngoài ghi rõ hai chữ : cấm mở !

    Cuốn gia phả được xếp gọn dưới đáy hôp.

    Trái vời sự dự đoán của hai người, cuốn gia phả của tổ phụ họ Lương không dày lắm, mà chỉ có vỏn vẹn có 5 tờ giấy bản khổ lớn chia ra : 3 tờ đầu dạy về phương pháp an táng, cách thức hô thần, trấn yểm, phân kim, án hướng, tờ thứ tư là bản đồ ghi chú địa điểm rõ ràng của hai khu đất " Lưỡng ngưu ẩm Thủy " phía dưới có mấy câu, viết bằng sơn đỏ chói :

    " Mình nằm Ngòi Xảo,
    " Đầu gối Núi Rồng,
    " Chân đạp Cầu Vòng,
    " Tay dang Nam, Bắc,
    " Hạn kỳ bách nhật,
    " Bột phát công khanh,
    " Huynh đệ hiển danh,
    " Quyền uy nhất khoảnh..."

    So với lời truyền tụng trong dân chúng ở vùng Bắc Quang, thì mấy câu tổng kết này có hơi khác, nhưng tựu trung, ý nghĩa cũng vẫn là ca ngợi kiểu đất " lưỡng ngưu ẩm thủy".

    Tờ cuối cùng, dạy về cách lễ tạ ơn, sau khi mả đã được an táng xong xuôi, cũng như khi quán khí hoặc mỗi lúc không may bị động trệ.

    Mỗi thời kỳ phải sắm sửa lễ vật và phải theo phương pháp cúng vái khác hẳn nhau, không thứ nào giống thứ nào hết.

    Mới thoạt đọc những tên Núi Rồng, Cầu Vồng... hai người không ai hiểu nơi ấy ở đâu, nhất là Vi Đạt, đến ngụ cư vùng này đã khá lâu, mà vẫn tuyệt nhiên, chưa hề được nghe ai nói đến những cái tên lạ lùng, có vẻ huyền bí thiêng liêng đó lần nào !

    Nhưng nhìn kỷ vào bản đồ, một lúc lâu, vì chữ viết nhỏ như con kiến, ông Vi Đạt mới nhận được những vị trí trên. Thì ra Núi Rồng là ngọn núi chỉ cách dãi Cao Sơn chừng hai dặm. Còn Cầu Vồng là cái đồi uốn cong đối diện với dãy Cao Sơn ở phía sau Bản Tỵ, chỗ nọ cách chỗ kia hàng vài ba chục dặm.

    Vi Đạt còn đang ngẫn ngơ suy nghĩ về vị trí xa xôi, diệu vợi ngăn cách các nơi có ghi tên trong gia phả, thì Lương lão đã hiểu rõ sự băn khoăn của bạn, vội nói ngay :

    - Các Cụ dạy thế, chỉ là có ý bảo mình phải an táng hài coât theo những phương hướng ấy, chứ có bắt buộc mình phải đặt hài cốt gối hẳn đầu lên Núi Rồng, đạp hẳn chân lên đồi Cầu Vồng đâu ?

    Chỉ cốt đầu nằm về phía Núi Rồng, chân đạp về phía đồi Cầu Vồng, là đủ rồi, tiên sinh ạ !

    Khác hẳn sự an táng hài cốt ở những mộ phần của thiên hạ, trong khu linh địa "Lưỡng Ngưu ẩm thủy", huyệt chôn hài cốt ở hai bên bờ Sông Cả là huyệt bằng, còn chính huyệt thì lại nằm giữa lòng sâu, trên một hòn núi cao, phải trấn yêmbằng con rùa và chiếc lọ đậy kín, không biết bên trong chứa đựng những gì, cùng lá cờ bát quái vẻ chi chít những hình thù quái đản.

    Đặc biệt hơn hết, là sau khi an táng cả hài cốt ở hai bên huyệt bằng, lúc ấy mới được khởi sự trấn yểm huyệt chánh bằng cách đọc bài chú, ghi ở trang cuối cùng cuốn gia phả, chờ cho nước sông đang lên mới được thả những lễ vật xuống vào đúng nửa đêm thanh vắng.

    Nếu đúng phương hướng và cách thức trấn yểm, thì nội bách nhật, hòn núi giữa lòng sông sẽ biến mất, sau một cơn bảo tố ngất trời.

    Thế là hài cốt bắt đầu quán khí, đúng như lời di chúc của tổ phụ họ Lương.

    Trở về Ngòi Xảo được ba ngày thì Lương lão trở bệnh, lên cơn sốt mê man chừng một trống canh, rồi bỗng mở choàng mắt ra, nhìn quanh, có vẻ rất tỉnh táo, nắm chặt lấy tay Vi Đạt mà rằng :

    - Tiên Sinh ! Duyên bèo mây xui khiến cho lão gặp Tiên Sinh, được Tiên Sinh lấy mắt xanh đoái tưởng, khiến cho lão lưu được chút sống thừa, vừa đủ thời gian cho lão hoàn thành nguyện ước của tổ phụ. Đồng thời, nhờ đó, lão cũng không đến nổi uổng phí công lao vất vả liên tiếp hơn hai chục năm trời ! Tất cả những sự may mắn ấy, đều do bàn tay bác ái, từ thiện của Tiên Sinh, đã tận tình thương mến lão, giúp đở lão vượt qua mọi cơn sóng gió ! Sống lão ghi tâm khảm, chết lão nguyện sẽ phù hộ cho Tiên Sinh.

    Ngừng lại một lát, Lương lão thở hổn hễn như có vẻ mệt mỏi, đau đớn lắm, đoạn đưa hai bàn tay khẳng khiu, run rẩy lần theo gấu áo, theo đường chỉ lấy ra một tờ giấy nhỏ cuốn dài, dấu kín ở bên trong mâng mê đưa cho họ Vi rồi nói tiếp :

    - Trước khi lìa giả cỏi đời, lão còn một việc nữa, phải nhờ Tiên Sinh thương tình nhận lời giúp đở cho, thì lão mới đành tâm nhắm mắt được.

    GỀNH ĐÁ CÓ BỊ CHÌM SÂU DƯỚI NƯỚC THÌ MẢ MỚI BẮT ĐẦU KẾT PHÁT…

    Số là lão vâng theo di chúc của tổ phụ, sang đây tìm cuốn gia phả và nghiên cứu kỷ lưỡng ngôi đất, đã do tổ phụ lão dày công lựa chọn, từ hơn hai mươi năm nay, bao phen cứ tưởng phải bỏ xác xứ này, trước khi tìm được cuốn gia phả kia.

    May sao, khi lần mò tới vùng Ngòi Xảo, lại kiếm được Hang Chua, và nhờ một sự tình cờ nữa, còn được kết giao với Tiên Sinh, để hợp tác với Tiên Sinh, cùng hưởng chung ân lộc của Trời Phật đã dành riêng cho hai họ Vi, Lương của chúng ta.

    Có lẽ cũng vì lòng trời, mới xui khiến cho chúng ta được gặp nhau, hiểu nhau và mến thương nhau không khác chi anh em ruột thịt.

    Dứt lời, có lẽ vì cố gắng quá, Lương lão nhắm mắt, ngất lịm đi, thiêm thiếp mê man .

    Một lúc sau, lão bừng mở mắt nhìn họ Vi tha thiết nói thêm :

    - Lão cần căn dặn Tiên Sinh một điều cực kỳ trọng hệ, có liên quan chặt chẽ đến vận mạng con cháu chúng ta về mai hậu : là kiểu đất Lưỡng ngưu ẩm thủy, cứ theo lời di chúc của tổ phụ lão, vốn là một kiểu đất đặc biệt, cổ kim không co một nơi nào có được một khu quý địa như thế đâu ?

    Bởi vậy, khi lão nhắm mắt rồi, nếu có người am tường môn phong thủy, được xem qua kiểu đất, mà có nói ra nói vào điều gì hay bàn luận, thêm bớt nào, cũng xin Tiên Sinh thận trọng tuyệt đối không được nghe theo lời họ, vì họ chỉ biết quan sát bề ngoài, đánh giá sự kết phát theo địa hình địa thế, chứ biết sao được những lẽ huyền bí, kỳ ảo, phát sanh từ nơi khác, ở cách xa đây hàng vạn dậm, có lẽ cao xa, hóc hiểm lắm, nên cá Cụ chỉ di chú lại qua loa cho mình biết thôi không cần phải dài dòng giải thích.

    Tóm lại, thầy địa lý nào, xem kiểu đất của mình mà phân kim, án hướng, mai táng hài cốt theo lề lối thông thường của khoa phong thủy thì nhất định sẽ bị thần linh trừng phạt tức khắc, sự kết phát trong trường họp ấy đã hiển nhiên hõng hết, mà thầy địa lý cũng khó lòng giữ gìn được cho vô sự.

    Vi Đạt hứa làm theo lời Lương lão căn dặn. Họ Lương cảm tạ, rồi nấc lên một tiếng, từ từ nhắm mắt lại, hơi thở nhẹ dần, rồi im bặt.

    Sau khi chôn cất Lương lão ở khu đất phía hữu sông Cả mồ yên mả đẹp, đúng như phương pháp tổ phụ họ Lương đã ghi chép từng chi tiết nhỏ nhặt nhất. Vi Đạt liền thu xếp hành trang đem con trai đến vùng Lĩnh Nam dò xét tông tích thân quyến, và đem hài cốt thân phụ về Ngòi Xảo an táng.

    Nhưng Vi Đạt chỉ cải táng được phần mộ chớ không dò hỏi được tí tin tức gì của người nhà hết, vì theo lời dân cư sở tại thuật lại, thì sau cơn khói lửa kinh khủng, khiến Vi Đạt phải bôn tẩu giang hồ, cả thân quyến họ Vi cũng tản mát, mỗi người một ngả, chẳng còn ai biết được họ sống chết còn mất thể nào ?

    Cuối cùng, dọ hỏi khắp nơi, thì Vi Đạt còn một người em, theo lời thuật lại của họ Phùng thì người em này đang bị giam ở trong tù. Vi Đạt đau đớn vô cùng. Anh em phải thất lạc bao nhiêu năm trời, khi tìm được tung tích, không ngờ em lại bị vạ gió tai bay, mà mình bất lực, không có phương gì giải cứu. Càng nghĩ, họ Vi càng tức bực, nhiều lúc muốn bạo động, song e quả bất địch chúng, họa hổ bất thành, chắc lại nguy hiểm thêm cho tính mạng Vi Hoành.

    Sau khi viên Tù Trưởng cùng bọn thủ hạ áp giải kẻ bị tình nghi đi rồi, họ Phùng mới cho Vi Đạt biết rằng : viên Tù Trưởng họ Hoàng, vốn là một kẻ tham tàng, bạo ngược, từ khi được nối chức cha, đã gieo bao tan tóc đau thương cho dân chúng trong vùng.

    Y lại còn liều lĩnh hơn nữa, thường tìm cách xâm lấn ruộng rẫy, đem gia nhân thân tín đến các khu rừng núi kế cận, thuộc quyền cai trị của các Lang Đạo khác, để lấy các thứ lâm sản và săn bắn, thường xuyên gây sự bất hòa với các động ở gần quanh Hoàng Su Phì, khiến cho dân cư bị ảnh hưởng lây, cũng luôn luôn bị các bộ lạc thù địch đến đánh phá cướp đoạt trâu bò, thóc lúa, làm cho người dân Hoàng Su Phì không mấy khi dám ra khỏi địa hạt.

    Theo lời vợ con của họ Phùng thuật lại thì vụ Vi Hoàng bị bắt cũng không có gì quan trọng, vì viên Tù Trưởng chỉ tình nghi qua giáng điệu lực lưỡng, khoẻ mạnh của Hoành, chớ không hề tìm được một bằng cớ rõ rệt nào khả dĩ chứng minh được là Hoành to rập với đám cướp để đưa đường đánh phá họ Hoàng.

    Họ Phùng bàn luận với Vi Đạt, rồi định sáng hôm sau, sẽ thân hành lên động Tù Trưởng, để biếu lão một ít lể vật, xin tha cho Vi Hoành.

    Không ngờ sáng hôm sau, giữa lúc hai người vừa định sửa soạn ra đi, thỉ bỗng được tin tráng đinh trong bản phi báo rằng : vào hồi nửa đêm hôm qua, viên Tù Trưởng ở gần đấy, kéo thủ hạ đến đánh cướp dinh họ Hoàng, giết được họ Hoàng, và toan kéo nhau vào phá kho thóc, cướp vàng bạc, trâu bò, thì đám tù nhân, ước chừng năm chục người, toàn là những thanh niên vũ dũng do Vi Hoành cầm đầu, tức giận, đã nổi cả lên, phá ngục thất, cưỡng hiếp đám lính canh phòng, đoạt chìa khóa kho vũ khí rồi cùng hợp lực, kéo nhau ra đánh đuổi bọn cướp.

    Bị phản công bất ngờ, viên Tù Trưởng địch phải bỏ hết trâu bò, thóc lúa, hô thủ hạ chạy trốn vào rừng.

    Nhưng chúng cũng bị hạ sát tới 5 tên, vứt lại nhiều giáo mác và ba con ngựa thồ.

    Dân chúng và binh linh ở động Hoàng Su Phì cảm mến ân đức ấy của Vi Hoành, hơn nữa lại quá căm thù oán ghét Tù Trưởng họ Hoàng đã hèn nhát lại tham nhũng, nên đồng lòng tôn Vi Hoành lên làm Tù Trưởng.

    Sau đó, một thời gian ổn định. Vi Hoành đã cho người về đón Vi Đạt lên động chơi, để anh em có dịp hàn huyên cho thỏa lòng nhớ thương trong bao ngày lạc lõng chia ly.

    Vi Đạt mừng rỡ quá, vội sửa soạn hành trang đem Vi Thành cùng đi với người dân ở Hoàng Su Phì, lên động thăm em, ở chơi gần nửa tháng mới cáo biệt, theo họ Hoàng đi Nước Hai, để tìm mua mấy thứ thổ sản, đem về bán buôn cho các Hoa thương ở Hà Giang.

    Không ngờ trong chuyến du hành này, họ Vi một lần nữa, lại gặp một điều vô cùng may mắn khác.
     
  3. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    DUYÊN MAY NGÀN DẶM

    Theo tục lệ thổ dân ở vùng Nước Hai, tỉnh Cao Bằng, hằng năm, cứ đến cuối mùa Xuân, lại có tục gieo cầu, trai tráng các nơi, không luận sang hèn, giàu nghèo, cứ miễn là thanh niên khoẻ mạnh biết cưởi ngựa, bắn nỏ, thông thạo võ nghệ, đều được dự thí, miễn được thiếu nữ nào ném trúng quả tú cầu thêu vóc hồng thì được cha mẹ cô gái ấy, mời về nhà khoản đải, gả con gái cho, rồi dựng nhà chia trâu, chia ruộng, gây dựng cơ nghiệp cho con rể, cho tới bao giờ vợ chồng con rể tạo được cơ nghiệp căn bản vững vàng mới thôi.

    Do đó, nhằm tiết cuối xuân, các thanh thiếu niên trai tráng, chẳng cứ ở Nước Hai, mà co khi còn ở những vùng xa xôi, cũng rũ nhau tìm đến dự hội gieo cầu, để hy vọng chiếm được người đẹp và có cơ hội gây dựng cơ nghiệp lâu dài.

    Năm ấy trên khu đồi gần đình quan Lang, nơi vẫn đươc chọn làm bải gieo cầu cho những nam thanh, nữ tú, đã được trang trí rực rỡ, khác hẳn thường lệ, vì năm nay có con gái quan Lang Nước Hai đến tuổi gieo cầu, cũng theo chân các bạn đồng trang lứa, dự hội du xuân, để thử xem số mạng.

    Tin đó như một ánh lửa loè sáng giữa đêm khuya tăm tối, đã có mảnh lực thu hút được hàng trăm thanh niên, đủ giai cấp ở miền sơn cước, nô nức kéo nhau đến Nước Hai để ..." tìm duyên nợ " !

    Sự nô nức đó cũng không có gì đáng ngạc nhiên cho lắm vì con gái quan Lang, vốn nổi danh tài mạo, tuyệt vời, nhan sắc chẳng những hoa nhường nguyệt thẹn, cá lặn, nhạn sa, mà khác hẳn với những sơn nữ khác, các môn cầm kỳ thi họa, nàng đều làu thông, không kể cái biệt tài võ nghệ.

    Thiên hạ thường đồn đải với nhau rằng vị thiên kim tiểu thư, con gái duy nhất của quan Lang Nước Hai, vẫn luôn luôn ăn vận nam trang, một mình cưỡi ngựa vào rừng sâu săn bắn, đã có lần hạ luôn một lúc được hai mảnh hổ, một con dùng tên bắn, một con nàng dùng bàn tay nhỏ bé mềm mại như nhung để giáng một cái thôi sơn, vào giữa đầu cọp, khiến chúa sơn lâm vỡ sọ, chết tươi, không kịp rống lên một tiếng giả biệt núi rừng.

    Nhưng dù võ nghệ vào loại bạt sơn, cử đỉnh, vị tiểu thư lá ngọc cành vàng ấy, vẫn không quên cái địa vị cao quý của một giai nhân sinh trưởng nơi trường gấm màn the, ra hài, vào hán, mổi lời sai bảo, trăm tiếng dạ vang, muốn gì được nấy, cha mẹ nưng niu, chiều chuộng như trứng mỏng trên tay, nên những lúc chiều tà đối bóng, Đinh tiểu thư thường gây một lò trầm hương ở căn lầu trông thẳng ra vườn hoa, mà nàng đã đặt cho cái tên rất thơ mộng là Nghênh hương các, để nhìn trăng, gảy khúc đàn tuyệt diệu, gửi tâm tình qua những âm hưởng thanh cao, du dương, thảnh thót, của chiếc nguyệt cầm, không kém gì tiếng giây tơ huyền ảo của những tay danh cầm, tuyệt kỹ thuở xưa, mà tên tuổi còn được lưu lại trong những áng diểm tình giai thoại, muôn ngàn thu, còn có tác dụng rung chuyển lòng người !

    Khác hẳn lối giáo huấn khắc nghiệt của thời phong kiến, mà giá trị người con gái không hơn gì một món đồ chơi, hay một cái máy để khi ở nhà tuỳ thuộc quyền cha mẹ, khi xuất giá, làm tôi mọi cho chồng, dở hay sướng khổ đều không do tự mình quyết định, vợ chồng quan Lang Nước Hai thấy con gái tài sắc vẹn toàn, công dung, ngôn hạnh gồm đủ, văn võ gồm tài, cầm kỳ thông thạo, nên để mặc cho nàng tự kén lấy bạn trăm năm, chứ không ép uổng con gái như những gia đình khác, vì cả hai ông bà cũng tin rằng : Nàng có đủ trí sáng suốt tìm được ý trung nhân để trao sương gửi thịt.

    Vã lại quan Lang cũng hiếm hoi, dưới gối chỉ có một mình nàng, nên hai ông bà cũng muốn cho nàng kén được người tuấn tài để mai sau nối nghiệp ông cha.

    CHÚA TỂ ĐẤT LẠNG SƠN

    Sau khi an táng hài cốt tổ phụ vào huyệt tả ngạn sông Cả, ở ngay cửa Ngòi Xảo, họ Vi đi buôn trên miệt Hoàng Su Phì, gặp được em ruột là Vi Hoành bị thất lạc từ khi có cuộc biến loạn ở Lĩnh Nam. Nhờ tài võ dũng quả cảm, Vi hoành đánh ta bọn giặc ở vùng Bắc Mục, nhân lúc bất ngờ kéo đến cướp đoạt trâu bò, vàng bạc của dân cư sở tại, nên được mọi người tri ân, tôn lên làm Tù Trưởng.

    Vi Đạt cùng con trai là Vi Thành, sau đấy lại qua phủ Nước Hai ở Cao Bằng để mua ngựa tốt, nhằm đúng hội gieo cầu, được quan Lang Nước Hai kén Vi Thành làm giai tế, húa cho nối nghiệp khi từ trần, ví quan Lang không có con trai kế tự.

    Họ Vi hiển đạt, làm chúa tể hai miền sơn cước hưng thịnh, trù phú, cha truyền con nối cho đến năm Minh Mạng thứ tám, mới di cư qua đất Lạng Sơn, cầm đầu các động thổ dân, rất được mọi người kính nể, tuyệt đối phục tùng.

    MẢ PHÁT TO

    nhưng nhiều người bị bất đắc kỳ tử...

    Khi Vi Văn Định làm Tổng Đốc tỉnh Thái Bình, nhờ có quan Tri Châu Bắc Quang họ Cao giới thiệu, được quen biết một nhà phong thủy chánh tông họ Triệu từ tỉnh Triết Giang bên Tàu trốn qua Việt Nam tỵ nạn, sau cuộc âm mưu khởi nghĩa định lật đổ đế chế Mãn Thanh bị thất bại, khiến cho một số lớn đồng chí của họ Triệu phải rơi đầu trước lưỡi gươm đẩm máu tàn bạo của bọn vua quan nhà Thanh, không ngần ngại gì, thường thẳng tay chém giết những người Trung Hoa, không chịu theo chúng, để củng cố chiếc ngai vàng mục nát.

    Vi Văn Định tiếp đải họ Triệu rất trọng hậu, dùng lể thượng khách đối xử một cách cực kỳ cung kính.

    Họ Triệu thấy Định đang đắc thời, đắc thế, được người Pháp tin dùng, tuy chỉ cầm đầu có một tỉnh, mà quyền uy khét tiếng khắp nơi, hách dịch như một vị tiểu vương, nghênh ngang một mình một cỏi biên thuỳ, nên muốn được sống yên thân nơi xứ lạ cũng hết lòng cung kính, tận tâm, tận lực phụng thừa Vi Văn Định, coi Đinh như thần hộ mạng, có đủ thế lực che chở cho mình trong lúc sa cơ thất thế.

    Bởi vậy, khi được Định đưa lên Ngòi Xảo phúc lại ngôi mả tổ tiên tả ngạn dòng sông Cả, họ Triệu đã một mình lăn lội vào rừng thẩm, núi cao, tận dụng tài học sở trường về môn phong thủy, để nghiên cứu kỷ lưỡng, địa hình, địa thế khắp vùng "Lưỡng Ngưu ẩm thủy", tới gần nửa tháng trời, mới nói cho Vi Văn Định biết rằng :

    - Quả đúng là đất đại quý, sự kết phát sẽ bền vửng lâu dài bất cứ triều đại nào, họ Vi cũng được coi là anh hùng một cỏi giang sơn riêng biệt.

    Nhưng so sánh hai ngôi mộ ở tả hữu ngọn sông Cả trong vùng Ngòi Xảo, thì mả của họ Lương đắc dịa hơn nhiều.

    Cứ nhìn qua bề ngoài của hai ngôi mộ, người không biết gì về khoa địa lý cũng có thể phân biệt được sự hơn kém : mả tổ phụ họ Lương không cần trông coi, bồi đắp mà quanh năm, lúc nào cũng to lớn, nổi cao lên như một cái đồi nhỏ, cỏ mọc xanh rờn, dây leo chằng chịt, trông xa như một tấm thảm nhung biếc, đẹp mắt vô cùng.

    Còn mả tổ họ Vi, dù thường xuyên vẫn có gia nhân, canh gác, đắp đất, rẩy cỏ rất cẩn thận mà cỏ vẫn kém tươi, mộ phần cũng chỉ bằng tám phần mười ngôi mả của họ Lương, mặc dù phong cảnh cũng xinh đẹp lạ lùng. Sở dĩ có sự khác biệt ấy, theo sự nhận xét của nhà phong thủy họ Triệu, thì nguyên do chỉ là vì con hỏa nằm án ngữ cách minh đường ngôi mộ chừng nữa dậm.

    Đó là một gò đất nổi lên, nằm trơ vơ phía trái miếu sơn thần, chạy thoai thoải đến gần mộ phần, trong giống như một mủi dùi nhọn đâm thẳng vào ngôi mả.

    Vì thế, sự kết phát bị giảm súat mất một phần nhỏ.

    Không những thế, nó còn là điềm bất đắc kỳ tử cho nhiều người trong họ nữa.

    Vi Văn Định lo sợ, vội năn nỉ tha thiết yêu cầu thầy địa lý tìm cách trấn yểm giúp cho con Hỏa không nổi dậy, tác quái, nhiểu hại cho con cháu trong dòng họ, nhưng họ Triệu khăng khăng từ chối và cho biết : con Hoả ấy nằm sát long mạch, không có phương thế chi để diệt trừ, hay trấn áp được hết, vì chỉ hơi động đến là long mạch bị thương tổn ngay tức khắc , chẳng những không có lợi chi mà còn có thể gây thêm nguy hại cho sự kết phát sau này, uổng phí cả tâm cơ của tổ tiên ngày trước.

    Vả lại, cứ như sự suy luận của họ Triệu thì các kiểu đất quý, phần nhiều đều có một vài nét khuyết điểm, nhẹ nặng tuỳ theo phước trạch của ông cha, đó là luật thừa trừ rất nhiệm mầu kỳ bí của Hoá công, chứ chẳng mấy khi được toàn mỹ, chỉ có kết mà không có đọng trê bao giờ

    Chỉ cốt sao cho sự kết phát được nhiều hơn sự nguy hại, cũng đã là một điều đại hạnh cho gia chủ lắm rồi !

    Ta không nên đòi hỏi quá nhiều mà vô tình cưỡng lại mệnh trời, tạo thêm sự thất đức, làm giảm bớt cả tính cách linh ứng của kiểu đất hiếm có, mà dám chắc, trên cỏi đời này, chưa chắc đã tìm được một kiểu đất tương tự thứ hai !

    Cuối cùng muốn an ủi quan Tổng Đốc Thái Bình, họ Triệu đã đem nhiều chuyện thi ân, bố đức, cầu phước, khuyến thiện ra nói với dụng ý kín đáo, ngầm khuyên Vi Văn Định nên tu nhân, tích đức, làm điều lành, tránh điều dữ, để may ra có thể cứu vãn được phần nào sự nguy hại do con Hoả gây ra cho con cháu họ Vi.

    Những lời khuyên kín đáo của thầy địa lý Tàu như bị rơi vào sa mạc, vì như ai nấy đều biết : Vi Văn Định khi còn nắm quyền sinh sát ở tỉnh Thái Bình, cũng như sau đấy, ở tỉnh Hà Đông, vẫn luôn luôn thẳng tay sát hại đồng bảo lương thiện, nhất là những nhà cách mạng nuôi chí lắp bể vá trời, muốn đánh đuổi thực dân,để khôi phục nền độc lập cho giang sơn tổ quốc.

    Muốn được mẫu quốc ghi công để ban thưởng cho mề đay, kim khánh, tiến chức, thăng quan nhanh chóng hơn diều gặp gió. Vi Văn Định đã chẳng chút ngại ngần, trút hết cả mọi nổi khổ lên đầu các chiến sĩ cách mạng, sáng chế ra nhiều loại hình phạt, cực kỳ dã man hiểm độc, đến nổi chỉ nghe nói qua đến những thủ đoạn của họ Vi làm Tổng Đốc tỉnh này, người yếu bóng vía cũng đã thấy rùng mình sởn gai óc.

    Bà con ở Thái Bình di cư vào Nam, hẳn còn nhớ thời kỳ họ Vi làm Tổng Đốc, đã có ra một nghiêm lịnh quái ác : triệt để bắt các hương lý chức dịch các làng xóm phải diệt cho kỳ được loai bèo Tây, mà có nơi quen gọi là sen Nhật Bản, một giống bèo có sứ bành trướng mạnh mẽ phi thường, sinh sôi nẩy nở nhanh chóng, nhiều vô số kể trong một thời gian ngắn ngủi, có rễ dài, nổi lềnh bềnh trên mặt nước cả hoa màu tím và lá màu xanh mới trông cũng khá đẹp mắt.

    Nhưng vì nó sinh sản nhiều quá lẹ quá, nên vẻ đẹp thuở ban sơ, đột nhiên biến mất, để nhường chỗ cho sự chán ghét trong tâm khảm mọi người.

    BÁC SĨ T. EM RUỘT VI-VĂN-ĐỊNH BỊ NGỰA DẨM CHẾT DƯỚI LÒNG SUỐI

    Theo lời những ông già, bà cả kể lại, thì khi thứ bèo hoa tím, lá xanh, hình cánh quạt mới xuất hiện tại biển đông nhiếu nhà quan quyền ,phú hộ, cường hào đã không quản ngại tốn kém, mướn người đi lấy về để thả trong bể, cho bèo nổi trôi quanh hòn non bộ, giống hệt những chiếc thuyền bồng bềnh giữa bể khơi, coi đó như một môn giải trí thanh cao, thích thú cho những người giàu sang, nhàn rỗi.

    Nhưng người đời, xưa nay vẫn ham tân, chuộng lạ, chỉ say sưa mê thích những cái gì khan hiếm ít khi tìm thấy được dễ dàng ở trên thế gian, chớ nếu nơi nào cũng đầy rẩy, chất đống cao như cây rơm , cây rạ ở thôn quê, thì còn có nghĩa lý gì.

    Giá trị nó lúc ấy, quả thật không còn đáng được nửa đồng.

    Thứ bèo Nhật Bản kia cũng vậy !

    Những gia đình quyền quý, thừa tiền, thừa bạc, khi thuê người đem thứ bèo đó về thả vào bể nước, thấy nó sinh con đẻ cháu nhanh chóng, mạnh mẽ lạ lùng, lúc đầu còn vui thích, sung sướng, nâng niu, lấy giống đem thả xuống hồ, xuống ao.

    Chỉ mấy hôm sau, hồ, ao cũng đầy ứ loại hoa tím lá xanh, khiến chủ nhân không còn muốn "thưởng thức" cái loại hoa kỳ lạ đó nữa.

    Hơn thế, những loại rau muống hay sen trắng, sen đỏ trồng sẳn ở trong hồ ao từ trước, lại còn bị thứ bèo mới tới lấn át, đến phải héo hắt, chết dần, chết mòn, suốt lượt.

    Thứ bèo trồng chơi từ bể nước, vì vậy đã bị mất địa vị danh hoa, phải đem ra quăng cả ra hồ ao, cống rãnh.

    Và kỳ lạ hơn hết, là ở đâu, bất cứ rạch bần ao rộng hẹp thể nào, giống bèo đó cũng sinh sản nhanh hơn cỏ dại.

    Người ta vứt ra ngoài ruộng chiêm ngập nước thì chỉ vài ba hôm cả cánh đồng đã tím ngắt màu... sen Nhật Bản.

    Thuở bấy giờ nhằm kỳ nghỉ lể, em ruột quan Tổng Đốc Thái Bình là Bác sĩ Vi Văn T... được nghỉ mấy hôm, về thăm quê nhà ở Lạng Sơn, một hôm Bác sĩ T. cưỡi ngựa dạo chơi quanh vùng, khi vượt qua một con suối nông cạn mà mực nước không ngập quá gối, Bác sĩ T. lại bị ngã ngựa, rồi bị ngựa cuống quít dẫm chết luôn ở giữa lòng suối.

    Mọi người chung quanh đấy vội đổ xô đến cứu cấp, nhưng không kịp.

    Thì ra con ngựa của Bác sĩ T. lúc lội qua suối, bị vướng phải rễ bèo tây, cuống cẳng nên ngã quỵ ngay xuống suối, quăng luôn cả Bác sĩ T. xuống nước.

    Khi con ngựa vùng vẫy thoát khỏi đám rễ bèo, nó lại hoảng hốt lội mau lên bờ, chẳng ngờ rủi ro làm sao, lại dẩm bẹp ruột Bác sĩ T. khiến Bác sĩ T. chết liền không kịp kêu cứu.

    Tin dữ bay xuống tỉnh Thái Bình, làm cho Vi Văn Định tức giận như kẻ điên cuồng, phần thương tiếc đứa em mới thành tài, chưa kịp hưởng thụ đúng mức sự giàu sang cho bõ công học hành vất vả, đã phải bỏ mình vì một tai nạn không có nghĩa lý gì, nên ngay lúc ấy, liền hạ lệnh cho tất cả tổng lý, hương chức các làng xã trong toàn hạt Thái Bình phải trừ tiệt loại bèo tây, nơi nào trái lệnh, sẽ bị nghiêm trị theo pháp luật.

    Các hương lý, chức dịch thôn quê ở Thái Bình lúc bấy giơ thật đã vô cùng điêu đứng, khổ cực, trước cái lệnh quái gỡ của vị quan đầu tỉnh, vì giống bèo tây sống dai hơn đĩa đói, dù vớt lên bờ phơi khô, mà các bèo gặp trời mưa to, trôi xuống hồ ao cống rãnh, vẫn có thể hồi sinh, đã đẻ ra con, ra cháu, nhiều vô số kể và nhanh như chớp. Vì vậy, cứ vớt sạch được chỗ này, thì chỗ kia đã lại có bèo mọc. Nhiều nơi dân chúng không còn làm ăn được gì nữa mà chỉ lo đi vớt bèo cũng vẫn không xong.

    Nhiều đêm, quan Tổng Đốc đã bất thình lình, mặc thường phục vi hành đến thăm các làng tổng, thôn xóm xa xôi trong địa phương, nếu thấy nơi nào còn sót ít nhiều bèo tây trong hồ ao, là lý dịch sở tại bị gọi ngay ra đình, cho quan đầu tỉnh sĩ vã chẳng tiếc lời và nọc nằm thẳng cẳng trên nền gạch, bắt lính hầu phải dùng ba toong to bằng cườm tay, quật cho quắn đít, liền chỉ hồ điệp hàng hai ba chục chiếc đến nứt da, nứt thịt, máu me chảy đầm đìa, mới chịu buông tha cho các nạn nhân sau khi đã buông thêm lời cảnh cáo : nếu còn tái phạm, sẽ bị trừng trị nặng nề ghế ghớm hơn nhiều.

    Tiếng tàn ác của Vi Văn Định lan rộng khắp nơi. Nhiều đoàn thể chánh trị, thấy y lợi hại quá, e trở ngại cho các hoạt động của các đảng phái yêu nước, đã tìm cách để ám hại y, nhưng lần nào Vi Văn Định cũng thoát chết.

    Hôm mới được tin em ruột chết trước một tai nạn hầu như quá vô lý, vì người nào đã từng ở Lạng Sơn, hay có qua đó một vài lần, cũng phải công nhận rằng : con suối mà Bác sĩ Vi Văn T. đã cưởi ngựa vượt qua mực nước thực sự chỉ sâu chừng hai gang , đứng trên bờ, bất cứ giờ nào cũng trông rõ cả lớp cuội trắng nằm lấp lánh dưới đáy .

    Vậy mà khi Bác sĩ T. cho ngựa lội xuống suối, lại bị rể bèo quấn cẳng, khiến con tuấn mả của họ Vi, vốn khét tiếng là giống ngựa tốt, phải ngã quị, quăng luôn cả chủ nhân xuống nước.

