Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

Thảo luận trong 'Kiến thức về Tứ trụ (Tử Bình)-Tài là nguồn sống, a' bắt đầu bởi ChanThuyen, 16 Tháng tư 2009.

  1. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    19. Hữu quan hữu ấn , định tác lang miếu chi tài . Vô quan vô ấn hữu cách nãi triều đình chi dụng .

    (Có quan có ấn , nhất định dùng được cái tài nơi hoàng cung. Không quan không ấn phải thành cách cục khác mới có thể dùng nơi triều đình)


    Chú thích : tứ trụ là "Chánh quan cách" mà có "ấn " , hoặc giả như "Chánh ấn cách" , mà lại có quan , có ấn có cả quan mới là trong, chủ có công danh văn chức. Song một tứ trụ tốt, không nhất định là "Chánh quan cách" , hoặc mừng gặp "chánh ấn cách", Tứ trụ cho dù không có chánh Quan và chánh ấn , thì cũng còn Thực thần cách , Dương nhận cách , quan trọng ở chổ thành cách cục tốt, cũng khả dĩ luận là phú quý vậy.

     
  2. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    20. Tiểu nhân mệnh nội , dã hữu chính khí Quan tinh . Quân tử cách trung , dã phạm Dương nhận Thất sát .

    (Trong mệnh Tiểu nhân cũng có chánh khí Quan tinh, Trong cách cục Quân tử cũng phạm Dương nhận Thất Sát.)


    Chú thích : "Chánh quan" và "Chánh ấn" cách , phép bình thường luận khả dĩ làm nên, có công danh , nếu mà "chánh quan" cách gặp phải "thương quan" phá hoại,"Chánh ấn" cách có "tài" tinh , cũng chẳng chủ là trụ phú quý.



    Như : Mậu Tý , Tân dậu , Bính Tý , Kỷ sửu .

    Ví dụ này là Thương quan hỗn Quan , phú viết : tiểu nhân mệnh nội , dã hữu chính khí quan tinh chi vị . Ngược lại, "Thất sát" và "Dương nhận" tuy khác nhau nhưng đều luận là "hung bạo chi thần", ví như trong tứ trụ toàn "Thất sát" ,"Dương nhận", giống như lấy bạo chế bạo , ngược lại biến thành trung hòa.



    Như : Nhâm Tý , Nhâm Tý , Bính ngọ , Giáp ngọ .

    Ví dụ này Thất sát tọa Dương nhận , thường pháp gọi là "Dương nhận giá Sát", chủ có quyền thế.
     
  3. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    21. Vi nhân hảo sát , dương nhận tất phạm vu thiên quan. Tố thực từ tâm , ấn thụ phùng vu thiên đức .

    (Phàm người thích sự sát phạt, tất Dương nhận phạm Thiên quan ; người hiền từ ăn chay thường do Ấn tinh phùng Thiên đức.)

    Chú thích : đại phàm người có tứ trụ toàn "Thất sát , Dương nhận , Thực thần", tất chủ vũ chức, người cương nghị có uy thế mà dường như nặng vẻ xơ xác tiêu điều. Còn người có "Ấn" cách tọa "Thiên đức quý nhân", phần đông chủ phong thái nhân từ, đôn hậu.












    22. Sanh bình thiểu bệnh , nhật chủ cao cường , nhất thế an nhiên tài mệnh hữu khí .

    [Cuộc đời ít bệnh do Nhật Chủ cường vượng; một đời bình yên do tài mệnh có khí (ngược với vô khí).]


    Như : Mậu Thìn , Giáp dần , Canh thân , Nhâm ngọ .

    Tứ Trụ này Nhật can và Tài đều tọa ở vị trí Lâm quan, đã vậy nhật chủ cường vượng, cũng là "tài mệnh hữu khí" , chủ cuộc đời ít bệnh , bình yên.







    ~_rose
     
  4. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    23. Quan hình bất phạm ấn thụ thiên đức đồng cung , thiểu nhạc đa ưu , cái nhân nhật can nhu nhược .

    (Không phạm hình tù là do được Ấn và Thiên đức đồng cung; buồn nhiều vui ít, ấy nguyên nhân nhật can nhu nhược.)

    Chú thích : suốt đời ko phạm phải hình tù kiện cáo, là bởi vì "Chánh ấn" và "Thiên đức Quý nhân" đồng ở một trụ.








