Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

Thảo luận trong 'CẢI MỆNH NHIỆM MẦU: Tu là sửa chính Mình - Không yêu cầu người khác sửa đổi theo mình' bắt đầu bởi niitpro, 18 Tháng tám 2008.

  1. niitpro

    niitpro New Member

    Tham gia ngày:
    23 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    74
    Điểm thành tích:
    0
    Unable to open the source
     
    Last edited by a moderator: 29 Tháng tám 2008
  2. SaoDem

    SaoDem New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    203
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    Không biét bây giờ trái tim của Bồ tát Thích Quảng Đức được lưu giữ ở đâu nhỉ
     
  3. VoPhong

    VoPhong Hội Viên

    Tham gia ngày:
    13 Tháng bảy 2007
    Bài viết:
    962
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    Ngày nay,không biết có vị sư nào giống như Thích Quảng Đức không nhỉ???:-S:-S:-S
     
  4. NicholasChan

    NicholasChan New Member

    Tham gia ngày:
    15 Tháng một 2007
    Bài viết:
    11
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    hành giả tu tập Định có công phu khả dĩ lưu bất cứ cái gì trên thân thề lại ,nhưng mục đích tu tập không phải để biểu diễn kỳ lạ cho thiên hạ xem , xưa nay chư vị thánh chúng giáo hóa chúng sanh trong âm thầm ,dùng đức mà cảm hóa chẳng dùng thần thông mê hoặc con người , lỡ mà để lộ thân phận thì lập tức thâu thần nhập diệt chẳng ở lại lâu dài như trường hợp Bồ Tát Quảng Đức
     
  5. NhaTrang

    NhaTrang New Member

    Tham gia ngày:
    5 Tháng mười 2006
    Bài viết:
    37
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    Tại sao đường Công Lý lại bị đổi tên lại thành đường Nguyễn Văn Trổi và đường Nguyễn Huệ bị đổi tên là đường Thích Quảng Đức?

    Chẳng lẽ "Công Lý" không bằng đảng viên Nguyễn Văn Trổi và anh hùng Nguyễn Huệ cũng không bằng ủy viên Thích Quảng Đức ? ~_crazybua~_crdrk

    Đúc Phật Thích Ca đã dạy chúng ta không nên tin bất cứ điều gì một cách mù quáng. Hãy dùng đầu óc và suy nghĩ theo khoa học.

    Một ngưòi tu hành chân chính sẽ không làm việc chính trị.
    Một tập thể chân chính sẽ không lừa dối quần chúng vói những sảo thuật tráo đổi sự việc.

    ~_coffee
     
  6. niitpro

    niitpro New Member

    Tham gia ngày:
    23 Tháng tám 2006
    Bài viết:
    74
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    Một câu hỏi kiểu chung cho mọi vấn đề

    Tại sao là A mà ko phải là B
    Tại sao ko mãi là D mà lại là E
    Tại sao ko làm thế này mà lại làm thế kia
    "Vì sao chia tay" . Đan Trường
    "Vì sao xa nhau" . Cẩm Ly
    "vì sao ...trên trời" Quang Dũng :-D:-D
    =================================================
    Tại vì vô minh, tại chưa thoát khỏi tam giới, luân hồi nên cứ hỏi hoài làm gì, mệt quá (trích dẫn nhiều nguồn)

    NhaTrang lại muốn kéo topic chuyển hướng chính trị chính em hả !?~_notliste
     
    Last edited by a moderator: 29 Tháng tám 2008
  7. tuyenhoa1985

    tuyenhoa1985 New Member

    Tham gia ngày:
    17 Tháng hai 2008
    Bài viết:
    40
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    Hòa thượng Thích Quảng Đức. Tên thật là Lâm Văn Túc (1897), quê gốc ở Vạn khánh, Vạn Ninh, Khánh Hòa.

    Khi lên 7 đã quy y phật pháp với sự dẫn dắt của hòa thượng Thích Hoàng Thân và được đổi tên thành Nguyễn Văn Khiết.Nổi tiếng là người gìn giữ giới luật nghiêm minh. Ngài đã từng giữ các chức vụ:

    - Chứng minh đạo sư hội Phật giáo Ninh Hòa.

    - Phó trị sự và trưởng ban nghi lễ giáo hội Tăng già Nam Việt.

    Năm 1943 Ngài vào Nam. Ròng rã 20 qua nhiều nơi để hoằng truyền chánh pháp. Ngài đã xây 14 ngôi chùa.
    Chình quyền Ngô Đình Diệm nền đạo lý truyền thống của dân tộc nên ngày 27/5/1963, Ngài viết thư thỉnh cầu Tổng Trị Sự Giáo hội Tăng Gia Việt Nam xin tự đốt mình để bảo vệ đạo pháp. Mặc dầu không được giáo hội chấp thuận, nhưng ý nguyện quyết tâm thực hiện sự tự thiêu, nên khoảng đầu giờ ngọ sáng ngày 20 tháng 4 nhuận năm Quý Mão (11/6/1963) nhân cuộc diễn hành của gần một ngàn Tăng, Ni qua các ngã đường Phan Ðình Phùng- Lê Văn Duyệt (Ngã tư Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Đình Chiểu ngày nay).


    Ngài xuống xe, tự tẫm dầu ướt đẫm ba tấm cà sa và ngồi kiết già giữa ngã tư đường, một tay kềt ấn cam lộ, tay kia tự châm lửa. Ngọn lửa bốc cao phủ kín châu thân.
    Lời cuối cùng Ngài nói với thế gian:
    “Trước khi nhắm mắt về cõi Phật, tôi trân trọng kính gửi lời cho Tổng Thống Ngô Ðình Diệm nên lấy lòng từ bi đối với quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở”.

    “ Tôi thiết tha kêu gọi chư Ðại đức Tăng, Ni, Phật tử nên đoàn kết nhất trí hy sinh đễ bảo tồn Phật giáo.”

    15 phút sau, khi ngọn lửa đã làm xong công việc của mình, hàng nghàn người đều quỳ rạp xuống, tiếng nức nở xen lẫn tiếng tụng kinh niệm phật
    Bầu trời Sài Gòn mang một màu ảm đạm.



    Châu thể của Ngài được đưa về chùa Xá Lợi. Ngày 20/6/1963 ( 9 ngày sau) được rước theo đường Trần Quốc Toản về An Dương Địa Phú Lâm để hỏa táng.
    Vào chiều ngày 16-6-63, một thày trẻ phụ trách việc thiêu đã chạy về chùa Xá Lợi bạch rằng đã thiêu xong, nhưng không hiểu sao trái tim chưa bị rã, các sư cho lệnh tiếp tục thiêu thêm 6 giờ nữạ Sáng ngày hôm sau, cũng thày trẻ trên đã về chùa Xá Lợi tay cầm trái tim mầu nâu cứng với nước mắt đầm đìa, nói rằng đã thiêu thêm lò điện không chỉ 6 giờ mà đến 10 tiếng đồng hồ nhưng trái tim vẫn còn, nên đành chịu mà phải mang về trình lên Hội Đồng Viện.
    Trải qua biết bao thằng trầm như: bị bọn Pháp lấy cắp để nghiên cứu, tìm cách thiêu cháy nhưng không thành công....