    Lạ lùng làm sao, là khi bị té nhào, xuống suối, Bác sĩ T. lại không thế nào đứng vùng lên được, mặc dầu ngày thường, Bác sĩ T. rất khoẻ mạnh, ham chuộng tập dượt chạy nhảy, lại thêm am hiểu cả võ Tây và võ Nhật. Bác sĩ cứ nằm chịu trận dưới lòng suối cho đến lúc bị con ngựa dẩm chết mà vẫn không có một ai biết hết.

    Cho mãi tới khi con ngựa theo đường cũ chạy về nhà, người nhà họ Vi thấy con ngựa hí vang rầm, khắp mình ướt sủng nước mà Bác sĩ T. lại không cùng về, nên lo sợ chia nhau đi tìm kiếm khắp nơi.

    Một bọn gia nhân vừa ra tới bờ suối, đã thấy Bác sĩ T. nằm thẳng cẳng dưới lòng nước.

    Chúng hè nhau lội xuống đem lên bờ, thì Bác sĩ đã tắt thở tự bao giờ, thân thể lạnh toát khắp mình, bị vó ngựa dẩm xây xát, tím bầm.

    Sau khi nhận được hung tinh, Vi Văn Định la hét vang dinh Tổng Đốc Thái Bình.

    Lúc đầu, Định chỉ tưởng là một tai nạn rủi ro : nhưng sau phút cáo giận, y chợt nhớ tới lời tiên đoán của thầy Địa lý năm nào, khi được mời đến Ngòi Xảo để phúc lại phần mộ Tổ phụ an táng trong kiểu đất " Lưỡng Ngưu ẩm thủy ", y mới giật mình, hoảng sợ, vội đi tìm cuốn gia phả coi lại những lời ghi chú về nơi đất quý địa ấy.

    Thì rõ ràng, tổ phụ họ Vi cũng đã có dặn lại, là sự động trệ sẽ kèm theo với sự kết phát để trong dòng họ, luôn luôn có người bị bất đắc kỳ tử do con Hỏa ở trước mộ phần gây ra.

    Vi Văn Định tức bực, vỗ án rầm rầm, muốn lên ngay Ngòi Xảo để cải táng ngôi mả tổ đi, vì y được thấm nhuần ít nhiều Tây học, không tin mạch đất lại có thể giáng phúc, tạo được sự kết phát cho con cháu lâu dài.

    Y viết thư gửi cho các em, nói rõ ý định ấy, làm cho em ruột y là Vi Văn L., Tri Phủ Nước Hai hoảng sợ, phải dùng ngay xe hơi nhà, đi suốt đêm về Thái Bình để ngăn cản ý định điên rồ ấy của Định.

    Sau khi thấy anh đã nguôi giận, Vi Văn L. liền giới thiệu với Định một thầy Dịa lý nguyên quán ở miền Trung, lúc đó đang ngồi dạy học tại nhà quan Phủ Nước Hai, để ủy thác cho người này tìm phương trấn yểm con Hỏa.

    Vi Văn Định cho em biết là trước kia, y cũng đã cho người phúc lại ngôi mả và yêu cầu người ấy trấn yểm con Hỏa, song nhà phong thủy Trung Hoa này viện cớ con Hoả nằm liền sát long mạch, nếu động tới, e sẽ làm thương tổn cho sự vận chuyển của mạch đất.

    Vi Văn L. nhất định, tin tưởng vào tài ba của thầy Địa lý miền Trung nên hết lời phân trần với Định, để xin về đưa nhà phong thủy qua Ngòi Xảo làm bùa phép trấn yểm. Nễ em qua, Định đành phải nghe lời, cho phép Vi Văn L. được trọn quuyền hành đông.

    * Địa lý có phải là hoang đường như nhận xét thiển cận của số người vẫn tự nhận là ... Tân học không ?

    * Chôn nơi tốt, hài cốt nở ra bóng lộn có khi kết thành tượng, chằng chịt tơ hồng.

    * Táng nơi xấu, xương bị hao mòn dần, lâu ngày thành đất vụn.
     
  4. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    NHƯ MỘT BÌNH ĐIỆN...

    Vừa trở về đến Nước Hai quan Phủ Vi Văn L., sai lính hầu đi mời ngay thầy đồ Nghệ đến tư thất, nói rõ cho nhà phong thủy biết sự hoài nghi của anh ruột mình về tính cách động trệ do ngôi tổ mộ được kết phát ở Ngòi Xảo gây ra, để yêu cầu thầy địa lý kiếm cách trấn áp con Hỏa, cho dòng họ Vi từ nay, tránh khỏi nạn bất đắc kỳ tử.

    Nhà phong thủy xứ Nghệ An, ôn tồn đáp :

    - Nhiều người được thấm nhuần Tây Học thường nghi ngờ môn địa lý, cho đó là một sự mê tín dị đoan, chứ một khi đã chết rồi, người khôn ngoan đến đâu, cũng chỉ là một mớ xương khô, theo năm tháng thời gian, mục nát với cỏ cây, hỏi còn biết gì là giáng phúc hay gieo họa cho con cháu nữa. Không cứ quan Tổng Đốc Thái Bình mới không tin việc linh ứng của mồ mả, đất cát, mà bất cứ một người nào, từng có ít nhiều cơ hội tiếp xúc với nền văn minh Tây Phương, cũng đều có ý nghĩ như thế cả.

    Đó quả thực là một sự xét đoán sai lầm đáng tiếc, mà nếu chịu khó suy nghĩ ra sẽ thấy ngay sự nhận xét nông cạn, hầu như bất công của những người Tân Học đa nghi.

    Ngay từ khi mới bắt đầu nghiên cứu về môn phong thủy, tôi (lời thầy địa lý) đã được sư phụ tôi cho biết rằng : địa lý hay nói cho đúng hơn, là môn địa ý, chỉ là một khoa học, căn cứ vào sự thuận mát đúng như ý muốn của mọi người nghĩa là phải chú trọng vào sự cân đối sáng sủa phong quan, có núi non, gò đống có cây cối, sông ngòi.

    Ví vụ một người ngồi ung dung nơi thư phòng, thì trên ghế ngồi phải có tay dựa mà thiên hạ quen gọi là tay ngai, đàng trước mặt phải có án thư, phí sau phải có chỗ tựa lưng.

    Thi hài nằm dưới đất cũng thế, Chánh huyệt là nơi an nghĩ ngàn thu, cũng phải trông ra một nơi quang đảng, sơn thủy hửu tình, đó là án minh đường, nói theo danh từ chuyên môn của khoa phong thủy, sau lưng phải gói vào gò đống kỳ khu, đó là hậu trẩm.

    Còn tay ngai đễ tựa hai tay là tay long với tay hổ.

    Cứ tìm được nơi nào, có đầy đủ những điều kiện cốt yếu như vậy thì ngôi mả nhất định sớm muộn gì cũng phải kết phát không thể nào sai chạy được.

    Người Âu Mỹ dù không tin sự linh ứng của mồ mả nhưng không phải như thế có nghĩa là họ chẳng chú trọng gì đến môn địa lý đâu ?

    Sự thực, khi họ làm nhà, họ cũng vẫn luôn luôn xây dựng dinh cơ trên những thửa đất vuông vắn, quang đảng, trông về những hướng mát mẻ, để hưởng thụ, gió sớm, trăng khuya.

    Mà nhà cửa nào có khác gì phần mộ đâu, vì nó cũng đem lại kết quả tốt đẹp hay ảnh hưởng nguy hại cho chủ nhân nếu gặp những khu đất làm nhà hợp ý hoặc miển cưỡng.

    Còn về sự kết phát hay động trệ tại đó cũng là việc rất thường, không thể gọi được là huyền bí, mờ ám chi hết !

    Như ai nấy đều biết giữa người sống và người chết, cùng chung một huyết khí, bao giờ cũng có sự thông cảm trực tiếp với nhau.

    Do đấy, nếu hài cốt được an táng vào một nơi đẹp mắt, tiền, hậu, tả, hửu đều có những phong cảnh kỳ khu tươi tốt, thì lẽ tất nhiên mớ xương khô nằm đó, cũng được thấm nhuần linh khí thiên địa, phát sanh được những "tia điện" thiêng liêng, để truyền thứ tú khí đó cho con cháu, hay những bà con thân thích, có liên hệ huyết thông với người nằm dưới đáy mộ.

    Nếu có thể ví dụ mà không sợ sai lầm, thì thi hài chôn trong lòng đất, được coi như một bình điện, tốt xấu, mạnh yếu tuỳ theo địa thế mộ phần, để có thể phát xuất những "luồng điện", đem lại sự kết phát hoạt động hổ trợ cho người sống.

    Chinh bởi sự kết phát hay động trệ ấy, mà nảy sanh ra những chuyện ly kỳ có khi đến quái đản, gần như chuyện hoang đường thời Phong thần, khiến cho những "Ông Tân thời" mới căn cứ vào đấy để chỉ trích, dè biểu, chế giểu.

    Họ có biết đâu rằng : bộ xương khô, một khi được an táng vào một khu địa huyệt đẹp mắt, có sự an bài sắp đặt kỳ dị của hóa công, sẽ phát xuất một sức mạnh kỳ ảo mà tôi (vẫn lời thầy địa lý) dám chắc, không có một luồng điện nào ở trên cõi đời này lại có thể hùng mạnh bằng và có thể so sánh kịp !

    Cũng vì thế, mới xui khiến ra những sự kết phát lạ lùng : đang từ một kẻ ngu si dốt nát, trong một sớm một chiều, đã "phúc chí tâm linh" biến thành một người thông minh xuất chúng, có biệt tài thay đổi thời cơ, lật ngược hoàn cảnh, hay đang nghèo mạt rệp, đói khát, khổ sở, chợt gặp gỡ những điều may mắn dị thường để thay đổi hẳn địa vị nghèo khổ thành giàu sang, phú quý !

    Trái lại, nếu mả động, thì sự nguy hại cũng nhanh chóng không kém : người khỏe mạnh bỗng lăn ra chết bất ngờ , hoặc mắc phải những chứng bệnh hiểm nghèo không có một thứ thuốc men nào chửa khỏi, vậy mà chỉ cải táng được mộ phần là lập tức

    bình phục ngay trong nháy mắt.

    Hài cốt táng nơi tốt sẽ nở ra, bóng lộn, có khi kết thành tượng. Chôn phải đất xấu, sẽ bị hao mòn dần, có khi biến thành đất vụn.

    Chuyện mả chôn trong bụng một con ngựa đá dưới sông, của ông Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa, tuy thuộc vào loại hoang đường, song nghĩ cho kỹ, cũng không phải là hoàn toàn vô lý vậy !

    Có những chuyện dị kỳ xảy ra, mới co thể minh chứng được sức mạnh của các ngôi mả kết phát hay động trệ !

    Thầy địa lý nói tiếp : nếu không do ngôi mả gây ra, thì sao " quan đốc" lại có thể bị chết đuối, khi vướt qua một con suối, chỉ nông chưa tới gối mà hàng ngày trâu, ngựa vẫn lội qua từng đám một cách rất dễ dàng ?

    Quan Tri Phủ Nước Hai Vi văn L. chăm chú ngồi nghe lời giải thích của nhà phong thủy vả ngỏ ý mời thầy địa lý ngay sáng hôm sau, đi Ngòi Xảo làm lể trấn yểm.

    Đích thân Vi Văn L. hướng dẫn nhà phong thủy đến Ngòi Xảo, đưa đi coi tường tận cả hai ngôi mả tổ của họ Lương và họ Vi.

    Thầy địa lý lặng lẻ theo chân quan phủ Nước Hai, chăm chú quan sát địa hình, địa thế các nơi, nhất là gò đất có con Hỏa nằm đâm thẳng vào tổ mộ họ Vi, đoạn chỉ tay về phía ấy, mới nói Vi Văn L. rằng :

    Vừa đi quan sát một lượt quanh khu tả ngạn Sông Cả, nhà phong thủy xứ Nghệ đã lắc đầu nói vơi Vi Văn L. sau khi đã lần đốt tay tính toán :

    - Kiểu đất quý thiệt !

    Nhưng sự tác hại của con Hỏa nằm trước mộ phần, quả cũng vô cùng ghê gớm.

    Nếu không trấn áp được gò đất ấy, thì cứ 15 năm trong dòng họ Vi, thế nào cũng lại có một người bị bất đắc kỳ tử mới thôi.

    Đấy kìa, quan lớn thử trông : con Hoả nằm án ngữ minh đường, chỉa thẳng mủi nhọn vào chánh huyệt, nào có khác gì một người cầm dao sắt, đâm vào cổ người nằm ở trong ngôi mộ này ! Nhu thế, hỏi con cháu mà làm sao sống yên ổn được.

    Vi Văn L. lo lắng nhìn nhà phong thủy hỏi vộ :

    - Nhưng thầy thử coi kỹ giúp ! xem chi nào trong dòng họ Vi bị nạn bất đắc kỳ tử ấy ?

    Thầy địa lý lắc đầu :

    - Chua thể nói đích xác được. Còn việc trấn yểm cũng cần phải chờ xem xét kỹ lưỡng hơn nữa rồi mới có thể định liệu được.

    Công việc chưa biết sẽ còn phải kéo dài tới mấy hôm.

    Vậy nếu quan lớn bận công vụ, thì xin mời Ngài cứ về phủ trước đi. Tôi ở lại đây, sau khi hiểu rõ địa hìng địa thế sẽ tự ý lo liệu việc trấn yểm , quan lớn bất tất phải mãi công chờ đợi làm chi cho phí thời giờ vàng ngọc của Ngài.
    CON HỎA

    Một gò đất dài, như một mũi giáo nhọn, đâm vào cổ người nằm trong mả, nếu không trừ được, cứ 15 năm, lại có một người trong họ bị bất đắc kỳ tử.

    Vi Văn L. gật đầu ưng thuận :

    - Ừ được ! thầy nói thế cũng phải ! Ta xin nghe theo. Nhưng muốn cho thầy có người sai bảo, ta xin lưu lại đây hai tên lính tâm phúc, toàn là người trong họ của ta đã theo hầu ta từ trên mười năm nay. Thầy có thể phóng tâm tín cẩn mà không cần phải đề phòng, ngần ngại chi hết.

    Dứt lời, L. từ giả lên ngựa cùng đoàn tùy tùng quay về Nước Hai.

    Ngay đêm ấy, nhà phong thủy lần ra mả, làm phép hô thần rồi chôn ngay dưới chân con Hỏa, một chai thuốc, mà lão đã bí mật đem theo từ phủ Nước Hai để hy vọng có thể làm tiêu thổ cái gò đất nguy hiểm đó.

    Khi lảo trở về đến nhà viên chánh tổng sở tại được dùng làm nơi tạm ở Ngòi Xảo, thì gà rừng đã gần gáy rạng đông..

    Lão mỏi mệt, vội lên giường ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

    Tối thứ hai, lão lại lần ra mả, tiếp tục làm lể trấn yểm, nhưng sớm hơn đêm trước, lúc lão trở về nhà viên chánh tổng, thì trống canh ngoài điểm mới điểm có bốn tiếng.

    Lão ngồi uống tàn một ấm trà tàu, rồi lên giường nằm nghỉ.

    Mơ màng lão thấy như có người gọi đích danh lão rồi một vị lảo trượng, đầu râu tóc bạc, bỗng xuất hiện, cầm chiếc roi mây, chỉ thẳng vào mặt lão, mà lớn tiếng mắng rằng :

    - Thằng kia ! Mi cậy mình pháp thuật cao cường, ý muốn giúp kẻ dữ, định cưỡng lại mệnh trời sao ?

    Mi phải biết rằng : tổ phụ họ Vi tu nhân tích đức, nên Thượng đế mới ban phước cho chúng ngôi đất quí, dưới quyền ta cai quản vùng này.

    Nhưng từ hai mươi năm trở lại đây, con cháu họ Vi bỗng thay lòng, đổi dạ, giết người, hại kẻ hiền lương, nên con Hoả mới có cơ hội, vùng lên : để vật chết những kẻ tham tàn, bạo ngược.

    Đó là lẽ trời chí công, chí chính mà mi là kẻ từng đọc sách thánh hiền, phải hiểu rõ luật phước họa, ân oán ấy, chứ có đâu lại nhắm mắt làm liều như hành động của mi từ hôm qua tới bây giờ ?

    Trước khi tới đây, ta cảnh cáo mi, ta đã hiển linh phá tan cả bùa phép của mi rồi đó !

    Dứt lời, một trận gió ào ào cuốn tới, trong chớp mắt, vị lão trượng biến đâu mất tích !

    Bàng hoàng tỉnh giấc, thầy đồ Nghệ toát mồ hôi cùng mình, vì lão biết đó không phải là mộng mị hảo huyền, mà có lẽ đã do một nguyên nhân thần bí nào xui khiến.

    Với niềm thắc mắc nặng chĩu trong tâm khảm, thầy địa lý trằn trọc mãi, không sao ngủ lại được, bất đắc dĩ đành phải trở dậy, chong đèn thức tới sáng.

    Mặt trời vừa lấp ló ở dãy núi sau miếu Chúa, thầy địa lý đã chỉnh tề khăn áo, đi ra ngoài tả ngạn sông Cả với sự hồi hộp lạ lùng trong trí óc.

    Vừa đến nơi, lão kinh ngạc, suýt kêu lên một tiếng thất thanh, khi thấy chỗ chôn chai thuốc với bùa chú, ở ngay dưới chân Con Hỏa, một địa hình dài và nhọn như một chiếc giáo khổng lồ, nằm im lìm trước tổ mộ họ Vi, chỉ còn là một hố sâu hoắm, bùn đất tung tóe, lẫn lộn với những mảnh bùa chú và mấy vị thuốc đặc biệt, không hiểu vì lý do gì, bị tan vỡ nát vụn từng mảnh nhỏ như cát bụi, hình như do một bàn tay kỳ ảo nào đào bới, phá hủy vậy.

    Cúi rạp nhìn xuống hố sâu, thầy đồ Nghệ chỉ thấy đen ngòm, không biết nông sâu thế nào, liền bẽ vội cành cây, đâm thẳng xuống hố.

    Chiếc hố cơ hồ như không có đáy, sâu ngập hết cả cành cây khô dài ngoằn, mà vẫn chưa tới đất, phía dưới cơ hồ vẫn còn bị trống rỗng !

    Lão còn đang nghi ngờ, định kiếm cho kỳ được một sợi dây dài, buộc một đầu bằng một hòn đá nặng, để thả xuống hố sâu, hầu đo lường mức sâu nông của nơi chôn bùa phép, thì chợt từ dưới hố sâu, hình như phát xuất giữa lòng đất, một tiếng nổ lách tách như pháo tép, rồi có tiếng rào rào như tiếng nước sông gầm thét khi con đê bao quanh bị phá vở, rồi từ dưới hố sâu, một luồng khói xanh cuồn cuộn bốc lên, khét lẹt như mùi thuốc súng, mơ hồ giống hệt hình thù một con hổ kết họp toàn bằng sương khói.

    Hoảng hốt, thầy địa lý vội lùi lại phía sau mấy bước, toàn thân run bắn như người bị sốt rét ngả nước lâu ngày.

    Sau một phút định thần, lão mới bàng hoàng chợt tỉnh, vùng đứng phát lại, hai mắt trừng trừng nhìn thẳng xuống lòng hố sâu, rồi nghiến răng cắn lưỡi, phun máu vào giữa luồng khói mờ ảo, tay bắt quyết ngũ lôi, miệng niệm thần chú lầm rầm.

    Trong một phút chốc, giữa lúc trời quang mây tạnh mặc dầu ở trên đỉnh núi vấn vương rất ít nhiều sương lam cũa miền rừng núi, bỗng từ trên không trung, nổi lên liên tiếp năm tràng sấm inh ỏi, xé trời.

    Và kỳ lạ hơn hết, tất cả sấm sét đều như hướng hết về phía hố sâu giáng xuống.

    Luồng khói xanh mờ ảo, chợt đứng yên một chỗ, mơ hồ cuồn cuộn trên miệng hố.

    Đồng thời, từ dưới lòng đất, những tiếng nổ rì rào, lẹt đẹt cũng im bặt.

    Thầy địa lý đang hí hỡn mừng thầm là pháp thuật của mình đã chế ngự được tác quái của Con Hỏa, thì bỗng lại có tiếng nổ to như muốn phá toang lòng đất, rồi luồng khói như được một sức mạnh kỳ diệu trợ lực lại tiếp tục bốc lên cuồn cuộn như trước, mà trái lại còn có phần hung hản, hùng mạnh hơn trước nhiều.

    Thầy địa lý rùng mình, toàn thân ớn lạnh, gai óc nổi cùng người, đang luống cuống chưa biết phải đối phó thế nào, thì cảm thấy mắt hoa, đầu váng, lảo đảo một lúc lâu, rồi ngả lăn quay bên miệng hố, ngất lịm.

    Đang lúc lão mơ màng thần hồn như phiêu diêu cảnh non bồng, nước nhược, chợt văng vẳng có người lay gọi bên cạnh, liền mở mắt nhìn quanh và ngạc nhiên xiết bao, khi thấy quan Tri Phủ Nước Hai Vi Văn L., cùng đoàn tuỳ tùng đang sớn xác, lo sợ săn sóc bên mình.

    SAU HAI ĐÊM TRẤN YỂM CON HOẢ

    NƠI CHÔN BÙA PHÉP BỊ ĐÀO PHÁ TUNG TOÉ.

    Từ giữa lòng đất, bốc lên một luồng khói mờ ảo vô cùng kỳ dị.


    Thì ra quan phủ Nước Hai, dù bận công vụ phải về phủ, nhưng sau hai ngày nóng ruột quá, lại cùng đám gia nhân, cưỡi ngựa qua Ngòi Xảo, để xem kết quả việc trấn yểm của Thầy đồ Nghệ ra sao ?

    Không ngờ lúc đến nơi, vào nhà viên Chánh Tổng không thấy có ai, quan Phủ đoán là nhà phong thủy đã ra thăm mộ phần, nên vội giắt lính hầu đi thẳng đến tả ngạn sông Cả, vừa đúng lúc thầy địa lý ngã gục bên miệng hố.

    Nhà phong thủy vừa tỉnh dậy thấy quan phủ Vi Văn L. liền thuật sơ qua các việc đã xảy ra rồi chỉ tay xuống hố sâu, lúc ấy vẫn còn cuồn cuộn bốc khói lên ngùn ngụt sặc sụa mùi diêm tiêu muốn nghẹt thở rồi nói rằng :

    - Đây, quan lớn trông ! Tôi đã dùng phương pháp đặc biệt chế tạo những thứ thuốc tiêu thổ rất hiệu nghiệm, mà chính sư phụ tôi đã bí truyền riêng cho một mình tôi, trong đám đông cả mấy chục đệ tử.

    Theo đúng phép chế biến đó, thì nhà phong thủy, có thể, tùy theo địa hình, địa thế, những nơi đất mình muốn dùng để an táng hài cốt hoặc tạo thêm gò đống hay tiêu trừ bớt những mô hình nào, xét ra đã gây trở ngại cho sự kết phát của mộ phần.

    Tôi yên trí rằng sẽ được thành công một cách dễ dàng sau đêm bắt đầu làm lể trấn yểm với các thứ bùa chú cực kỳ linh ứng.

    Nào ngờ chỉ được có một ngày yên ổn, thì mới rồi, vào hồi canh khuya đêm qua, tôi bỗng lại nằm mộng thấy thổ thần vùng Ngòi Xảo hiện về báo cho biết họ Vi vì kém phước trạch, nên Thượng Đế nhất định không cho phép được diệt trừ con Hỏa.

    Đồng thời, thổ thần còn hiển linh phá hủy tất cả bùa phép và chai thuốc tiêu thổ.

    Vừa nói, lão vừa chỉ tay về phía những mảnh vụn chai lọ, bùa chú nằm ngổn ngang gần đây.

    Sáng nay, vừa trở dậy, tôi lật đật ra ngay đây xem xét, thấy sự kỳ dị này liền niệm chú ngủ lời, bắt ấn yểm trừ lại.

    Không ngờ tà khí xung kích quá mạnh, khiến cho tôi xây xẩm mặt mày, ngã lăn xuống đất. Nếu không được quan lớn đến kịp, cứu chửa cho, thì không biết, sẽ còn bị nằm mê man đến bao giờ nữa ?

    Dứt lời, lão thở dài thườn thượt.

    Quan Tri Phủ Vi Văn L. tức giận, nói to như gắt gỏng :

    - Sao lại có sự lạ lùng ấy !

    Đã vậy, xin Tiên sinh lại thử chế thuốc và làm bùa khác đi, rồi đích thân tôi, sẽ tự tay đem chôn xuống đây biết đâu, tôi là mệnh quan của Triều đình, lại không được thổ thần kiêng nể sao ! Tà thắng sao được chính mà Tiên Sinh e ngại ?

    Thầy địa lý tuy không cho lời nói đó là phải, nhưng vì kính nể quan Phủ, không dám làm phật ý con người hiếu thắng ấy, nên đành phải miển cưỡng gật đầu.

    Cả bọn kéo nhau về nhà viên chánh Tổng nghĩ ngơi.

    Trong lúc chủ nhà hốt hoảng, chạy ngược, chạy suôi lo giết gà, giết heo để thết đãi thầy trò quan Tri Phủ Nước Hai, thì thầy đồ Nghệ đáp bè lên chợ Bắc Quang mua sắm các thứ cần dùng để làm lể trấn yểm lần thứ hai.
    Quá ngọ ngày hôm sau, thầy đồ Ngệ mới về đến Ngòi Xảo, chỉ nghỉ ngơi một lát cho đở mệt, là bắt tay vào việc, đóng chặt cửa buồng nhỏ về phía trái bên Đông của ngôi nhà ngang, mà viên chánh tổng đã dành riêng cho nhà phong thủy, theo lời yêu cầu của lão.

    Thầy trò quan Phủ Vi văn L. kiên nhẩn ngồi chờ ở bên ngoài, không ai dám nói to, đi mạnh, sợ làm kinh động, gây trở ngại cho sự luyện bùa phép của Thầy địa lý.

    Trong thời gian này nhà phong thủy giử gìn trai giới rất cẩn thận, suốt ngày chỉ dùng trái cây và nước mưa những khi đói khát, không uống nước, không uống rượu, không uống thuốc, lại tắm gội sạch sẽ bằng nước lá thơm, rồi đúng giờ Tí đêm sau, mới cùng thầy trò quan Phủ lặng lẻ ra ngoài thung lủng, người nào cũng nhón bước, cố bước nhẹ nhàng để không gây một tiếng động nào khả dỉ làm xáo trộn bầu không khí âm u, lạnh lẻo, hiu quạnh, hoang vu miền sơn cước.

    Nền trời xám ngắt, sương khuya, gió đêm thổi vi vu từng cơn như cắt xé ruột gan da thịt, khiến đoàn người phải nghiến chặt hàm răng, co ro đi sát vào nhau, như muốn truyền sức nóng cho nhau để hy vọng làm giảm bớt phần nào nạn rét buốt !

    Xa xa, từng tiếng gầm rống lanh lảnh của loài dã thú, hòa cùng tiếng vỗ cánh phành phạch của những con đà điểu, càng tạo cho cảnh rừng núi thêm mang dại đến rợn người.

    Ra tới tả ngọn sông Cả, đoàn dạ hành đi tuốt đến gò đất : nơi con Hoả nằm án ngữ ngôi tổ mộ của họ Vi.

    Lòng hố sâu vẫn phun khói cuồn cuộn khét lẹt, sặc sụa mùi diêm tiêu khiến cho Vi Văn L. hắt hơi liên hồi, phải đứng lên phía trên chiều gió và dùng khăn tay bịt kín mồm mũi, trong lúc thầy Địa lý, đặt khăn gói xuống đất, thận trọng mở vuông vải, tay dò lấy ra chiếc tróc long với một bọc bùa chú, lể vật gói kín trong một vuông lụa bạch, mà ngoài thầy Địa lý ra, không hề một ai được biết bên trong chứa đựng những gì.

    Với dáng điệu cực kỳ, nghiêm trang, trịnh trọng, nhà phong thủy dùng quẹt đốt nhang hướng về bốn phương trời, vái lạy, lâm râm khấn vái, hú từng hơi dài trước khi cất tiếng trầm trầm đọc chú, đoạn bắt quyết hô thần, sai âm binh giúp sức diệt trừ con Hỏa.

    Làn khói xanh trong lòng hố sâu, phút chốc tắt ngấm. Những tiếng rì rào như nước chảy xiết ở dưới địa huyệt cũng im bặt !

    Mùi thuốc pháo khó ngửi cũng không còn bốc ra u uất như trước nữa.

    Thầy địa lý cả mừng.

    Xuyên qua ánh than đỏ rực của bó nhang đang ngùn ngụt cháy, quơ qua quơ lại theo những hình vẻ kỳ dị trên không trung, mọi người nhìn thoáng thấy nét mặt hớn hở, đắc ý của nhà phong thủy, rồi nhanh như cắt lão ngửa mặt lên trời thét to một tràng dài những tiến líu lo quái dị, đoạn vung bó nhang vừa đi, vừa khoán bùa quanh một khu vực chùng ngót một sào ruộng, ở ngay phía Đông Nam gò đất, cách cái hố trước chỉ độ năm trượng !

    Khoán xong, lão lại đốt giấy tiền và bùa chú, tung ra từng nắm gạo, đã được manh sẳn theo trong khăn gói mà thầy trò quan Phủ không một ai được biết trước.

    Ba lần làm phép, ba lần hô âm binh, tung gạo, đậu muối và vẫy một thứ nước thoang thoảng mùi trầm quế, đựng trong một cái lọ con rất xinh xắn, nhà phong thủy mới cầm bó nhang đang cháy dở vào đúng giữa khu đất lão vừa khoán bùa, sai một tên lính hầu của Quan Phủ dùng thuổng đào sâu chừng bảy thước, tròn như một cái giếng nhỏ. Thầy địa lý đốt bùa, giấy vàng, giấy tiền, rồi trải một lượt giấy tráng kim xuống đáy hố sâu, bắt quyết đúng bảy lượt, mới đặt gói bùa phép và các thứ lể vật, gói kín trong vuông lụa bạch, phủ lên trên bằng ba lớp gạo, đậu, muối, rồi lại đốt giấy tiền, bùa chú, bắt quyết an thần và rẩy nước phép, rồi mới sai lắp đất kín, san bằng như cũ.

    Xong suôi đâu đó, thì gà rừng vừa gáy rộ trong bản xa xa, báo hiệu trời sắp sáng.

    Nhà phong thủy, xoa hai tay vào nhau thở phào như đã trút hết được một gánh nặng trên vai vui vẻ nói với quan phủ Nước Hai :

    - Thôi thế là tạm yên ! Nếu không có gì trỡ ngại,, thì với kỷ thuật tôi vừa sử dụng, nội trong vòng bách nhật, con Hỏa này thế nào cũng phải tan biến hết !

    Bây giờ thì xin mời quan lớn hãy về nghỉ, kẻo trọn đêm đứng ngoài sương lạnh, tôi e quan lớn sẽ không chịu nổi những chướng khí lam sơn của miền núi rừng lạnh lẽo.

    Từ trên cành cây trước mặt, tiếng chim rừng chợt nổi lên thảnh thót : " Bắc Quang, Bắc Mục, Hà Giang nước độc ! "

    Sương khuya mỗi lúc một dày thêm, lạnh thêm, làm cho quan Phủ Vi Văn L. không đợi cho nhà phong thủy phải thúc dục đến lần thứ hai, vội bảo nhau thu xếp đồ đạc thuổn, cuốc, lẳng lặng theo con cũ trở về nhà viên Chánh Tổng.

    Thấy mọi người có vẻ mỏi mệt vì phải thức trọn đêm vì sương gió lạnh lùng, chủ nhà vội lấy nước nóng mời quý khách rửa mặt, pha trà quan Phủ điểm tâm, rồi thu xếp giường chiếu để cho mọi người ngả lưng chốc lát cho lại sức.

    Nhưng chỉ mới đến giờ Thìn, đang lúc thầy địa lý say sưa trong giấc ngũ nặng nề, thì chợt thấy có người lay gọi...

    Lão vội mở choàng mắt ra, gấp gáp nhìn quanh, thì thấy một chú linh đồng, bộ hạ thân tín của viên Chánh Tổng hấp tấp nói rằng :

    - Thưa... Thưa Cụ , lạ lắm ! Có chuyện lạ lạ lắm nên nhà cháu mới dám làm kinh động cụ, xin cụ thứ tội cho. Số là nhà Cháu vừa ra ngoài rẩy, tình cờ đi qua đồi Tương chợt thấy " ngôi mả quan " (thổ dân vẫn quen gọi ngôi mộ của họ Vi là " ngôi mả quan "- có mùi tanh hôi ghê ghớm, và quái dị hơn nữa, lại có một chút nước gì đỏ ngầu như máu tươi chảy dài từ ngôi mả tới cái gò đất ở đằng sau miếu sơn thần !...

    Thầy địa lý bất giác kêu thoát lên một tiếng thất thanh, mặt tái nhợt, lạnh toát người, cơ hồ muốn ngất lịm đi trước cái tin bất ngờ, quá đột ngột ấy !

    Lão thở dài lẩm bẩm :

    - Thôi thế là hết ! Uổng phí công lao vất vả, khổ tử, lao tâm suốt mấy ngày trời quên ăn, bỏ ngủ !

    Vừa nói, lão vừa uể oải nặng nhọc đứng lên, đi lần về phía sập gụ, nơi quan Tri Phủ Nước Hai đang thiêm thiếp giấc nồng.

    Quan Phủ như được linh tính báo động, vùng ngồi dậy, hốt hoảng hỏi vội:

    - Cái gì ? cái gì mà tiên sinh thất sắc thế hử ?

    Nhà phong thủy không muốn gieo mối thất vọng nảo nề cho vị quan phụ mẩu nên chợt úp mở trả lời :

    - Cũng chưa biết đích xác ra sao ? Lời chú linh đồng mơ hồ lắm, không thể nào tin được ? Vậy xin mời quan lớn sửa soạn ra bờ sông xem thử...

    Vi Văn L. không nói gì lẳng lặng sửa soạn y phục, rồi lên ngựa, đi cùng nhà phong thủy, không cần đem theo lính hầu như thường lệ.

    Còn cách xa ngôi mộ tới nửa dậm đường, hai người đã thoáng ngửi thấy một mùi hôi thúi dị kỳ, không giống một thứ un khí nào trong thiên hạ hết !

    Phân người hay phân muôn thú ? Xác người hay xác thú vật bị chết chương chết sình ?

    Đều không phải ! Mùi khó ngửi bốc ra nồng nặc mỗi lúc một nặng nề kỳ quái hơn, theo đà tiến của vó ngựa hai người...