    24. Thân cường sát tiết , giả sát vi quyền . Thân khinh sát trọng , thân nhược hữu tổn .

    Thân cường có sát tiết , nương vào sát hóa thành quyền . Thân yếu mà sát trọng , thân nhược tất có tổn thương.


    Như : Đinh Sửu , Bính Tuất , Canh Thân , Ất Dậu .

    Trụ này là thân cường mà sát ít, Thất sát ngược lại thành hữu dụng cho nhật can, cho nên viết : "giả sát vi quyền".

    hoặc Như : Canh Thân , Mậu Tý , Canh Thìn , Kỷ Mão .








    25. Thiết nhược nhật chủ thái nhược , tắc chủ đa hữu ưu hoạn chi ngộ .

    Ví như nhật chủ quá nhược , nên chủ gặp nhiều ưu buồn hoạn nạn.
    Như : Đinh Tị , Bính Ngọ , Canh Dần , Quý Mùi .

    Trụ này là sát trọng làm thân suy , chủ cuộc đời nhiều phiền nhiễu .



    ~_rose
     
  5. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    26. Nguyệt sanh nhật can , vận hành bất hỉ tài hương . Nhật chủ vô y , khước hỉ vận hành tài địa .

    (Nguyệt sanh nhật can, vận hạn không nên gặp Tài. Nhật chủ không có chổ dựa , nhưng lại mừng gặp vận Tài)

    Chú thích : nguyệt trụ sanh phù nhật can , tức là ý nói đến "ấn" cách, "ấn" khả năng sanh nhật chủ ."Tài" năng khắc "ấn" , cho nên "Ấn" cách ko nên nhập "tài" vận. "Nhật chủ vô y" , tức là chỉ nhật can không có "ấn" đến sanh phù , nói cách khác nếu không phải "ấn" cách , thì gặp "tài" vận không sao.












    27. Thời quy nhật lộc , sanh bình bất hỉ quan tinh . Âm nhược triều dương , thiết kị Bính Đinh Ly vị .

    (Trụ giờ quy lộc cách, rất sợ gặp quan tinh. Âm nhược triều dương cách, tránh gặp Bính Đinh và Tị Ngọ (quẻ Ly).

    Chú thích: "thời quy nhật lộc" , tức là nhật can đóng vị trí Lâm quan ở trụ giờ, còn gọi là "Quy lộc cách" , không mừng nếu Tứ trụ cũng thấy "quan tinh".


    Như : Mậu Thân , Bính Thìn , Tân Dậu , Mậu Tý .


    Trụ này đáng lẽ thuộc cách "âm nhược triều dương" nhưng có chữ Bính phá cách , nên quan lộc ko thể cao được.

    "Âm nhược triều dương" là chỉ "lục âm triều dương" , là cách cục sáu nhật can Tân sanh tại giờ "Mậu Tý", rất sợ tứ trụ có những chữ "Bính , Đinh , Tị , Ngọ". "Ly" là chỉ bát quái Ly, can chi thuộc quẻ "Ly" là "Bính , Đinh , Tị , Ngọ". Tý là dương, Tân là âm nên gọi là Âm nhược triều dương, kị Bính Đinh vì Bính hợp mất Tân, thất cách ; Đinh phá Tân, mất cách. Tị Ngọ là nơi hỏa vượng phá Quý khí của Tân kim và xung trụ giờ có chữ Tý.
     
  6. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    28. Thái Tuế nãi chúng sát chi chủ , nhập mệnh vị tất vi tai . Nhược ngộ chiến đấu chi hương , tất hình vu bổn mệnh .

    (Thái Tuế đứng đầu các hung thần, nhập mệnh cũng chẳng lo tai họa. Nhưng nếu gặp chiến đấu chi hương , tất hình hại bổn mệnh.)


    Chú thích : "Thái Tuế " chỉ lưu niên Thái Tuế . Trong một năm thì can chi lưu niên Thái Tuế làm chủ.


    - "Nhập mệnh" là chỉ ví dụ như trong tứ trụ căn bản có "Bính dần" mà gặp lưu niên "Bính dần" nên nói là "nhập mệnh". Ghi chú thường ghi là "phục ngâm " .