    Các bạn đang thắc mắc tại sao trái tim của Bồ tát Thích Quảng Đức lại không thể bị thiêu cháy. Mời các bạn đọc đoạn trích sau đây:
    "Mười ba năm sau ngày Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu, tôi được nghe một Bạn Đạo của Ngài kể lại: "Vì sao Ngài để lại Trái Tim", như một huyền thoại, như một giai thoại Thiền thời đạị Người kể là Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long, nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước đâỵ Thời gian là vào đầu năm 1976 và địa điểm là Trại Cải Tạo Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hòạ Vào thời gian trước khi bị đưa ra Bắc, tôi được giam chung với hai vị Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long và Thích Độ Lượng là những người lãnh đạo ngành Tuyên Úy Phật Giáo trong Quân Đội Miền Nam trước 1975. Nhờ cơ hội đó, tôi đã học hỏi được rất nhiều về Phật Pháp, về đức độ và về công hạnh của Ngài Thanh Long. Cũng nhân dịp này, tôi đã đặt câu hỏi về "Trái Tim Ngài Quảng Đức" có thật không và chuyện xảy ra như thế nào?

    Hòa Thượng Thanh Long đã trừng mắt nhìn tôi rồi nói: "Đó là sự thật một trăm phần trăm, thế cậu không tin à?" - Ngài thường dùng chữ cậu để xưng hô với tôi cho thân mật theo kiểu Bắc, thay vì dùng chữ anh hay đạo hữu - Và tôi trả lời: "Không phải con không tin về chuyện trái tim có thật hay không. Điều con thắc mắc là tại sao thiêu mà trái tim không cháy".

    Hòa Thượng đã mỉm cười và ôn tồn nói: "Chính chúng tôi cũng không ngờ và chính tôi là nhân chứng về chuyện này, giờ tôi kể cho cậu nghẹ" Rồi Ngài bắt đầu thuật lại như sau:

    "Tôi không nhớ rõ thời gian bao lâu trước ngày Thày Quảng Đức tự thiêu, trong một buổi họp kín giữa những thành phần lãnh đạo cuộc đấu tranh Phật Giáo tại chùa Xá Lợi, trong đó có tôị Sau khi bàn thảo xong các việc, đến phần linh tinh thì Thày Quảng Đức giơ tay, xin ghi tên tự thiêu. Vì là chỗ thân tình, mà cũng để đùa với ông, nên tôi nói: "Này Thày ơi! Mấy vị thiền sư khi viên tịch thường để lại xá lợi đấy nhé! Vậy Thày định để lại cái gì?" Ngay lúc đó, theo phản ứng tự nhiên Ông trả lời tôi: "Để lại trái tim được không?" Tôi đáp: "Được chứ, tốt lắm, tốt lắm!" Sau buổi họp hôm đó, tôi đã gọi Taxi đưa Thày Quảng Đức về chùa Quán Âm trước, rồi sau mới về chùa mình. Thời gian tiếp theo vì bận Phật sự và việc đấu tranh tôi cũng quên đi chuyện nàỵ

    Đến ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão tức ngày 11 tháng 6 năm 1963 thì Thày Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt vào lúc 11 giờ trưa Khi đó tôi đang ở chùa Xá Lợi họp. Lúc đó tình hình rất căng, vì nằm trong thành phần lãnh đạo nên tôi ở luôn tại chùa Xá Lợi để được bảo vệ chứ không về chùa nữa. Nhục thân Thày Quảng Đức được mang về chùa Xá Lợi nên các Phật tử thường xuyên đến viếng, ngày đêm hàng ngàn ngườị. Mãi năm ngày sau mới đem xuống thiêu tại An Dưỡng Địa Phú Lâm.

    Vào chiều ngày 16-6-63, một thày trẻ phụ trách việc thiêu đã chạy về chùa Xá Lợi bạch rằng đã thiêu xong, nhưng không hiểu sao trái tim chưa bị rã, tôi và các vị lãnh đạo cho lệnh tiếp tục thiêu thêm 6 giờ nữa. Sáng ngày hôm sau, cũng thày trẻ trên đã về chùa Xá Lợi tay cầm trái tim mầu nâu cứng với nước mắt đầm đìa, nói rằng đã thiêu thêm lò điện không chỉ 6 giờ mà đến 10 tiếng đồng hồ nhưng trái tim vẫn còn, nên đành chịu mà phải mang về trình lên Hội Đồng Viện. Lúc đó tôi nghĩ ra rằng: trái tim thuộc loại cơ nhục nên có lẽ không cháy, thôi thì để thờ. Bốn ngày sau, một Thượng Tọa bên Nguyên Thủy viên tịch cũng đem thiêu thì cốt thành tro hết, lúc đó tôi mới suy nghĩ và nhớ lại câu nói đùa của tôi và lời hứa của Thày Quảng Đức trong ngày ghi tên xin được tự thiêu. Và tôi tự giải thích rằng: Trong khi Thày Quảng Đức ngồi thiền để tự thiêu thì Thày đã dùng lửa Tam Muội là một thứ nội hỏa đốt đi trái tim của mình, khiến trái tim đã hóa thạch mà lửa thường không thể đốt nổị Lửa Tam Muội đã khiến trái tim Thày Quảng Đức thành Kim Cang bất hoạị" "
     
  8. tuyenhoa1985

    tuyenhoa1985 New Member

    Tham gia ngày:
    17 Tháng hai 2008
    Bài viết:
    40
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    Trong cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta để giải phóng miền Nam, thô ống nhất Tổ quốc đã có hàng triệu người ngã xuống trước ngày 30/4/1975.