    Không ai bảo ai, họ cùng rút khăn tay đưa lên bịt mũi, rồi giật cương phi nhanh...

    Đến nơi, họ buông cương, nhảy vội xuống đất không buồn nghĩ đến chuyện cột ngựa vào gốc cây, mà hấp tấp bước mau qua một gò đất nhỏ, đến bên ngôi mả cao, to như một trái đồi con...

    - Vừa đúng lúc bấy giờ chợt có tiếng răng răc trên lùm cổ thụ phía Tây Bắc, rồi một cành cây lớn đột nhiên gảy rớt xuống đất, mặc dầu trời không có mưa to gió lớn chi hết.

    Nhà phong thủy giật mình, đi quanh ngôi mả, bất ngờ lại thấy có vết đất bị cầy lên, giống như một luống cày nhỏ, mà kỳ dị hơn nửa, ở hai bên mả thứ cỏ tươi ngày thường vẫn mọc xanh rờn, lại héo hắt hẳn đi, in hệt quang cảnh điêu tàn sau một cơn hỏa hoạn vậy.

    Đồng thời, trên mặt đất cằn cổi đó, còn nhớp nhúa một chất nước nhày nhụa đỏ ngầu như máu tươi, chạy thẳng một vệt dài, ăn thông từ gò đất hình con Hỏa đến mộ phần.

    Mùi hôi thúi chính do từ chất máu ấy phát ra.

    Nhìn kỷ vết máu, thầy địa lý sửng sốt, ngơ ngác một lúc lâu, rồi mới lầm bầm qua nét mặt tái nhợt, hải hùng :

    - Kỳ dị ! Đúng đây là dấu vết quái vật từ con Hỏa bò tới ngôi mả, tác hại, nên long mạch mới bị đứt, rớm máu ! Hừ, nguy hiểm thiệt !... Quan Phủ họ Vi vội hỏi :

    - Có chuyện gì mà Tiên sinh kinh nghi, lo sọ thế ?

    Nhà phong thủy nhìn quan Phủ, ngập ngừng mãi, rồi mới chậm rải trả lời :

    - Thấy các hiện tượng vừa xảy ra, tôi chợt nhớ tới lời ghi chú trong một cuốn cổ văn, khảo cứu về các kiểu đất. Tổ sư môn địa lý đã từng dạy rằng, khi nào có "quái vật xuất hiện bất thường, đoạn long, phạt mộc thị tai ương" , thì sớm muộn thế nào cũng sẽ có tin dữ đưa tới !

    - Không thế nào tránh khỏi.

    Quan Phủ có vẻ hoài nghi, hỏi lại :

    - Nhưng đoạn long, phạt mộc thì tôi được thấy, còn quái vật thì đâu ?

    Thầy đồ nghệ chỉ vào một vệt máu dài, giải thích :

    - Cứ như mùi uế khí với dấu vết còn ghi lại, thì nhất định từ hôm qua tới nay, phải có một loại quái vật, mà tôi ngỡ là giống "Kim Tâm cổ" một thứ độc trùng kỳ dị, xuất hiện bất ngờ, do con Hoả tạo ra, để tác hại cho gia đình quan lớn...Nếu lời cổ nhân dạy không sai lầm thì rồi đây, thế nào cũng phải có chuyện không hay ...

    Quan Phủ Nước Hai không nói gì, buồn bả đi theo nhà phong thủy qua gò Con Hỏa.

    Gần đến nơi, mọi người cùng đứng khựng lại, vì trước mặt họ, những bùa chú, chai lọ, chỉ ngũ sắc, giấy vàng bạc mới được trấn yểm đêm trước, nay bị vứt tung toé, bừa bải khắp nơi, như có một bàn tay huyền bí quái ác nào vừa đào lên, đem liệng bỏ ở bên gò đất.

    Không hẹn, mà cả Vi Văn L. cùng thầy địa lý đều thở dài ngao ngán.

    Họ đang muốn sai người dọn dẹp các thứ cho gọn ghẻ, thì chợt thấy viên cai lệ Nước Hai, từ đằng xa phi ngựa tới, hốt hoảng đưa trình quan Phủ L. một tấm giấy xanh.

    Đó là bức điện tín của Vi Văn Định gửi cho Vi Văn L. báo tin về vụ người em út, đang làm kỷ sư ở Hải Phòng, không biết vì buồn phiền chuyện gì trong gia đình, đã dùng súng lục tự sát. Vì vậy, Định yêu cầu L. phải xuống ngay Hải Phòng để cùng Định lo liệu việc tống táng đứa em xấu số.

    Vi Văn L. cầm bức điện tín, tay run bần bật, hai mắt đỏ hoe đẩm lệ, thẩn thờ nhìn quanh một vòng, rồi nắm tay thầy đồ Nghệ, nói qua giọng nghẹn ngào :

    - Thôi muôn việc đều không tránh khỏi số trời. Xin tiên sinh thu xếp về Nước Hai nghỉ ngơi, để tôi đi Hải Phòng lo liệu việc nhà.

    Việc trấn yểm con Hỏa không cần nữa.

    *** HẾT ***
     
  5. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    Kiểu đất HUYNH ĐỆ ĐỒNG KHOA

    " Đông Kim có mả cao sang,

    Đồng khoa huynh đệ vẻ vang một nhà.

    Tiếc cho tay Hổ vòng qua,

    Dâm bôn gây nạn, trăm hoa điên cuồng " !

    Những bà con ở vùng Thường Tín, Vân Đình, Phú Xuyên, Thanh Trì (tỉnh Hà Đông ) hẳn không mấy ai không biết họ Cừ, một dòng họ liên tiếp có người làm quan to, đã được bốn đời.

    Điểm đặc biệt được mọi người lưu ý hơn hết là trong số những người làm quan to họ Cừ, đời nào cũng có hai anh em thuộc hai chi trên dưới cùng đậu cao, cùng làm lớn ngang nhau, nếu anh đổ tiến sĩ, thì em cũng phải đậu phó bảng hay Thám Hoa, anh giữ chức Thượng Thư, thì em cũng ngồi trên ghế

    Tổng Đốc, Tuần Phủ ?

    Đến đây, chúng tôi tưởng cần nói thêm : hiện thời con cháu trong họ này, hiện có mặt khá nhiều ở miền Nam, và vẫn còn hưởng thụ sự kết phát như ông cha thuở trước, nên muốn tránh những điều hiểu lầm đáng tiếc, chúng tôi tưởng nên đổi lại danh tánh các nhân vật se được đề cập trong thiên sưu tầm biên khảo này, mặc dầu đây là những tài liệu xác thật trăm phần trăm mà bất cứ ai ở Hà Đông, cũng còn nhớ rõ.

    " Đông Kim có mả cao sang,

    Đồng khoa huynh đệ vẻ vang một nhà.

    Tiếc cho tay Hổ vòng qua,

    Dâm bôn gây nạn, trăm hoa điên cuồng " !

    NẠN "NẶC NÔ" VỚI LỐI ĐÒI NỢ QUÁI GỞ !

    Làng K.H. phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông nằm vào giữa khoảng con đường hàng tỉnh nối liền bờ đê sông Hồng Hà với quốc lộ số 1, vốn là một làng không lấy gì làm trù phú cho lắm, với môt số dân định chừng trên bốn trăm người có thẻ thuế thân (từ 18 trở lên).

    Dân làng hầu hết đều sống về nông nghiệp. Một thiểu số không đáng kể, làm nghề buôn báb trâu bò, gà heo. Trong làng từ trước không có một công nghệ chi, nên dân chúng chỉ gồm toàn là những gia đình trung tiểu nông mà phần lớn phải vất vả đi cày thuê, cấy mướn, mới kiếm được đủ cơm ăn, áo mặc hàng ngày.

    Họ Cừ chiếm tới hai phần ba nhân số trong làng, được chia ra làm nhiều chi khác nhau : Chi Giáp, chi Ất, chi Bính, chi Đinh.

    Chi Giáp của họ Cừ gồm toàn những Hương Lý, Kỳ hào, nghĩa là những người có máu mặt hơn hết tất cả ở trong làng.

    Hai chi Bính, Đinh cũng bình thường. Duy có chi Ất là nghèo khổ : người trong chi này quanh năm, suốt tháng chỉ biết gồng thuê, gánh mướn, chân lấm, tay bùn, vất vả, gian nan lắm, mới trả xong được món nợ hình hài cơm áo !

    Hàng ngày vì phải vật lộn gay go, cùng sanh kế, nên người trong chi Ất của họ Cừ cam chịu phận đàn em, lép vế, không dám tranh dành ngôi thứ, chức vị chi với những bà con đồng tông trong chi Giáp !

    Vã lại, tiền bạc đâu để lo liệu khi mà một góc chiếu ngồi ở chốn đình trung, có thể được trị giá bằng cả một sản nghiệp đại phú gia : nhà ngói, cây mít, ruộng cấy, trâu cày, thóc lúa đầy kho, bạc vàng chật tủ ?

    Biết rõ phận mình, những người trong chi Ất họ Cừ chỉ biết cặm cụi làm ăn, chăm lo bổn phận cùng đinh, để khõi mang lụy vào thân, vì nếu không may phạm vào lệ làng, thì với kiếp nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, họ còn biết kêu oan vào đâu cho được ?

    Ông Xã Thuật trưởng chi Ất dòng họ Cừ, vốn là một nông dân chất phác, nhưng nghèo khổ, túng thiếu quá, nhất là sau khi lấy vợ, sanh hạ được hai đứa con trai, cái gia đình bé nhỏ này, lại càng lâm vào cảnh thiếu trước, hụt sau, phải vay công lãnh nợ, sống lần hồi, bằng cách giặt gấu, vá vai cho qua ngày, đoạn tháng !

    Nhưng chỉ tới vụ mùa năm ấy, thấy ông Xã không chịu trả nợ, mấy nhà phú hộ chủ nợ, liền hối thúc và thuê "nặc nô" đến xách nhiểu, rất cơ cực, tàn ác, bằng đủ mọi phương pháp thâm hiểm, trắng trợn đến cùng độ.

    Trong thời phong kiến, bất cứ ở địa phương nào, nhất là ở những tỉnh thành, phủ huyện lỵ, thường có một bọn du thủ du thực, gồm cả nam lẫn nữ, trạc tuổi từ mười tám, đến năm mươi, không cứ phải to lớn, khỏe mạnh, mà chỉ cần lỳ lợm, chây lưỡi, thô bĩ, tàn bạo, nếu biết thêm chút ít quyền cước, võ nghệ, thì càng tốt, để làm nghề " đòi nợ mướn " cho những người giàu có, chuyên môn cho vay lãi " một vốn bốn lời " !

    ÁC BÁ CƯỜNG HÀO SAU LŨY TRE XANH

    Những nhà phú hộ, tiền nhiều, bạc lắm, lại có máu tham lam chảy trong huyết quản, không bao giờ chịu để cho mớ vàng bạc nằm yên, không sinh sôi nẩy nỡ, ở trong các rương, tráp, năm bảy lần then khóa kỹ càng, mà luôn luôn tìm cách sanh lợi, làm cho tiền bạc sanh đẻ mỗi ngày một nhiều hơn, bằng cách mua rẻ bán đắt những ruông vườn, nhà đất, mua thóc non, từ lúc cây lúa mới bén rễ trong ruông mạ, chờ đến khi lúa trổ bông, chín vàng, vừa được gặt về, phơi cho khô ráo xong xuôi đâu vào đấy, là chủ nợ cho gia nhân đến gánh về... trừ nợ !

    Theo thời giá thuở bấy giờ, nếu mỗi phương thóc bán được năm quan tiền, thì với lối mua lúa non, lấy thóc gạo của các nhà phú hộ, họ chỉ phài trả mỗi phương chừng trên dưới một quan tiền !

    Người nông dân nghèo túng, quanh năm sống theo lối giặt gấu vá vai, từ việc to đến việc nhỏ, từ giỗ tết, ma chay, cưới xin đến áo quần, thuốc men, đồ ăn, thức uống, nhất nhất cái gì cũng phải trông vào hạt lúa ngày mùa !

    Vì vậy, trong thời gian tháng ba, ngày tám, bà con nông dân, dù không muốn cũng phải bất đắc dĩ phải đi vay non, vay già thóc ăn và tiền xài của những nhà phú hộ !

    Thóc vay thì tính theo giá rẻ mạt gấp ba gấp bốn giá thị trường, nếu các nông dân muốn trả nợ số thóc vay khi trước bằng tiền.

    Còn nếu trả bằng lúa gặt được, thì cứ mỗi phương lúa cho vay lúc tháng ba ngày tám, con nợ phải trả gấp ba, hay gấp bốn lần tùy theo sự điều đình " nhất vi tam " hay " nhất vi tứ " giữa đôi bên đương sự.

    Còn tiền mặt, thì thôi, các chủ nợ tha hồ "cạo da" bọn người nghèo khó đến tận tủy, xương, phế phủ, khiến cho nhiều người bị mất cửa, mất nhà, ruộng vườn bị tịch thâu, vợ con phải lìa bỏ quê hương, dấn bước đau thương " tha phương cầu thực ", sau khi số nợ vay trước cứ sinh sôi nẩy nở, mẹ đẻ con, con đẻ cháu, để sau mỗi kỳ hạn, không thể thanh tóan trọn vẹn được cả vốn lẫn lời, con nợ lại bắt buộc phải ký giấy nhận vay số tiền mới, mà chủ nợ đã cẩn thận công chung cả tiền lời với tiền vốn vào với nhau thành một món nợ to hơn số tiền họ đã cho bà con vay lúc đầu gấp bội !

    Cứ đà ấy tiến mãi, nên chỉ trong vài ba năm, một món nợ chừng năm bảy chục quan, chắng mấy chốc đã nhảy vọt lên tới mấy trăm quan, để " khi giải kết đến điều ", con nợ đành chỉ còn biết gán nhà, gán ruộng, bán đất, bán vườn cho chủ nợ, rồi bồng bế, giắt dìu vọ con đi nơi khác sinh sống cho đoạn tháng qua ngày.

    Trước khi nhận lãnh kết quả đau thương, bi đát ấy, bà con mắc nợ còn phải chịu bao nỗi cực hình của bọn " nặc nô " do các nhà phú hộ mướn đến hành hạ, làm tình làm tội bà con mắc nợ, để hy vọng có thể đòi được đồng nào hay đồng ấy, vì có bao giờ họ chịu mất nợ đâu, khi các con nợ đã chịu ký giấy vay tiền, với sự đảm bảo của mấy bức văn tự ruộng vườn, mà chủ nợ đã nắm chắc trong tay từ lúc trao tiền cho con nợ !

    Theo thông lệ thuở bấy giò, bọn nặc nô tuy không được lãnh tiền công, nhưng lại được chia một phần nhỏ, số tiền đòi được, nên vì vậy, lũ chó săn mới chẳng chút nương tay, cố dùng đủ mọi biện pháp trắng trợn, bạo ngược để bắt con nợ phải " lòi tiền " ra cho chúng !
     
  6. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    NHƯNG ĐỜI NÀO CŨNG CÓ NGƯỜI ĐIÊN VÀ DÂM LOẠN

    Chính kẻ viết thiên sưu tầm này, đã được chứng kiến một cảnh thương tâm do lũ nặc nô gây ra cho một người hàng xóm, bị thiếu nợ ba trăm quan tiền, cả vốn lẫn lời của Ông Lý Chín ở làng Giang Tảo (Tuy làng này ở huyện Thanh Trì, nhưng lại chỉ cách xa làng K.H. của họ Cừ có hơn 2 cây số )

    Thảm cảnh từ trên năm mươi năm nay, dù bánh xe thơi gian, đã cuốn theo với bao nhiêu biến chuyễn thăng trầm, mỗi lúc nhớ tới, vẫn hiện ra trước mắt tôi với đầy đủ chi tiết đau thương như mới xãy ra chừng vài ba tháng vậy !

    Hôm ấy, vào một buổi trưa hè oi bức, nhà bác Trương bỗng có một người đàn ông lạ mặt, từ ngoài ngõ từ từ đi vào, chẳng thèm chào hỏi ai, cứ tiến thẳng đến bộ ghế ngựa gổ, lại co chân ngồi xếp vòng tròn, kéo chiếc điếu lại gần, rít một hơi thuốc lào, đoạn ngửa cổ lên mái nhà, thở khói rất khoan khoái thản nhiên như chính hắn là chủ nhà vậy.

    Bác Trương trai đi cày mướn vắng.

    Bác Trương gái bận cho gà ăn ở phía vườn sau.

    Thằng Cu Tý lên tám tuổi, đang lấy đất nện phác chơi ở giữa sân, thấy khách lạ vào nhà, định ra hỏi, nhưng thoáng nhận thấy vẻ lầm lỳ, nhất là cặp mắt đỏ ngầu, lúc nào cũng gườm gườm như muốn ăn tươi nuốt sống nó nên bất giác nó đâm ra sợ hãi, đứng ngây mặt nhìn sửng khách lạ, không dám hỏi han chi hết.

    Nó đang lấm lét, nhìn mấy vết sẹo sâu hoắm trên ngực người đàn ông, mà chiếc áo cánh nâu năm thân, mở phanh cả hàng nút phía trước như trễ hẳn qua sau lưng làm nổi bật hẳn màu da đen sạm của hắn có lởm chởm một chòm lông phất phơ nằm ngay dưới ngực, thì một giọng ồ ồ... bỗng cất lên gay gắt, khiến nó giật mình ngơ ngác :

    - Thằng kia ! Bố Mẹ mày đâu ? Muốn sống gọi ra đây ông bảo...

    - Thằng Cu Tý hoảng sợ, mặt mày tái mét, hấp tấp chạy ra vườn, miệng gọi mẹ om sòm.

    Bác Trương gái đang cho gà ăn, thấy Cu Tý gọi giật giọng, vội ngừng tay, ngoảnh vào trong nhà hỏi lớn :

    - Cái gì đấy, cu Tý ? Có ai hỏi hay sao, mà mày hốt hoảng như thế, hở Cu ?

    Thằng Tý vừa thở, vừa đưa tay áo lên quệt mồ hôi trán, lắp bắp trả lời :

    - Có...có... ông nào vào nhà, đang ngồi hút... hút thuốc trên phản đấy bu ạ ! Trông sợ sợ là...

    Bác Trương gái ngạc nhiên, vội ngừng tay, ngẩng đầu lên nhìn con :

    - Ai vào mà mày lại không biết mặt thế, hở Cu ?

    Thấy nét mặt ngây ngô, ngơ ngác của thằng Tý, bác vứt mạnh chiếc rỗ đựng ngô cho gà ăn, xuống sân, đưa tay vuốt nhanh mấy sợi tóc loà xòa trên trán, rồi tất tả đi thẳng vào trong nhà.

    Bác nhăn mặt, nhíu mày, lắc đầu luôn mấy cái, kèm theo những tiến thở dài thườn thượt, khi thấy khách chính là tên "nặc nô" khét tiếng của ông Lý Chín ở làng Giang Tảo, một hung thần từng làm điêu đứng, nhục nhả nhiều con nợ quanh mấy vùng Thanh Trì, Thượng Phúc, đến nổi thiên hạ không một ai cần biết rõ tên hắn là gì, mà chỉ căn cứ vào giáng điệu hung bạo, tính nết hiểm độc của hắn, mà mệnh danh là... " chú Hắc sát ", vì chẳng những da mặt hắn đen thui, mà lúc nào cũng mang nặng... " sát khí đằng đằng " !

    Tuy ngán ngẩm đến cực độ, bác Trương vẫn phải niềm nở chào hỏi :

    - Kìa chú Hắc đến chơi bao giờ thế ?

    Đoạn thiếm ngoảnh mặt xuống bếp gọi to :

    - Cu Tý đâu ? Xách cho u ấm nước trà tươi lên đây, con !

    Và quay qua phía khách, bác cố tình nhấn mạnh :

    - Rõ không may, chẳng mấy khi được một hôm chú đến chơi, thì bố cháu lại đi vắng...

    Tên nặc nô vẫn lầm lì, ngồi ngã người tựa lưng vào vách, lim dim cặp mắt xếch hung ác, lơ đảng nhìn ra sân, chậm rải lên tiếng :

    - Ai rỗi hơi, rỗi sức mà chơi với bời ?

    Bác ấy đi vắng, thì đọi bác ấy về chớ sao, Bác ấy có bán sới cái làng này đâu mà sợ ?

    Đột nhiên, hắn ngồi ngay ngắn, sửa lại điệu bộ nghiêm chỉnh, vắt chân chữ ngũ một cách rất ngang tàng rồi đằng hắng một tiếng to, cất giọng oang oang như lệnh vỡ, hỏi giật giọng :

    - Thế nào bác Trương ? Món tiền của ông Lý, tính đến tháng này, cả vốn lẫn lời là năm mươi tư quan chẳn ! Bác trả đi, để tôi còn về kẻo muộn !

    Nói xong, hắn trợn mắt tròn xoe, nhìn chủ nhà trừng trừng, như sẳn sàng muốn ăn tươi, nuốt sống người mắc nợ.

    Bác Trương gái giật bắn mình, ngơ ngác, vừa đưa tay áo lên quệt mồ hôi trên mặt, vừa hấp tấp hỏi vội :

    Ấy chết ! Sao lại nhiều thế hở chú ? Bố cháu chỉ vay ông Lý có mười lăm quan, hồi tháng ba, dù có tíng cả lãi, cũng chẳng tới năm mươi tư quan đâu chú ạ ! Có lẽ chú nhầm lẫn thế nào đấy ?

    Hắc sát gầm lên giận dữ.

    - Hừ ! Nhầm lẫn ! Bộ nhà Bác muốn giởn mặt, định vỡ nợ đấy có phải không?

    Vừa nói, hắn vừa đứng phắt dậy, sắn cao tay áo, để lộ ra những hình gươm, giáo xâm bằng chàm trên lớp da đen xạm, mắt gườm gườm, đỏ ngầu, răng nghiến vào nhau ken két...

    Bác Trương sợ hải cuống quýt phân trần :

    - Chúng tôi đâu dám thế ! Những lúc qua cầu, ngã ngựa, túng thiếu, cơ hàn, được ông Lý thương tình, cho vay đã là quý hóa lắm rồi ! Trọn đời chúng tôi lo báo đáp ơn sâu còn chẳng xong, có lẽ nào lại dám nghĩ truyện vô ân bạc ngãi ! Nếu chúng tôi có lòng dạ xấu xa ấy, thì Trời Phật nào còn cho chúng tôi mở mày, mở mặt ra được với thiên hạ nữa !

    Đoạn chép miệng , bác nói thêm :

    - Có điều, vừa hôm qua đây, bố cháu có nói cho tôi biết : là tháng trước mới viết lại văn tự, đem lãi cộng vào với gốc, trước sau nợ đúng ba chục quan, hẹn đến vụ mùa này sẽ trả hết, nên thấy chú tính năm mươi tư quan, tôi mới sốt ruột đấy chứ...

    Tên nặc nô sừng sộ quát to :

    - Nói dễ nghe quá nhỉ ! Bây giờ còn không trả được nữa là đến mùa, vốn lãi chồng chất lên nhau, thì nhà bác định bán cả đình làng đi để trả nợ à ?

    Rõ thật là lý sự cùn ! Vay mười lăm quan từ " đời kiếp nghiệp lai " nào đến bây giờ, ông Lý mới đòi có năm mươi tư quan tiền mà cũng còn kêu ca, trì triệt ? Dễ thường các người chỉ muốn ăn không, khỏi phải trả vốn, trả lời gì mới là tử tế có phải không ?

    Bác Trương đon đả, rót đầy bát nước trà tươi, hai tay đặt trước mặt khách :

    - Mời chú sơi tạm bát nước trà tươi mới nấu ! Còn nợ nần bao nhiêu, bố cháu về, tôi nói lại, rồi sẽ ra tính toán với ông Lý sau...

    Hắc sát đấm mạnh tay xuống phản, làm nước trong bát bắn tung toé ra chung quanh, quắc mắt hỏi sẳng :

    - Thế nghĩa là bây giờ chưa có tiền ?

    Bác Trương rụt rè :

    - Vâng, trăm sự nhờ chú thương tình, liệu lời về thưa lại với ông Lý giúp cho cho vợ chồng tôi trong cơn túng ngặt này ! Thế nào, đến vụ mùa, bố cháu cũng xin tươm tất.

    Tên nặc nô, vung mạnh cánh tay trước mặt chủ nhà gắt gỏng :

    - Bác nói đến chó cũng chẳng nghe lọt tai, chứ đừng nói là cái thằng giang hồ, tứ chiếng đã từng đi ăn cơm hớt của khắp bốn phương trời nữa !

    Tùy bác đấy, muốn làm thế nào cho có tiền để tôi về thì làm !... Mỗi chốc mà khất được sao ? Dễ thường kiến càng, kiến lữa chúng nó xúm nhau vào, tha tôi từ ngoài làng Giang Tảo vào đến đây, có phải thế không, hử bác Trương ?

    Đoạn cười sằng sặc, một cách cực kỳ đểu cáng, hắn vỗ ngực nói tiếp :

    - Cái thằng này, chưa hề chịu thua ai bao giờ nhé ! Nhất sanh làm người, ông chỉ biết có tiền ! Có tiền, thì vạn sự êm đẹp hết, mà nếu chỉ nói mồm xuông thì rồi sẽ biết tay ông ! Đầu râu phải múa, mà bà chúa cũng phải cười kìa... Con có hiểu không ?

    Dứt lời, y nằm lăn kềnh ra giữa phản, gác một chân lên mép bàn thờ, rồi duổi thẳng cánh tay, đập chan chát xuống mặt phản :

    - Ông truyền đời báo danh cho vợ chồng nhà mày, khôn hồn thì bảo nhau lo liệu tiền nong, để ông đi về cho sớm, chứ lúc ông ngũ dậy mà vẫn không có, thì lúc ấy, liệu hồn cả lò nhà mày đấy, biết chưa ?

    Nói xong, y thản nhiên quay mặt vào vách, ngáy vang như sấm.

    VAY MƯỜI LĂM QUAN TRẢ NĂM MƯƠI TƯ QUAN

    Bác Trương gái thở dài não nuột, đau xót nhìn lũ con dại, đang ngơ ngác nép mình bên chiếc phên nứa, hết lấm lét trông khách lạ, lại sợ hải nhìn mẹ, mồm đứa nào cũng méo sệch, mắt rớm lệ, nhu cố đè nén cho khỏi bật ra tiếng khóc, sợ mẹ chúng đánh đòn.

    Tuy còn thơ ngây bé dại, song linh tính chúng hình như cũng đoán được mối tai họa tày đình, đang thập thò trước ngưỡng cửa gia đình chúng, để phá tan niềm hạnh phúc tràn ngập dưới mái nhà tranh sơ sác, với tình nghĩa phu thê, phụ tử mặn nồng, thuận thảo, mặc dầu bác Trương vẫn phải luôn luôn lo lắng, soay sở quanh năm, giật gấu vá vai, bôn ba vất vả, không nề hà khổ cực, gian lao, mới kiếm được đủ mỗi ngày hai bửa cơm dưa, muối, cho mấy đứa con thơ dại.
    - Tôi vừa ở ngoài đồng về, thấy u cháu nói lại là chú đòi món nợ cho ông Lý Giang Tảo, cả vốn lẫn lãi, tất cả năm mươi tư quan tiền, nên tôi mới bảo là có lẽ u cháu nghe lầm sao đó, chứ vừa tháng trước, tôi đã viết lại văn tự, trước sau chỉ còn thiếu ông Lý có ba mươi quan thôi chú ạ...

    Tên nặc nô trề môi khinh bỉ, hăm hở, móc trong chiếc ví, khâu liền vào sợi dây nịt bằng da, to bản, lấy ra một mảnh giấy bản, đoạn mở rộng dơ trước mặt bác Trương hất hàm, hùng hổ :

    - Hãy mở to mắt ra, mà xem giấy gi đây ? Có phải là năm mươi tư quan hay chỉ có ba mươi quan thôi hử ?

    Bác Trương cuống quít :
    - Chắc ông Lý nhiều công lắm việc, nên mới lầm lộn đấy chú ạ ! Chú cứ về hỏi bức văn tự tôi mới viết lại hồi tháng trước, là biết ngay số nợ đích xác là bao nhiêu ?...

    Không chờ cho bác Trương nói hết lời, Hắc sát vùng vằng quát lớn :
    - Mày nói đến chó nó nghe cũng không lọt ? Dễ thường mỗi chốc ông Lý lại phải đem văn tự ra trình cho mày kiểm soát đấy, có phải không ? Hừ ! Đồ bất nhân, bạc ác ! Chỉ biết lúc túng thiếu vợ chồng bảo nhau uống lưỡi lạy van, khom lưng cầu khẩn rồi đến khi xong việc, lại vỗ tuột ngay một cách rất ngon lành !

    Được , đã thế ông sẽ cho mày biết tay...

    Bác Trương gái từ lúc chồng về, vẫn đứng tựa cột run rẫy theo dõi cuộc đấu khẩu của hai người đàn ông, mồm không ngớt tiếng lầm rầm niệm Phật để cầu xin thánh thần che chở, khi thấy tên nặc nô làm đữ và đe doạ, vội đon đả nói :

    - Thôi xin chú tha thứ cho bố cháu, vì vụng ăn, vụng nói, nên mới làm chú tức giận. Nhưng quả thực bố cháu chẳng có lòng dạ gì đâu, lúc nào cũng quý trọng chú lắm, rồi sau này trời cho còn có nhiều dịp gặp gỡ, giao dịch với nhau, chú sẽ hiểu tâm tính thực thà, nghĩ sao nói vậy của bố cháu, chứ không biết lèo lại, phù hoa như người ta đâu ?

    Rồi, làm bộ vui vẻ, bác đon đả nói thêm :
    - Chẳng mấy khi, chú vì công việc của vợ chông tôi, phải về tới đây, vậy trời cũng đã muộn, xin mời chú vui lòng ở nán lại chơi, sơi chén rươu nhạt với tượng cơm dưa muối với bố cháu thì quý hoá quá !

    NHẤT TỘI NHÌ NỢ

    Tên nặc nô "xì" một tiếng dài, cất giọng tàn nhẩn, trắng trợn :
    - Mời với chào cóc khô gì ? Không ăn thì đến mẻ cũng chết ! Còn sống làm sao được để ngồi thúc nợ ? mà chẳng phải chỉ có một bữa bây giờ mà thôi đâu nhé ! Ngày nào chúng bây chưa thu xếp được đủ tiền trả nợ, là ngày ấy, ông vẫn còn phải ăn chực nằm chờ !...

    Chứ chẳng lẽ lại vác "cái thân cụ" về xuông à ?
    Cười hề hề cực kỳ khả ố, y tiếp thêm :
    - Ở đời, có ai lại ngu ngốc như thế bao giờ ?

    Nói xong, y thản nhiên nằm trên phản, ư ử ngâm mấy câu Kiều lẩy, dáng điệu vô cùng ngông ngênh, tự đắc.

    Vợ chồng bác Trương ngao ngán nhìn nhau, lầm lủi đi xuống bếp.
    Bác gái vừa đưa tay quệt nước mắt, vừa mếu máo hỏi chồng :
    - Gạo hết từ bửa sáng đã phải vay của bà Trương Tư hai lon, định nấu luôn cả nồi cháo chiều nay, ăn trừ bửa. Bây giờ lấy gì mà làm cơm khách đây, hở bố ?

    Đoạn thở dài áo nảo, bác nói thêm như rền rỉ :
    - Trong nhà một đồng, một chử không có, mà lại còn phải thiết đải khách khứa nữa, thì có khổ thân tôi không hở trời ?

    Bác Trương trai nhăn nhó, tắc lưỡi :
    - Thì... ai biết đâu nông nổi này ? Thôi u nó chịu khó chạy lên nhà dì Hương Kiều, hỏi vay tạm mấy tiền, rồi ghé qua chợ, mua vài thứ đồ nhắm lăng nhăng với chút rượu về đây, mời nó ăn uống cho sớm để nó cút đi cho khuất mắt !...

    Bác gái không làm sao được, đành phải thở dài, xách giỏ, uể oải bước ra ngoài cổng.

    Nhưng khi bác gái hì hục nấu cơm xong, bưng mâm lên đặt ở giữa phản bên, rồi đánh thức tên nặc nô giậy, thì, vừa trông thấy đĩa đậu phụ trơ trỏng, nằm bên cạnh đĩa lòng heo với chén mắm tôm, Hắc sát nổi giận đùng đùng, mặt đỏ gay gắt, nghiến răng quát vang như sấm :

    - Chúng bây muốn mời ông ăn, hay là định cho chó ăn mà lại bày những thứ này ra đây, hử ? Hừ ! Quân này giỏi thiệt ! Nó tưởng mình chết đói, đến ăn mày nhà nó đây mà !

    Vừa nói, y vừa hất mạnh mâm cơm đổ lộn nhào xuống đất, rồi hầm hầm quăng luôn cả chiếc điếu, mấy cái bát sành uống nước ra sân, vỡ loãng soãng tan tành.

    Vợ chồng bác Trương Thuật xanh mặt, trông nhau vừa căm hờn, vừa tủi nhục, mãi một lát sau, bác xã trai mới cất tiếng thiểu nảo, phân trần :

    - Khổ lắm chú ơi ! Nếu chú hiểu được thực cảnh gia đình tôi, hẳn chú cũng không nở giận ghét tôi, mà có khi còn thương xót chúng tôi nữa là khác ! Ở đời ai không muốn hay ? Ai không muốn đẹp mày, đẹp mặt ? Khốn nổi, vợ chồng tôi lúc này túng thiếu quá, đến gạo ăn cũng phải xoay quanh từng bửa, thì chú bảo còn lấy đâu ra tiền bạc để mua gà, mua vịt ?

    Phải thết khách đạm bạc thế này, là chúng tôi khổ tâm, tủi thẹn lắm, nhưng biết sao được bây giờ ? Cái khó nó bó cái khôn, hẳn chú cũng không lạ gì điều ấy ?

    Thằng nặc nô trợn mắt, quơ tay múa lia lịa như muốn chặn ngang lời phân trần của chủ nhà, hằn học rít lên :
    - Mặc kệ xác chúng mày ! Ông không cần biết đến nhà mày giàu hay kiết ?
    - Ông chỉ biết : Ông đã về đây đòi nợ, thì chúng mày phải cung phụng ông, ông muốn gì phải có ngay tức khắc, không có không xong !

    Giơ ngón tay điểm vào giữa mặt bác xã trai, hắn hăm dọa :
    - Không chu biện đàng hoàng cho ông đủ mọi thứ cần dùng thì đầu râu phải múa, bà chúa phải cười nghe không ?

    Đoạn hắn cười nham hiểm, nói tiếp :
    - Muốn thoát tội, thì trả đủ tiền đi !
    Lúc ấy, dù có lát ngàn vàng, ông cũng chẳng thèm ở thêm phút giây nào nữa !