    - "Chiến đấu chi hương" là chỉ can chi lưu niên Thái Tuế và can chi tứ trụ đối xung nhau. Thí dụ như lưu niên thị " Giáp Tý" mà trụ có năm sanh là "Canh ngọ" , tức là lưu niên "Giáp Tý" và can chi niên trụ "Canh ngọ" đối xung. Can chi đối xung nên gọi là: chiến đấu chi hương. Ghi chú thường ghi là "phản ngâm" .

    Lời văn trong phú này cho rằng "phục ngâm" có lẽ chẳng có tai họa gì, còn "phản ngâm" chủ bất cát.
     
  7. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    29.

    Canh , Tân lai thương Giáp , Ất ; Bính , Đinh tiên kiến vô nguy. (Canh , Tân đến gây tổn thương Giáp , Ất ; nếu thấy Bính , Đinh ko còn nguy hại cho Giáp, Ất nữa.)

    Bính , Đinh lai khắc Canh , Tân ; Nhâm , Quý ngộ chi bất úy. (Bính , Đinh lai khắc Canh , Tân; gặp được Nhâm , Quý thành ra chẳng sợ.)

    Mậu , Kỷ sầu lâm Giáp , Ất ; cán đầu tu yếu Canh , Tân. (Mậu , Kỷ buồn gặp Giáp , Ất ; Thiên can cần nhất là Canh , Tân.)

    Nhâm , Quý lự tao Mậu , Kỷ ; Giáp , Ất lâm chi hữu cứu. (Nhâm , Quý lo gặp Mậu , Kỷ ; Giáp , Ất đến giải cứu.)

    Nhâm lai khắc Bính ; tu yếu Mậu tự đương đầu. (Nhâm khắc Bính , rất cần chữ Mậu để đương đầu chống đỡ.)

    Quý khứ khắc Đinh; khước hỉ Kỷ chi tương chế. (Quý khắc Đinh , rất mừng gặp Kỷ chế phục Quý.)



    Chú thích : những câu phú này chỉ ngũ hành có sự tương hỗ chế phục lẫn nhau, dẫn đến thành bình thường. Như Bính , Đinh hỏa khắc Canh , Tân kim; nếu tứ trụ có Nhâm , Quý thủy ngược lại sẽ chế phục Bính , Đinh hỏa , tất nhật can Canh , Tân kim khả dĩ chẳng cần băn khoăn việc hỏa đến khắc nữa.



    Như : Bính Thìn , Canh thân , Giáp Thìn , Bính dần .

    Tứ Trụ này nhật can "Giáp" mộc ngộ "Canh Thân" là cường kim khắc phạt , nhưng 2 trụ năm , trụ giờ có "Bính" hỏa chế Canh kim , nên chẳng cần lo gì cả.



    Như : Nhâm Thìn , Bính Ngọ , Canh Thìn , Quý Mùi .

    Tứ Trụ này nhật can "Canh" kim gặp phải "Bính Đinh" cường hỏa chế kim, nhưng 2 trụ năm , trụ giờ có "Nhâm , Quý" thủy chế ngược lại "Bính" hỏa , nên "Canh" kim tuy nhược cũng chẳng sợ hỏa của "Bính ngọ". Ngũ hành có cái đạo tương sinh tương chế lẫn nhau , cứ y như vậy cả.
     
  8. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    30. Giáp phùng Kỷ nhi sanh vượng , định hoài trung chính chi tâm .

    (Giáp gặp Kỷ mà sinh vượng, mang trong lòng một tấm lòng trung chính.)




    Chú thích : nhật can "Giáp" gặp giờ "Kỷ" , tắc "Giáp Kỷ" hợp thổ . Chỉ cần Nguyệt chi sanh ở tứ khố "thìn , tuất , sửu , mùi" tức là vị trí "thổ" sanh vượng, người có tứ trụ này chủ nhân từ đôn hậu.
     
  9. mindy

    mindy New Member

    Tham gia ngày:
    11 Tháng một 2008
    Bài viết:
    99
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    Chào Chân Thuyên
    Tuổi trẻ mà dịch thuật lưu loát,dễ hiểu nhất là chịu khó ngồi viết bài đăng lên cho mọi người cùng xem.Rất cám ơn Chân Thuyên~_rose
     
  10. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    31. Đinh ngộ Nhâm nhi thái quá , tất chí dâm ngoa chi loạn .