    Trong hàng triệu người đó có thiền sư Thích Quảng Đức tự thiêu phản đối chế độ Ngụy quyền Sài Gòn o ép Phật giáo, để lại trái tim kim cương bất hoại. Chuyện thiền sư Thích Quảng Đức tự thiêu ai cũng đã từng nghe, nhưng ngôi chùa cuối cùng nơi nggài ẩn tu thì không phải ai cũng biết và bí ẩn xoay quanh trái tim bị thiêu đốt nhiều giờ trong ngọn lửa nóng 4.000 độ C không thành tro thì càng ít người hiểu nổi.
    Ngôi chùa của lính Pháp và cuộc đời bôn ba của thiền sư Thích Quảng Đức
    Trên con đường Thích Quảng Đức (Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh) có một ngôi chùa mang tên Quán Thế Âm. Ngôi chùa này mới được xây dựng rất hoành tráng với rồng phượng uốn quanh những chiếc cột lớn giữa chánh điện. Bên phải chùa là núi đá bêtông với hang động to lớn như thật.
    Tuy nhiên, sự quan tâm của tăng ni phật tử không phải là tháp “Lửa Từ Bi” cao 28m, an vị bảo tượng Quán Thế Âm 11 mặt, bằng đá hồng hoa cương, cao 3,20m, nặng 5 tấn tại động An Lạc Sơn và những khối bê tông hùng vĩ, mà bởi đây là ngôi chùa cuối cùng, ngôi chùa thứ 31, hòa thượng Thích Quảng Đức dừng chân, giáo hóa cho đời và để lại một trái tim vĩ đại đầy bí ẩn. Trong tiếng tụng kinh gõ mõ lốc cốc vọng ra từ động bêtông An Lạc Sơn, một sư thầy kể cho tôi nghe về lịch sử ngôi chùa này.
    Câu chuyện bắt đầu từ một ông quan ba người Việt và một sĩ quan Pháp có vợ là người Việt cùng một đội Hải quân tuần tiễu giữa biển. Vị quan ba này tuy làm việc cho Pháp, nhưng tâm tính hướng Phật và tin vào những giáo lí của Phật giáo. Trong một trận đánh ngoài vùng biển Tây Nam Bộ, con tàu bị trúng đạn và cứ chìm dần.


    Chùa Quán Thế Âm hiện tại
    Đám lính Tây nhốn nháo tìm cách thoát thân giữa biển cả, trong khi vị quan ba này vẫn điềm tĩnh ngồi khoanh chân hình đóa sen và miệng đều đặn khấn Bồ Tát. Điều lạ diễn ra. Từ trên trời cao có một đám mây ngũ sắc sà xuống. Trông kĩ thì đám mây ngũ sắc đó tượng rõ hình Quán Thế Âm Bồ Tát. Cùng lúc đó, khi con tàu chìm gần hết xuống nước thì đột nhiên dừng lại, không chìm tiếp nữa. Khoảng vài giờ sau thì có tàu cứu nạn ra cứu.
    Khi đám lính Pháp này vừa bước lên tàu cứu nạn thì con tàu này liền chìm nghỉm xuống đáy biển. Cả sĩ quan, thuyền trường và đám hải quân này đều cố gắng đi tìm lời giải, song sự nhiệm màu của đức Phật vẫn là nỗi ám ảnh đeo bám họ. Vợ viên sĩ quan người Pháp kia cũng là người hâm mộ đạo Phật, nên sau khi nghe chồng kể lại chuyện thoát chết giữa biển khơi, liền huy động quyên góp để xây dựng một ngôi chùa nhỏ giữa cánh đồng hoang nhằm tưởng nhớ đức thánh Quán Thế Âm. Ngôi chùa được xây dựng năm 1920 và có tên là Bạch Lô. Tuy nhiên, người Pháp lại gọi ngôi chùa này là chùa Lính Thủy.
    Quân Pháp thất thủ ở Việt Nam, ngôi chùa bị bỏ hoang giữa cánh đồng, không người quét dọn. Ngôi chùa lúc đó chỉ còn là một gian nhà rường 3 gian, 4 mái đơn sơ lợp ngói âm dương. Năm 1959, hòa thượng Thích Quảng Đức, từ Khánh Hòa vào, đã đến trụ trì ngôi chùa, tổ chức trùng tu và sau 5 năm tu thiền tại ngôi chùa này, đến năm 1963, ngài đã thiêu thân để phản đối chế độ Ngụy quyền Sài Gòn đàn áp Phật giáo.
    Hòa thượng Thích Quảng Đức, tên bố mẹ đặt là Lâm Văn Tức, sinh năm 1897, quê ở làng Hội Khánh (Vạn Ninh, Khánh Hòa). Ông sinh ra trong gia đình có 7 anh chị em, thân phụ của ông là cụ Lâm Hữu Ứng và mẫu thân là Nguyễn Thị Nương. Ngoài hai cái tên trên, ông có pháp danh là Thị Thủy, pháp tự là Hành Pháp.
    Năm lên 7 tuổi, ông đã xuất gia đi học với hòa thượng Thích Hoằng Thâm, là cậu ruột và cũng là sư phụ. Thấy ông chăm chỉ học hành, tu tập, hòa thượng Thích Hoằng Thâm quý mến nhận là con chính thức rồi đổi tên là Nguyễn Văn Khiết. Năm 15 tuổi, hòa thượng thọ giới Sa Di và năm 20 tuổi thì thọ giới Tỳ Kheo. Sau khi thọ giới, ông vào một ngọn núi ở Ninh Hòa phát nguyện tịnh tu 3 năm liền, chấm dứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài. Sau này, khi chu du hoằng dương đạo pháp khắp ngả, ngài đã có một thời gian quay lại đây để xây dựng một ngôi chùa lấy hiệu là Thiên Lộc.
    Sau khi tu tập 3 năm, ông rời núi với chiếc bát khất thực đó đây để gieo duyên lành với chúng sinh. Khất thực 2 năm, ông lại nhập thất tại chùa Sắc Tứ Thiên gần Nha Trang. Năm 1934, ông rời Khánh Hòa vào miền Nam để tiếp tục sứ mạng bảo vệ và phát triển Phật Pháp, sau khi đã xây dựng và kiến tạo tổng cộng 14 ngôi chùa tại các tỉnh miền Trung. Ông còn sang cả Campuchia để học hỏi và nghiên cứu kinh điển theo truyền thống Theravada.