    Nói xong, nó lù lù đi đến gian giữa, nhảy tót lên bàn thờ, quơ tất cả bài vị, bát nhang, vứt lỏng chỏng vào một góc nhà, rồi ung dung nằm dài trên bàn thờ, đầu gối lên chiếc tam sơn, vẫn dùng bày rượu cúng trong những ngày giỗ tết, chân gác thẳng vào chiếc khám hắn vừa xê dịch từ giữa bàn thờ ra đấy.

    Bác Trương Thuật đau nhói ruột gan, căm tức muốn trào máu họng, đến nổi mồ hôi toát cùng mình, chân tay bủn rủn, cơ hồ không còn đứng vững được nữa !

    Bác đi luôn xuống bếp, gục đầu trên gối, nước mắt bất giác tuôn trào lai láng đã cực thân cho cảnh bần hàn, khốn quẩn, lại đau khổ về tội bất hiếu với tổ tiên.

    Chợt có tiếng bác xã gái cất lên chua xót :
    - Sự thể đã đến nước này, vậy bố nó tính sao ? tiền trả nợ không có, mà muốn khất lại thì phải đối xử thế nào, cho Nó mát dạ, hả lòng, lúc ấy mới mong Nó buông tha đi về chứ chọc cho Nó giận thêm, thì ai hơi sức đâu thi đua với hủi ! Bố nó còn lạ gì lối chây lười, "nằm vạ" của phường nặc nô nữa ?

    Bác xã trai ngước cặp mắt đỏ hoe, còn in hằn ngấn lệ, nhìn vợ ái ngại !

    Ai không biết thế, nhưng Nó làm quá hoắt như vậy, thì mình chịu sao cho nổi. Vừa rồi, tôi phải cố nén lắm, chứ lúc thấy Nó trèo lên bàn thờ, tôi chỉ muốn nhảy đến bóp cổ cho nó chết tươi, rồi muốn tù tội, chặt đầu hay tùng xẻo gì, tôi cũng vui lòng cam chịu !

    Cứ nghĩ đến mấy đứa con, là tôi lại chẳng dám liều nữa ?

    Bác xã gái vội hỏi :
    - Gặp phải đứa sấp mày, sấp mặt, thì mình đành phải cắn răng nhịn nhục, cho nó êm cửa, êm nhà, chẳng lẽ mỗi lúc sinh sự để thưa kiện sao ? Có vô phúc mới phải đáo tụng đình chứ ?

    Vậy muốn cho êm thắm, tôi tính cứ thịt quách con gà mái đẻ, cho Nó đánh chén một bửa thực no say, may ra nó vui lòng cho mình khất lại thêm một hạn nữa, thì phúc đức quá !...
    Bác xã trai rối rít kêu lên, ngắt ngang lời vợ !
    - Ấy...Ấy... không được ! Không thịt được con gà mái đó đâu ? Cả cửa nhà hiện thời, chỉ trông cậy vào một con gà mái đẻ, để làm vốn, cuối năm bán đi, mới có tiền mua gà trống đem ra lễ ngoài đình cho tôi "lên lão năm mươi", theo lệ làng, chứ giết thịt bây giờ thì lúc ấy định nhe răng cười trừ với dân làng à ?

    Vã lại, nó đang ấp dỡ, làm thịt đi thì mất toi cả một đàn gà con, u nó tính lại coi, thiệt hay là lợi ?
    Bác gái tắc lưỡi :
    - Vẫn biết bố nó nói phải thật đấy, nhưng trong cơn túng ngặt này, ta cũng cần lo liệu sao cho chu đáo, kẻo để cho thằng nặc nô ấy, nó tức giận cũng nhục nhả, khổ cực lắm !
    Vậy thôi, bố nó cứ nghe tôi, bằng lòng giết thịt con gà mái đi, kẻo muộn lắm rồi, nó ăn uống xong, không kịp về, phải ngủ lại đây một đêm nữa, thì nguy to mất ! mai biết lấy gì làm cơm sáng cho Nó ăn ?

    Vã lại từ bây giờ đến tết, cũng còn sáu bảy tháng trời nữa, mình xoay sở rồi cũng phải cần được "gà lên lão" theo đúng lệ làng, bố nó đừng sợ !

    Bác xã trai không biết trả lời thế nào, đành phải thở dài nín lặng.

    Bác xã gái thấy chồng đã bằng lòng, liền ra vườn sau bắt gà, cắt tiết, hì hục một lúc lâu, mới nấu nướng xong các món, vội bưng mâm lên mời khách.

    Hắc sát nhìn mâm cơm đầy ấp thịt và lòng gà, mùi lá chanh thái nhỏ tỏa ra rất ngon lành nên không đợi mời, y nhảy ngay xuống ngồi xà vào bên mâm, gật gù khoái trá, rồi bốc luôn một miếng cánh gà bỏ vào mồm, nhai ngấu nghiến.

    Nhưng bỗng y châu mày, nhăn mặt, cầm cút rượu dằn mạnh xuống mâm :

    - Thức nhắm tạm được ! Còn rượu ? Sao lại ít thế này ? Có mấy giọt dính dáng trong chai, thì đến xúc miệng cũng chẳng đủ, còn nói gì đến... chuyện nhâm nhi nữa ?

    Chủ nhà đâu ? Muốn tốt, đi chạy thêm rượu về đây ...mau lên.

    - Rồi lên giọng lè nhè, mặc dầu chưa có ma men trợ lực, y nhắc khéo :

    - Phải viện cho kỳ được một chai bố mới đủ uống nghe không ?

    Nói xong, y ung dung cầm cả cút rượu con, đưa lên mồm, ngửa cổ tu ừng ực từng ngụm lớn.

    Vợ chồng bác Trương Thuật thì thầm bàn tán, không biết xoay đâu ra tiền mua rượu !

    Cuối cùng, bác gái vào mở rương lấy cái áo the đen, may từ khi mới lấy chồng, mang ra tiệm " Chệt gù " gửi tạm, để lấy chai rượu, hẹn khi nào có tiền sẽ chuộc lại.

    Tên nặc nô kể cả tay đũa, tay chén vừa nhồm nhoàm ăn uống, vừa lải nhải chửi bới bâng quơ, suốt từ lúc mặt trời xế bóng cho lúc quá nửa đêm, nó mới chịu lảo đảo đứng lên, vẫn như còn tiếc rẽ, nhìn lại chiếc mâm ngổn ngang bừa bải xương gà, không còn xót lại một miếng da nhỏ và cái chai trống trơn khô queo, nó cười hề hề khoái trá :

    - Khá ! Thế mà cũng say đáo để !

    Này chủ nhà, nghe ông bảo đây ! Từ giờ đến sáng mai, phải cố lo trả nợ cho ông Lý, biết chưa ? Đừng có để ông phải ăn chực nằm chờ đấy !

    Nói xong, y loạng choạng vịn vào bức vách, cố lần đến bên bàn thờ, lẩy bẩy trèo lên, nằm dài và chỉ một lát sau, đã ngáy vang như sấm !

    Vợ chồng bác xã ngao ngán đi thu dọn mâm bát, rồi xuống bếp ngồi bó gối, ủ rủ nhìn nhau, không biết xoay sở vào đâu, để có thể làm nổi một bửa cơm tưom tất, thết đải tên nặc nô sáng hôm sau, chứ đừng nói là trả nợ ông Lý Chín nữa.

    Đêm khuya thanh vắng, bốn bề tối đen như mực.

    Thỉnh thoảng đó đây, mới có tiếng chó sủa vang và tiếng côn trùng rên rỉ trong các ao hồ, mương rảnh.

    Vợ chồng bác xã ngồi co ro trong bếp, cả hai cùng mang nặng nổi buồn phiền mông mênh man mác bâng khuâng lo sợ cho số kiếp hẩm hiu của đàn con thơ dại.

    Bỗng trên nhà có tiến khua động, và liền đấy, lại có tiếng đổ vở loảng xoảng.

    Bác xã gái vội cầm đèn bước mau lên nhà trên nhưng chợt đứng khựng lại ở ngưỡng cửa, sửng sốt gọi chồng rối rít :

    - Bố nó ơi ! Lên mà xem ! Trời cao đất dày ôi ! Nhà tôi tội tình vì đâu, mà người ta cứ cố ý đày đọa khổ cực mãi như thế này.

    Bác xã trai hoảng hốt, đứng vùng lên, vừa chạy vừa hấp tấp hỏi vợ :

    - Cái gì thế ? cái gì mà u nó la hoảng thế hở ?

    Nhưng khi tới bên bực cửa, bác cũng ngây mặt, đau đớn nhìn cảnh não lòng trước mắt : dưới ánh sáng yếu ớt, vàng khè của chiếc đèn dầu tràm, tên nặc nô đang nằm sấp người trên bàn thờ, thò đầu ra ngoài, ói mửa lênh láng khắp nhà.

    Nào đã hết đâu ?

    Tên nặc nô quái ác, sau đấy, còn lảo đảo đứng dậy, kéo bình nhan với đôi lọ cắm bông giấy lại gần, hầm hầm trút hết tro, chân nhang, và bỏ luôn hai cành hoa giả đi, để... phóng uế bừa bải, đầy tràn cả ba món đồ thờ, mà ngày thường vợ chồng, con cái bác xã, vẫn kính cẩn, nâng niu, không bao giờ dám đặt một vật chi kém tinh khiết ở gần bên.

    Mùi tanh hôi bốc lên nồng nặc, khắp ba gian nhà tranh tiêu điều, sơ xác, khiến cho bác xã gái càng buồn phiền, ngao ngán, thở dài, não nuột, thẩn thờ một lúc lâu, mới uể oải bước vào quét dọn, lau chùi.

    Tên nặc nô đã lại ngáy o... o... từ lúc nào, tiếp tục ngũ thêm một cách ngon lành.
     
  7. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    CHẾT ĐƯỜNG KHÔNG NGỜ MẢ PHÁT

    Dù bị tên nặc nô làm tình, làm tội : tác yêu, tác quái luôn ba ngày đêm liên tiếp, vợ chồng bác Trương Thuật cũng đành chịu bó tay, không sao trả được món nợ của ông Lý Chín.

    Cuối năm ấy, bác xã trai phải bắt buộc viết văn tự khác, nhận vay tới tám mươi quan tiền của nhá phú hộ làng Giang Tảo, mặc dù lúc mới vay, bác chỉ được nhận có mười lăm quan của ông Lý Chín.

    Đến vụ Chiêm năm sau bác cũng không trả nổi, và một lần nữa, lại phải viết văn tự khất nợ để tăng số tiền thắt cổ này lên tới trên một trăm quan.

    Cứ đà ấy tiến dần mãi cho đến vụ gặt tháng 10 năm ấy, thì món nợ 15 quan, biến thành món tiền quan trọng, mà bác xã không còn có cách gì trả được cho chu đáo nữa.

    Do đấy, ông Lý đã xin quan tịch thâu nhà đất của bác xã.

    Vọ chồng, con cái bác xã Thuật, với hai bàn tay trắng, đành phải giắt díu nhau qua vùng Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, tính nương nhờ người em họ đang trông nom một cái ấp khá rộng của một vị hưu quan trong vùng.

    Một gia đình với 5 mạng người lớn nhỏ, một sớm tinh sương về mùa Đông, phải lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rún, bồng bế nhau ra bến đò Sâm-Thị, để vượt qua sông Nhị Hà, lên bến Mễ Tiên, đò không có, tiền cũng không, bác xã phải năn nĩ xin thiếu phụ chở đò, may gặp được người phúc hậu, chẳng những đã vui lòng, cho gia đìng bác quá giang, mà còn vồn vả hỏi thăm và sốt sắng chỉ đường tắt vào ấp cho vợ chồng bác khỏi phải đi xa.

    Nhưng tiền đò dù không phải trả, vợ chồng con cái bác biết lấy gì độ nhật trong thời gian chưa tìm được thân nhân ?

    Nhât là ba đứa con thơ dại, chỉ mới chậm cơm có một bửa, chúng cũng đã la khóc om sòm, đứa nào cũng nhăn nhó, không cất nổi bước đi nữa !

    Thấy con đói khát quá, người mẹ hiền cảm thấy đau nhói tâm can, nên chẳng quản tủi nhục, sượng sùng, bác xã gái đưa chồng con vào nghỉ chân trong một quán vắng bên đường, rồi lẳng lặng tìm đến các thôn xóm chung quanh, xin cơm thừa, canh cặn, hy vọng ba đứa con sẽ được tạm no lòng trong cơn túng ngặt.

    CHỈ MỘT CƠN BỆNH ĐÃ THÀNH NGƯỜI THIÊN CỔ

    Mãi sẩm tối hôm ấy, bác mới xin được chừng hai bát cơm trộn ngô xay, với chút xíu muối vừng gói tất cả vào một tàu lá chuối tươi hí hởn đem về quán, thầm tính sẽ chia đều cho bốn bố con lót dạ ! Còn bác ? Bác tự nhủ : sẽ cắn răng cố nhịn thêm một ngày nữa, chờ khi gặp người em họ lúc bấy giờ sẽ ăn cũng...chẳng chết nào !

    Rất thỏa mản với sự hy sinh cao cả ấy, bác nhanh nhẹn đi mau trên bờ ruộng gập gềnh, mong chóng về đến quán, cho chồng con đỡ đói khổ được giờ phút nào, hay giờ phút đó !

    Còn cách chiếc quán vắng, chừng năm trượng, bác đã văng vẳng nghe thấy tiếng khóc đứt nối của con Thu, đứa con út của vợ chồng bác !

    Bác hấp tấp chạy gần, đến nổi vấp ngã tới mấy lần mới về được đến nơi, và kinh ngạc xiết bao, khi thấy ba đứa trẻ, mỗi đứa nằm la khóc một nơi, mà bác xã trai cũng đang lăn lộn rên la trên mặt đất.

    Hốt hoảng quăng gói cơm xuống cạnh thằng Tý, bác chạy vội về phía chồng, cúi xuống nhìn, bất giác rú lên một tiếng thất thanh, khi thấy bác trai mặt mày tái mét, mủi rải bê bét chung quanh mồm miệng, hai mắt lơ đờ, lim dim, tay ôm bụng lăn lộn, quằn quại, rên rỉ nho nhỏ trong cuống họng, như không còn đủ hơi thốt ra thành tiếng.

    Ngồi bệt xuống đất, bác đặt tay lên trán chồng lo lắng hỏi :

    - Bố nó làm sao thế ? Đau bụng à ?

    Bác xã trai cố ngốc đầu dậy, nhăn nhó nói qua giọng hổn hển, gượng gạo :

    - Tôi bị... đau bụng ! Vừa rồi mò ra ngoài đồng, không ngờ lại cảm, trở vào được trong quán là ói mửa, lạnh run người, ruột gan như bị cấu xé đau đớn vô cùng.

    Bác xã gái chỉ biết luôn mồm kêu khổ !

    Ngoài ra không còn xoay sở được cách gì cứu chửa chồng.

    Mấy đứa trẻ, thấy mẹ về quăng cái gói dưới đất, liền nín khóc, chạy ùa tới, mở gói ra, rồi reo mừng tranh nhau bốc vội, bốc vàng những miếng cơm cháy, cho vào mồm, nhai ngon lành, trong chớp mắt, gói cơm chỉ còn trơ lá !

    Bác trai vẫn rền rĩ, quằn quại, lăn từ phía vách này, qua phía vách khác, như cố vật lộn với cơn đau xé ruột xé gan.

    Gian quán siêu vẹo, bốn phía trống trơn, không có cửa ngõ gì, nên gió đêm lùa vào, lúc nào cũng như vũ bảo, càng về khuya, càng lạnh lẽo, giá buốt hơn nhiều.

    Cho đến quá canh tư, bác xã gái mỏi mệt quá dụa mình vào cột quán, ngũ thiếp đi lúc nào không biết.

    Khi tỉnh dậy, bác chợt nhớ đến chồng, và cảnh ngộ bi đát của gia đình, vội đưa tay lần mò về phía chồng, muốn lay gọi.

    Nhưng bốn bề yên lặng như tờ.

    Trong quán tối om, như giữa đêm ba mươi tết !

    Ngoài tiếng thở đều đều của bọn trẻ con, bác không còn nghe thấy chi khác hết, kể cả tiếng rên la của bác xã trai.

    Linh tính như báo trước, một tai biến nặng nề, bác hốt hoảng quơ mạnh cả hai tay về phía chồng...

    Bác kinh sợ, quỳ gối lết nhanh đến bên chồng, và kêu thét lên một tiếng hải hùng, khi nhận thấy, khắp thân thể bác xã trai giá lạnh như tiền, ngực không còn thoi thóp ma ghé tai sát tận mũi chồng, bác cũng không thấy một hơi thở nhẹ nào !

    Bất giác bác khóc oà nức nở !

    Ba đứa nhỏ đang ngũ say, thấy ồn ào, cũng choàng cả dậy một lượt, cất tiếng khóc theo khiến lòng dạ người đàn bà sa chân, lỡ bước, đã đau khổ, tủi nhục lại càng thêm bấn loạn, hoang mang.

    Sáng hôm sau, những nông dân quanh đấy khi ra đồng, đi qua quán hoang, nghe thấy tiếng gào khóc thảm thấm thiết liền bảo nhau vào xem, và cũng xúc động, trước cảnh mấy mẹ con lăn lộn than khóc bên thi hài bác xã trai, nằm ngay đơ trên nền đất.

    Nghe thiếu phụ kể lể hoàn cảnh éo le ngang trái của mấy mẹ con, các nông dân vội đưa mẹ con bác vào trong làng, đến trình bày tự sự với những hương chức kỳ hào, để nhờ họ đi báo quan huyện sở tại, và lo liệu giúp việc khâm liệm tống táng.

    Trong thời đại phong kiến, mỗi khi có người xa lạ đến chết tại một địa phương nào đó, thì hương lý sở tại phải lên đồn, xuống phủ, khai báo lôi thôi, thủ tục rất phiền hà phức tạp.

    Nhất là kẻ xấu số không có thân nhân, quyến thuộc nhìn nhận, hoạc có, mà gia đình người bất hạnh, lại nghèo túng, khốn quẩn đến cực độ, không sao đảm nhiệm được công việc tống táng ma chay, thì hương chức, kỳ hào sở tại thướng phải đốc xuất tuần tráng, đi các nhà, kêu gọi tình tương trợ, tương thân giữa người chung cùng một nòi giống, để kẻ ít, người nhiều góp gió thành bảo, lấy tiền mua hòm, mua vải khâm liệm cho người xấu số, rồi sai tuần đinh khiên đi chôn,đánh dấu cẩn thận, để phòng thân nhân đến tìm phần mộ.

    Trong trường hợp, các nhà hào sản, hảo tâm quyên trợ không đủ số tiền chôn cất cho người chết đường, chết chợ được mồ yên mả đẹp, thỉ những hường lý, chức dịch có thể trích quỷ làng để làm việc từ thiện.

    Do đấy nhiều nơi, bọn cường hào, ác bá, quanh năm suốt tháng, chỉ biết bám vào luỹ tre xanh, để cờ bạc, rượu chè, đã lợi dụng những thây ma vô thừa nhận, hoặc có thân nhân mà không may lại nghèo khổ quá, phài nhờ cậy dân làng chôn cất giùm, để "ăn đầu ăn cổ" ! Nếu chỉ có hết năm quan tổn phí, thì họ không ngần ngại khai tới mười quan để lấy món "tiền bổng" qua xác chết tạo ra, mà tụm năm, tụm ba, hợp tập nhau, say sưa, chè chén !

    Ai sống, ai chết, mặc thiên hạ !

    Bọn sâu mọt cứ ung dung ngồi yên hưởng lợi, chẳng cần biết đến sự đau khổ của bà con nghèo túng !

    Những ông già, bà cả giờ đây, hẳn chưa bao giờ quên được " cảnh cười ra nước mắt" của một đám chết đường trong thời đại phong kiến !

    Vì giữa tiếng khóc than chua xót, thảm thiết của mẹ goá, con côi, nghèo khổ, khốn quẩn, không sao chạy được tiền chôn chồng, chôn cha, phải nhờ sự giúp đở của làng xóm, thì mấy ông hương lý chức dịch, không một ai chịu "bỏ lở dịp may hiếm có ấy" đã thừa nước đục thả câu, đi quyên của các nhà từ thiện được bao nhiêu, họ lấy trích ra một món tiền chi tiêu vào vài ba bửa chén, gà, vịt chè, rượu, thuốc cho thỏa thích, còn lại mới bồi bác sắm sửa chôn cất cho người xấu số !

    Thấy bác xã Thuật gái vào trình bày cảnh cơ cực của gia đình và cái chết bất ngờ của chồng, các hương chức sở tại liền kéo nhau vào quán khám nghiệm làm biên bản trình quan, để xin chôn xác chết.

    Một mặt, họ đến những nhà giàu có ở trong vùng để quyên tiền tống táng cho kẻ bất hạnh.

    Trong lúc chờ quan huyện cho người tận nơi khám nghiệm tử thi, họ hợp tập tại nhà Tuần Tra chè chén lu bù.

    Mãi trưa hôm sau, các thủ tục giấy tờ mới thật xong xuôi, bọn hương chức liền ủy thác cho viên Tuần Tra phải đi mua quan tài, sắm vải khâm liệm và sai người đi chôn xác chết.

    Ở thôn quê, tuy dân làng có tinh thần tương thân, tương trợ rất sốt sắng, thành thực, nhưng đó là đối với bà con cùng sống chung trong vòng rào một luỹ tre xanh !

    Còn riêng đối với những người chết đường, chết chợ, từ các phương trời xa lạ, bỗng nhiên đến chết tại làng xóm họ, thì họ chẳng nhúng tay vào khâm liệm, hay chôn cất, vì sợ "xúi quẩy" !

    Do đó, một là các hương chức, lý dịch ở trong làng, phải dùng đến quyền ăn trên, ngồi trước, để cất cử, sai khiến bọn đàn em, hoặc tuần tráng đảm trách công việc bạc bẽo ấy.

    Hai là nhà chức trách sở tại, phải trích một phần tiền công quỹ, hay tiền quyên được của các nhà hảo tâm, rồi mướn người chôn xác chết, chớ nếu không, có khi để đến mấy ngày, cũng chẳng có ai dám tình nguyện chôn vùi cho kẻ xấu số được mồ yên, mả đẹp.
     
  8. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    MỘT KIỂU ĐẤT QUÝ CÓ CHIÊNG, TRỐNG, CỜ BIỂN...

    Đã từ lâu, những ông già, bà cả trong mấy phủ huyện Kim Đông, Khoái Châu, Ân Thi, Mỹ Hạo, thường truyền tụng về một kiểu đất đế vương, mà theo đấy thì có đủ những hình thể kỳ dị :

    " Tiền long phụng cổ,

    Hậu cảnh đương chung,

    Tả ngọa Thanh Long,

    Hửu chầu Bạch Hổ,

    Tinh kỳ rực rở

    Kiếm Ấn đàng hoàng

    Phúc trạch trời ban

    Trăm năm hiển hách !"

    Thiên hạ truyền tụng, nhập tâm những hình thế kỳ dị trên đây, không biết từ đời nào, để mỗi khi có dịp bàn luận đến môn địa lý, người ta lại đọc cho nhau nghe, với dụng ý cố tìm cho kỳ được khu đất quý kia.

    Nhưng năm qua tháng lại, những câu đồng giao và kiểu đất đế vương, dù đã gần chìm sâu vào trong quên lãng của thời gian, mà thiên hạ vẫn không sao biết được đích xác nó ở chỗ nào ?

    Người ta chỉ đồn đải là nó nằm trong địa phận mấy phủ huyện ở giữa tỉnh Hưng Yên.

    Có thế thôi. Ngoài ra không ai biết gì hơn nữa !

    Sau thấy mả bác Trương Thuật được mối đùn, trong số có một đêm mà bỗng to cao như gò đống lớn, thiên hạ mới yên trí là họ Cừ đã táng được đúng huyệt đế vương, úng vào những điềm trong đồng giao được truyền tụng. Sự thực nào có phải thế đâu ?

    Mấy chú tuần đinh, đảm nhiệm công việc khâm liệm và mai táng bác xã, theo sự sai khiến của hương chức, kỳ hào trong làng, vì mải mê chè chén say sưa, mãi tới canh hai đêm ấy, mới chệnh choạng khiêng thi hài kẻ xấu số, được bó gọn trong một manh chiếu cũ ra đồng, nơi họ đã đào sẳn huyệt từ buổi trưa.

    Nhưng vừa qua hết đường cái, rẽ xuống bãi tha ma được chừng năm trượng, trời bỗng nổi cơn giông tố ầm ầm, mưa như trút nước, sấm chớp liên hồi, khiến cho mấy chú tuần phiên hoảng sợ, trượt té lên, té xuống, trước họ còn bảo nhau cố gắng gượng khiêng xác chết tới huyệt, sau mưa gió mỗi lúc một dữ dội hơn, không còn trong rõ đường lối chi hết, họ đành phải đặt thi hài bác xã xuống một vũng trâu đầm, rồi lật đật ôm đầu, dầm mưa, chạy vội về nhà, định khi ngớt cơn bảo táp, sẽ lại trở ra chôn cất tử tế cho kẻ bất hạnh.

    Không ngờ mưa gió suốt đêm không tạnh, mãi đến gần sáng, trời mới dịu dần, họ vôi rủ nhau đem cuốc xẻng ra bãi tha ma, định vùi dập cho người xấu số được mồ yên mả đẹp.

    Song họ ngạc nhiên xiết bao, khi thấy vũng trâu đầm đêm trước, có đặt tạm thi hài bác xã Thuật, đã biến thành một gò đất cao, cỏ mọc xanh um, tươi tốt lạ lùng, không còn để lại một vết gì được gọi là một ngôi mả mới nữa.

    Tin mối đùn trong có một đêm, khiến cho một vũng trâu đầm, biến thành một gò đất cao, được loan truyền rất nhanh chóng trong vùng, nên nội ngày ấy, khách hiếu kỳ đã rủ nhau đến xem ngôi mả kết phát, lũ lượt, nô nức như những người đi xem hội vậy.

    Một thầy địa lý chính tông, sau khi quan sát kỷ lưỡng địa hình, địa thế nơi này, đã gật gù, khen ngợi, nói với mấy người bạn thân rằng :

    - Đúng là mả thiên táng ! Nhà phong thủy chính tông, dù có chân tài, thực học đến đâu, khi thấy ngôi mả cũng không sao chê trách, sửa đổi vào đâu được.

    Đây đúng là kiểu đất " huynh đệ đồng khoa ", minh đường đã có chiêng trống, phía sau lại có cờ biển, nhưng chỉ tiếc cho tay hổ đã đi nghịch có nhiều chỗ lồi lõm quanh co, thoạt thẳng, thoạt gảy không chừng nên về phần con gái, e rằng sẽ không được hưởng phúc trạch hoàn toàn như nam giới trong họ !

    Tuy nhiên, đó cũng là một kiểu đất đặc biệt hiếm có lắm rồi, không phải dễ tìm kiếm được ở vùng này đâu ?

    Sợ mọi người chưa hiểu rõ, thầy địa lý phải chỉ tay về phía trước mặt, nói thêm :

    - Đứng ở chánh huyệt, nhìn ra minh đường, chúng ta hẳn thấy hai khoảnh đất vuông vắn, nằm "ấn" song song đằng kia, cách đây không xa lắm, đó là hai chiếc ấn, tượng trưng cho sự kết phát sau này của giòng họ Cừ : đời nào cũng có hai người đổ cao, làm lớn.

    Đoạn, quơ tay hướng về phía hữu, nhà phong thủy tiếp lời :

    - Chỉ tiếc cho dòng sông kia, đã chảy ngịch lại với chánh huyệt ! Chẳng những thế, gềnh đá, nằm chấn ngang ở giữa lòng sông, còn làm cho gió giội ngược lại. Đã "nghịch thủy " lại "phản phong" , thì sau này, nhất định con gái họ Cừ sẽ mắc phải nạn loạn dâm, việc tình duyên trắc trở, có khi còn phát điên cuồng nữa là khác !

    Nếu đấy không phải là mả "Thiên Táng", mà lại do bàn tay người tìm kiếm án hướng, phân kim, thì với sự chân tài, thực học của nhà phong thủy chính tông,người ta có thể trấn yểm để làm giảm bớt sự nguy hại được ít nhiều.

    Đoạn, chăm chú quan sát rất kỷ lưỡng ngôi mộ, thầy địa lý tỏ ý tiếc hận và tiên đoán :

    - Vẫn hay là mả thiên táng, song có lẽ phước trạch họ Cừ còn đơn bạc, nên đường ấn không được rõ ràng cho lắm. Đồng thời những cờ biển ở phía sau, cũng như chiêng, trống nằm án trước minh đường, hầu hết đều chưa nổi bật hẳn lên và nếu nhìn kỷ, sẽ thấy không được cân đối rõ rệt.

    Do đấy, sự kết phát chẳng những sẽ bị trì trệ, mà những người khai khoa trong họ sợ rằng không được hưởng thụ lâu bền phú quý !

    Rồi, đăm đăm nhìn về phía tả, nhà phong thủy lầm bầm nói bâng quơ :

    - Lạ lùng hơn nữa, bên tay long dường như có cả hình cung tiển, không chừng họ Cừ còn phát luôn cả văn lẫn võ, cũng nên !

    Mấy người bạn cùng đi với thầy địa lý, tuy không ai nói ra, nhưng hết thảy đều hoài nghi lời quyết đoán ấy !

    *** HẾT ***
     
  9. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    Kiểu đất PHỤNG-HOÀNG HÀM THƯ

    "Ngũ bách niên chi tiền, mạch tại thượng,

    Ngũ bách niên chi hậu, mạch tại hạ,

    Vị thùy vô mục, quả vô mục dã"

    TẬP GIA PHẢ VỚI TÁM NGÔI TỔ MỘ!

    Họ Nguyễn ở làng Báo Văn là một danh gia, lệnh tộc, không biết phát tích từ đời nào, nhưng người quanh vùng vẫn thường đồn đãi với nhau rằng: từ trên một trăm năm nay, họ Nguyễn ở làng Báo Văn, chẳng đời nào là không có người làm quan to, hay đại hào phú, chủ nhân ông những ruộng vườn thẳng cánh cò bay, đất đai chồn chân, ngựa chạy.


    Thiên hạ còn nói nhiều đến tám ngôi tổ mộ của họ Nguyễn táng song song ở giữa cánh đồng vùng Mông Sàng, Mông Phụ mà người ta tin chắc đó là những ngôi mả kết phát rất to tát, lâu dài.


    Nhiều nhà phong thủy chính tông Hoa, Việt nghe thiên hạ đồn đãi, đều không ngại vất vả, tốn kém, tìm đến tận nơi quan sát khu vực có mộ phần tổ phụ họ Nguyễn.


    Hết thảy đều đồng ý tán thưởng sự tinh tế của cổ nhân: người đã có cặp mắt tinh đời, chọn được thửa đất hiếm có ấy, vì theo sách địa lý, đó chính là kiểu đất Phụng-Hoàng Hàm Thư, mà tám ngôi tổ mộ đều nằm vào đúng giữa bụng chim thần.

    Nhưng vào đầu mùa thu năm Ất Mùi (1775) một ông già đầu, râu, tóc bạc, quần vải, áo nâu, bề ngoài trông rất tiều tụy, lam lũ, tìm đến tận nhà quan Án sát họ Nguyễn ở làng Báo Văn, để trình bày về sự nhận xét riêng của lão về tám ngôi tổ mộ.


    Hồi ấy quan Án Sát tuy đã cáo lão hồi hưu, song dinh thự vẫn có người canh gác cẩn mật, không kém gì lúc chủ nhân đang còn tại chức.


    Tên gia nhân gác cửa, thấy khách lạ hình dung cổ quái, y phục rách vá tứ tung, thì có ý khinh rẻ, yên trí là khách lạ, nếu không định đến xin tiền quan Án, thì hẳn cũng chỉ tới cầu cạnh một ân huệ chi đó, chứ dáng điệu ấy, người ngợm ấy thì hỏi còn có gì đáng bàn chuyện quan trọng về đất cát mồ mả với chủ nhân hắn, vốn là một vị đường quan, danh tiếng ở Bắc Hà!


    Nghĩ vậy rồi, hắn liền dơ tay xua đuổi ông già, một mặt khép chặt hai cánh cổng gỗ lim nặng nề, khinh khỉnh nhìn khách lạ, như nhìn một quái vật hiểm nguy, nhơ nhớp!


    Khách lạ chỉ hơi nhíu mày, ngỡ ngàng về cách xử sự phũ phàng của tên gia nhân, nhưng chỉ thoáng qua một chút, lão lại bình thản, mỉm cười ung dung nói lớn:


    - Chú em đừng nên khinh người, rẻ của quá như vậy? Lão đến đây với tất cả lòng thành khẩn, kính mến đức độ, uy danh của Cụ lớn nhà, chứ nào phải tới cầu xin ân huệ, tiền bạc chi đâu, mà chú em nỡ tâm xua đuổi cho đành?


    Lão nói thiệt: chú em nếu muốn cho Cụ lớn nhà đời đời vinh hiển, kế thế công khanh, thì hãy kíp vào bảo với Cụ lớn cho lão được diện kiến, còn nếu không thì thôi, lão càng khỏi phải tốn công, nhọc sức...


    Tên gia nhân vẫn không thay đổi ý định: cương quyết đóng chặt cổng dinh, và lớn tiếng quát mắng:


    - Lão già vô lý quá! Khi không tới đây, bày đặt chuyện đất cát lôi thôi. Nếu không khôn hồn cút mau đi lỡ ra đến tai Cụ lớn thì lão chắc chắn sẽ bị ăn đòn nứt thịt!


    Đang lúc hai người điều qua tiếng lại, thì Cụ lớn từ tư thất bước ra, thấy vậy, vội tiến thẳng đến gần tên gia nhân, hỏi vội:


    - Chi đó bây! Nếu người ta lỡ độ đường thì đem ra chút ít tiền gạo, đãi người ta, chứ việc chi mà lớn tiếng vậy?


    Khách lạ chưa kịp nói gì, thì tên gia nhân đã xun xoe tiến đến trước mặt quan Án, vái lạy, rồi tằng hắng liên tiếp mấy cái liền, mới rụt rè cất được tiếng:


    - Bẩm Cụ lớn, lão già này không biết từ đâu tới đây, cứ nhất định một hai đòi vào yết kiến Cụ Lớn cho kỳ được, để trình bày đất cát mồ mả chi đó. Con đã đem tiền gạo cho lão và đuổi lão ra, nhưng lão ngang bướng lắm, cố tình muốn ăn vạ đấy ạ.