    (Đinh ngộ Nhâm mà quá vượng, tất dễ dẫn đến dâm loạn, bất chính.)


    Chú thích : "Đinh" nhật ngộ thiên can "Nhâm" ở trụ tháng hoặc trụ giờ , thì "Đinh Nhâm" hiệp mộc , nếu mà tứ trụ quá nhiều địa chi "dần , mão" vượng vị, tất chủ bất cát.





    32. Bính lâm thân vị, phùng dương thủy, nan hoạch diên niên. Kỷ nhập hợi cung, kiến âm mộc, tận vi tổn thọ.

    (Bính lâm thân vị, phùng dương thủy, khó được trường thọ. Kỷ nhập hợi cung, kiến âm mộc, đều chủ tổn thọ
    )

    Chú thích : đây là nhật chủ Bính gặp thân 1 hỏa 1 kim tương xung và là vị trí bệnh gặp vận "Nhâm" - vượng thủy - nên khắc Bính hỏa; nhật can Kỷ tọa hợi là vị trí Thai, thủy thổ tương xung lại gặp "Ất" - vượng mộc - khắc thổ, đều chủ yểu thọ. (Câu phú này thường làm ví dụ trong các tác phẩm văn chương có nói đến đoán mệnh thọ yểu, ví dụ như Hồng Lâu Mộng).






    33. Ất phùng Canh vượng , trường tồn nhân nghĩa chi phong.

    (Ất phùng Canh vượng , luôn là người có tư cách công bằng nhân nghĩa)


    Chú thích : nhật chủ "Ất" , có trụ tháng hay giờ mà thiên can là "Canh" ( Ất Canh hợp kim ) , ví được sanh vào tháng "thân , dậu" vượng kim, chủ người có tính cách công bằng chính nghĩa, vì mọi người. Kim vượng chủ về nghĩa: luôn luôn tuân thủ quy luật của tạo hóa hoặc công lý.






    34. Bính hợp Tân sanh, trấn chưởng uy quyền chi chức .

    (Bính hợp Tân sanh vượng, có chức vị trấn chưởng uy quyền)


    Chú thích : nhật can "Bính" , có trụ tháng hay giờ mà thiên can là Tân , thời "Bính , Tân" hợp thủy. Nếu mà sanh vào tháng "hợi , tý" vượng thủy, tất chủ có quyền uy.






    35. Ất mộc trùng phùng hỏa vị , danh vi khí tán chi văn. Độc thủy tam phạm Canh Tân, hiệu viết thể toàn chi tượng.

    (Ất mộc gặp nhiều hỏa, gọi là "khí tán chi văn". Thủy độc vượng lại phạm thêm Canh Tân là 3 lần vượng, nên viết "thể toàn chi tượng".)


    Như : Nhâm ngọ , Bính ngọ , Ất tị , Nhâm ngọ .

    Tứ trụ này nhật can "Ất" mộc , địa chi toàn là "hỏa", Ất mộc lại đến sanh hỏa, mà khiến nhật can "mộc" tiêu hao quá nhiều, viết "tán khí chi văn", chủ không được đại quý. Chú ý: mộc rất kị tiết hỏa, vì khi hỏa được sinh vượng, thiêu cháy ngược lại mộc.



    Như : Tân sửu , Canh dần , Nhâm Thìn , Canh tuất .

    Trụ này là nhật can "Nhâm" thủy có thiên can năm, tháng, giờ Canh, Tân sanh phù, mà thành cách cục "kim thủy" nhị vượng, nên viết: "thể toàn chi tượng", mệnh thái quá nên chủ bất cát.
     
  11. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    36. Thủy quy đông vượng , sanh bình lạc tự vô ưu. Mộc hướng xuân sanh , xử thế an nhiên hữu thọ.

    (Thủy vượng ở mùa đông, cuộc đời vui tươi chẳng ưu buồn. Mộc sanh vượng ở mùa xuân, bình yên sống thọ với đời.)


    Chú thích: mệnh có nhật can Nhâm Quý thủy, sanh vào tháng mùa đông "hợi , tý" là thời khắc thủy vượng, Giáp Ất mộc sanh vào mùa xuân "dần , mão" là tháng mộc vượng, đều luận nhật can cường vượng. Nếu như gặp các cách cục như "tài quan" cũng kiện toàn, thì đều luận là mệnh tốt.