    Bàn thờ Hòa thượng Thích Quảng Đức trong chùa Quán Thế Âm
    Cũng như ở miền Trung, 20 năm bôn ba hành đạo ở khắp các tỉnh miền Nam, ngài đã khai sơn và trùng tu thêm 17 ngôi chùa. Như vậy, tổng cộng ngài đã có công xây dựng hoặc trùng tu tất cả 31 ngôi chùa. Ngôi chùa cuối cùng, và cũng là nơi ngài trụ trì lâu nhất là chùa Quán Thế Âm, số 68 Nguyễn Huệ, quận Phú Nhuận, Gia Định (nay con đường này đã đổi thành chính tên của ngài là Thích Quảng Đức).
    Bí ẩn quanh trái tim nung 4.000 o C không cháy
    Trong động An Lạc Sơn, vị sư thầy bí ẩn (ông nhất định không xưng pháp danh với PV) nhớ lại từng chi tiết cái ngày hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu gây chấn động cả thế giới. Đó là thời kỳ đen tối nhất của Phật giáo nước nhà, khi chính quyền Diệm – Nhu thẳng tay đàn áp Phật giáo. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là ngày thiếu tá Ngụy Đặng Sĩ đã dùng xe cán chết mấy phật tử tại Huế.
    Để phản đối chế độ gia đình trị Diệm – Nhu, ngày 30/5/1963, hòa thượng Thích Quảng Đức đã tham gia cuộc biểu tình tại công trường Lam Sơn, sau đó về chùa Xá Lợi dự cuộc tuyệt thực cùng tăng chúng. Hôm sau, ông trình lên Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo một bức tâm thư xin tình nguyện tự thiêu. Tuy nhiên, tâm nguyện của ông không được chấp thuận.
    Cuộc đấu tranh không thu được kết quả gì, trong khi Phật giáo tại Huế lại đang bị đàn áp nặng nề, nên tối ngày 10/6, hòa thượng Thích Quảng Đức liền phát tâm nguyện sẽ tự thiêu vào ngày hôm sau để cúng dường Tam Bảo. Cũng tối hôm đó, ông để lại mấy điều dặn dò như sau: “Một là, sau khi thân tôi thiêu thành tro bụi, sẽ còn lưu lại một vật gì đó cho đời, thì đó là kết quả tốt đẹp về lời Phát nguyện của tôi hiến dâng thân này cho Đạo Pháp và đó cũng là thành quả cuộc đời tu hành của tôi.
    Hai là, khi tôi thiêu, nếu tôi chết trong tư thế nằm ngửa thì nguyện vọng Phật giáo sẽ thành công, các thầy cứ tiếp tục tranh đấu. Ngược lại, nếu tôi chết nằm sấp thì quý thầy nên tìm cách đi ra các nước Miên, Lào, Thái... để tu, nguyện vọng tranh đấu của Phật giáo sẽ không thành. Ba là, ngày di quan tài của tôi, nếu các thầy có cảm thấy triệu chứng gì lạ lạ, có thể là ngủ mộng thấy, có thể là cảm giác hay triệu chứng gì thì nên đình chỉ ngay, dời việc di quan qua ngày khác”.


    Hình ảnh tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức
    Ngày 11/6/1963, sau khi đã tự tẩm xăng ướt mấy lớp áo cà sa, hòa thượng Thích Quảng Đức còn xách thêm một can xăng nữa đến ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn Đình Chiểu và Cách Mạng Tháng Tám), ngồi kiết già trước sự vây quanh của hàng ngàn tăng ni phật tử. Ngài tự tay dùng can xăng đổ kín người, rồi châm lửa đốt. Ngọn lửa bốc cao phủ kín thân mình. Ngài vẫn an nhiên chấp tay tĩnh tọa, gương mặt không lộ vẻ đau đớn, chịu đựng. 15 phút sau, lửa tàn, ngài đã ngã xuống, trên tay vẫn còn quyết ấn cam lồ.
    Cuộc tự thiêu đã diễn ra trong không khí hùng tráng, làm rung động cả thế giới. Hàng triệu con tim nức nở. Bao nhiêu nước mắt khóc thương, giận dữ đã rơi. Nhục thân của hòa thượng Thích Quảng Đức được đưa về quàn tại chùa Xá Lợi, để trước giảng đường để tăng ni phật tử tới viếng, tụng kinh cầu siêu trong không khí trang nghiêm, xúc động. 5 ngày sau, nhục thân ngài được đưa đi hỏa thiêu ở An Dưỡng Địa Phú Lâm.
    Các tăng ni niệm Phật trước ngọn lửa cháy rừng rực và khói bốc cao ngùn ngụt. Vị sư thầy kể chuyện cho tôi cùng với một số tăng ni khác được cử đi mở lò thiêu để hốt tro cốt còn lại. Đám tăng ni đã thấy một vật to bằng nắm tay nằm lẫn lộn giữa đống xương tro. Mọi người đều tận mắt thấy những mẩu xương nhỏ cháy thành tro vụn, màu trắng, xương lớn cũng tan vụn thành những mảnh nhỏ, chạm khẽ vào là rã thành tro, nhưng riêng vật hình trái tim thì chỉ bị cháy một ít chung quanh, về cơ bản vẫn còn nguyên vẹn. Mọi người đều bàng hoàng và đưa tro cốt cùng trái tim của hòa thượng trình lên Ủy ban Đấu tranh Bảo vệ Phật giáo.
    Sau khi bàn bạc, nhiều người phán đoán rằng, trái tim là cơ nhục nên khó cháy, do đó thống nhất thiêu tiếp 6 giờ nữa xem tình hình ra sao. Tuy nhiên, không chỉ thiêu 6 giờ, mà lần này thiêu tới 10 giờ bằng lò điện, nóng tới 4.000 độ C, khiến nứt cả lò thiêu, song trái tim vẫn không hề biến dạng. Lúc này, mọi người mới giật mình nhớ đến 3 điều nhắn nhủ cuối cùng của hòa thượng Thích Quảng Đức và đem ra so sánh thì thấy linh nghiệm cả.
    Thứ nhất, thân thể ông thiêu thành tro, mà quả tim vẫn còn đỏ hồng dưới sức nóng 4.000 độ C. Thứ hai, khi ngọn lửa thiêu thân vừa tắt, sau 3 lần cúi xấp, nhục thân của hòa thượng bật ngửa ra sau. Tư thế viên tịch đúng như Ngài dự đoán khiến tăng ni tín đồ tin tưởng vào sự thành công của chính nghĩa với chế độ gia đình trị Diệm – Nhu nên càng đấu tranh quyết liệt hơn… Thứ ba, ông còn báo mộng cho tăng ni, phật tử biết những địa điểm mà chính quyền Ngô Đình Diệm chôn mìn, để di chuyển áo quan ra lò hỏa thiêu theo đường khác.
    Những người trong Ủy ban này liền gọi thợ chụp hình đến chụp trái tim, in ra phân phát đi khắp nơi gây chấn động cả nước và thế giới. “Trái tim bất diệt” của hòa thượng Thích Quảng Đức được trưng bày tại chùa Xá Lợi để mọi tăng ni có thể chiêm ngưỡng. Ai cũng nghĩ đó là phép lạ. “Trái tim bất diệt” khiến phong trào đấu tranh ngày càng thêm mạnh mẽ, nên Chính quyền Ngô Đình Diệm tìm cách phá hoại trái tim của ngài.
    Sau khi vây ráp chùa, bắt bớ các tăng ni, phật tử, Diệm đã sai bác sĩ Trần Quang Tuyến tìm cách hủy trái tim này trước sự chứng kiến của nhiều người để dập tắt niềm tin của tăng ni phật tử cả nước. Bác sĩ Tuyến đã dùng axit đổ vào trái tim của hòa thượng Thích Quảng Đức, tuy nhiên, đổ vào bao nhiêu axit cứ trôi đi bấy nhiêu, không thẩm thấu vào được. Tay bác sĩ này còn bê nguyên cả trái tim thả vào bình axit, song từ trái tim vẫn không sủi ra chút bọt lăn tăn nào. Sợ quá, gã này chắp tay quỳ lạy 3 lần, không dám làm gì nữa.