    Quan Án Sát liếc nhanh cặp mắt sâu thẳm, sau lớp kiếng trắng, gọng bạc về phía khách lạ, bất giác phát sanh lòng kính phục con người bần hàn, lam lũ vô cùng, vì qua lớp y phục bẩn thỉu, vá rách, vị hưu quan ở làng Bác Văn đã như mường tượng thấy được một vẻ cao quý khác thường, ẩn hiện trên khuôn mặt già nua, cằn cỗi, mà bộ râu ba chòm bạc phơ, in hệt mớ cước trắng của khách lạ, đã làm nổi bật hơn nữa, nét phong sương của một kẻ giang hồ phiêu lãng!


    Quan Án nguýt dài tên gia nhân lỗ mãng, dơ tay ra hiệu cho nó lui vào phía trong, đoạn thong thả đi ra cổng, đến bên lão già niềm nở nói:


    - Lão trượng phu chớ chấp kẻ thất phu vô lễ, và xin mời vào chơi trong nhà cho tiện đàm đạo.


    Khách lạ gật đầu, có ý thỏa mãn, ung dung xách khăn gói, kéo lê chiếc gậy trúc dài gần hai sải tay, đầu uốn cong thành hình một con cú đứng co một chân, cánh xoè rộng hẳn ra như muốn lấy đà tung bay, theo thế "Anh hùng độc lập", rồi thản nhiên đi ngang hàng với vị hưu quan, cùng bước qua một cái sân gạch Bát Tràng, rộng rãi, vuông vắn, để lên thềm đại sảnh.


    Ngôi nhà chính của quan Án Sát hưu trí trông bề thế, cổ kính, như được xây cất từ mấy mươi đời trước bằng các thứ danh mộc, hầu hết đều chạm trổ cực kỳ công phu, tỷ mỉ do những thợ mộc tài hoa chuyên nghiệp ở các vùng Hà Nam, Ninh Bình đảm trách.


    Tư thất kiến trúc theo lối Đông Phương cổ kính, tấm mái cong vút như sừng trâu, do mấy hàng cột lớn tay ôm, bóng lộn như gỗ mun, chống đỡ, được chia ra làm năm gian lớn, bài trí toàn đồ cổ ngoạn gia bảo, sập gụ, tủ chè, đỉnh đồng lớn, giá lọ bộ, chóe sứ, lọ Giang Tây, ánh vàng sơn rực rỡ từ những chiếc hoành phi, câu đối, sơn son thếp vàng, lộng lẫy tỏa ra, càng tăng thêm, màu sắc, huy hoàng, nguy nga, tráng lệ cho toà đại sảnh.


    Quan Án Sát họ Nguyễn mời khách lạ ngồi trên chiếc cẩm đôn phủ nệm bọc gấm điều trước một án thư bằng gỗ gụ, dưới một cặp tán tía, lọng vàng, treo cao gần sát mái nhà.

    Trên tường, một thanh bảo kiếm, chuôi ngà, vỏ bạc, nằm vắt chéo, giữa một đôi tay thước khảm xa cừ có tua đỏ dài lòng thòng, bên cạnh cái trống chầu sơn đỏ và đôi tù và làm bằng hai con ốc cực lớn, bóng lộn như sừng.


    Quan Án Sát ngã người trên chiếc sập gỗ chân quỳ, tựa tay lên chồng gối xếp màu hoàng anh, mắt tuy lơ đãng nhìn ra ngoài sân, song kỳ thực, vẫn luôn luôn chăm chú theo dõi từng nét biến chuyển trên khuôn mặt nhăn nheo của người khách lạ, đoạn vừa vuốt râu, vừa vui vẻ hỏi người đối diện:


    - Nghe bày trẻ nói: lão trượng có nhã ý đến chơi để bàn chuyện về môn phong thủy.


    Hạ quan rất hoan nghênh và sẵn sàng kính cẩn nghe lời vàng ngọc.


    Rất mong lão trượng đừng tiếc lời dạy bảo, thì không những may mắn cho hạ quan mà cả dòng họ Nguyễn ở làng Báo Văn cũng được đội ơn hà hải...


    Khách lạ ngạo nghễ nói:


    - Lão đi qua vùng này, tình cờ được thấy một khu đất cực quý ở ngay ngoài cánh đồng làng ta. Lão hỏi thăm, thì bà con quanh đấy chỉ cho lão coi tám ngôi cổ mộ, và bảo rằng đó là phần mộ của tổ phụ đại nhân.

    Vì vậy lão mới tìm tới đây, không ngoài ý muốn, được hầu chuyện với đại nhân về môn phong thủy.


    Quan Án Sát chặn ngang:


    - Lão trượng nói sao?


    Mấy ngôi mộ của dòng họ Nguyễn, táng tại cánh đồng xứ Cốt Đang, làng Báo Văn, cũng đã khá lâu ngày, không hề xảy ra sự nguy hại chi hết, sao giờ đây lão trượng lại có ý thắc mắc? Xin hãy vui lòng cho lão phu biết rõ lý do?


    Khách lạ không trả lời thẳng câu hỏi của vị hưu quan, mà lại nói lãng qua chuyện khác:


    - Trước khi bàn về mấy ngôi cổ mộ, lão muốn biết sơ qua ít điều thắc mắc: chẳng hay đạo nhân bình thường có chuyên khảo cứu về khoa địa lý không?


    Quan Án sát nhìn khách lạ, như cố tìm hiểu xem trong sự hiếu kỳ của người đối thoại, có xen lẫn một dụng ý gí, khả dĩ gây được thiệt hại cho dòng họ Nguyễn nói chung, và cho bản thân quan Án Sát nói riêng.

    Trên khuôn mặt dày dạn phong sương, đen cháy vì nắng mưa dầu giãi, đôi mắt sâu thăm thẳm nằm dưới lớp kiếng lão của khách lạ, vẫn luôn luôn tiết ra một tinh thần khẳng khái trung thực: nền tảng căn bản của tín đồ Khổng Mạnh, khiến cho bất cứ ai được tiếp xúc, dù chỉ mới là lần đầu tiên, cũng phải chân thành kính trọng, cảm mến, coi như bậc trưởng thượng trong gia đình.

    Vốn nề nếp nho phong, trâm anh thế phiệt nên vị hưu quan nhận thấy ngay được nét tinh hoa đáng quý ấy trên gương mặt quắc thước của khách lạ.

    Vì vậy, chẳng một chút ngại ngần, nghi kỵ, quan Án Sát sẳn sàng cởi mở ngay niềm tâm tư, ấp ủ thầm kín trong kẽ phổi, khe gan từ bao lâu nay, chưa có cơ hội nào thuận tiện, cũng như chưa gặp được bạn tri âm nào tâm đầu ý hiệp để giải tỏ can tràng:

    - Ngay từ khi còn để chỏm, ngày ngày cắp sách đến tập làm văn tại trường Cụ Thám Hoa ở làng dưới, lão phu đã đặc biệt chú ý đến môn phong thủy, mỗi khi thấy người quanh vùng đem trầu rượu, lễ vật đến nhờ Cụ Thám Hoa tìm đất giúp.

    Có nhiều lần được Cụ Thám cho theo hầu, lão phu thường nhìn ngắm say sưa chiếc tróc long hàng giờ không biết chán, nâng niu cái la kinh, thận trọng còn hơn một người chơi đồ cổ săn sóc đôi lọ từ đời Tống, đời Đường, đến nỗi thấy lão phu ham mê môn phong thuỷ, Cụ Thám đã vui vẻ giảng dạy cho lão phu biết sơ qua về cách phân kim, án hướng, thế nào là án nga my, thế nào là tay long, tay hổ, thế nào là thuận nghịch, thế nào là quán khí.

    Nhờ đấy, lão dù không am tường, thấu triệt một cách tinh vi khoa học, huyền bí, kỳ diệu ấy, cũng có thể hiểu đại cương sự chuyển vận của long mạch, để tìm trúng chánh huyệt tại các khu đất quý.

    Khách lạ không chờ cho quan Án dứt lời, liền hỏi ngang:

    - Thôi thế cũng tạm đủ! nhưng có điều lão vẫn chưa hiểu: Vì nếu đại nhân đã biết rành mạch môn địa lý thì sao lại không nhận chân được sự sai lệch của tám ngôi tổ mộ ở xứ Cốt Đang?

    Vị hưu quan có vẻ sượng sùng, vội dơ tay phác một cử chỉ ngăn chận rồi nói nhanh:

    - Thì lão phu có dám nhận mình là am hiểu tinh vi môn địa lý đâu? Lão phu sở dĩ biết sơ qua chút ít, cũng là do sự chiếu cố của Cụ Thám Hoa, lúc còn đi học, thấy lão phu mê say khoa phong thủy, người mới giảng dạy đại cương cho lão phu nghe, sự kỳ bí, huyền diệu của mạch đất, có thế thôi! Nào lão phu có biết gì hơn.

    Vậy nếu những ngôi tổ mộ kia có chi sai lệch, xin lão trượng vui lòng chỉ dạy, lão phu nguyên tạc dạ, ghi xương, thề trọn đời không dám quên ơn lão trượng.

    Khách lạ ha hả cười to, đầu gật lia lịa như vô cùng đắc ý:

    - Được, Lão xin nhận lời giúp đỡ đại nhân.

    Nhưng công việc xem xét mộ phần, phúc lại! Lúc tới tám ngôi mả, không phải là việc làm một sớm, một chiều mà xong được?

    Phải mất ít ra hàng tháng mới mong tìm được tất cả mọi sự khuyết điểm, không những ở bề ngoài căn cứ theo hình thức mộ phần, mà còn dùng thuật riêng đặc biệt bí truyền, để xem xét lòng huyệt cũng như hài cốt an táng ở trong tiểu...

    Công việc phức tạp ấy, không phải một vài hôm hay năm, bảy bữa mà xong được đâu? Đại nhân là bậc danh sĩ, quán thông lý, số, y, nho, lại thấu triệt được cả lẽ huyền vi, kỳ bí của môn phong thủy, thì hẳn không cho lời lão là viễn vong, vu khoát.

    Quan Án Sát thong thả đứng lên, hướng về phía khách lạ, vái dài, chậm rãi nói:

    - Được nghe lời giảng dạy vàng ngọc, lão phu nhu kẻ đang lần mò đi trong đêm tối, bỗng gặp được ánh đuốc soi đường!

    Quả thật là vạn hạnh.

    Lão phu tin rằng cuộc sơ kiến bữa nay, do lòng Trời đưa lại, cũng là duyên kỳ ngộ từ kiếp trước, nên mới run rủi cho lão phu gặp đặng qúy nhân, để nghe lơi dạy bảo của bậc cao hiền, hầu biết đường họa phúc và lẽ thạnh suy của đời mình!

    Vậy nhân dịp này, nếu lão trượng không chê hàn xá thô lậu, lão phu xin kính mời lão trượng tạm ngừng gót ở chơi tệ xá ít ngày, cho lão phu có cơ hội thuận tiện học hỏi thêm đạo lý cao siêu của thánh hiền, nhất là sự nhiệm mầu của khoa địa lý.

    Khách lạ vui vẻ ngắt lời:

    - Đại nhân bất tất phải quá khiêm, lão xin hoàn toàn tuân lệnh đại nhân sai khiến. Vả lại, lão không đến đây thì thôi, chứ một khi đã tới thăm quý phủ, được đại nhân dùng biệt nhãn đón tiếp, không phân biệt giàu nghèo, quý tiện, lại cũng chẳng câu nệ bức tường ngăn cách quan, dân, khiến cho tấm thân già nua, vô dụng gần kề miệng lỗ này được tiếp xúc với bậc quý nhân, trau dồi thêm cho mớ kinh nghiệm cằn cỗi thêm phần quảng bác thì há chẳng phải là một cơ hội hãn hữu muôn thuở nhất thời cho lão ư ?

    Vị hưu quan tươi nét mặt, vui mừng đáp rằng:

    - Được lão trượng nhậm lời, lão phu thật vô cùng cảm kích. Vậy trong thời gian tạm lưu tại tệ xá, nếu có cần gì, xin lão trượng cứ truyền gọi gia nhân, sai khiến chúng và coi chúng như nô bộc của lão trượng.

    Khách lạ tiếp lời:

    - Xin đa tạ thịnh tình của đại nhân. Có điều lão phu phải cần thưa trước: ngay từ sáng mai, kính xin đại nhân cho người hướng dẫn lão đi thăm lại một lần nữa, cánh đồng có an táng tám ngôi tổ mộ của dòng họ nhà ta, và nếu không có chi bất tiện, xin đưa lão đi thăm luôn cả các ngôi mả khác ở trong họ nữa.

    Có thế, lão mới có thể quyết đoán đích xác được sự kết phát hay nguy hại của của các ngôi tổ mộ.

    Quan Án Sát mỉm cười, ngăn cản:

    - Lão trượng đi đâu mà vội vàng quá thế ? Xin hãy thong thả dạo thăm phong cảnh trong vùng ít bữa, rồi sau đấy, sẽ lưu ý đến mồ mả, đất cát, tưởng cũng không phải là quá muộn.

    Ông già, lắc đầu, tỏ ý bất mãn:

    - Đại nhân quá thương, muốn cho thân già này được ung dung, nhàn nhã, tấm tình tri ngộ ấy, lão xin ghi sâu trong phế phủ. Nhưng số lão vất vả, ngay từ khi ra đời, vẫn phải luôn luôn vật lộn với sinh kế từng khắc, từng giờ, chẳng mấy lúc được thảnh thơi, rỗi rãi!

    Do đấy, nếu cho lão ngồi yên hưởng lạc, chỉ những hai bữa liền, là thế nào lão cũng bị đau đớn gân xương, chân tay ngứa ngáy, cơ hồ như có một mãnh lực kỳ bí thúc đẩy, lão phải chạy nhảy, hoạt động hăng hái hơn, để giữ cho sức khỏe được dồi dào bền bỉ lâu dài!

    Vị hưu quan chợt nhìn trên án thư có đủ đồ văn phong tứ bảo. Nhớ tới một việc quan trọng, nên vội đưa tay cầm một cuốn sách bìa sơn đen dày cứng, rồi nhích mình qua phía khách lạ, đoạn hạ thấp giọng nói vừa đủ nghe:

    - Lão phu có một điều tâm sự, liên can đến hạnh phúc, vận mạng của cả dòng họ Nguyễn ở làng Báo Văn, mà từ khi khôn lớn tới bây giờ, lão phu vẫn nhất định chôn sâu trong phế phủ, chưa hề dám thố lộ với một ai, kể cả những bạn bè, hay họ hàng thân thích!

    Số là trong gia phả của tiền nhân lưu lại, từ đời Hậu Lê, có ghi một lời ký chú, đinh ninh dặn lại con cháu rằng:

    "Tám ngôi tổ mộ, an táng tại xứ Cốt Đang thuộc cánh đồng làng Báo Văn, tuy kết phát, nhưng muốn cho dòng họ hưởng phúc lộc lâu dài, thì năm Ất Mùi (1775) phải nhờ thầy địa lý chính tông xoay lại hướng mộ phần. Nếu không tuân theo lời trong gia phả, dòng họ sẽ bị suy tàn, mau chóng..."

    Lời ghi chú trong gia phả, con cháu trong chi trưởng của dòng họ lão phu, phải luôn luôn chôn sâu nơi tâm khảm, coi đấy như nguồn sống chánh yếu của cả một dòng họ, không thể vì một lẽ gì lãng quên được!

    Vì vậy ngay từ đầu năm nay, thấy đã tới hạn kỳ ghi trong thế phả, lão phu đã phải tìm thầy địa lý, nhờ phúc lại tám ngôi tổ mộ ở cánh đồng làng Cốt Đang.

    Nhưng dù lão đã tốn nhiều công phu cũng như tiền bạc, cho gia nhân đi khắp mọi nơi, cố lùng kiếm cho được một nhà phong thủy chính tông, mà không hiểu vì nhà lão kém âm công, phúc đức hay sao, mà người đi tìm đã mấy tháng nay, vẫn chẳng sao kiếm nổi một thầy địa lý nào, khả dĩ có tài tìm được chánh huyệt trong một khu đất quý, chứ đừng nói là để mả kết phát nữa!

    Lão phu đang lo buồn, thì lão trượng đến chơi!

    Quả thật là đại hạnh cho dòng họ Nguyễn Nhà lão!

    Do sự tình cờ, mà cũng là duyên kỳ ngộ ấy, lão phu thành khẩn yêu cầu lão trượng, hết lòng giúp đỡ cho lão phu, làm trọn vẹn được lời ký thác của tổ tiên, thì suốt đời, lão phu thề minh tâm, khắc cốt đức độ cao dày ấy của lão trượng.

    Nói xong, quan Án Sát lại vái dài rất cung kính.

    Khách lạ vội đứng phắt lên, dơ tay ngăn cản mà vui vẻ nói rằng:

    - Đại nhân bất tất phải thủ lễ và quá khiêm nhường như vậy, khiến cho lão bị tổn thọ mất hàng kỷ đó!
    Lão không đến đây, không được nghe chuyện đại nhân thuật lại về lời ký thác trong gia phả thì thôi, chứ một khi đã tới tận chỗ, được biết rõ tính cách quan trọng của tám ngôi mả thì có lẽ nào lão phu lại không hết lòng giúp đỡ.

    Vậy ngay từ ngày mai này, yêu cầu Đại nhân hướng dẩn lão đi thăm những ngôi mộ kia một lần nữa cho thật cẩn thận, để lão mới có thời giờ nhận xét một cách chính xác hơn.
    Sáng hôm sau, qua mấy tuần trà nước, vị hưu quan làng Báo Văn thân hành hướng dẩn thầy địa lý đi thăm các ngôi tổ mộ.


    Lũ trẻ mục đồng thấy quan Án hưu trí trịnh trọng trong chiếc áo gấm dài màu da đồng, chân mang văn hài thêu chỉ ngũ sắc, lộng lẫy đi sóng vai với một ông già, dáng điệu rất quê mùa, y phục rất thô lậu, thì kinh ngạc vô cùng, bỏ mặc cho trâu ăn cỏ ngoài đồng, nô nức rủ nhau chạy theo hai người tíu tít kêu gọi nhau vui mừng như được xem đám rước thần ở trong làng vậy.


    Chúng càng ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy hai người không noi theo con đường làng đi ra ngoài chợ, mà lại mang theo những bờ ruộng, đi ra xứ Cốt Đang ở cách xa cổng làng Báo Văn tới trên hai dặm, khu đất có an táng tám ngôi mộ của họ Nguyễn, cao gần như một cái gò lớn, chung quanh có một hàng rào cây khúc tần xanh om, chằng chịt những sợi giây tơ hồng vàng chói !


    Cả tám ngôi mả đều không xây đắp chi hoa mỹ, nằm song song thành một dãy dài theo hình chữ nhất, chiếm rải rác cả chiều dài của thửa ruộng cao không kém một chiếc gò !


    Điều đặc biệt, làm mọi người lưu ý hơn hết là cả tám ngôi mả, đều to cao, cỏ mọc xanh um, tươi tốt lạ thường, khác hẳn những mồ mả ở chung quanh thường xuyên bị chủ đất phát cỏ, đắp bờ mượn cớ xén cắt bớt ít nhiều những phía tiếp giáp khít ruộng đang trồng khoai hay cấy lúa cho rộng châu vi canh tác.


    Vừa hướng dẫn khách lạ đi coi khắp nơi ngoài cánh đồng, quan Án vừa giơ tay tính nhẩm từng đốt, rồi bất giác thở dài nét mặt đượm ve ưu tư, hoảng hốt nói to :

    - Mà Ât Mùi thì đúng là năm nay rồi lão trượng ạ !


    Vậy mà từ tháng giêng đến bây giờ tốn công tốn của đã khá nhiều, vẫn chưa tìm được nhà phong thủy chính tông nào, khả dỉ có đủ tài năng phúc lại những ngôi mả này, để theo đúng lời ghi chú trong gia phả, xê dịch lại cho họp với sự di chuyển của long mạch.


    Thầy địa lý nhìn quan Án Sát hỏi gặng lại :


    - Đại nhân định tìm nhà phong thủy như thế nào ? Xê dịch tổ mộ thì cứ xê dịch, hà tất còn phải phúc lại mả cho mất công vô ích.


    Vị hưu quan, lắc đầu đáp liền không cần nghĩ ngợi :


    - Lão trượng nói thế là sai rồi. Thời buổi này, nho đạo mỗi ngày một suy vi, các môn lý, số, phong thủy cũng hầu như bị mai một lần hồi. Đốt đuốc đi tìm những thầy địa lý chính tông, ít ra cũng phải mất hàng năm mới kiếm được một người tài năng am hiểu đến nơi đến chốn cách để mả, và chọn đất, còn đa số đều mờ mờ, mịt mịt, chưa cầm vững chắc cái tróc long, chưa biết phương pháp sử dụng la kinh, cũng vỗ ngực tự nhận mình giỏi địa lý !


    Bởi sự tìm kiếm nhân tài rất khó khăn như thế, nên lão mới bày ra cách phúc duyệt lại các ngôi tổ mộ, vừa để xét nghiệm khả năng của người ta, vừa muốn được hiểu rõ hiện trạng đích xác của các ngôi tổ mộ, vì nếu gặp kẻ mạo nhận danh nghĩa là nhà phong thủy chuyên môn, tất họ không sao biết rõ được phương hướng các bộ hài cốt nằm dưới lòng đất ?


    Do đấy, lão phu mới có thể loại trừ được họ một cách dễ dàng !


    Còn trái lại, nếu họ nói đúng được vị trí an táng, của từng bộ hài cốt, như nằm nghiêng nằm ngửa hay đầu gối lên đầu, chân đạp vào đâu, đúng như lời ghi chú rành mạch trong cuốn gia phả của dòng họ Nguyễn, thì đây mới thiệt là thầy địa lý chánh tông !


    Lão phu có thể tin tưởng vào tài năng của người ấy để nhờ xê dịch mộ phần.
     
  10. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    ĐỒ KHÔNG CÓ MẮT

    Ngừng lại một lát như để suy nghĩ thêm, quan Án Sát nói tiếp :


    - Lão phu không phải là thận trọng vô ích đâu ? Cả tương lai một dòng họ khá đông con cháu như dòng họ Nguyễn ở làng Báo Văn này, hết thảy đều trông cậy vào tám ngôi tổ mộ, mà theo sự truyền tụng, đã kết phát được tới trên một trăm năm rổi.


    Nay nhất đán, đang yên, đang lành, lại đem xê dịch đi, hay hơn trước thì chẳng sao, nếu rủi lại bị đứt long mạch, hay động trệ, nay tai này, mai họa khác, cất đầu lên không nổi, chẳng còn mong gì nở mày, nở mặt được với dân làng, thì hỏi ai phải chịu trách nhiệm, không những với bà con trong họ mà còn luôn cả với tổ tiên nơi chín suối nữa !


    Lão phu là ngành trưởng, phải gánh vác hậu quả nặng nề hơn hết của sự xê dịch di táng này !


    Nhiều lúc lão phu cảm thấy lo âu, sợ hải trước công việc phức tạp, khó khăn mà tổ tiên từng trối trăn lại, nên có ý muốn giữ nguyên tình trạng hiện thời, được đến đâu hay đến đó, chờ khi nào trong họ có triệu chứng suy sụp, lúc bấy giờ sẽ lo liệu cũng không muộn gì !


    Nhưng khốn nổi trong gia phả, các cụ đã đinh ninh ghi chú, đời nọ ký thác cho đời kia, dặn con cháu phải luôn luôn nhớ như in vào tâm tư, phế phủ là đến năm Ất Mùi, dù trong họ không xảy ra việc gì cũng phải nhờ thầy địa lý di tản cả tám ngôi tổ mộ, không được vì cớ gì trì hoãn hay trái lời trăn trối !


    Lão phu bình sanh tôn trọng lễ nghi, đạo đức, nên không thể nào dám cưỡng lời tổ tiên truyền lại !


    Tình cờ được gặp lão trượng, lại được lão trượng giảng dạy cho nghe sơ lược về môn phong thủy thần bí, khiến lão phu mừng rở vô cùng, tin tưởng mãnh liệt đó là trời xanh phù hộ, và tổ tiên họ Nguyễn khôn thiêng dung rủi cho lão trượng đến đây vừa đúng lúc, để giúp cho lão phu hoàn thành trọng trách đối với tổ tiên !


    Sau này con cháu họ Nguyễn giữ vững được nền nếp của Ông Cha, hẳn chẳng bao giờ dám quên ơn sâu hà hải của lão trượng !


    Thầy địa lý vừa thong thả dạo bước quanh khu ruộng cao, vừa chăm chú quan sát địa hình, địa thế khắp nơi, bỗng đứng khựng lại, ngơ ngác nhìn thẳng vào mấy ngôi mả nằm ở giữa ruộng, đoạn mở khăn gói lấy tróc long ra, thận trọng đặt xuống một mô đất cao nhất vùng, rồi bất giác vỗ đùi kêu lên một cách tức bực :


    - Hừ ! Đồ mù ! Không biết một tí gì đến môn phong thủy mà cũng đòi để mả cho người ta, làm thiệt thòi nặng cho các gia đình mộ chủ !


    Vị hưu quan kinh ngạc trước sự tức giận bất ngờ của khách lạ, hấp tấp hỏi vội :


    - Thưa... Có việc gì xảy ra, mà lão trượng phải nặng lời như vậy.


    Như được người "gãi đúng chỗ ngứa", nhà phong thủy dơ tay chỉ vào mấy ngôi mả nằm giữa ruộng, gàn giọng !


    - Đấy, Đại nhân coi kìa ! Ai từng nghiên cứu về môn địa lý, cũng đều nhận thấy ngay được nơi tụ tập tinh khí của thửa đất, hay nói cho rõ nghĩa hơn : nơi quy tụ long mạch của ngôi đất quý !

    Vậy mà người tìm đất, phụ trách về công việc phân kim, án hướng, lại lựa chọn chỗ quá cao kia, để an táng tám ngôi mả, thì quả là một chuyện lạ lùng ngoài sức tưởng tượng của những nhà địa lý chánh tông. Từ chỗ tám ngôi mả hiện thời đến nơi qui tụ long mạch, chỉ có chừng năm thước !


    Nhà phong thủy, năm xưa, chỉ cần cho đào huyệt ở thửa ruộng thấp, là có thể táng mả trúng long mạch, tạo được sự kết phát vinh hiển hơn, oanh liệt hơn diểm phúc mà họ Nguyễn đã được hưởng thụ từ trước tới bây giờ.


    Vị hưu quan tỏ ý hoài nghi :


    - Lão trượng dạy thế, lão phu cũng biết thế thôi. Nhưng lão phu tin rằng : tổ tiên dòng họ Nguyễn, đa số là những danh nho, khoa bảng xuất thân, thấu triệt tinh tế lẽ huyền vi của môn địa lý, một khi đã tin tưởng vào sự lưa chọn của nhà phong thủy nào đó, ủy thác cho người ta trông coi một lúc tới tám ngôi mả, có tính cách quyết định vận mạng, phúc trạch của hàng mấy người, trong dòng họ, thì có lẽ đâu lại sai lầm cho được ?


    Hơn thế, từ hơn một trăm năm nay, căn cứ theo lời ghi chú trong gia phả, đang còn lưu lại từ đường, do chính lão phu là chi trưởng gìn giữ, thì con cháu họ Nguyễn, ngay từ khi tám ngôi mả kia quán khí, đều phát tích, thi đậu, kế tiếp nhau làm quan, dù chẳng Tể Tướng, Trạng Nguyên, cũng nối đời Tiến sĩ, Cử Nhân, Tri Phủ, Án Sát...


    Thầy địa lý trừng mắt nhìn quan Án Sát, đoạn cười nhạt trả lời :


    - Đại nhân không tin ? Đó là quyền riêng của Đại Nhân ! Lão chẳng biết nói sao bây giờ ?

    Tuy nhiên, muốn cho Đại Nhân tin lời lão là xác thiệt, chứ chẳng phải là lời viễn vong, vu khoát thốt ra trong một lúc cao hứng nhất thời, lão sẽ cắm một cành cây khô héo, có thể nói là một cành cây đã chết hẳn hoi, xuống chỗ có long mạch, lão vừa chỉ cho Đại Nhân coi, rồi sau ba ngày, ba đêm, đại nhân sẽ biết rõ ràng sự thực.

    Nếu quả thực đó là nơi quy tụ long mạch, có đầy đủ khí thiêng nhật nguyệt, thì thời gian ba ngày, ba đêm, sẽ làm sống lại một cành cây khô héo, khiến cho cành khô đâm chồi, nẩy lá, tươi tốt mơn mởn, như đang được sống trên cây đại thụ, trồng vào nơi đất màu mở, phì nhiêu.


    Trái lại, nếu đúng long mạch đang quy tụ ở trên cao, nhằm chỗ an táng tám ngôi tổ mộ, thì cành khô sẽ vẫn khô héo cằn cổi như lúc mới cấm xuống đất, chẳng tạo được một chút sinh khí nào hết !


    Đến nước ấy, lão sẽ quăng bỏ tróc long, đập bể la kinh, để tự ý đi tìm nghề khác, chứ không còn mặt mũi nào, đóng vai thầy địa lý đi đâu.
     
  11. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    CÀNH CÂY KHÔ ĐÂM CHỒI NẨY LỘC

    Phóng thẳng luồng nhởn tuyến, vào giữa mặt vị hưu quan, nhà phong thủy gay gắt tiếp lời :


    - Ngay cả đến Đại Nhân, người được lão vô cùng kính trọng về tiết tháo, văn chương, lại tiếp đãi lão cực kỳ trọng hậu, ngay từ buổi đầu tiên, hội ngộ, lão cũng xin thề độc : cương quyết giả từ đại nhân, để đi âm thầm ở một nơi nào xa xôi hẻo lánh !


    Bao nhiêu tình nghĩa dang dở ngày nay, kiếp lai sanh chúng ta sẽ nối tiếp cho thỏa tình tri kỷ tương phùng !


    Quan Án Sát cảm động trước lời tâm huyết chí tình của khách lạ, vội dơ tay phác một cử chỉ ngăn chận, cất giọng trầm trầm như có vẻ nghẹn ngào, xúc cảm :


    Lão trượng bất tất phải bi quan thái quá ! Lão phu sở dỉ phải phân trần khúc triết về những sự kiện kỳ dị bao phủ quanh tám ngôi tổ mộ, chỉ là muốn có dịp trình bày một sự thực hiển nhiên : đó là sự kết phát từ khi an táng những hài cốt ấy đến bây giờ, căn cứ theo gia phả dòng họ lão phu chưa hề có một đời nào bị gián đoạn trong khoa danh hay hoạn lộ !

    Bảo rằng những ngôi mả ấy bị sai long mạch, thì sao lại kết phát được tới mức độ ấy, Lão phu e sự tính toán xem xét của lão trượng có một phần nào sai lầm chăng ?


    Thầy địa lý châu mày, lộ vẻ bất bình :


    - Bất tất phải tranh luận làm chi, vô ích ! Đại nhân nếu chưa hoàn toàn tin tưởng những lời lão vừa trình bày, thâm tâm còn một phần nào hoài nghi, thắc mắc, thì lão xin hiến thêm một phương pháp thử thách nữa, tiến hành cùng một lượt với việc cắm cành cây khô xuống nơi hiện đang quy tụ long mạch do lão mới tìm được.


    Đó là cách đem một thân cây hết nhựa, cắm xuống cạnh ngôi tổ mộ, nằm chính giữa khu ruộng này, thử xem sau 3 ngày, nó có tươi tốt, khôi phục được nhựa sống như cành cây trồng ở nơi lão chỉ định không ?


    Vị hưu quan vui vẻ gật đầu tán thành ý kiến ấy, rồi nhanh nhẹn tiến thẳng đến bụi khúc tần trước mặt, dơ tay bẻ luôn hai cành ổi lớn, tuốt bẻ hết mầm, lá đi, đem về chỗ cũ, đưa cho nhà phong thủy xét nghiệm.


    Hai người hì hục một lúc lâu, vẫn không làm cách nào trồng được hai cành cây, vì ngoài một chiếc khăn gói nhỏ trên vai thầy địa lý, cả hai người đều không ai mang theo một thứ dụng cụ gì, khả dỉ đào được hai hố sâu để trồng cây, như lời đề nghị của nhà phong thủy là … Trồng hai cành cây xuống hai nơi xa cách nhau không quá ba sải tay : một cành ở giữa địa khu an táng tám ngôi tổ mộ nằm trên gò cao, một cành ở dưới ruộng thấp nơi chánh huyệt mà thầy địa lý vừa khám phá được.


    Vừa dừng gót chân, nện chặt những tảng đất ẩm ướt gần đó, để cho hai cành cây tựa vào, nhà phong thủy vừa cất giọng gay gắt mỉa mai :


    - Làm thầy thiên hạ kể ra cũng chẳng có chi là khó khăn cho nó lắm !


    Chỉ cần chuẩn bị đủ lệ bộ : cố mua sắm cho kỳ được mấy cái tróc long, la kinh và vài ba cuốn sách, đem xếp gọn tất cả vào một chiếc khăn gói là đã có thể nghiểm nhiên vỗ ngực : tự xưng mình là địa lý chánh tông, tìm đất để mả cho mọi người một cách rất tự nhiên, làm như mình là con cháu những vị thánh sư địa lý, được thừa hưởng cả một kho tàng vô giá về môn phong thủy thần kỳ !


    Ngừng lại một lát lão lui hẳn về phía sau ba bước, nghiêng nghiêng mái đầu bạc phơ, nhìn sững cành cây, đoạn quơ tay, như muốn diển tả sự bất bình !


    - Hừ, Thật là quái dị long mạch từ các phía đổ dồn cả về đây hết sức rõ ràng như thế này rồi mà ông " thầy gà mờ " nào đó lại còn nhận định sai lầm, đem tất cả tám ngôi tổ mộ táng hết ở phía trên, thì liệu có đáng tiếc không ở trời !


    Nhưng sự sai lầm ấy, kể ra cũng còn tạm tha thứ được phần nào, chứ cái lối xếp đặt vị trí mộ phần, theo hình chữ nhất, thì... quả thiệt là bất khả thứ dã !


    Chẳng cần phải bỏ công phu nghiên cứu, học hành về môn địa lý mới biết rõ, mà ngay đến những người chẳng bao giờ cầm đến cuốn sách, giảng dạy về các kiểu đất, với cách dò tìm long mạch, chánh huyệt, chỉ khẻ liếc qua địa hình, địa thế khu vực này, cũng nhận thấy ngay được tính cách cẩu thả của ông thầy địa lý mà chẳng hề biết gì về môn địa lý !


    Chính nhờ đấy, lão mới nẩy ra ý định tìm tới quý phủ để bàn luận với đại nhân hầu kiếm phương pháp cứu vản cho tám ngôi tổ mộ đắc địa hơn, vì kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư đâu có phải là một kiểu đất tầm thường, có thể tìm thấy được ở bất cứ chỗ nào, mà thực ra, nó có nhiều đặc điểm quý báu lạ lùng, dù không kết phát được tới đế vương, công hầu, khanh tướng song cũng làm đến Bố Chánh, Án Sát, đời này qua đời nọ, kéo dài hàng vài trăm năm mới bị suy giảm lần hồi, nếu người để mả biết rành về khoa phong thủy.