    Trái tim nung 4.000 độ C không cháy
    Không tin chuyện trái tim đốt không cháy, Diệm đã mời các nhà khoa học Mỹ đến tìm cách phá hủy trái tim này. Người Mỹ đã dùng hồ quang điện (lửa hàn), thứ nóng nhất mà họ có, để đốt trái tim. Tuy nhiên, ngọn lửa nhiều ngàn độ C xanh lét, làm tan chảy cả sắt cũng không đốt cháy được trái tim lạ kia. Những nhà khoa học Mỹ lúc đó mới tin vào sức mạnh bất diệt của Phật giáo. Đốt không được, phá hủy không xong, bà Nhu (vợ Diệm) tìm cách đánh cắp trái tim, song không thành công.
    Theo vị sư thầy hiện ẩn cư ở chùa Quán Thế Âm thì trong hoàn cảnh đó, Giáo hội đã gửi trái tim của hòa thượng Thích Quảng Đức vào ngân hàng Thụy Sĩ. Sau ngày giải phóng, trái tim được chuyển về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, rồi được cất giữ ở nhiều nơi bí mật khác nhau. Cho đến nay, đã trải qua 45 năm, người dân cả nước luôn bị ám ảnh với câu hỏi vì sao một trái tim bằng thịt lại không thể cháy ở độ nóng hàng ngàn độ C?
    Đây là câu hỏi không chỉ ám ảnh những người bình thường mà còn ám ảnh cả những nhà khoa học, các nhà thần học cũng như những nhà nghiên cứu những điều kì diệu của thế giới vô hình. Các nhà khoa học trong và ngoài nước đều đã có các cuộc nghiên cứu rải rác suốt mấy chục năm qua, song vẫn chưa đưa ra kết luận hay lời giải thích nào. Những nhà khoa học Nga sau khi giám định đã nói rằng: “Trái tim của Ngài giống như viên ngọc. Những thứ lửa, điện đốt không cháy thì đúng là ngọc rồi”.
    Theo vị sư thầy hiện ẩn cư ở chùa Quán Thế Âm, “trái tim kim cương bất hoại” của hòa thượng Thích Quảng Đức chỉ có thể lí giải bằng những thuyết giáo sâu xa của nhà Phật mà thôi. Theo ông, trái đất nằm trên đầu ngọn tóc, bởi mọi chất tạo thành trái đất này đều có trong một sợi tóc. Điều này Phật giáo đã biết từ lâu, nhưng khoa học mới khẳng định lại trong thời gian gần đây. Do vậy, con người cũng hội tụ đầy đủ những thứ mà trái đất này có.
    Trái đất tạo được kim cương, thì con người cũng có thể tạo được kim cương bất hoại, vấn đề là phải chịu khó tu tập. Theo thuyết giáo nhà Phật thì con người là do khí dương và khí âm của trời đất tạo thành. Khí tụ thành tinh, tinh tụ thành thần gọi là thần thức. Đó chính là thứ tinh túy của con người. Nhưng con người thường lãng phí những thứ đó ra trời đất từng ngày qua hỉ, nộ, ái, ố, tham, sân, si...
    Hòa thượng Thích Quảng Đức xuất gia từ nhỏ, lại từ bi hỉ xả, không lấy vợ, lập gia đình nên không bị lãng phí khí dương. Suốt mấy chục năm, kể cả những lúc tu tập ở chùa Quán Thế Âm, lúc đấu tranh vì Phật giáo, ông cũng vẫn chịu khó rèn luyện hấp thụ khí dương của trời đất. Hòa thượng Thích Quảng Đức thường ngồi thiền vào những thời khắc như 6h sáng (dương trong âm), 12h trưa (toàn dương), 6h chiều (âm trong dương) và 12h đêm (toàn âm).
    Theo lời hòa thượng, ngồi thiền vào những thời khắc đó sẽ hấp thụ được khí trong lành và dồi dào nhất của trời đất. Với sự tu luyện chăm chỉ và một trái tim cực kỳ trong sáng, nhân hậu, nên khí dương trong thân thể hòa thượng rất dồi dào. Khi tự thiêu, sức nóng khí dương trong cơ thể, sức nóng vũ trụ và sức nóng ngọn lửa thiêu đã tụ lại tạo thành xá lợi. Nói theo cách khác thì trong lúc ngồi tự thiêu, hòa thượng đã dùng lửa tam muội (dương khí - nội hỏa) đốt đi trái tim của mình, khiến trái tim đã hóa thạch. Lửa thường không thể đốt nổi lửa tam muội, nên trái tim của hòa thượng đã trở thành “kim cang bất hoại”.
    Có thể nói, với trái tim kì lạ này, loài người với khoa học, máy móc hiện đại cần rất nhiều thời gian nữa mới có thể tìm thấy câu trả lời. Cùng với trái tim Thích Quảng Đức, những nhục thân bất hoại như thiền sư Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường (chùa Đậu, Hà Tây), thiền sư Như Trí (chùa Tiêu, Bắc Ninh) và thiền sư Chuyết Công (chùa Phật Tích, Bắc Ninh) sẽ mãi mãi là những bí ẩn lớn trong lịch sử loài người.

    Theo Tuổi Trẻ Thủ Đô
     
  9. NhaTrang

    NhaTrang New Member

    Tham gia ngày:
    5 Tháng mười 2006
    Bài viết:
    37
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    "...*** MỘT CÂU KINH BÍ MẬT ***

    Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc còn ở Việt Nam, chị tôi dấu kín vì sợ đến tai công an thì sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện, có gì thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi”.

    Người chị của chủ nhà, đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị ta xin phép vài phút để lên lầu, lát sau đi xuống, tay cầm một phong bì đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng, lắng nghe.

    - Gia đình tôi, sau bảy lăm, chỉ còn đàn bà vì đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi (1980), chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được.

    Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay.

    Từ Sài Gòn chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Đám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài Gòn về ăn cưới thì biết ngay, nhưng rình bắt là công việc của công an.

    Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là khuya nay, công an sẽ phục ở bãi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy.

    Trò nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức xã ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết gì cả!

    Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi vòng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người.

    Mặc dù đã được dặn trước là khi xuống thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn cãi cọ, nhưng khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau.

    Chỗ bãi đó toàn sình, ngập đến đầu gối khiến ai nấy bì bõm mãi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen nhau leo lên thuyền.

    Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi thì bỗng có tiếng súng, tiếng la hét:

    - Tất cả đứng yên! Đưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ.

    Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người vẫn còn ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nhìn mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi.

    Lúc đó tiếng súng và tiếng hô hoán “Đứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ” càng như gần hơn khiến mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đã dặn trước:

    - Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới tìm cách ra lộ đón xe về.

    Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm: “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát”.

    Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống thì vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu hình như có người cùng chạy với tôi, quay lại thì không thấy ai cả!

    Tôi chạy độ nửa tiếng, thấy đã xa, vừa hoàn hồn thì hai chân rã rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng.

    Tôi nhìn quanh. Một bên là biển đen sì, rì rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi.

    Tôi đoán, có lẽ công an rình bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể, nên bỏ chạy, vì thế mọi người mới chạy thoát.

    Từ lúc lên xe ở Sài Gòn đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi mình sẽ làm gì, hay phải ngồi như thế nầy cho đến sáng? Lúc nãy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi lạnh run cầm cập.

    Tôi thầm ước cho công an đến bắt mình, có người cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao thì ra! Cái xách nhỏ trên vai tôi vẫn còn. Tôi tìm chai nước lạnh, uống mấy ngụm.

    Trong xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi còn giữ được cái xách?

    Đang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây số. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi.

    Tôi đi như chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, vì sợ người ta tắt đèn thì không biết làm sao tìm đến.

    Độ nửa giờ sau, tôi đến nơi. Đó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn bão (loại đèn để đi trong gió mà không sợ tắt), đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.

    Khi đến trước cửa, tôi kêu lên:

    - Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với.

    Có tiếng đàn ông nói lớn:

    - Vào đi! Đừng sợ!

    Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem cây đèn bão và chiếc ghế vào.

    Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông ta chỉ chiếc ghế:

    - Ngồi đấy đi!

    Tôi nói cám ơn, vì áo quần dính sình, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng bình thản như việc nầy đã từng xảy ra nhiều lần:

    - Thế thì đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xã tôi, thay tạm. Áo quần bẩn thì giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài Gòn.

    Nghe nói sáng mai đón xe về Sài Gòn, tôi mừng quýnh, không ngờ mình may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm tình với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn, nhưng nhìn thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng mình khiếp sợ.

    Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt sạm nắng, hai gò má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc... nghĩa là ông ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp.

    Tuy đèn dầu tù mù nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như mình là con chuột đã bị con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức.

    Thấy tôi đứng bất động vì sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh:

    - Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát thì đến đây tá túc, sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà.

    Tôi đã cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Đừng sợ. Để tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Đói bụng thì có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn.

    Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà:

    - Có cái phòng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, còn bộ đồ bẩn thì giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ cho vợ tôi.

    Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy, ra nhà sau, vào phòng tắm, đóng cửa lại, gắn cây đèn sáp lên bệ, xây lưng về phía đèn, cởi đồ ra, dội nước. Tôi làm một cách vô thức, như bị thôi miên bởi cặp mắt của ông ta, tôi đoán, đang nhìn tôi qua khe hở của vách phòng.

    Tôi tắm qua loa, mặc áo quần vào. Còn nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, vò bộ đồ dính sình rồi treo lên một sợi dây kẽm trong phòng tắm. Khi tôi lên nhà trên thì ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng:

    - Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong phòng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm.

    Tôi nói:

    - Dạ. Cám ơn! Rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.

    Tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng, tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng nghe, không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số đô la và vàng tôi mang theo rồi tha cho tôi về nhà.

    Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán Thế Âm, cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng sóng biển rì rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa.

    Bấy giờ tôi mới thấy người rã rời, vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc cây đập mạnh vào khi tôi chạy bị ngã. Suy nghĩ miên man, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.

    Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Vừa xếp mùng, mền xong thì ông ta từ trong buồng bước ra.

    - Ngủ có được không?

    - Dạ. Đi mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng.

    Tôi nói mà không dám nhìn ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó.

    - Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài Gòn. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận.

    Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi “Đừng quên cái xách tay”.

    Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như không thấy, chỉ vơ vội cái xách, cầm đi theo ông ta.

    Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, còn biển thì nằm bên trái căn nhà, cách một cây số.

    Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng, chung quanh là sình lầy với cây đước, vẹt, sú gì đó mọc mênh mông, chạy đến mút mắt.

    Tôi không hiểu vì sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua.

    Có chăng là mấy con cua còng gì đó nằm trên mặt sình dương mắt nhìn tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xã hội loài người.

    Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa giòng sông.

    Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu thì xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều.

    Thuyền ghé vào một bến đò, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta, ba bánh dùng chở khách).

    Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ. Mọi người thấy ông ta thì cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hãi. Ông ta không thèm nhìn ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói gì đấy với người chủ xe. Người chủ xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi:

    - Mời cô lên xe. Xe chạy ngay bây giờ.

    Ông ân nhân không để ý đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa giòng. Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang tò mò nhìn tôi với vẻ sợ hãi rồi thì thầm với nhau gì đấy.

    Ông xe lam nổ máy, chở một mình tôi, vòng vèo trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế, thì thầm với ông ta.

    Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng còn nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng khoát tay.

    - Anh Năm dặn rõ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô, chúng tôi đâu dám nhận.

    Chiều hôm đó, tôi về đến nhà. Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau.

    Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đã bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đình, gồm bốn người, không có tin tức.

    Hai gia đình nầy thì tôi biết, họ là thương gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đã bán nhà, vì tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm.

    Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu. Khoảng một năm sau, tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi hoàn toàn không biết ai đã gửi đến.

    Chị ta cầm lá thư đưa lên. Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đình cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn còn giữ lá thư nầy. Để tôi đọc cho quí vị nghe:

    “Gửi bà H. (là tên tôi). Bà còn nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?

    Tôi cho bà rõ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lõng những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến bãi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn.

    Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là tìm đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi.

    Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đã được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đình vào thành phố, vì chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.

    Mỗi công an chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên tìm đến nhờ cứu giúp.

    Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.

    Thông thường, nếu nhiều người tìm đến thì tôi bảo họ, có gì đem theo nên kê rõ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau.

    Nếu chỉ một người thì tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những gì đem theo. Tôi còn rình nhìn lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những gì họ lận theo người?

    Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ gì, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt), công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch.

    Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị bắt.

    Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về.

    Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, vì chung quanh toàn sình lầy, có bỏ chạy một quãng là ngập người dưới sình, tôi chỉ rọi đèn pin, đi tìm và bắn họ rất dễ dàng.

    Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng chứ chẳng ích lợi gì. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu.

    Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu... Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố hcm cũng không hết của.

    Dĩ nhiên gia đình tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ.

    Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành. Tính ra, tôi ở đó đã được bốn năm, cho đến cái đêm bà tìm đến nạp mạng cho tôi.

    Như mọi khi, lúc bà đi tắm, tôi rình xem bà cởi đồ (để biết của cải lận theo người) rồi lên kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la.