    Mới trông sơ qua hình thế khu gò Cốt Đang với vị trí tám ngôi mả, lão cũng tưởng nó chỉ phạm vào chút khuyết điểm tầm thường không đáng kể mà nếu có ảnh hưởng đến sự kết phát thì cũng chẳng gây được tai hoạ chi nặng nề, khả dỉ làm tổn thương cho con cháu dòng họ Nguyễn sau này.


    Nhưng quả thực là một việc quá bất ngờ, khi lão có cái may mắn được theo hẳn Đại Nhân hôm nay, qua vùng này, vì nhờ đó lão mới có cơ hội thuận tiện quan sát kỹ lưỡng, toàn thể khu cánh đồng xứ Cốt Đang, để nhận chân ra sự sai lệch, không những về vị trí an táng, mà còn luôn cả đến long mạch nữa !


    Mà nói đến long mạch, thì Đại Nhân hẳn cũng hiểu rằng : đó là vấn đề then chốt, một yếu điểm cực kỳ của môn địa lý !


    Bất cứ ai, một khi đã am hiểu khoa phong thủy, cũng đều phải công nhận một sự thật hiển nhiên : tay long, tay hổ, minh đường, án, trầm v.v...tất cả các điều kiện cần thiết của một mộ phần đắc địa, dù cho có đủ hết cả, mà chỉ sai lệch chánh huyệt, hài cốt không táng được đúng vào nơi quy tụ long mạch, thì nhất định ngôi mả ấy chẳng còn mong gì kết phát được nữa !


    Trái lại, có khi còn gây thêm sự động trệ, nguy hại cho gia đình mộ chủ là khác !


    Hậu quả ấy, chính là do âm công phúc trạch của tiền nhân, cũng như của chính bản thân mộ chủ, hãy còn đơn bạc quá, chưa đáng được hưởng ân huệ của Phật Trời, nên Tạo Hóa an bài, mới xui khiến cho mộ phần táng không nhằm chánh huyệt !


    Tính cách quan trọng của sự dò tìm chánh huyệt, đã làm cho lão nhớ đến công trình học tập năm xưa về môn địa lý : Suốt ngày lão phải dò xét, tìm kiếm cho được những đồng tiền điếu, dấu kín dưới các mâm gạo, mà sư phụ lão, đã dàn xếp, bố trí theo hình thể núi sông, gò đống, ruộng nương để giảng dạy học trò.


    Khi nào tìm thấy được đủ cả trăm lần, không sai lệch một lần nào, dù chỉ cách nhau một đường tơ, một sợi tóc, lúc bấy giờ mới được kể là thành tài, có đủ điều kiện đi để mả cho thiên hạ !


    Trong những ngày đầu, thấy địa hình, địa thế, do sư phụ lão bày ra trên mâm gạo, không có gì khó khăn lắm, lão cũng như các bạn đồng môn hết thảy đều coi thường, nhiều khi đùa nghịch bịt mắt lại, cũng kiếm được ngay tức khắc đồng tiền điểm dấu tại chánh huyệt !


    Nhưng rồi, địa thế, địa hình, theo đà tiến bộ của sự học hỏi, cứ mỗi ngày một phức tạp thêm, bí hiểm thêm, đòi hỏi lão cùng các bạn đồng môn phải khổ công nghiên cứu, đến quên ăn, quên ngũ mỗi khi gặp phải những kiểu đất lạ lùng, hóc hiểm.


    Kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư này, cũng thuộc vào loại bí hiểm mà lão vừa trình bày, nên có lẽ vì thế, thầy địa lý nào đó, năm xưa, mới mắc phải những lổi lầm đáng tiếc !


    Tuy nhiên, ở trên cỏi đời, nếu đã có bệnh trọng thì lẽ tất nhiên cũng phải có thuốc hay !


    Đây là công lệ của Tạo Hóa !


    Người ta chỉ lo không biết rõ căn bệnh, không biết đích xác bệnh chứng phát ra từ đâu, chứ nếu đã tìm được rành mạch bệnh căn, thì nhất định, sự điều trị không còn phải là chuyện viển vong nan trị nữa !


    Tám ngôi mả của dòng họ Nguyễn cũng vậy !


    Nhà phong thủy ngày xưa đã tìm được đúng kiểu đất quý, xứng đáng là thầy địa lý chính tông, nhưng tiếc thay, lại táng sai chánh huyệt, khiến cho long mạch chảy dồn cả xuống phía dưới .


    Tám bộ hài cốt chôn ở khu ruộng trên cao, vì vậy, chẳng có ngôi mả nào được long mạch tưới vào.


    Sự kết phát nếu có, hẳn chỉ là nhờ những khí thiêng tỏa ra, tạo ảnh hưởng ít nhiều cho cho các mộ phần kế cận !


    Trước những lý luận đanh thép, và lời phán đoán sâu sắc, minh bạch của khách lạ, vị hưu quan cảm thấy kính phục nhà phong thủy một cách chân thành, coi lão như một nhân vật phi thường, thông kim, bác cổ !


    Quan Án Sát gạt bỏ tất cả những ý nghĩ không tốt đẹp đối với thầy địa lý, hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của khách lạ để xoay sở, thay đổi một tình trạng có thể gọi được là vô cùng trở ngại cho con cháu họ Nguyễn ở làng Báo Văn.


    Nghĩ thế, rồi vị hưu quan không chút ngần ngại gì , hướng thẳng vào nhà phong thủy mà chấp tay kính cẩn nói rằng :


    - Được lão trượng giảng dạy cho nghe những lởi vàng ngọc, lão phu như kẻ tối tăm, được vén mây, thấy ánh mặt trời !


    Càng nghĩ, lão phu lại càng thầm cảm ân huệ của Phật Tròi, đã dung rủi cho lão trượng dời gót ngọc đến đây, ban phúc trạch cho lão phu và luôn cả con cháu dòng họ Nguyễn ở làng Báo Văn !


    Lão phu chẳng còn biết dùng lời lẻ gì để chứng tỏ lòng tri ân chân thành của lão phu đối với một bậc cao hiền có chân tài thực học như lão trượng !


    Vậy chỉ xin kính cẩn nhờ lão trượng mở lượng hải hà, thay đổi lại chiều hướng cho ngôi tổ mộ của lão phu được yên vị như như lời tiền nhân ghi chú trong gia phả, thì ơn ấy, lão phu thề chẳng bao giờ dám lãng quên !


    Hai người nhìn nhau, cùng mỉm cười, rồi bất giác nắm chặt lấy tay nhau, xiết mạnh, như muốn truyền vào cơ thể của nhau, niềm thông cảm sâu sa giữa đôi bạn già, dù chỉ mới gặp nhau trong buổi sơ giao, nhưng lại biết trọng nhau vì nết, quý nhau về tài, qua những thử thách gay go phức tạp !


    Trồng được hai cành cây khô xuống đất ở hai địa điểm khác nhau, nhưng vẫn không cách xa nhau tới ba sải tay, tuy không phải là việc khó nhưng tuổi già sức yếu, hai người đành rủ nhau, men theo đường cũ, trở về trong làng để gọi thêm một tên gia nhân trong nhà quan Án ra giúp sức.
     
  12. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    NGƯỜI TÌM RA KIỂU ĐẤT PHUNG HOÀNG HÀM THƯ QUẢ NHIÊN BỊ MÙ THIỆT

    Nội bọn trở lại cánh đồng có chôn tám ngôi mã thì mặt trời đã đứng bóng.


    Tám gia nhân lực lưỡng, không hề phí một chút giây nào vô ích, ngay khi được nhà phong thủy chỉ cho biết chỗ phải đào để trồng hai cành cây khô, vội bắt tay ngay vào công việc một cách rất mải mê, chăm chú.


    Mới trông toàn thể cánh đồng, ai cũng tưởng đất ở nơi này cũng không đến nổi khó đào cho lắm, nhưng chỉ nhìn qua những nét nhăn nhó, in hằn trên khuôn mặt đen sạm của tên gia nhân từ khi y vừa đào hết được lớp đất thứ nhất, sâu chưa tới một thép mai, những người đứng gần đây, cũng đều biết là y đang gặp phải loại đất cứng rắn, dù chẳng bền bỉ như đá, gạch, song cũng tốn nhiều công phu mới có thể đào sâu được gần tới long mạch, như lời căn dặn của thầy địa lý. Đào xong được chiếc hố sâu thứ nhất ở trên gò cao để chôn cành cây khô, thử xem khu vực này có đúng thiệt là linh địa không thì đã sang giờ Mùi khá lâu.


    Tên gia nhân lại cắm cúi đào thêm hố thứ hai ở dưới ruộng thấp, nơi thầy địa lý cả quyết là đang tập trung tất cả linh khí và long mạch của kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư.


    Mặt đất chỗ này mới đào có vẻ như dễ dàng lắm, vì tên gia nhân chỉ cần ấn nhẹ luỡi mai xuống cũng đã bắt sang bên cạnh được một tảng đất khá to.


    Nhưng càng đào sâu xuống phía dưới, đất lại càng như khô quánh, rắn chắc lại, đến nổi người lực điền có hai cánh tay gân guốc nổi lên cuồn cuộn như thừng chân, mà cũng phải mím môi, nín thở, dồn hết cả sức lực vào cán mai, mới đào được những miếng đất nhỏ không bằng nửa viên gạch chỉ !


    Vị hưu quan và thầy địa lý đứng gần đây, hình như thông cảm nổi khó khăn vất vả của tên gia nhân đã luôn miệng khuyến khích y, và thay đổi nhau, kể lại những chuyện cổ tích ân đền oán trả, ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ cho y nghe, hầu y tạm lãng quên sự khổ cực, để mong hoàn thành cho chóng xong công việc, vì thực ra, hai người mải mê đi quan sát kiểu đất suốt từ sáng, cũng đã cảm thấy mỏi mệt lắm rồi !


    Đúng lúc hai người đang uể oải vươn vai ngáp dài tỏ vẻ mệt nhọc sau gần nửa ngày đi đứng vất vả thì tên gia nhân chợt kêu to một cách cực kỳ sửng sốt :


    - Ồ này lạ ! Có cái gì đây này các Cụ ơi !


    Tiếng kêu giật giọng của người lực điền đã khiến thầy địa lý giật mình, cặp mắt đang nặng trĩu như có vẻ buồn ngũ ghê ghớm của lão chợt mở to thao láo hẳn ra, rồi không cần chờ coi thái độ của quan Án Sát hưu trí, lảo nhảy ngay đến bên hố sâu hấp tấp hỏi vội :


    - Có chi lạ mà chú em la hoảng thế hử ?


    Tên gia nhân vẩn chăm chú thận trọng đưa nhẹ lưỡi mai đào sâu thêm chút nữa, không buồn ngẫng đầu lên, mà chỉ trả lời cộc lốc :


    - Không biết là cái gì ? Hình như là viên đá thì phải...


    Vị hưu quan cũng đã theo kịp bạn, đứng sát bên mình thầy địa lý, rồi cả hai cùng nghiêng đầu, phóng một lượt bốn luồng nhởn tuyến, theo đà chuyển động của lưỡi mai sắc bén sáng ngời. Anh lực điền bỗng quăng chiếc mai lên mặt đất, cúi rạp người xuống, lấy tay bới những mảnh đất vụn, gạt ra chung quanh, để lộ ra một màu trắng đục, khác hẳn màu đất thịt pha trộn cát sỏi ở phía trên.


    Hai ông già bất giác cùng reo lên một lượt.


    - Đúng là có tảng đá thật rồi.


    Trong lúc tên gia nhân phủi tay đứng thẳng dậy, nhìn hai người như có ý thăm hỏi anh ta phải làm gì bây giờ, thì thầy địa lý đã dõng giạc nói to :


    - Cứ trông qua tình hình, tảng đá này chắc cũng khá to, chứ chẳng phải tầm thường đâu ? ta bắt buộc phải đào lên cho kỳ được để bỏ đi, thì mới có thể trồng được cành cây vào đúng nơi có long mạch quy tụ.


    Vậy chú em hãy chịu khó đào rộng ra chung quanh, theo diện tích tảng đá xem sao ?


    Người lực điền không nói gì, lẳng lặng quơ ngay lấy cái mai, cặm cụi làm theo lời sai khiến của nhà phong thủy.


    Bề mặt phía trên tảng đá không to lắm như sự tiên đoán của thầy địa lý, vì tên gia nhân chỉ đào rộng ra bốn phía, bằng diện tích một cái thúng lớn, đã thấy lộ ra đầu một tấm bia đá.


    Hắn lại tiếp tục đào sâu xuống, bới gạt đất sang hai bên để moi hẳn tấm bia lên.


    Hai Ông già thấy dưới lòng đất khu Phụng Hoàng Hàm Thư có tấm bia đá, biết trước là sẽ có những chuyện bất ngờ kỳ dị lạ lùng sắp xảy ra, nên cũng mất hết vẻ mệt nhọc, uể oải lúc trước, nhìn chòng chọc cả xuống hố sâu, theo dõi từng tảng đất của người lực điền sắn ra.


    Đào sâu thêm chừng ngót một thước nữa (thước ta) thì tên gia nhân có vẻ thấm mệt, mồ hôi chảy giòng giòng trên hai gò má, chiếc áo cánh nâu dày cộm ướt sủng như vừa ngâm dưới nước đem lên, anh ta thơ phì phò, dồn dập in hệt người vừa bắt buộc phải nín hơi, để vận dụng hết sức lực, chạy thi một quảng đường dài !


    Tên gia nhân chống cán mai, đứng lặng người nhìn sửng tấm bia đá như muốn ước lượng xem bề sâu của nó còn độ bao nhiêu nửa, rồi thẩn thờ đưa cặp mắt ngao ngán nhìn trộm chủ nhân.


    Vị hưu quan bất chợt bắt gặp cái nhìn thất vọng, mệt mỏi ấy của người lực điền, hiểu ngay tâm trạng anh ta, liền nói với nhà phong thủy :


    - Cứ xem qua tấm bia, lão phu tin chắc rằng nó còn được chôn sâu hơn nhiều nữa ! Mà tên gia nhân thì lại có vẻ mệt mỏi lắm rồi ! Vì vậy, lão phu thiết tưởng chúng ta nên tạm hoãn việc làm trong chốc lát, để cho nó về nhà, gọi thêm vài người nữa ra giúp sức.


    Như thế, có lẽ vừa chóng xong, lại vừa đở cho tên gia nhân được một phần nào sự nhọc nhằn vất vả.


    Tuy nóng ruột, muốn biết ngay xem tấm bia đá có những chữ chi kỳ lạ, nhưng trước những lời lẽ chí lý, rất xác đáng của vị hưu quan, nhà phong thủy tự xét, không còn có một giải pháp nào khác, đành phải miễn cưỡng gật đầu.


    Quan Án Sát liền vỗ vai người lục điền, giọng thân mật :


    - Mi khá về trong nhà, kêu ra đây hai người nữa, với đủ các thứ thuổng, cuốc, nghe ! Mau lên, kẽo mặt trời sắp xế bóng rồi đấy !


    Tên gia nhân, dạ một tiếng rồi lanh lẹ nhảy khỏi miệng hố sâu, vừa đi vừa rủ những lớp đất cát bám đầy bộ quần áo nâu dày cộm !

    Thầy địa lý kín đáo, liếc trông vị hưu quan, đang đi đi, lại lại chung quanh chiếc hố đào dở, mắt không rời khỏi tảng đá nằm im lìm ở giữa đống đất ngỗn ngang.


    Lão hiểu rõ hơn ai hết, sự nóng lòng, sốt ruột của quan Án Sát hưu trí !


    Vì mới mấy giờ trước đây, không nghe lão tỏ ý lo ngại về nạn đất rắn, không thể nào, chỉ dùng tay không mà trồng nổi được hai cành cây xuống tận nơi có long mạch đang quy tụ, vị hưu quan cũng nhất định không chịu nghe lời, cứ cương quyết đòi trồng ngay cho kỳ được.


    Nhưng loay hoay, soay sở mãi, hai cành khô vẫn nghiêng ngã muốn đè rạp cả về phía trước, khiến ông ta cuống quít, phải vội vàng dùng gót chân, nện mạnh chung quanh gốc cây khô, mong nó có thể đứng vững được.


    Nhưng chỉ trong chớp mắt, nó lại lảo đảo theo chiều những cơn gió giật và cuối cùng bật tung hẳn lên, kèm theo ít mảnh đất vụn !
     
  13. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    Thấy đã tốn công: Ba lần trồng xuống mà cả ba lần đều bật tung cả lên, vị hưu quan mới chịu trở về gọi người nhà ra giúp sức.


    Vậy mà có ai ngờ đâu, đất nơi đây chẳng những đã pha cát sỏi, rắn chắc như gạch ngói, mà mới đào hố tới nửa chừng, lại còn gặp phải một tảng đá khá to ngăn chận, khiến cho một tên gia nhân lực lưỡng, vẫn không đủ sức làm được trọn vẹn công việc : đào tấm bia đem lên cho mọi người xem, để lấy chỗ trồng cành cây khô, thử coi chỗ này có long mạch thật không, hay đó chỉ là lời ức đoán vu vơ của nhà phong thủy ?


    Phải cho tên gia nhân chạy về kêu thêm hai hay ba người khỏe mạnh nữa đến giúp sức, thầy địa lý hiểu rõ nỗi khổ tâm của vị hưu quan trong sự đợi chờ bất đắc dĩ này lắm, vì mộ chủ rất băn khoăn về những việc xãy ra, nhất là muốn biết ngay tức khắc xem tấm bia kỳ lạ kia có viết những chữ gì ? Liệu có liên can chi tới sự kết phát của dòng họ Nguyễn hay không ?


    Quan Án Sát hưu trí đi quanh chiếc hố đào dỡ không biết đã đến mấy chục vòng rồi, mà trí óc hình như vẫn còn trĩu nặng niềm ưu tư, phiền muộn, nên ngao ngán, tiến đến bên cạnh nhà phong thủy, hỏi vội, sau một tiếng thở dài não nuột :


    - Lão trượng tính sao về tấm bia quái dị kia ? sao nó lại nằm trong khu vực an táng mộ phần họ Nguyễn ?
    Liệu nó có dính líu chi đến kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư không ? Do ai khắc bia với chôn bia hở lão trượng ?


    Trước những câu hỏi dồn dập, đượm vẻ lo âu, băn khoăn đến tột độ của vị hưu quan, nhà phong thủy như cảm thấy ái ngại, rồi bất giác, nắm chăt lấy bàn tay khẳng khiu, nóng hỏi như bàn tay một người đang lên cơn sốt trầm trọng mà an ủi rằng :


    - Đại nhân bất tất phải băng khoăng; thắc mắc làm chi cho hao tổn tinh thần. Bất cứ việc gì, dù lớn nhỏ tầm thường hay quan trọng đến đâu, cũng đều do sự an bài của Tạo hóa, thu gọn trong luật nhân quả của Phật Trời !


    Sức người dù mạnh thế nào, cũng không sao cưỡng lại được ?


    Việc phải đến, sẽ đến ! Người hiền lương có bao giờ gặp phải tai ương đâu ? Dòng họ Nguyễn, từ bao đời nay, được nối tiếp hiển vinh, dù là bằng cớ hiển nhiên do âm công tích thiện của các Cụ nhà ta ngày xưa cấu tạo nên !


    Đại nhân có thể vững tin vào đấy, mà trau dồi tô điểm thêm cho âm đức được cao dày hơn nữa thì lo gì con cháu không được nối đời hưởng thụ giàu sang !


    Quan Án Sát hưu trí, tươi nét mặt hớn hở tạ rằng :


    - Đội ơn lão trượng chỉ dạy, lão phu như người đang đi trong đêm tối, được vén mày trong thây thái dương ! Nhờ có những lời vàng ngọc ấy, từ nay lão phu có thể vui sống theo số mạng, lấy việc tu thâu, tích đức làm phương châm duy nhất và lẽ sống tối thượng ở đời, hy vọng con cháu sau này, nở mày, nở mặt được với thiên hạ !


    Hai người còn đang mải mê đàm đạo, thì từ xa, ba người lực điền đã vác cuốc, vác thuổng lần theo con đường đất gồ ghề ra khỏi cổng làng rồi men bờ ruộng, lầm lủi đi tới.


    Ra đến nơi, mấy chú gia nhân, không chịu bỏ phí một giây phút nào bắt tay ngay vào công việc, phân công nhau kẽ đào đất người xúc đất lên miệng hố.


    Chỉ chừng đầu giờ Thân, toàn thể tấm bia đá phơi hẳn mình dưới ánh hoàng hôn êm dịu.


    Nhưng ba người lực điền bỗng cùng một lúc kêu lên hoãng hốt :

    - Ô hay, Sao lại thế này ? Không phải chỉ có một tấm bia mà thôi đâu ? Hình như còn có cả một tảng đá lớn nữa, nằm ngang ở dưới đáy này các Cụ ạ !


    Hai ông già cùng nhảy vội xuống hố, cúi rạp mình quan sát, thì thấy rõ ràng tấm bia, bề cao độ thước rưỡi (ta), bề ngang chừng một thước, được đặt dựng đứng trên một phiến đá to hơn nhiều.


    Chân bia được lồng hẳn vào phiến đá lớn, bằng một lỗ đục vừa vặn, như người đóng mộng kẹp vào, mà đất cát, qua năm tháng thời gian, đã nêm chặt lại, vững vàng, kiên cố còn hơn gắn bằng các chất vôi cát pha trộn với mật, mà các cụ ngày xưa thường dùng xây cất nhà cửa, bể đựng nước v.v...


    Mấy chú lực điền xúm nhau lại, mím môi nín thở cùng vận dụng toàn lực cố lay tấm bia, định nhắc bổng hẳn lên trên mặt đất, nhưng vô ích, tấm bia vẫn đứng trơ không nhúc nhíc, hàn gắn liền với khối đá nằm ngang, toàn thể chỉ là một phiến, được chia ra làm mấy bộ phận khác nhau.


    Với dáng điệu bồn chồn khắc khoải của một người nóng nảy, vị hưu quan không cần câu nệ, giữ gìn phong độ oai nghiêm, bệ vệ lúc thường nhật, ngồi xổm luôn dưới hố sâu, lấy tay thoa đi, thoa lại nhiều lần lên mặt tấm bia, cố ý muốn đọc ngay những dòng chữ chi chít, ghi trên, xem người chôn bia viết những gì, có dụng ý gì mà lại chịu tốn công, chôn tấm bia một cách cực kỳ bí mật như thế ?


    Song mặc dầu đã lau chùi rất kỹ lưỡng, hai bàn tay gầy đét nhăn nheo, chỉ còn trơ da với xương của quan Án Sát hưu trí, lại bị đỏ ửng, sưng phồng lên nhiều chỗ vì bị cọ sát mạnh trên một vật cực kỳ cứng rắn, vị hưu quan vẫn không sao đọc được chữ nào, ví ánh sáng buổi hoàng hôn dưới hố sâu, không đủ soi rõ những hàng chữ đục trên đá, mà hầu hết những nét ngang dọc, chấm phảy đều bị bùn đất che lấp, sờ lên chỉ thấy nhẳn lỳ và mát rượi, cơ hồ như một tấm ván mới được bào gọt rất tinh vi kỹ lưỡng !


    Đứng vụt thẳng người lên, quan Án Sát lắc đầu, nói qua giọng tức bực :


    - Không đọc nổi chữ nào hết ! bây giờ bọn mình phải ráng sức, đào rộng và sâu thêm chút nữa đi ! Mau tay lên kẽo không kịp đó !


    Ba chú lực điền, thấy chủ cau có, cũng có ý sợ hải, vội hè nhau tiếp tục làm việc.


    Với tất cả sức cố gắng, bọn gia nhân cũng hăm hở, kẻ đào, người xúc, chẳng chút nề hà, quản ngại, nên chỉ một lát sau, toàn thể tảng đá đã lộ hẳn ra.


    Thì ra đó là một con rùa khá lớn tạc bằng một phiến vân thạch tuyệt đẹp, mà trên mai rùa, có đục một lổ thủng, vừa vặn đủ chỗ để đặt tấm bia.


    Phải tốn nhiều công phu, mãi tới gần tối, sáu người lực điền mới đem được "con rùa đội tấm bia đá " lên khỏi hố sâu, để sau khi lấy nước lau chùi thật sạch sẽ kỹ lưỡng, quan Án Sát và thầy địa lý mới sai gia nhân đốt đuốc lên, để cùng đọc những hàng chữ viết theo đủ các kiểu : chân, thảo, triện, lộ, nét bút tung hoành như rồng bay, phượng múa !


    Dưới ánh mấy bó đuốc làm bằng nhựa thông, bốc cháy ngùn ngụt, soi sang cả một vùng đồng ruộng, gò đống chập trùng, thầy địa lý cất cao giọng đọc :


    " Ngũ bách niên chi tiền , mạch tại thượng "

    " Ngũ bách niên chi hậu, mạch tại hạ "

    " Vị thùy vô mục, quả vô mục dả "


    Phía dưới có mấy hàng chữ nhỏ :


    " Dương Đức nguyên niên"

    " Thanh Lã bi ký ".
     
  14. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    Đọc xong mấy hàng chữ trên bia, quan Án Sát hưu trí mỉm cười, liếc mắt nhìn trộm thầy địa lý.

    Nhưng nhà phong thủy, ngay từ khi mới được đọc hết mấy hàng chữ lớn, đã đỏ bừng mặt mày, mồ hôi ướt đẩm trán mặc dầu gió đêm ở cánh đồng mông mênh hiu quạnh, thổi tới ào ào lạnh buốt, làm tê dại cả thịt da những thanh niên cường tráng !


    Lão lẩm bẩm :


    - Hừ ! Lạ thật ! Thế này là nghĩa lý gì ? Chẳng lẽ cụ Thanh Lã từ mấy trăm năm trước, lại có thể biết được đích xác là long mạch kiểu đất Phụng Hoàng hàm Thư bắt đầu từ ngày này, tháng này, năm này, lại di chuyển từ trên cánh đồng cao quy tụ xuống cả dưới ruộng thấp sao ?

    Thật là khó hiểu !


    Nhà phong thủy cứ lầm bầm đọc đi, đọc lại mãi mấy hàng chữ trên tấm bia, trí óc hoang mang, vấn vương trăm ngàn cau hỏi, cơ hồ lãng quên cả những người đứng chung quanh.


    Cho mãi đến lúc quan Án Sát lên tiếng hỏi, lão mới gật mình, bâng khuâng như đang chìm đắm trong một giấc mơ quái dị.


    Lão trượng nghĩ sao về tấm bia này ? Chẳng lẽ cụ Thanh Lã, từ mấy trăm năm trước, đã tiên đoán được sự di chuyển long mạch, từ trên cao xuống dưới thấp sao ?


    _ Thầy địa lý ngơ ngác nhìn bạn đáp bằng giọng cáu kỉnh, tức bực :


    - Thì bằng cớ hiển nhiên đấy rồi, Đại nhân còn nghi ngờ chi nữa ! Cụ Thanh Lã năm xưa, nếu không biết rõ ràng thế vận chuyển của long mạch, thì sao cụ lại bí mật chôn tấm bia này, để gián tiếp báo cho người đời biết rằng : từ mấy trăm năm trước cũng đã có một vị thánh sư địa lý, quán triệt địa lý của luật âm dương, thông suốt được sư hưng vong, thịnh suy, bỉ thái của các dòng họ...


    Đoạn thở dài não nuột, nhà phong thủy chép miệng, vừa lắc đầu, vừa ngao ngán nói tiếp :


    - Lão nghĩ lại mà thấy hổ thẹn vô cùng ! Mình tài học vốn không bằng ai, sự hiểu biết lại cũng chỉ thu hẹp trong phạm vi mấy cuốn sách : chi hồ giả giả, cũ rích, vậy mà trong lúc bồng bột sôi nổi, lại dám lớn tiếng chỉ trích, chê bai cả cổ nhân, tài năng, đức độ, xứng đáng là bậc thầy của mình, thì quả thiệt là mình ngu dốt lạ lùng, nếu không phải là đứa ngông nghênh thì cũng chẳng khỏi mang tiếng cuồng ngôn, loạn ngữ, làm trò cười cho người thức giả !


    Rồi, vò đầu, bứt tai, mắt môi đỏ gay như người say rượu, thầy địa lý lầm bầm như chỉ nuốn nói riêng với chính mình :


    - Hừ ! thiệt không còn trời đất nào ?


    Mình ngốc nghếch đã chẳng tự biết thân, lại dám công khai mở miệng phê bình người tìm được kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư là đồ mù, đồ hữu nhãn vô châu, thì hỏi còn gì điên rồ hơn nữa không ?


    Như chợt nhớ tới một điều gì quan trọng, thầy địa lý vội cúi sát đầu gần chạm mặt tấm bia đá, hai ba lầ giụi mắt chăm chú, đọc đi, đọc lại câu cuối cùng :


    "... Vị thùy vô mục, quả vô mục dã " Rồi lại lẩm bẩm tự hỏi :


    - Thế là nghĩa thế nào ? Người viết văn bia có dụng ý gì, khi trách thiên hạ bảo mình mù rồi lại chính tự nhận mình là... không có mắt thiệt ?


    Sao lại có chuyện rắc rối kỳ dị như vậy ? Khó hiểu quá trời đất ơi !


    Thấy người bạn già đột nhiên đổi hẳn thái độ, đang hiền hòa vui vẻ, bỗng biến thành buồn phiền, ủ rủ, hết nói lẩm bẩm một mình, lại đến kêu trời, kêu đất, giọng điệu cực kỳ chán nản, thì kinh ngạc, nhìn sửng nhà phong thủy với nét mặt lo âu, sợ hải, rụt rè, mãi mới dám đặt nhe bàn tay khẳng khiu của mình lên trên vai bạn, dịu dàng cất tiếng :


    - Lão trượng có điều chi bất như ý, mà thần sắc lại vụt biến đổi nhanh chóng dị thường như thế ? Vào cở tuổi chúng mình mà lo buồn thái quá lão trượng há không sợ hao tổn tinh thần sao ?


    Thầy địa lý có vẻ xúc động trước sự săn sóc chu đáo của bạn cũng vội đưa bàn tay run run xiết chặt lấy cánh tay của vị hưu quan, như muốn biểu lộ niềm thâm cảm sâu sa, rồi mới chậm rải trả lời :


    - Lão không buồn phiền sao được khi nhớ tới thái độ ngạo mạn, và lời nói hổn xược của mình hôm trước trong lúc đại nhân đưa lão đi phúc lại mấy ngôi tổ mộ ở cánh đồng xứ Cốt Đang ?


    Đem rìu múa rối ở trước cửa Lổ Ban, lão đã làm một việc rất vô ý thức, mà nếu lọt tai các bạn đồng nghiệp, lão tránh đâu cho khỏi mang tiếng là người thiển cận ?


    Lão không còn biết làm cách nào, để có thể tạ tội được với cổ nhân ?


    Mà nào đã hết đâu ? Mấy câu đầu khắc trên bia đá, nói về sự chuyển dịch của long mạch : năm trăm trước long mạch quy tụ ở trên cao, còn năm trăm sau, long mạch lại quay chiều, quy tụ ở dưới thấp, thì ý nghĩa đã rõ ràng lắm rồi !


    Chẳng cứ chúng ta, mà có thể nói là bất cứ ai ai, một khi đã học hết cuốn Tam Tự Kinh, cũng đều hiểu được rành mạch ý nghĩa của văn bia. Nhưng còn câu nói cuối cùng thì sao ?


    Đại nhân thử đọc kỹ lại một lần nữa, rồi cho lão phu biết qua tôn ý ?


    Vị hưu quan không nói gì, cẩn thận đọc từng chữ, như cố tình nghiền ngẩm toàn thể bản văn, muốn tìm một ý nghĩa xác thực về câu cuối cùng, xem nó có liên quan gì đến khu đất quý có táng tám ngôi tổ mộ của họ Nguyễn ở làng Báo Văn không ?


    Nhưng không ? Càng đọc, quan Án Sát càng đi sâu vào sự bâng khuâng, hoang mang, chẳng biết đâu mà phỏng đoán nữa.


    Nếu nói rằng thiên hạ bảo người tìm được kiểu đất Phung Hoàng Hàm Thư là...mù, không biết long mạch quy tụ ở phía ruộng thấp, lại đem táng một lúc cả tám ngôi tổ mộ ở trên đồi cao, hai địa điểm dù chỉ cách nhau vài sải tay, song ảnh hưởng kết phát, nếu đúng như lời tiên đoán, sẽ khác biệt nhau một vực, một trời, nhưng sao chính thầy địa lý, người tìm được kiểu đất ấy cũng tự nhận mình không có mắt !


    Thật là vô cùng kỳ dị, khó hiểu lạ lùng !...


    Làm nghề gì mà thiếu cặp mắt tinh tường cũng còn không phân biệt được sự xấu tốt, đẹp đẻ, hay thô sơ, chứ một khi đã đi tìm đất để mả cho thiên hạ mà không may lại bị mục tật, hai mắt không trông thấy thì còn biết đâu là tay long, tay hổ, nơi nào là chánh huyệt để ban phước lành cho mộ chủ ? Vậy mà trên văn bia, chính nhà phong thủy, sau khi phiền trách thiên hạ bảo mình là " đồ không có mắt " lại củng tự nhận luôn mình quả nhiên không có mắt thật thì còn biết thế nào mà xét đoán nữa ?


    Trong lúc hai ông già mãi suy nghĩ trầm ngâm về ý nghĩa mấy câu văn bia hóc hiểm, mà chưa tìm được một lời giải đáp nào khả dĩ gọi là vững vàng, chắc chắn, thì đám thanh niên trong dòng họ Nguyễn, ngồi xúm quanh con rùa đá, người thì tò mò lấy luỡi dao nậy đất ở chung quanh chân tấm bia, người thì đưa tay vào mồm rùa, sờ nắng coi có chi khác lạ ở phía trong không, chàng trai thứ ba chợt đưa tay lay mạnh tấm bia, thấy tấm đá nặng nề chuyển động thì kêu lên sững sốt :


    - Tấm bia chỉ gắn trên mai rùa thôi, chứ không phải là một khối nguyên vẹn với con rùa đâu ?


    Nghe chàng trai này nói thế, thanh niên đang dùng lưỡi dao nạy đất ở chân tấm bia, vội nhanh tay cạo mạnh thêm.
     
  15. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    Đồng thời, tên gia nhân kia cũng tiếp tay, giúp sức bạn.


    Chỉ trong chốc lát, họ đã lấy ra được tất cả đất bùn, cát sỏi, bám chặt dưới chân bia, nên tấm đá đang dựng đứng, bỗng nghiêng hẳn về phía trước.