    Như vậy, số phận của bà đã được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi tò mò.


    Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ trì một ngôi chùa lớn, gần chợ.



    Anh ta là công an, đi tu là công tác, mặc áo cà sa nhưng vẫn lãnh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà “thỉnh” những kinh đó thì biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dõi. (thập niên 60, Thích Quảng Đức cũng đã là đảng viên, nhận chỉ thị chống phá chính quyền Ngô Đình Diệm, có công lớn để cho cán bộ chích thuốc cho chết tê cứng trước khi thiêu, để khi thiêu thì không chạy lung tung được, nên sau này cũng được đảng tuyên dương đổi tên đường Nguyễn Huệ thành đường Thích Quảng Đức; còn Thích Huyền Quang có công lừa thiên hạ với trái tim khỉ nên cũng được phong chức lên làm Tăng Thống; sự thật thì sau khi Thích Quảng Đức bị cán bộ thiêu; lúc bị thiêu thì Thích Quảng Đức đã chết cứng ở chùa Xá Lợi rồi, và cán bộ xếp xác chết lại với tư thế ngồi chấp tay, trước khi mang đến ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn Đình Chiểu và Cách Mạng Tháng Tám, lúc đó chỉ có những người đi đường nhìn thấy, và đoạn phim quay được cũng chỉ thấy cảnh đang thiêu, chứ không hề thấy cảnh hàng ngàn tăng chúng quỳ lạy như đã tuyên truyền); chính quyền Ngô Đình Diệm ngay lập tức cho thủ tiêu xác Thích Quảng Đức và tiêu hủy hết rồi; nhưng cán bộ vẫn tuyên truyền để lừa thiên hạ).



    Vì tò mò và vì nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một cách tình cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh.

    Chỉ một câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người vì kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được .

    Hiện nay tôi đã ra khỏi ngành công an. Tôi đã đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số.

    Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế lương thực mà thôi.

    Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai bão lụt thì đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lão, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi...

    Tôi viết để bà rõ, nay tôi đã chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng còn các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng...

    Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm tìm được con đường giải thoát.

    Chúc bà sức khỏe”.

    Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói:

    - Thư chỉ viết thế thôi.

    Chúng tôi hỏi:

    - Chị có nhớ mình mang theo quyển kinh Phật tên gì không?

    - Đúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn quyển kinh “Quán Thế Âm Bồ Tát” trên bàn thờ, hễ hô “đi!” là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường.

    Hôm đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại một quyển, nghĩ rằng “Phật nào cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ trì cho chúng sinh tai qua nạn khỏi”. Ba tôi, khi còn sinh thời, tu tại gia, nghiên cứu kinh Phật.

    Ngoài chữ Việt, ông cụ còn biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh rất nhiều kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết mình đã mang theo quyển kinh nào khi vượt biên.

    Điều tôi tin chắc rằng. Chính quyển kinh đó đã cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của Đức Phật hoặc đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hãy ngừng tay lại. Lời phán đó phải có uy lực mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp đảm”.

    Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ.

    Câu “buông đao thành Phật” quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ còn cách đi hỏi các nhà sư thì họa may.

    Vì bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Đông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư PT để thăm và hỏi cho ra lẽ.

    Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất thân tình. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Đế ở Huế. Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy còn trẻ, nhưng sư PT thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.

    Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đãi cơm chay. Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe và hỏi sư có biết câu kinh nào đã khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không? Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói:

    - Nếu lý luận theo Phật pháp thuần túy ở đây thì không thích hợp với một người cs. Họ đã được dạy căm thù và được huấn luyện cách giết người, nên dù có cả một bầy quỉ dữ từ địa ngục chui lên, hay hàng nghìn Đức Phật hiện ra thuyết pháp, chưa chắc ông công an nầy phải sợ mà ngưng tay.

    Ông ta chẳng thù hận gì những người vượt biên, nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết bò. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng. Cán bộ thường bảo nhau: “Hy sinh đời bố, cũng cố đời con” là thế.

    Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt mình lại có câu “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Cha mẹ thương con cháu thì ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị một cách thành tâm.

    Đó là “Đạo Thờ Ông Bà”. Ông công an nầy thì làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của mình, “quả báo nhãn tiền”, con cháu sẽ lãnh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng

    “Mình giết người ta thì con mình bị người ta giết” nên ông ta sợ. “Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại sợ hãi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?”

    “Đa số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Đà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ trì bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy thì niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát” chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi.

    Những quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà kia đã mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ, không có gì giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang bước về hướng của giải thoát.

    Chính cái ý niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang mò mẫm trong bóng tối, đã bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi.

    Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng còn le lói một chút ánh sáng của lương tri. Đúng ra, phải gọi ông ta là “ông đạo” chứ không phải là “ông sư”.

    Vì ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, sãi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập. “Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những gì cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?”.

    Nhà sư cười:

    - Thoát được “tham, sân, si” là tự giải thoát rồi.

    Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đã bỏ được chữ “tham”? Chữ “tham” đơn giản, thường tình thôi, không cần phải triết lý xa vời. Tiền của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được?

    Còn hai chữ “sân, si”, bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng.

    - Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đã khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?

    Nhà sư lắc đầu:

    - Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu tình cờ, bình thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn, thắc mắc, sợ hãi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta tìm con đường giải thoát.

    Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo.

    - Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?

    Nhà sư lắc đầu:

    - Bị hỏi thình lình, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều gì chăng?

    Mục đích không phải tìm hiểu mà chỉ như trò chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ trình độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy.

    Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện trò vừa lang thang ngắm hoa cảnh.

    Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư...

    Độ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi:

    - Tìm được câu kinh nào chưa thầy?

    Sư lắc đầu và cười:

    - Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả! Để nói về cái nghiệp báo thì kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Đề Bà Đạt Ma (Devadata-suta) có câu:

    “Những việc ác mà ngươi đã phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một mình ngươi đã phạm, và một mình ngươi phải chịu quả báo”.

    Trong kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu:

    “Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi”...

    Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối.

    - Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn còn là một bí ẩn. Xin lỗi đã làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành khẩn, đã cảm động đến đức Phật, và Ngài đã ra tay tế độ, đã khai ngộ cho ông ta.

    Nhưng phải là người thật thành khẩn thì đức Phật mới làm được việc đó.


    Phạm Thành Châu..."
     
    Last edited by a moderator: 17 Tháng chín 2008
  10. SaoDem

    SaoDem New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    203
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    Theo tôi nghĩ bài viết này NhaTrang nên tự xóa đi thì hay hơn. Một bài viết mang tính nhạy cảm chính trị không nên post lên diễn đàn ( phạm vào quy định diễn đàn)

    Bạn đẫ từng viết " Đúc Phật Thích Ca đã dạy chúng ta không nên tin bất cứ điều gì một cách mù quáng. Hãy dùng đầu óc và suy nghĩ theo khoa học.

    Một ngưòi tu hành chân chính sẽ không làm việc chính trị.
    Một tập thể chân chính sẽ không lừa dối quần chúng vói những sảo thuật tráo đổi sự việc. " . Dòng tôi đã đánh dấu đỏ
    Vậy thì không nên để bài viết dựa vào tôn giáo mà nói tới chính trị . Rất mong bạn hiểu cho
    Cám ơn NT nhiều
     
  11. NhaTrang

    NhaTrang New Member

    Tham gia ngày:
    5 Tháng mười 2006
    Bài viết:
    37
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    Một hôm, Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: "xin 1 lời siêu tứ cú, tuyệt bách phi"

    Nam Tuyền không nói gì hết, rút lui về chỗ.

    Triệu Châu nói: "Thầy chúng ta thường thì nói 1 lời".

    Thị Giả bảo: "Tốt hơn, ông đừng có nói cái đó".

    Triệu Châu tát cho 1 cái.

    ~_donttell

    Bấy giờ Nam Tuyền đóng cửa phòng, và rải tro chung quanh, bảo chúng tăng: "Nếu các ông nói được 1 tiếng, cửa này sẽ mở".

    Có nhiều người bày tỏ sở kiến lung tung, nhưng Nam Tuyền không thích ý ai hết.

    Triệu Châu kêu lên: "Trời ơi !"

    Nam Tuyền bèn mở cửa ra.

    ~_coffee
     
    Last edited by a moderator: 17 Tháng chín 2008
  12. NguyenMinhTriet

    NguyenMinhTriet New Member

    Tham gia ngày:
    17 Tháng mười 2006
    Bài viết:
    3
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?



    Câu chuyện hay quá.
    Làm nhớ lại những ngày xa xưa.
    “buông đao thành Phật” thật là ý nghĩa.

    :-bd
     
  13. SaoDem

    SaoDem New Member

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    203
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    “buông đao thành Phật” Lòng phật thật từ bi , không vương vấn thù hận , ~_bighug

    Chúc bạn vui
     
    Last edited by a moderator: 17 Tháng chín 2008
  14. tuongnguyen2007

    tuongnguyen2007 Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    11 Tháng tám 2008
    Bài viết:
    477
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    Nhiều lần tôi muốn viết gì đó cho đề tài này, và cứ do dự không muốn viết bởi vì đề tài này rất nhạy cảm (...), hôm nay, tôi chỉ xin đề đạt một số vấn đề về Phật pháp:
    - Trong 3 cõi sáu đường:Cõi tiên không tu được vì Thọ quá, sung sướng quá; cõi Thần không tu được vì quá sân (nên bao công đức tu được sẽ mất sạch vì quá chấp)..., làm người là một đại phước duyên (thọ vừa đủ, khổ vừa sức, ...) hội đủ duyên để tu được. Nói cách khác, làm người là một đại phương tiện để tu tập vậy. Do vậy, việc hủy hoại thân thể của chính mình cũng là một đại tội đáng đi vào địa ngục.
    - Xác thân này là tứ đại giả hợp, ý thức chúng ta được hình thành bởi bị biết và mê lầm, thế gian này là một cõi mộng - vô thường: vì lẽ không có thật nên đâu có ngã (ta thường tưởng lầm rằng có ngã tướng nên mới có việc phải diệt ngã tướng). Chúng sinh khác nhau vì hình tướng, vì giàu nghèo, ... nhưng vốn bình đẵng vì cùng chung một thể chân, một tự tánh giải thoát. Chân lý vốn không hai, không sinh không giảm; không đúng không sai và thường còn - Bởi thế làm gì có việc một Phật tử chân chính phải hy sinh xác thân này để bảo vệ chân lý. Nói rõ ra về hành động này: là dùng mê để giải mộng vậy (...?!). Nhưng nói cho cùng tất cả những việc đã xảy ra đều là diệu dụng của Như lai. Xin đừng đánh đồng hành động này với những việc làm của các vị Đại Bồ Tác thi hành Đại nguyện của mình vì chúng sinh.
    - Thần thông? Loài quỷ có thần thông không? Có; Các vị ở các tầng trời có thần thông không? Có; trên hành trình chân lý tùy theo pháp môn thích hợp cho từng thời kỳ, từng nghiệp quả của các hành giả có thần thông không? Có. Nhưng rất khác nhau: một bên coi thần thông là mục đích, và một bên dùng là Phương tiện Thiện xảo và không bao giờ bám víu vào nó (bởi lẽ nếu bám víu vào nó có khác gì ta vừa cởi bỏ một lớp áo mê lầm lại khoác vào một lớp áo mê lầm khác): Tam Tạng chỉ kiên định một niềm tin và thành chánh quả, một Tôn Ngộ Không với 72 phép thần thông để làm gì (vì nào có thoát ra khỏi Ngũ uẩn của chính mình - hình tượng cố gắng vượt thoát khỏi bàn tay Phật tổ).
    - Vậy lục thông là gì? phải chăng là thần thông? cũng đúng nhưng cũng sai. Đúng vì đã nói ở trên: yêu ma quỷ quái còn có thần thông. Sai: vì là Phật tử ai cũng phải có một Đức tin: cuộc sống này vô thường, vì thế sẽ không có một hạnh phúc thực sự. Những lúc ta thấy hạnh phúc chẳng qua là giác quan ta được vỗ về và không thường còn - Ta sẽ không còn khổ khi mắt, tai, mũi, lưởi, thân, ý không còn bị tập nhiễm. Mắt không còn phân biệt đẹp - xấu, tai không còn thích nghe lời khen, mũi không còn chê hôi hám, thân không còn thích an nhàn, và cuối cùng là ý thức vậy. Khi ta tin điều đấy, liễu ngộ được được điều đấy là bước một bước chân vào của Phật vậy. Và chỉ cần Sự phải viên dung: một Pháp thông là vạn pháp thông, ai đạt được điều đấy gọi: Lục thông tại thế vậy.
    Vài dòng lạm bàn, chữ nghĩa là phương tiện, chỉ xin tự tâm dâng lên bàn thờ tuyệt đối ba nén nhang:
    - Tự tâm hoan hĩ;
    - Tự tâm hướng về chánh pháp;
    - Tự tâm cung kính.

    Hoan hĩ chào các bạn,
     
    Last edited by a moderator: 22 Tháng chín 2008
  15. doilabekho

    doilabekho Member

    Tham gia ngày:
    9 Tháng tư 2008
    Bài viết:
    287
    Điểm thành tích:
    16
    Ðề: Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

    bác nói hay lắm tuongnguyen2007 cái việc này nó là 1 vấn đề nhạy cảm(.......)
     

Chia sẻ trang này