    Ba thanh niên vội đứng vùng dây, đở lấy tấm bia, khiêng đặt ra bên cạnh.


    Trên mai rùa lớn, lúc bấy giờ, để lộ ra một hóc to đen ngòm.


    Thầy địa lý không mãi mê theo dõi những dòng chữ trên văn bia, mà lại cúi đầu nhìn xuống mai rùa.


    Chợt lão thò tay vào hóc sâu, lôi ra một ống đồng dài chừng hai gang, chung quanh sét rỉ, nham nhở, chứng tỏ chiếc ống này nằm trong lòng rùa đá cũng khá lâu ngày !


    Loay hoay mãi, thầy địa lý vẫn không sao mở được nắp chiếc ống đồng quái dị, chỉ không to hơn miệng cái chén cỡ trung bình, nhưng sét rỉ lại bám đầy, không còn phân biệt phía nào là đáy, phía nào là nắp nữa.


    Một chàng trai đứng gần đấy, thấy thế, liền lễ phép xin lão trao lại mình chiếc ống, để anh ta dùng đá sỏi đánh kỹ lên lớp đồng hoen rỉ thì có thể mở được dễ dàng.


    Quả nhiên chỉ trong chốc lác,chiếc ống đồng bẩn thỉu, nhơ nhớp đã biến thành một chiếc ống xinh xắn với nước đồng bóng lộn, sáng như gương, làm nổi bật một đường hằn nhỏ như sợi tóc, ngăn cách hai phần : nắp và đáy chiếc ống !


    Thầy địa lý phải lấy lưỡi dao mỏng, luồn theo đường hằn nhỏ kia, để cạo dần những đất cát bám ở phía trong, hầu như được kết tụ lại có vẽ rắn chắc, không kém gì một chất nhựa đặc biệt, mà cổ nhân vẫn dùng để hàn gắn các loại kim khí, hay đồ sành sứ vậy !


    Khi chiếc nắp đồng được bật tung ra, hai ông già lại càng kinh ngạc hơn nữa, vì người nào cũng yên trí rằng sẽ được trông thấy một bảo vật kỳ lạ chi đó ở bên trong. Nào ngờ đâu phía trong lại chỉ có một chiếc ống tre già nữa, bọc sáp khá dày, bao quanh khúc tre giống hệt như ruột khúc cây bào gọt nhẳn nhụi.


    Mọi người truyền tay nhau xem xét khúc cây rất kỹ lưỡng một lúc lâu, mới lấy dao, gạt bỏ lớp sáp ngoài, đễ lộ ra một lần giấy bẩn phết nhựa cây và nhựa sơn đen kịt, láng bóng như quang dầu.


    Trong lúc thầy địa lý còn đang ngấm nghía, muốn tìm đầu mối của cuộn giây nhựa để mở ra cho dể, thì vị hưu quan chừng như nóng ruột, không thể nào chờ đợi được lâu nữa, liền mạnh tay dằn lấy lưỡi dao của chàng thanh niên đứng kế cận vạch thẳng một đường dài từ trên xuống dưới.


    Lớp giấy sơn dày tới nửa ngón tay theo đà cắt của lưỡi dao, mở tung ra, để lộ màu nâu sẩm của chiếc ống tre, mà qua năm tháng thời gian, đã không còn giữ được màu xanh tươi thuở ban đậu


    Đó là một cái ống quyển thô sơ, mà ngày xưa người ta thường dùng, để cất giữ những giấy tờ cần thiết như văn tự hay gia phả của dòng họ.


    Các thầy khóa thời mực tàu, giấy bản cũng dùng ống quyển để đựng kinh sách. Nhiều người còn chăm lo cho chiếc ống quyển của mình một cách cực kỳ mỹ miều, diêm dúa như sơn đỏ, kẻ một vài đường kim nhũ hay ngân nhũ ở trên nắp.


    Nắp chiếc ống quyển bằng tre già được mở ra, vị hưu quan vội đưa hai ngón tay vào, nhẹ nhàng nhưng thận trọng, lôi ra cuốn sách cuộn dài theo chiều chiếc ống quyển.


    Thấy dáng điệu nóng nảy, hấp tấp của quan Án Sát, nhà phong thủy cười thầm, càng chăm chú theo dõi hành vi của bạn.


    Vị hưu quan cầm cuốn sách không dày lắm lên tay một cách trìu mến, lật ngược, lật xuôi xem xét rất cẩn thận thì thấy hai tấm bìa bồi rất công phu, toàn phết bằng nhựa cây, dày cứng như mo cau.


    Cố đưa về phía trước mặt, để đọc qua mấy hàng chữ ghi ở trang đầu, nhưng quan Án Sát đành thở dài, buông thỏng tay xuống, vì ánh sáng không đủ chiếu rõ những hàng chữ nhỏ, mà muốn đọc, quan Án Sát cần phải có một thứ kiếng riêng chỉ dùng để xem sách.


    Thầy địa lý ái ngại an ủi :


    - Đại nhân để về nhà rồi chúng ta coi, cũng không muộn gì ?


    Điều cốt yếu, ta nên cho khiêng luôn cả con rùa đá với tấm bia này về làm kỹ niệm, để ghi nhớ một giai thoại liên quan đến kiểu đất dị kỳ, ít khi thấy trong môn phong thủy
     
  16. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    Thứ nhứt dinh cơ, thứ nhì mồ mả !

    Cuốn sách nhà phong thủy tìm thấy trong mai rùa bằng đá, cùng với tấm bia của vị thánh sư địa lý Thanh Lã, chôn vùi trong khu vực kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư : nơi an táng tám ngôi tổ mộ của họ Nguyễn ở làng Báo Văn, ngoài sự ghi chú rành mạch về phương hướng chuyển vận long mạch, từ trên cao xuống dưới thấp, trong mỗi thời hạn năm trăm năm, còn biên chép thêm cả tiểu sử và vận hạn của vị thánh sư địa lý, từng nổi tiếng là kỳ tài trong thiên hạ từ bấy giờ.


    Vị hưu quan càng đọc thêm phụ chú nói về tai họa của Cụ Thanh Lã, vì nhà phong thủy trứ danh về đời Lê, không những đã có biệt tài tìm đất, để mả, mưu hạnh phúc giúp người đời, khiến cho nhiều gia đình đang nghèo khổ, khốn quẫn, nhờ có một ngôi mả kết phát, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi đã có thể võng lọng nghênh ngang, ngựa xe đủng đỉnh, bạc vàng đầy đủ, danh giá lẫy lừng, mà còn có tài để hướng nhà cũng linh nghiệm, có khi còn hay hơn cả việc an táng hài cốt người quá vãng !


    Một ngôi dinh cơ khoáng đảng, tả hữu, tiền hậu có đủ những cảnh trí thiên nhiên, tốt tươi đẹp đẽ, nóc nhà nhờ thầy địa lý chính tông đạt cho thật đúng chỗ, đúng hướng, cổng mở phải phép, bếp làm đúng kiểu thì nhât định sự kết phát không còn là chuyện hoài nghi, viễn vong nữa.


    Chính vì vậy, mà các cụ nhà ta ngày xưa, mới có câu cửa miệng : "Thứ nhất dinh cơ, thứ nhì mồ mả " !


    Nhưng thường tình thiên hạ, người ta phần nhiều chỉ chú trọng vào việc mồ mả, lo tìm kiếm, xây đắp mộ phần cho ông bà, cha mẹ thật chu đáo, chứ chẳng ai nghĩ tới sự tìm đất làm nhà, mặc dầu thanh niên nào, khi lập gia đình, cũng phải cố xây dựng cho kỳ được, một mái nhà, vừa để làm tổ ấm uyên ương cho đôi vợ chồng son mới cưới, vừa để tập cho quen một đời sống tự lập, không cần đến sự giúp đỡ của cha mẹ, anh em !


    Nói thế, không có nghĩa là người ta làm nhà cẩu thả, thích hướng nào làm hướng ấy đâu ?


    Mà sự thực, người ta cũng xem xét kỹ lưỡng lắm, nào là chọn ngày đổ nền, khởi công đào móng, nào là nhờ người cất nóc, trấn yểm quỷ quái, tà ma ! nếu gặp phải một ngôi nhà nào khác, hay đình, chùa đền, miểu chi đó, đâm thẳng vào giữa nhà mình, gia chủ còn phải rước thầy về cúng vái yểm trừ bằng một lá bùa bát quái hay một tấm gương nhỏ có thư phù cẩn thận đặt đúng ngay vào nơi phản chiếu với chướng ngại vật nọ !


    Nhưng công việc tìm kiếm nền nhà, xây dựng tường mái, dù thận trọng đến đâu, so với sự an táng hài cốt người quá vảng, cũng vẫn bị thua kém xa.


    Sự kiện ấy, cũng không có gì là lạ, khi người ta quan niệm rằng : kiếp sống của con người chỉ là một chuổi ngày tạm bợ, phù du, dù cho vua chúa, khanh tướng, công hầu, phu nhân, mạng phụ hay cùng đinh, phú hộ, đến khi tắt thở, nhắm mắt buông tay cũng phải trở về với cát bụi, bỏ mặc trên trần thế tất cả tiền bạc, của cải.


    Lúc đó, mới là nơi an nghĩ vĩnh viễn theo đúng lời thánh hiền truyền lại : sinh ký tử quy, dịch nôm là (" sống gửi thác về ").


    Mớ tàn cốt chôn sâu dưới đất, vì thế mới có liên hệ mật thiết với những thân nhân trên dương thế.


    Hài cốt an táng ở một địa điểm mát mẻ, có cảnh trí kỳ tú bao quanh, thì con cháu cũng được mát mặt phong lưu. Trái lại, nếu phần mộ nằm vào nơi u uất, như chôn giữa vùng đất vôi, hoặc có rễ cây, đâm từ trên cao xuống, làm thương tổn đến tiểu đựng hài cốt, thì thế nào thân nhân cũng gặp phải tai họa nặng nhẹ tùy theo số mạng và trường hợp mộ phần bị động trệ !


    Hơn nữa do tinh thần tôn trọng tổ tiên, theo tục lệ cổ truyền bất di, bất dịch của Đông phương, các cụ nhà ta ngày xưa đã coi việc săn sóc mộ phần tổ tiên như một bổn phận thiêng liêng của bất cứ ai trong dòng họ.


    Nhiều người không may làm ăn bị thất bại, có thể lìa bỏ dễ dàng cửa nhà, để đi nơi khác lập nghiệp. Nhưng họ lại rất băn khoăn, tỏ vẻ đau đớn vô cùng, khi phải xa cách phần mộ tổ tiên, không còn được tới thường, săn sóc, chăm nom đến nơi an nghỉ cuối cùng của người quá vãng nữa !


    Thiên hạ thường tin tưởng mãnh liệt rằng : chỉ khi nào những linh hồn dưới chính suối được an nghĩ mát mẻ thì thân nhân nơi trần tục mới có thể lạc nghiệp an cư !


    Nhiều giai thoại về mồ mả kết phát hay động trệ, đã được truyền tụng, phổ biến khắp nơi, để chứng minh cho lẽ huyền bí kỳ dị của môn địa lý !


    Cuốn sách tìm được trong mai rùa đá, không phải là thủ bút của cụ Thanh Lã, tác giả tấm Văn bia, được chôn trong khu đất Phụng Hoàng Hàm Thư từ năm Dương Đức đầu tiên (nhằm đời vua Lê Gia Tôn), mà chính do tổ phụ quan Án Sát họ Nguyễn sưu tầm, ghi chép, để người đời sau biết rõ đức tài lỗi lạc, trí óc siêu việt của một vị túc nho, quán thông kim cổ, không may bị nhà vua nghi ngờ, kết tội khi quân, đến nổi uổng phí cả một kiếp hào hoa, phong nhả !


    Cứ theo mấy lời ghi chú mở đầu trong cuốn sách, thì sau khi tìm giúp được cho dòng họ Nguyễn ở làng Báo Văn khu đất Phụng Hoàng Hàm Thư, để an táng tám ngôi tổ mộ, Cụ Thanh Lã có tiên đoán số phận đen tối của mình cho mọi người biết.


    Dân làng, nhất là tổ phụ họ Nguyễn thuở ấy, không một ai chịu tin là có thể xãy ra việc đó. Cụ Thanh Lã thấy mọi người tỏ ý hoài nghi, tức mình quá, liền mướn thợ đá, khắc một tấm bia, nói rõ sự chuyển hướng long mạch từ trên cao xuống dưới thấp, và không quên nhấn mạnh cả lời chê bai của thiên hạ : sẽ có người bảo mình là đồ không có mắt, nên tuy làm nghề địa lý mà lại không biết rõ nơi nào quy tụ long mạch !


    Đồng thời vị thánh sư địa lý dưới triều Hậu Lê, cũng nhận luôn là mình ... không có mắt thật sự !


    Nhưng tại sao lại có sự tiên đoán kỳ dị ấy ?


    Đó là cả một thiên thảm tử vô cùng đau thương, mà tổ phụ quan Án Sát họ Nguyễn đã dụng công ghi chép, hai mươi năm sau, khi tám ngôi tổ mộ, do cụ Thanh Lã táng giúp đang bắt đầu kết phát, còn Cụ thì bị tai hoạ khốc liệt, tàn phế trọn đời.


    Nguyên thuở thiếu thời, Thanh Lã tiên sanh, vốn tài cao học rộng, kiến văn quảng bác, nhưng tâm tính hào sảng, quanh năm chỉ thích lê gót giang hồ đi khắp đó đây, mong tìm gặp bạn rượu thơ tri kỷ : chớ không nghĩ đến sự giùi mài kinh sử, để tranh lèo giật giải với sĩ tử bốn phương !


    Vì vậy mấy lần mang lều, xách chõng vào trường thi, vị túc nho, dù văn chương thi phú có thừa, mà phận hẩm, duyên hôi, cả mấy bận đi thi đều không thấy có tên ghi trên bảng hổ !
     
  17. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    Người nào thi rớt mà không buồn phiền, tủi hận ?


    Chỉ duy có Thanh Lã tiên sanh là không tỏ ý chán nản hay âu sầu chi hết, vì đối với tiên sinh, sự đậu, rớt đâu có phải là lẽ sống ở đời ?


    Nhiều bạn đồng môn khi còn đi học, vẫn phải nhờ tiên sinh "gà" giúp cho những bài kinh sách khó khăn, không ngờ " học tài, thi phận" những thầy khóa" " dốt lòi đuôi" ấy, lại nhẹ gót thanh vân, thi đâu đổ đấy, dễ dàng như người ta ăn cơm, uống nước vậy !


    Một vài người bạn thân của tiên sinh thấy thế, thường tỏ ý bất bình, cho rằng các quan chấm trường thi, nếu chẳng có tư vị, thì cũng là những kẻ gà mờ không có mắt xanh, phân biệt được hạt châu với mắt cá, nên mới không đủ tài thưởng thức những áng văn chương xuất sắc, cũng như không biết gạt bỏ những bài văn viễn vong, rỗng tuếch chẳng có một chút giá trị về văn chương cũng như về tư tưởng vậy !


    Thanh Lã tiên sinh chỉ cười, chắp tay cảm tạ thịnh tình săn sóc của bạn nhưng rồi lại yêu cầu bạn không nên coi đó là một việc quan trọng có thể làm cho mình hao tổn tinh thần !


    Tiên sinh còn nhấn mạnh : người nào được sanh ra trong trời đất, cũng đều có số mạng hết !


    Số được làm quan thì dù có ngu đần, dốt nát đến đâu, cũng được chểm chệ trên ghế phụ mẫu chi dân, mặc dầu khi cắp sách đến trường chưa bao giờ đọc trôi một bài văn sách !


    Trái lại, nếu chỉ là số bạch đinh, thì dù trí cả, tài cao, học quán năm xe, làu thông kinh sử, xuất khẩu thành chương, thấu triệt cổ kim, họ cũng không sao vào lọt được cả ba trường, để hưởng thụ lộc nước, ân vua, áo bào, đai tía, xem hoa thượng uyển, dự yến vua ban, bái tổ vinh quy, được dân làng đón rước trọng thể như đón rước một vị đường quan đi kinh lý.


    Với lối sống khoáng đạt của một vị quân tử nho, tiến không mừng, thoái không nãn, thành công không kiêu bạc, thất bại chẳng chịu hạ mình làm điều thương tổn đến giá trị nho phong. Thanh Lã tiên sinh, sau mấy phen đua tài thử sức, trong trường văn, trận bút, sẳn sàng lãng quên món nợ công danh, để lao mình vào công trình nghiên cứu các môn nho, y, lý số, coi đó là môn giải trí duy nhất trên đời.


    Càng tìm được những cuốn cổ văn, giảng dạy về huyền vi của Tạo hóa, sự cấu tạo mầu nhiệm của luật âm dương với bao nhiêu chi tiết biến ảo phi thường, hầu như ly kỳ, quái đản, mê tín, hoang đường, tiên sinh càng say sưa, không quản ngại tốn kém, vui lòng bỏ ra hàng trăm lạng bạc một lúc, để có mua cho kỳ được những áng cổ văn hiếm có của Trung Hoa, Nhựt Bổn, đem về ngày đêm khảo cứu, suy gẩm những lời vàng ngọc của cổ nhân.


    Ngoài ra với tinh thần cầu tiến, lúc nào cũng tha thiết học hỏi, một cách cần cù, khắc khổ, tiên sinh mỗi khi nghe đồn nơi nào có thầy hay, bạn giỏi, là tức khắc tìm đến tận chỗ, dùng hết phương kế để kết giao cho kỳ được.


    Với bậc trưởng thượng, tiên sinh vui vẻ, tôn kính như bậc sư phụ, phụng thờ có khi còn chu đáo hơn cả mẹ cha, để mong được túc nho đạo đức ấy, truyền thụ cho cái học sở trường.


    Với những người đồng trang lứa, không phân biệt giàu nghèo, quý tiện, tiên sinh niềm nở kết liên, quý trọng như anh em ruột thịt.


    Gặp bạn phong lưu, phú quý thì chẳng nói làm gì, nếu người bạn mới bần hàn, khốn quẩn, tiên sinh sẳn sàng chia sẽ bạc tiền, thóc gạo để anh em có thể chung sống dưới một mái nhà, chung sách, chung đèn, cùng nghiên cứu, khảo luận những lý lẽ nhiệm mầu, kỳ ảo của các môn lý, số, nho, y.


    Nhờ vậy, chẳng bao lâu, tiên sinh đã nổi tiếng là bậc kỳ tài, không những tướng số như thần mà chữa bệnh cũng kỳ diệu không kém những tay danh y thuở trước, quyết đoán được sự sanh tử của các loại chứng bệnh nan trị.


    Nhưng đặc biệt hơn hết, tiên sinh vẫn chỉ sở trường và chăm chú trao đổi, nghiên cứu về riêng môn phong thủy.


    Nhờ những kết quả hiển nhiên về sự kết phát mấy ngôi mả trong vùng, thiên hạ đồn đải, một đồn mười, mười đồn trăm, chỉ ít ngày sau, tiên sinh đã được mọi người suy tôn là Thánh Sư Địa Lý !


    Nhưng " sinh nghề, tử nghiệp ", cái công lệ của Hóa Công mà ít ai tránh khỏi đó, không ngờ lại nhằm ngay đúng vị túc nho, thánh sư địa lý nước Nam mà báo ứng, không những khiến cho Thanh Lã tiên sinh bị mục tật, tàn phế trọn đời mà trong hàng ngũ danh nhân nghèo nàn của ta cũng mất đi một ngôi sao sáng chói !
     
  18. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    Kiểu đất LƯỠNG LONG TRANH CHÂU

    Nguyên tiên sinh là dòng trưởng trong họ, từ khi học được kỳ thuật về lý số, thường được nghe bà con, anh em trong họ yêu cầu tiên sinh phải cố gắng tìm cho kỳ được một ngôi đất thật quý, để hoạc chôn cất hài cốt tổ phụ, hoặc xây dựng nhà thờ họ, tuỳ theo địa điểm và địa thế hầu con cháu trong họ sau này, có hy vọng mở mày mở mặt được với thiên hạ.


    Tiên sinh vốn dững dưng với bã vinh hoa, coi công danh, phú quý như đám mây trôi nổi giữa nền trời giông tố, mà luôn cả cuộc đời cũng không hơn gì một giấc chiêm bao, hợp tan, tan hợp nào có gì là vững bền vĩnh cữu đâu ?


    Nhưng trước lời yêu cầu của các bậc phụ chấp trong họ, tiên sinh tự thấy không tiện chối từ.


    Vả lại, tiên sinh cũng không có quyền gì và cũng không thế nào bắt buộc được mọi người phải chán ghét sự bon chen danh lợi như mình, nên đành phải nhận lời.


    Từ đấy, ngoài việc chửa bệnh cho dân làng và để mả giúp cho những người quen biết trong vùng, tiên sinh ngày chăm chú vào việc tìm kiếm một kiểu đất thật đặc biệt, để làm mộ phần tổ phụ, cho trọn lời cam kết, hứa hẹn với họ hàng.


    Đất tốt tuy không hiếm, song nếu được hào này lại hỏng hào khác, chỗ kết ngành nọ, lại hại ngành kia, suy đi xét lại rất kỷ lưỡng tiên sinh vẫn không được toại nguyện, chút nào, nên hầu hết những thửa đất lựa chọn, được tiên sinh đều đem tặng cho những gia đình nghèo khổ nhưng có tiếng là trung hậu trong vùng.


    Những gia đình này đang khốn quẩn đến cực độ, sau khi tổ mộ quán khí, bỗng phấn khởi hẵn lên, có gia đình con cháu thi đậu làm quan, có nhà thì tự nhiên làm ăn, sinh sôi nẩy nở, hưng thịnh lạ lùng. Họ mừng rở kéo nhau đem lễ vật đến nhà tạ ơn Thanh Lã tiên sinh.

    LƯỠNG LONG TRANH CHÂU

    Hành vi trung hậu của những gia đình mới được kết phát không ngờ vô tình, lại làm gây phiền lụy cho tiên sinh rất nhiều !

    Vì các vị phụ chấp cũng như anh em trong họ, thấy thế đều oán giận, chê trách tiên sinh là ăn ở vô tình với họ hàng thân thích !


    Theo lời họ phê bình, thì tiên sinh không chịu tận tâm lo việc tìm đất cho cả họ, mà chỉ săn sóc giúp đở người dưng, nước lã, theo đúng câu cửa miệng : " địa lý không để được mả nhà ".


    Cay nghiệt, oan uổng hơn nữa là người ta còn gáng cho tiên sinh cái tiếng tham tiền, nên mới chăm chú để mả cho người ngoài, mà lơ là sự ký thác chí tình của cả họ !


    Tiên sinh giải thích thế nào, họ cũng chẳng chịu tin, là tiên sinh không muốn chọn những kiểu đất tầm thường, dù có kết phát cũng chỉ là sự kết phát nhỏ nhặt mà chỉ muốn cố tìm cho kỳ được những kiểu đất đặc biệt, khả dĩ tạo được sự kết phát lâu bền, oanh liệt để làm vẻ vang cho dòng họ.


    Với tâm tính hồn nhiên của một nho gia thuần túy, Thanh Lã tiên sinh vui lòng hứng nhận tất cả lời dị nghị, chỉ trích của họ hàng, chẳng một chút buồn phiền hay oán giận.


    Tiên sinh cứ tiếp tục âm thầm làm việc theo ý mình, mong một ngày kia, có thể tìm được kiểu đất đai quý để trả lời sự suy xét thiển cận của mọi người trong họ.


    Quả nhiên, chỉ nửa năm sau, tiên sinh đã khám phá được kiểu đất " lưỡng long tranh châu " ở làng Mía mà người quanh vùng này, thường gọi là " Hạc Hải " để hiến dâng cho họ, theo đúng lời hứa khi trước của tiên sinh.


    Đó là một khu đất cực kỳ quý báu, đem lại sự kết phát tới đế vương, tồn tại liên tiếp được ngoài một ngàn năm, nhưng nếu biết " tiếp phước " sẽ lại có thể phục hồi long mạch để con cháu hưởng phước thêm vô thời hạn !

    Tuy nhiên, có một trở điều ngại rất quan trọng đã làm cho Thanh Lã tiên sinh phải bận tâm suy nghĩ mất khá nhiều thì giờ : đó là địa thế ngôi đất quý !


    Nó nằm ngay trong vòng lũy tre làng, chứ không phải như mọi kiểu đất khác, tọa lạc ở ngoài đồng ruộng hay núi, đồi, đều có thể an táng được hài cốt người quá vãng một cách dễ dàng !


    Tục lệ ở thôn quê, đâu có cho phép ai được xây đắp mộ phần ở trong làng, viện cớ : "người sống không bao giờ chịu ở lẫn với hồn ma " !


    Những hương chức thôn, thân hào dù cho giàu có như Thạch Sùng, Vương Khải, quyền uy hách dịch không kém các vị đương quan, cũng không thế nào vượt nổi lệ làng, để công khai đem hài cốt tổ tiên chôn cất ở trong làng đã được giới hạn từ bao đời trước, bằng một vòng lũy tre xanh, phân biệt đất ở của dân cư, với đồng ruộng, bao gồm cả tha ma, mộ địa !


    Phép vua thua lệ làng, là thế đó !


    Nhưng tìm được kiểu đấ " lưỡng long tranh châu" không phải là một sự dễ dàng, mà có thể nói là bỏ qua được một cách dễ dàng như vậy ?


    Phải tìm đủ mọi phương pháp sử dụng ngôi đất quý ấy cho kỳ được mới nghe ! Thanh Lã tiên sinh, lúc đầu đã định chôn dấu hài cốt tổ phụ, không cho một ai biết, kể cả bà con trong họ, nhưng suy đi, tính lại, tiên sinh thấy có nhiều điều bất tiện, lại thôi.


    Cuối cùng, tiên sinh cương quyết vận động bỏ tiền ra mua thửa đất ấy, rồi đổ nền cao để cất nhà thờ họ !


    Việc làm của tiên sinh kín đáo vô cùng !


    Dân làng và luôn cả mọi người trong họ, không một ai biết dụng ý của tiên sinh.


    Nhưng sau ngày hoàn thành từ đường chừng gần một năm, cả họ, nhất là, chi trưởng của tiên sinh, làm ăn hưng thịnh, phát đạt lạ lùng, trẻ em học một biết mười, đứa bé sơ sinh nào trong họ mới ra chào đời, cũng thông minh, đĩnh ngộ, khôi ngô, tuấn tú khác thường, khiến cho dân làng kinh ngạc, một đồn mười, mười đồn trăm, chẳng bao lâu, khắp vùng lân cận đều đồn đải rùm beng là mồ mả của Thanh Lã tiên sinh được xây cất trên một khu đất quý, kết phát rất to !

    Trước những lời thì thầm, bàn tán của dân làng, tiên sinh chỉ mỉm cười, không công nhận mà cũng không cải chánh.


    Sự thực, thì chỉ có một mình tiên sinh biết rõ.


    Nó không phải là mồ mả kết phát chi hết, mà chính là ngôi nhà thờ họ làm trên kiểu đất "lưỡng long tranh châu", mà chiếc khám thờ, đặt bài vị của tổ tiên của Thanh Lã tiên sinh, được thiết lập ngay tại đúng quả châu, nên hấp thụ linh khí của hai thần long, mới quán khí một cách nhanh chóng, mãnh liệt như thế.


    Sỡ dĩ tiên sinh không muốn nói cho ai biết tính cách quý báu của khu đất Hạc Hải chỉ là vì tiên sinh hiểu rõ sự ghen ghét của người đời, một khi biết rõ dòng họ của tiên sinh, sớm muộn gì cũng sẽ được kết phát vẻ vang, nhờ về ngôi từ đường kia xây cất trên kiểu đất " lưỡng long tranh châu " tất sao cũng tìm cách hãm hại, hay phá hủy tòa nhà ấy cho kỳ được.


    Đó là tâm lý thường tình của những kẻ không muốn cho ai sang đẹp hơn mình ? Không những nạn "ố mỹ" lan rộng trong dân làng, thôn xóm, mà nó còn ăn sâu cả vào tâm não, phế phủ những bạn đồng nghiệp với tiên sinh nữa !


    Những người cùng nghề trong thiên hạ, có mấy khi chịu ưa nhau bao giờ đâu ?


    Dù là những tín đồ Khỗng Mạnh, luôn luôn tôn trọng đạo đức, cương thường, họ cũng không tránh khỏi được cái nạn " hàng thịt nguýt hàng cá " chê bai nhau, dèm xiểm nhau, để duy trì cho kỳ được địa vị độc tôn của họ ! Các thầy địa lý cũng vậy !


    Tuy khoát ngoài cái danh nghĩa đồng nghiệp hay đồng môn, họ vẫn chẳng dẹp bỏ được óc vị kỷ, chèn ép bạn bè trong trí não, nên mỗi khi thấy đồng nghiệp thành công rực rỡ, họ không ngần ngại gì, tìm cách "phá đám" với mục đích duy nhất triệt hạ uy thế của người bạn cùng nghề.


    Đấy là nói sự thành công trong việc tìm đất để mả cho thiên hạ !


    Còn nếu là trường hợp thầy địa lý táng đuợc hài cốt thân nhân vào đúng cát huyệt, để có thể kết phát oanh liệt, hiển vinh thì thôi, trăm ngàn " mũi dùi " khốc hại của các đồng nghiệp sẽ cùng một lúc, nhắm cả vào khu đất quý báu kia, để trấn áp, yểm trừ cho mất hẵn sự kết phát đi !

    Lòng ghen tài đã biến họ, từ người học vấn thuần lương, thành một kẽ đố kỵ tầm thường thâm hiểm, độc ác vô bờ bến !


    Phải chăng vì thế, người ta mới có câu " Địa lý không mấy khi để được mả nhà ", để ám chỉ sự phá hoại kinh khũng giữa anh em đồng nghiệp !


    Đây là chưa kể tới âm công, phúc trạch của tổ tiên từ mấy mươi đời trước !
     
  19. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    CHỈ VÌ MỘT LỜI KHIÊU KHÍCH

    Hơn ai hết, Thanh Lã tiên sinh biết rõ nền âm công phúc trạch của dòng họ nhà mình, tính cho đến đời tiên sinh, quả thực không lấy gì làm đặc biệt cho lắm để khả dĩ được xứng đáng thụ hưởng sự giàu sang, phú quý của Tạo Hóa dành cho, mặc dầu, căn cứ theo lời ghi chép trong gia phả, ông cha tiên sinh vẫn luôn luôn giữ được nền nếp nho phong, đức hạnh, từng được dân trong vùng mến yêu, kính nể.


    Kiểm điểm lại công đức của tiền nhân từ hai mươi đời nay, tiên sinh thấy các Cụ tuy cũng sốt sắng giúp đở người bần hàn, túng thiếu, từng góp công, góp của khá nhiều trong các việc đúc tượng, xây chùa, dựng cầu, cất quán, song âm công phúc trạch ấy, vẫn không đủ cho con cháu thụ hưởng sự kết phat vẽ vang đến tột độ, do kiểu đất " lưỡng long tranh châu" đem lại !


    Cứ theo sự hiểu biết của tiên sinh, thì sau khi xây dựng được hoàn toàn ngôi nhà thờ họ, trên khu đất Hạc Hải ở làng Mía, chỉ trong vòng bách nhật (100 ngày), tất cả mọi ngành trong họ nhất là chi trưởng, sẽ làm ăn phát đạt, thịnh vượng một cách mau chóng lạ lùng !


    Đồng thời chỉ ba năm sau, do những sự tình cờ dung rủi, trong họ thế nào cũng có người làm tới Đế Vương, công hầu, khanh tướng.


    Còn quan lại, văn võ từ nhị, tam phẩm trở xuống thì không biết bao nhiêu mà kể nữa, vì bất cứ ai trong họ, một khi đã cắp sách đi học theo nghiệp văn, hay cầm thanh kiếm múa men theo nghề võ, cũng đều hiển đạt, được hưởng lộc nước ơn vua suốt lượt ! đó là sự kết phát về con trai.


    Còn về nữ giới, thì con gái trong họ, nếu không được tuyển vào cung làm hoàng hậu, quí phi, thì cũng lấy được chồng khoa bảng, đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong triều, để cuối cùng, cũng nghiểm nhiên được là mệnh phụ phu nhân, ra hài vào bẩm, ngựa xe rộn rịp, võng lọng nghênh ngang, danh giá không kém gì con trai trong họ.


    Có thể nói : đó là một kiểu đất cực kỳ quý báu, hàng ngàn năm mới kiếm nổi một ngôi, chớ chẳng dễ dàng gì như những ngôi mả kết phát vinh hoa phú quý trong phạm vi bình thường chỉ có công dụng tồn tại chừng năm ba chục năm, rồi thế nào cũng lại suy sụp như trăm ngàn kiểu đất khác ở rải rác khắp nơi trên đất nước này.


    Một nhà phong thủy chính tông Trung Quốc, trên con đường theo dõi long mạch kiểu đất " Cữu Long triều đế khuyết " phát nguồn từ dãy Thập Vạn Đại Sơn, vượt biên giới qua Việt Nam, khi đến làng Mía, được nhìn thấy khu vực Hạc Hải, trên có xây dựng một ngôi từ đường, kiểu cách, phương hướng rất chính xác, đúng theo lời chỉ dạy chân truyền của những thầy địa lý chính tông, có chân tài, thực học, thì cả kinh, vò đầu, bứt tai, lầm bầm đầy tiếc hận :

    - Tiếc thay ! tiếc thay ! Một kiểu đất hiếm có ở trên đời, chẳng cứ khó tìm thấy ở Nam bang mà ngay đến cả bên Trung Hoa, đất vuông tới ngàn vạn dậm, nhưng đốt đuốc trọn đời, cũng chẳng mấy khi kiếm được nổi một ngôi đất tương tự ?

    Cha chả ! Tay nào khám phá nổi kiểu đất kỳ dị này, hẳn cũng là một bậc kỳ tài trong thiên hạ, mới có mắt xanh nhận định được những nét huyền bí tàng ẩn trong khu đất trủng thấp, mà nếu chỉ nhìn sơ qua bề ngoài, không một ai lại co thể ngờ rằng : đây là một kho tàng vô giá, dành riêng cho người hữu phước, được hưởng thụ đủ các thứ : phú quý, thọ, khang ninh ở trên đời !

    Càng chăm chú quan sát khu Hạc Hải, nhà phong thủy Trung Hoa lại càng say sưa, đứng ngây mặt nhìn sững hàng giờ không biết chán, tự trách mình đã quá chậm chân, nên người nào đó mới chiếm được ngôi đất quý báu ấy, để làm nhà thờ họ, tạo nên sự kết phát cho cả một dòng họ to lớn. Chứ nếu ông ta nhanh chân đến được nơi này sớm hơn chút nữa, thì tìm thấy khu vực này, chắc sao cũng cố vận động, bằng tất cả mọi phương pháp, không quản ngại gì tốn kém công phu để chiếm đoạt cho kỳ được môn bảo vật vô giá ấy !

    Nhưng rồi lão tự an ủi : có lẽ đó cũng là số phận an bài của Tạo Hóa, hoặc do tổ tiên nhà lão kém phúc trạch, âm công : hoặc bởi lão chưa gặp vận hanh thông, hưng thịnh, nên mới xui khiến cho lão la cà trên đường đi từ Tứ Xuyên qua Bắc Việt, làm cho hành trình bị chậm trễ mất bảy, tám tháng trời, một thời gian khá dài, đủ cho người nào đó xây dựng được trọn vẹn tòa từ đường trên khu cát địa !

    Cuối cùng, không sao ngăn chận được tính hiếu kỳ và lòng tiếc hận, nhà phong thủy Trung Hoa liền hăm hở dò những người quanh đấy để tìm vào hội kiến Thanh Lã tiên sinh.

    Đôi bạn đồng nghiệp tuy không đồng hương, đồng quán, nhưng lại vốn cùng xuất thân nơi cửa Khổng sân Trình, cùng theo đuổi một mục đích chung : lê gót giang hồ đi khắp mọi nơi trong thiên hạ, để tìm kiếm những kiểu đất quý báu, kỳ dị rồi xem nhà nào dày âm công, phước trạch sẽ táng giúp, hầu khuyến khích mọi người tu nhân, tích đức.

    Hơn thế, nhờ cùng thông hiểu Hán Tự, nên dù ngôn ngữ bất đồng họ cũng có thể dùng lối bút đàm nói chuyện với nhau một cách dễ dàng.

    Duyên kỳ ngộ giữa đôi bạn cùng nuôi chung một chí hướng, đã làm cho họ vượt qua được mọi trở ngại, ngỡ ngàng của buổi sơ giao hội kiến, để đi ngay vào truyện tâm tình tri kỷ.

    Theo lời thuật của nhà phong thủy Trung Hoa, thì ông ta đã đi theo một mạch đất từ bên Tàu, qua biên giới đến quá Lạng Sơn chừng năm mươi dặm, thì lạc mất dấu vết.

    Không ngờ đi tới đây, ông ta lại thấy kiểu đất lưỡng long tranh châu, so với kiểu đất ông ta đang tìm kiếm, tuy chẳng bằng một nửa, song cũng thuộc vào loại kỳ tú, hiếm có ở trên cõi đời này.
    Thanh Lã tiên sinh cũng không dấu diếm nói hết những đặc điểm thiêng liêng quái dị của ngôi đất cho người bạn mới nghe, và không quên khiêm tốn yêu cầu :

    - Duyên hạnh ngộ xui khiến cho đôi ta gặp nhau, vậy nếu tiên sinh không chê tôi tài sơ, trí thiển, thì thấy có gì sai lệch, không đúng với lời chỉ dạy của thánh hiền, dám xin tiên sinh vì cảm tình đặc biệt, dạy bảo cho.

    Nhà phong thủy Trung Hoa quơ tay, phác một cử chỉ chối từ, rồi mới khiêm nhượng trả lời :

    - Không, không có gì sai lệch hết !
    - Tất cả đều đúng theo phép tắc địa lý chính tông.

    Có điều, gian chánh tẩm, thiết lập bàn thờ tổ phụ hơi thấp một chút, trong lúc bốn gian ở hai bên lại cao quá. Như vậy, tôi e rằng sự kết phát sẽ bất lợi một phần nào cho những người thuộc về chi trưởng trong dòng họ.

    Thanh Lã tiên sinh bề ngoài, tuy gật đầu tán thành ý kiến của người bạn mới, song trong thâm tâm, tiên sinh không cho là phải mà nghĩ thầm rằng :

    - Trước khi quyết định xây dựng ngôi từ đường này, mình đã khổ công nghiên cứu hàng nửa năm trời, đến nổi quên ăn, bỏ ngũ, nghe đồn ở đâu có sách hay thầy giỏi, cũng cố lần mà tìm đến để tham khảo ý kiến, hay mượn sách quý về tra cứu, cực kỳ công phu vất vả.

    Nhờ đó mới hoàn thành được một ngôi từ đường toàn bích, đem lại sự kết chắc chắn, chẳng những cho riêng mình, mà còn cho tất cả các chi khác trong họ nữa.

    Vậy mà giờ đây, người bạn mới này lại chê bai, chỉ trích gian chánh tẩm và bốn gian kế cận thì quả thực là chuyện lạ lùng, hầu như vô lý vậy ?

    Sau cùng, tiên sinh kết luận : có lẽ thầy địa lý chính tông Trung Hoa này cũng không thoát khỏi cái bịnh " sú diện ố nga my " vốn là một cố tật bất di, bất dịch của những người cùng làm một nghề, nên muốn phá nhau, ông ta mới sui dại tiên sinh như vậy.

    Nhân dịp này, tiên sinh còn mời thêm một viên đề lại họ Phạm ở trên huyện, để giới thiệu với người bạn đồng nghiệp Trung Hoa, vì ngày thường, viên đề lại, cũng tỏ ra là người thức thời, lịch duyệt, văn chương, thi phú, dù không phải là bậc kỳ tài trong thiên hạ, song, trong mấy làng Mông Phụ, Mông Sàng, viên đề lại vẫn nổi danh là tay thông kim bác cổ.

    Tiên sinh kết giao với viên đề lại cũng không phải là không có dụng tâm, sâu sắc, nhất là đối với một người có tâm hồn sảng khoái, khinh thế ngạo vật, coi rẻ lợi danh, phú quý như tiên sinh thì có bao giờ lại chịu giao du mật thiết với một viên đề lại, quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng trù mưu tính kế, để thay đen đổi trắng án từ, soay sở bóc lột dân lành và tìm cách su phụ xiểm nịnh quan trên, mong các bậc "phụ mẫu dân" ngó lơ, cho y mặc tình làm mưa, làm gió, tác phúc, tác oai !

    Tư cách, cũng như tâm tính những viên thông lại, đề mục đã được phản ảnh rõ rệt, vô cùng xác đáng, qua câu phương ngôn "một đời làm lại, bại hoại ba đời " !



    Sở dĩ thiên hạ chỉ biết kết tội bọn thông lại, đề lại, mà không lên án các quan phủ, huyện chỉ là vì các án văn, tố tụng ở các vùng thôn quê, hết thảy đều do ngòi bút của các thầy đề, thầy thông cấu tạo nên, chỉ một nét bút của họ, cũng đủ làm tán gia, bại sản một gia đình hào phú, chỉ một lời thêm bớt của họ, cũng đủ khiến cho người dân lương thiện bị tù đày, khảo tra khổ cực !


    Biết bao mối oan khiên, khốc liệt đã xảy ra vì ngòi bút của bọn sai nha tham lam, thâm độc !


    Biết bao nhiêu việc bất công vô lý, đã do lũ ruồi nhặng tạo ra, làm người dân thấp cổ, bé miệng, đành cam chịu đau đớn, không còn biết kêu đâu cho rõ trắng đen, thực giả ?


    Thanh Lã tiên sinh, biết rõ hơn ai hết những tệ đoan ấy của bọn sai nha, nên trước kia, viên đề lại họ Phạm thường muốn tìm cách kết thân, tiên sinh cũng cố tình lãng tránh, mặc dầu tiên sinh vẫn khéo léo, mềm mỏng trong ngôn từ, cử chỉ để không làm thương tổn đến lòng tự ái của viên đề lại họ Phạm.


    Tiên sinh vẫn tự nhủ thầm : sẽ mãi mãi duy trì sự giao du hời hợt này, chứ nhất định không chịu chơi bời mật thiết với loài tẩu cẩu nguy hiểm ấy, e có khi vì quyền lợi riêng tư, y cũng có thể bán đứng tiên sinh để mưu cầu chút lợi danh, chung đỉnh !


    Nhưng đến khi tiên sinh tìm được kiểu đất Hạc hải, xây dựng ngôi từ đường trên trái châu giữa hai con thần long, thì tiên sinh không thế nào giữ được vẻ lạnh lùng, thơ ơ như trước nữa !


    Tiên sinh dư hiểu sự bới móc, soi mói, ghen ghét, dèm pha của bà con nơi thôn xóm mỗi khi họ thấy có ai hơn họ về cách này hay cách khác !


    Kiểu đất Hạc Hải, dù đã được tiên sinh giữ gìn rất kín đáo, cũng không che đậy được lâu dài, trước sự tò mò của mọi người, nên chỉ hai tháng sau, dân làng đều biết hết.


    Thế là đứng đâu, ngồi đâu, họ cũng đem truyện địa lý ra bàn tán sôn sao, với những sự thêu dệt, vẽ rắn thêm chân, khiến cho chính Thanh Lã tiên sinh, nhiều lúc, cũng phải ngở ngàng, trước những chi tiết bịa đặt, cực kỳ khéo léo, lớp lang rất chu đáo, tế nhị !


    Hơn nữa, khu Hạc Hải từ bao nhiêu đời trước, vẫn là vùng cấm địa ở làng Mía, không một ai được phép sử dụng sở hửu chủ thửa đất ấy.


    Các ông già, bà cả cũng không người nào biết rõ nguyên do nào sui khiến làng xóm phải ra lệnh cấm xây dựng nhà cửa trên thửa đất này ?


    Người ta chỉ biết lơ mơ rằng đó là lệnh cấm đã có từ lâu lắm rồi, hết đời nọ, qua đời kia, lâu dần biến thành luật lệ bất di, bất dịch, mà tất cả những người sinh sống trong vòng rào lủy tre xanh làng Mía phải triệt để phục tùng.


    Mãnh lực quái dị sui khiến cho dân làng phải răm rắm tuân theo lệnh cấm ấy, chỉ là vì mỗi khi có một kẻ ngỗ nghịch, ngang bướng nào đó không chịu tin một việc mà hắn cho là dị đoan mê tín hảo huyền, cứ nhất định kiếm tre lá làm nhà trên thửa đất này, thì tức khắc làng xóm bị động trệ, tứ tung : người lớn, trẻ con đau ốm suốt lượt, trâu bò, gà lợn chết toi, đến nổi chôn không kịp !


    Rồi bất thình lình lại phát cháy cùng một lúc ở nhiều nơi khác nhau.


    Và kỳ dị, đáng ghê sợ hơn nữa là cứ mổi đêm từ giờ Tí trở đi, là trên các ngã đường, nhất là ở sau đình và trước cổng chùa luôn luôn có tiếng gươm giáo va chạm vào nhau loảng soảng, hoà với tiếng ngựa hý, quân reo, tạo thành một âm thanh rụng rời, ma quái !


    Trong ba ngày đêm liên tiếp, nếu các kỳ hào, hương chức trong làng không can thiệp, bắt kẻ ngang bướng phải lập tức triệt hạ căn nhà kia đi, thì đến ngày thứ tư, thế nào một vị bô lão cao niên nhất ở trong làng, cũng đạp đồng lên, đang tự nhiên, mặt mũi bỗng đỏ gay như người say rượu, rồi vừa đi ra đình, vừa hò hét om sòm, quở mắng hương chức, lý dịch, đã không giữ gìn được trọn vẹn trật tự ở trong làng, để đến nổi có kẻ dám ngang nhiên chiếm đoạt khu đất linh thiêng của thần thánh !


    Rồi vị bô lão ấy ra mở cổng đình, chạy vào chánh điện, nhảy lên bàn thờ Thành Hoàng, ngồi chểm chệ, hoa tay lên không khí như múa may, phù phép chi vậy !


    Thế là kẻ ngang bướng, làm nhà trên khu cấm địa, bị hộc máu tươi, chết ngay không kịp trăn trối nữa lời.


    Theo lời các ông già, bà cả thuật lại, thì từ trước tới nay, đã có tới năm người bị chết bất đắt kỳ tử như thế rồi !


    Từ ngót một trăm năm nay, tuyệt nhiên không còn một ai dám " chơi dại " trêu vào uy lực của Thánh Thần, nên cả thửa đất cấm ở làng Mía bỏ mặc cho cỏ lau mọc cao lút tới đầu người, làm sào huyệt vững chắc cho các loài chuột, rắn !


    Nay đột nhiên, Thanh Lã tiên sinh lại bí mật điều đình với chủ đất, chịu bỏ ra một món tiền khá quan trong để mua lại thửa đất, cỏ mọc um tùm, bao trùm, không biết bao nhiêu chuyện quái đản, dị kỳ !
     
  20. Zodiac

    Zodiac New Member

    Tham gia ngày:
    6 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    336
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Những Giai Thoại Trong Phong Thủy

    Ngay hai bên mua bán chính thức làm văn tự, một số người hiếu kỳ đó không ngớt lời chê bai Thanh Lã tiên sinh là ỷ tài, cậy của, nên mới điên rồ, bỏ ra một số tiền lớn, để tự rước lấy " cái nợ mươi đời ", vì mặc dầu biết tiên sinh thông thạo cả nho, y, lý, số, người ta cũng vẫn không tin rằng, tiên sinh lại có đủ tài năng, chế ngự được uy quyền tối linh của thần thánh, mặc nhiên coi khu đất linh thiêng ấy như một nơi bất khả xâm phạm ở trong vùng ?


    Thanh Lã tiên sinh chỉ mỉm cười, trước những lời phê bình cay nghiệt, của dân làng và lẳng lặng bắt tay vào việc.


    Với tất cả tài học sở trường về môn phong thủy, thâu lượm được trên bước đường giang hồ phiêu lãng, tiên sinh cố sức trấn yểm khu đất thiêng liêng quý giá để mong xây dựng ngôi nhà thờ theo lời yêu cầu của bà con trong họ.


    Trong thời gian ấy, tiên sinh đã phải đối phó rất cam go, nguy hiểm với một bọn người, cố ý kiếm chuyện để định phá rối tiên sinh, vì họ biết chắc rằng nếu tiên sinh dựng được chu đáo ngôi từ đường, thì nhất định dòng họ nhà tiên sinh, sẽ được hưởng thụ sự kết phát vô cùng hiển hách !


    Một mặt phải đối phó với sức phá rối của một số dân làng ngang bướng, một mặt tiên sinh phải sử dụng khả năng chuyên môn, để công cuộc trấn yểm đem lại kết quả mỹ mản, thì mới có thể tiến hành việc xây dựng được ngôi từ đường.


    Đó thật là một công trình gian nan khó khăn đến cực độ, vì thầy địa lý trong trường hợp này, nếu chỉ non tay ấn một chút có thể bị thần thổ địa quật chết ngay trong nháy mắt !


    Muốn rảnh tay, để tập trung tất cả khả năng vào công việc trấn yểm, tiên sinh buộc lòng phải giao dịch với viên đề lại họ Phạm, mong nhờ uy thế viên lại mục khét tiếng là cơ mưu sâu sắc nhất ở trong huyện, để bịt miệng dân làng, không cho một ai được phép khiếu nại, hay chỉ trích về sự xây dựng ngôi nhà thờ trái phép của tiên sinh.


    Trong thời phong kiến xa xưa, khi chế độ quan liêu còn cực thịnh ở trên đất nước này, thì uy quyền của một viên thông lại, đề mục, luôn luôn được đồng bào thôn quê coi như thần minh, thánh sống, có khi còn được mọi người kính nể, quý trọng hơn cả những vị phụ mẩu chi dân chánh cống !


    Biết rõ được tâm trạng ấy của bà con thôn xóm, Thanh Lã tiên sinh đành ép mình giao du mật thiết với viên đề mục họ Phạm, để mỗi khi có cơ hội chè chén, tiệc tùng với nhau, tiên sinh lại không quên nhắc đến dụng tâm phá rối của một số dân làng, trước công cuộc xây dựng từ đường của tiên sinh, và khôn khéo yêu cầu viên đề mục, nếu có nhận được đơn từ khiếu nại về việc đó, thì xin vì tình tri kỷ bác bỏ hay quở trách nguyên đơn, để họ không dám theo đuổi sự quấy rối tiên sinh nữa.


    Một lời nói của đám sai nha, thân tín của các quan phủ huyện ngày xưa, đã có một giá trị cực kỳ quan trọng.

    Nó như quyết định được cả tính mạng của người dân thấp cổ bé miệng, vì chỉ cần một lời thêm bớt ra của bọn sai nha viết trong biên bản đệ trình lên quan trên, là đủ làm cho một người vô tội bị tù đày, một phú nông phải táng gia bại sản hay trái lại một tên sát nhân được ung dung, sống tự do giữa rừng người lương thiện hoặc dung túng một kẻ ác bá cường hào tha hồ lấn bờ, cướp ruộng của bà con nghèo khó, làm mưa, làm gió như một "thảo khấu đại vương" ở nơi thôn xóm !


    Dòng họ Thanh Lã tiên sinh, cũng không phải là cùng đinh, lép vế gì mà thực ra, thì từ mấy đời gần đây, vẫn kế tiếp có người đảm nhiệm những chức vụ quan trọng ở trong làng, nhất là từ khoảng hơn hai mươi năm nay, hầu hết những vai trò then chốt trong đám kỳ hào, hương lý, đều do người trong họ tiên sinh nắm giữ cả !


    Nhưng không phải vì thế, mà tiên sinh có thể tự do, muốn xây cất nhà thờ trên khu cấm địa lúc nào cũng được đâu ?


    Vì ngoài phe nhóm kỳ hào trong dòng họ của tiên sinh, trong làng xóm có dòng họ Trần cũng giàu sang không kém !


    Hai họ chia nhau đặc quyền theo từng guồng máy hành chánh trong lũy tre xanh, và luôn luông giữ miếng đề phòng nhau, cũng như chờ đợi cơ hội thuận tiện để triệt hạ nhau, mong đọc chiếm quyền "ăn trên ngồi trước" ở chốn đình trung cho riêng những người trong họ mình.


    Cứ nhìn qua danh sách hương chức trong làng, người ta cũng có thể đoán biết được sự tranh chấp gay go của hai dòng họ : chức tiên chỉ nếu về tay một vị bô lão, thuộc vào hàng phụ chấp của Thanh Lã tiên sinh thì theo chức thứ chỉ, nghĩa là chức vị cao qúy thứ hai ở trong làng, thế nào cũng phải thuộc về phe nhóm họ Trần.


    Đồng thời, nếu cái triện lý trưởng do người họ Trần đảm nhiệm, thì cái chức phó lý nhất định phải về tay một người chú, bác hay anh em chi đó của Thanh Lã tiên sinh.


    Hai họ ráo riết kiềm chế nhau, công kích nhau khá kịch liệt, bằng tất cả mọi mưu mô, phương pháp, kể cả những mưu mô xảo trá và phương pháp gian manh, mặc dầu bề ngoài họ vẫn cố giữ thuận hòa, lịch sự vồn vả chào hỏi nhau những lúc hội hợp ở đình trung hay gặp mặt nhau trong các đám khao, cưới, ma chay, hội hè, tế lễ.


    Do thành kiến cố hữu, không biết phát sanh tự bao giờ, hai họ lớn nhất ở trong làng, luôn luôn coi nhau như thù địch, và không một bên nào chịu bỏ lở cơ hội triệt hạ nhau.


    Vì vậy, khi mới nghe tin Thanh Lã tiên sinh mua khu đất cấm làm nhà thờ, họ Trần đã lập tức mở cuộc hôi hợp khẩn cấp, để hoạch định mưu kế phá tan dự định ấy của nhà phong thủy lừng danh đất Bắc.


    Nhưng nhờ tài quyền biến khôn khéo, nhờ sự giao dịch mềm mỏng, nhờ biết dùng đồng tiền một cách rộng rải, Thanh Lã tiên sinh đã vượt được hết mọi trở ngại do phe nhóm đối phương ngấm ngầm liên tiếp tung ra để hoàn thành mỹ mản công cuộc mua bán khu cấm địa.


    Bước đầu tiên, mà cũng là bước gian nan, khó khăn nhất vừa vượt qua được, đã như một phần thưởng tinh thần qúy giá, khuyến khích người trong cuộc, vững tâm tiến mạnh, tiến nhanh, hơn nữa trên con đường tuy đầy dẫy chông gai, chướng ngại, nhưng lại có một cái vườn thượng uyển, ngào ngạt quả ngọt, hoa thơm, líu lo oanh ca, vượn hót chờ đợi ở đầu đường đằng kia, sẳn sàng tiếp đón người tài trí, biết dùng nhiệt tâm cương quyết đạp bằng mọi trở lực để đến bến thành công.


    Thanh Lã tiên sinh, sau khi được chính thức làm sở hửu chủ khu đất Hạc hải, liền xúc tiến việc trấn yểm, ròng rã ba tháng trời, không phân biệt ngày đêm, sớm tối, chẳng nề hà khổ trí, lao tâm, mới thâu hoạch được một phần nào kết quả.


    Sở dĩ tiên sinh không thành công hoàn toàn trong công cuộc trấn yểm trước khi khởi công xây cất, chỉ là vì các bậc tiền bối của tiên sinh, không tạo được một nền âm công, phước trạch đầy đủ khả dĩ cho con cháu được xứng đáng hưởng thụ ơn huệ của trời Phật.


    Vẫn hay rằng, tổ phụ tiên sinh, căn cứ theo lời ghi chú trong gia phả, từ hai mươi đời nối tiếp nhau, tính cho đến lúc tiên sinh ra đời chẳng những không có một ai làm điều bạo thiên, nghịch địa, tàn ác, gian tham, dâm ô, cường ngạnh, mà thói thường lại còn giúp đở dân làng, góp công xây chùa, tạc tượng, bố thí cho người nghèo khổ trong những năm hạn hán, thủy tai.


    Nhưng tất cả những hành động từ thiện ấy, chỉ vừa đủ giúp cho các vị tổ phụ của tiên sinh tránh khỏi kiếp trầm luân, đọa lạc sau khi thác xuống suối vàng, chứ không đủ gầy nên âm công, phước trạch, tạo thành duyên nghiệp đặc biệt để cho con cháu hưởng phúc, lâu dài, hiển hách !


    Tiên sinh biết rõ điều đó hơn ai hết !


    Nhưng bản tính háo thắng, tinh thần tự ái và sĩ khí bất khuất của một danh nho, đã thúc đẩy tiên sinh gắn bó vấn đề vận mạng để qua một bên, để cương quyết dùng tài năng vượt khỏi số Trời.


    Luôn bảy ngày, bảy đêm liên tiếp, cứ vào khoảng giữa giờ Tí, khi thấy bốn bề yên lặng như tờ, thôn xóm vắng bặt tiếng gà gáy, chó sủa, tiên sinh mang tróc long ra khu cấm địa, hô thần, bắt ấn định làm phép trấn yểm, thì cả bảy lần, đều bị thổ thần hất tung tróc long, và quật tiên sinh ngã quay xuống đất.

    Thanh Lã tiên sinh không thế nào làm phép trấn yểm khu đất Hạc Hải như ý muốn, đành lửng thửng trở về nhà để tìm phương thế khác, vừa đi vừa suy nghĩ mãi mà lạc bước tới gần sáng qua khỏi làng Mía, tiên sinh chợt gặp được người bạn cố tri : Ông Tú Lê, là người tinh thông bùa chú, trấn yểm long mạch nổi danh ở làng bên. Mặc dù không làm thầy địa lý chuyên môn, để mả cho thiên hạ để lấy tiền, ông Tú Lê cũng nổi danh là nhà phong thủy chính tông, mỗi khi nhận lời tìm đất cho gia đình nào là người ấy, chắc chắn sẽ có ngày mát mặt hơn tình trạng hiện tại.

    Biết rõ khả năng của ông Tú Lê, nên tiên sinh luôn luôn nhắc nhở đến danh tánh bạn, những lúc có dịp hội họp bạn đồng môn thuở ấu thơ, hay gặp những kiểu đất kỳ hình, quái dị. Giữa giờ phút tuyệt vọng, ưu phiền, được gặp mặt cố nhân, Thanh Lã tiên sinh mừng rỡ như người cùng khốn nhất đời, mới bất ngờ bắt được một hủ vàng ròng quý giá, hoặc hơn thế, như một thầy khóa nghèo, được liên trúng tam nguyên, nhẹ bước thanh vân làm nở nang mày mặt, rở ràng mẹ cha.


    Quả nhiên, tiên sinh đã không uổng công kỳ vọng vào người bạn tâm giao thuở trước, vì vừa được tiên sinh thuật lại những sự khó khăn mới gặp ở khu đất Hạc Hải, ông Tú Lê liền sốt sắng nhận lời. Ngay chiều hôm ấy : ông bảo bạn đưa đi coi địa hình địa thế vùng cấm địa, rồi chờ đến khuya, một mình lẳng lặng ra tận nơi, làm phép nhường tinh, hô thần, trấn yểm.


    Sau ba đêm liên tiếp, việc trấn áp mới hoàn thành, Thanh Lã tiên sinh liền đích thân đào viên đá đầu tiên, chôn một đạo bùa trấn trạch, mà không xảy ra một sự trở ngại gì như mấy buổi trước, mỗi khi phải dùng thuổng, cuốc đào xới khu cấm địa, thế nào cũng phải bị thổ thần trách phạt, hoặc quất ngã người đứng trông nom, hoặc sui khiến cho người gảy mai, mẻ cuốc, làm đình trệ công việc đến phải bãi bỏ, không dám động gì tới khu đất nữa !


    Nhưng sau khi bắt đầu xây cất từ đường, Thanh Lã tiên sinh lại phải đương đầu ráo riết với sự phá rối của của phe nhóm họ Trần.


    Những người thù nghịch với tiên sinh đã thay đổi nhau làm đơn khiếu nại, yêu cầu quan Huyện hạ lệnh đình chỉ việc xây dựng phi pháp của tiên sinh, viện cớ khu cấm địa Hạc Hải, từ bao đời nay, vẫn được coi là địa điểm tối linh thiêng, bất khả xâm phạm, không cho một ai được quyền sử dụng để làm nhà hay trồng trọt, kể cả chủ nhân được chánh thức thừa kế thửa đất ấy !


    Nếu cứ miễn cưỡng xây dựng, đào xới vùng cấm địa, là thế nào dân làng cũng bị khốn khổ về sự động trệ tai hại !


    Tự biết mình làm điều ngang bướng vì quyền lợi riêng, không chịu tôn trọng tục lệ trong làng nên Thanh Lã tiên sinh bắt buộc phải xử sự nhún nhường, thân hành đến tận nhà các bô lão, hương chức trong dòng họ Trần, để yêu cầu họ vị tình bà con trong xóm ngoài làng khi tắt lửa, lúc tối đèn có nhau mà sẳn lòng làm ngơ cho tiên sinh được phép xây dựng ngôi nhà thờ chung cho cả họ.


    Bề ngoài, họ Trần tuy nói cười vui vẻ, không tỏ ý bất bình, phản đối ra mặt, song họ vẫn ngấm ngầm vận động để ngăn cản công cuộc xây dựng từ đường.


    Biết rõ thế lực của viên đề mục họ Phạm, họ đã dùng tiền bạc để hối lộ tên này, để nhờ y tìm cơ hội triệt hạ phe nhóm đối phương.


    Thanh Lã tiên sinh nghe được tin ấy, sợ viên đề mục, tay sai thân tín của quan Huyện ám hại mình, cũng vội thu xếp lể vật tìm cách kết giao với họ Phạm.


    Con cáo già họ Phạm được cơ hội bóc lột cả hai phe, không ngần ngại gì, tỏ ý thân thiện với cả đôi bên.


    Với ai, y cũng khôn ngoan hứa hẹn, hết lòng săn sóc, bênh vực, để nuốt trôi những nén bạc bạc trắng hay những bu gà vịt, những thùng gạo rượu của hai họ đem đến "vi thiềng" !


    Nhân dịp thầy địa lý Tàu ghé vào xem kiểu đất "lưỡng long tranh châu", tiên sinh liền cho mời luôn cả họ Phạm đến uống rượu. Bên mâm cơm thịnh soạn, ba người vui vẻ chuyện trò về đạo lý thánh hiền, và không ngớt lời ca tụng những nét tinh hoa, sâu sắc của nền văn hoa cổ kính Đông Phương để cuối cùng, cực lực suy tôn sự huyền bí cao siêu, uyên thâm, uẩn súc của các môn lý, số, phong thủy !


    Nhân dịp này, thầy địa lý Tàu, khi đề cập đến các kiểu đất đế vương, có hỏi Thanh Lã tiên sinh :


    - Tiên sinh thường lưu ý các ngôi đất quý, vậy kiểu đất ở Lam Sơn, nơi phát tích của Lê triều, hiện thời ra sao ? Theo ý tiên sinh, thì nơi ấy có những nét gì đặc sắc ?


    Hơi men bốc cháy bừng bừng trong phế phủ, Thanh Lã tiên sinh vừa nâng chén lên môi, vừa cao hứng gật gù một cách vô cùng đắc ý :


    - Kể ra cũng không có gì quý lắm, Cả khu Lam Sơn, chưa chắc đã ăn đứt được cái cổng nhà từ đường này đâu, nhị vị tiên sinh ạ !


    Viên đề lại họ Phạm, trố mắt kinh ngạc nhìn sững Thanh Lã tiên sinh, trong lúc tiên sinh vô tình, cứ cao hứng nói cười như thường !


    Và cũng từ đấy, y không còn nghĩ gì đến sự ăn uống nữa, mà chỉ chăm chú theo dõi từng lời nói, cử động của chủ nhân.


    Sau tiệc rượu này, viên đề mục đi tìm mấy viên hương chức thù nghịch với Thanh lã tiên sinh, thuật lại cho họ nghe, những lời tiên sinh vừa thốt ra trong hơi men chuếnh choáng và hứa sẽ đem tố cáo hành vi phạm thượng đó với triều đình để làm tội Thanh Lã tiên sinh, nếu phe họ Trần chịu vui lòng bỏ ra ba trăm nén bạc.


    Muốn cho những người trong họ Trần tin lời mình, họ Phạm đã thao thao bất tuyệt khoe khoang thế lực của ngòi bút một tay đề lại lão luyện, muốn thay đen, đổi trắng, khuấy nước nên hồ thế nào cũng được, miễn là án văn cấu phải tạo sao cho thiệt hợp tình hợp lý.


    Hơn thế nữa, lại còn cần được lòng tin của quan trên.


    Mà về điểm này, thì viên đề lại họ Phạm có thừa điều kiện, vì từ khi được bổ nhiệm về huyện này, quan Huyện đối với hắn, luôn tỏ lòng tín nhiệm, ủy thác cho hắn nhiều án từ, công việc quan trọng.


    Muốn mua chuộc lòng yêu mến, thương tưởng của quan Huyện, họ Phạm đã khôn khéo, bày mưu tính kế cho quan Huyện đục khoét lương dân, khiến cho mới có mấy năm trời mà quan Huyện đã tậu được trên một trăm mẫu ruộng ở quê nhà.


    Nghe họ Phạm nói rõ âm mưu ám hại Thanh Lã tiên sinh, họ Trần hân hoan tiếp nhận tin đó, và không ngần ngại gì, chấp thuận toàn vẹn đề nghị của viên đề lại.


    Họ về hội họp ngay các bô lão, chức sắc trong họ rồi trịnh trọng thuật lại rõ ràng lời nói, bao hàm ý nghĩa phản nghịch của Thanh Lã tiên sinh do viên đề lại họ Phạm nghe được và sẳn lòng tố cáo nội vụ với quan trên, nếu được họ Trần đền ơn xứng đáng. Kết luận, người trưởng tộc yêu cầu tất cả mọi người trong họ, không phân biệt già trẻ, gái trai tính theo đầu người, cứ mỗi xuất phải nộp một lượng bạc, mới có thể chu tất được món tiền mà viên đề lại đã yêu sách.


    Theo lời trình bày của người trưởng tộc, thì đó là một cơ hội may mắn phi thường, để họ Trần triệt hạ hạ đối phương bằng một miếng đòn quyết liệt, không còn hy vọng gì để ngốc đầu lên được, vì trong thời đại phong kiến cực thịnh, kẻ khinh mạn triều đình, xúc phạm đến uy thế hoàng gia, sẽ bị trảm quyết, bêu thủ cấp làm gương cho thiên hạ !


    Đấy là trường hợp khoang hồng đối với những tội nhân không có đầy đủ bằng chứng, tang vật phản nghịch.


    Còn có những vụ án tương tự, mà nạn nhân lại có thể bị xử tới tru di tam tộc, hay hành hình một số chính phạm, và lưu đày những thân nhân, họ hàng giây mơ, rễ má !


    Trong dòng họ Thanh Lã, vẫn hay rằng có nhiều hương lý, chức sắc, lắm kỳ mưu, diệu kế, có uy danh, tín nhiệm với dân làng, nhưng tựu trung vẫn không được ai tài giỏi như Thanh Lã tiên sinh, nên họ chỉ nhắm riêng mục đích : triệt hạ một mình tiên sinh, cũng đủ khiến cho cả dòng họ tiên sinh phải suy sụp.

    Viện trưởng tộc còn nhấn mạnh : nếu bây giờ không triệt hạ được tiên sinh, tức là ngôi từ đường ở khu Hạc Hải vẫn còn, thì chỉ trong vài ba năm nữa, long mạch nổi dậy, cả dòng họ ấy sẽ được hưởng thụ sự kết phát vẻ vang, quan văn, quan võ khắp triều đình, hỏi lúc đó, họ Trần chỉ cầu được sống yên ổn trong xóm làng cũng còn khó, chứ hy vọng gì cạnh tranh với họ và được dân làng kính nễ nữa !


    Mình có cơ hội diệt trừ họ mà không biết lợi dụng tức khắc, thì sau này, khi họ có nhiều người làm quan, họ Trần đành chỉ còn có nước làm đầy tớ họ, để đổi lấy sự an cư lạc nghiệp mà thôi. Viên trưởng tộc đã khéo dùng chính sách "thỉnh tướng không bằng khích tướng" để gợi lòng tự ái của mọi người trong họ, khiến cho tất cả nam phụ lão ấu đều nhiệt liệt tán thành âm mưu tố cáo ông Thanh Lã, và sốt sắng đóng góp ngay số tiền viên trưởng tộc vừa đề nghị.


    Chỉ một ngày sau, họ Trần đã thâu được đủ ba trăm lượng bạc của bà con trong họ, để ngay chiều hôm ấy, bí mật đem đến nộp cho viên đề lại và không quên nhắc đi nhắc lại điều kiện thiết yếu : nếu không diệt trừ được ông Thanh Lã, nếu không phá hủy được ngôi từ đường, thì viên đề lại phải trả lại họ Trần đủ số tiền đã lấy !...


    Giấy tờ cam kết xong xuôi, mấy ông hương lý, thân hào trong họ Trần hý hửng ra về, ngày nào cũng tụ họp chè chén với nhau, để chờ nghe tin tức.
     

Chia sẻ trang này