    37. Kim phùng Cấn nhi ngộ thổ , hiệu viết "hoàn hồn". Thủy nhập Tốn nhi kiến Tân , danh vi "bất tuyệt".


    Chú thích:


    - "Cấn" là tên quẻ chỉ chữ "dần", Canh kim kiến dần là tọa vị trí tuyệt, ví như gặp "Mậu dần" , "Mậu" thổ sanh kim, nên cho dù Canh kiến dần là tuyệt địa, nhưng vì lý do gặp được Mậu thổ sanh kim nên "tuyệt xứ phùng sinh", viết là "hoàn hồn".

    - "Tốn" là tên quẻ chỉ chữ "tị", Nhâm thủy kiến tị là tuyệt địa, ví như gặp "Tân Tị" , dĩ nhiên "Tân" kim sanh "Nhâm" thủy , cũng là cách "tuyệt xứ phùng sanh" tương đồng như trên, viết là "bất tuyệt".






    38. Thổ lâm mão vị , vị trung niên tiện tác hôi tâm. Kim ngộ hỏa hương, tuy thiểu tráng tất nhiên tỏa chí.

    (Thổ lâm vị trí mão, chưa đến tuổi trung niên mà làm việc dễ nản chí. Kim ngộ đất hỏa, chẳng mạnh mẽ tất nhiên đưa đến thất bại.)


    Chú thích: thổ lâm mão vị là chỉ "Kỷ mão" , mão mộc ở dưới khắc ngược lên tên, chủ cuộc sống nói chung nhạt nhẽo, chẳng có nhiệt huyết tìm kiếm công danh. Kim ngộ hỏa hương , là chỉ "Canh ngọ" , cũng là địa chi hỏa khắc ngược thiên can kim, cũng luận là chẳng thích đường lợi danh.






    39. Mộc tòng thủy dưỡng , thủy thịnh nhi mộc tắc phiêu lưu. Kim lại thổ sanh , thổ hậu tắc kim tao mai một.

    (Mộc nhờ thủy dưỡng , thủy thịnh quá thì mộc trôi. Kim nhờ thổ sanh , thổ quá nhiều làm kim mai một.)


    Chú thích: "mộc" rất cần "thủy" đến sanh phù, tuy nhiên thủy không nên thái quá, thủy quá nhiều, lại làm mộc úng gốc trôi dạt. (Có thuyết cho rằng Giáp mộc mới sợ thủy nhiều, còn Ất mộc không sợ thủy nhiều). Thổ khả dĩ sanh kim, nếu mà tứ trụ thổ đã quá nhiều, thì chẳng những không thể sanh kim, mà còn làm kim mai một đi (kim vị vùi lấp).


    Như : Nhâm Tý , Nhâm Tý , Giáp Tý , Mậu Thìn . ( Nhật can Giáp mộc , thủy thịnh mộc trôi )


    Như : Mậu Thìn , Mậu ngọ , Canh Thìn , Mậu dần . ( Nhật can Canh kim , thổ nhiều chôn kim )







    40. Thị dĩ ngũ hành bất khả thiên khô , yếu bẩm trung hòa chi khí ; Tu tuyệt lự vong tư , phương vô đại thất nhĩ .

    (Cái lý Ngũ hành không thể bị mất căn bằng, cần nhất khí ngũ hành được trung hòa; sau đó suy xét kỹ sự tuyệt-vong, có vậy mới không sai lầm.)


    Chú thích: luận mệnh phú quý hay bế tắc, tất phải quan sát nhật can cùng quan hệ can chi ngũ hành trong tứ trụ, cần nhất là giải cứu thành thế trung hòa , không được quá vượng hoặc quá suy , khi quan sát kỹ phải quyết tâm suy xét thật rõ ràng, phận biệt rành mạch tinh vi, cứ như thế chẳng bao giờ gặp phải sai lầm lớn.

     
  12. moclan

    moclan Hội viên

    Tham gia ngày:
    20 Tháng một 2008
    Bài viết:
    565
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    Cách luận giải ở những bài trên nhìn chung thấy một điểm cơ bản rằng người xưa lấy Tài Quan Ấn làm điểm trụ để tìm cách cục, không kể chỉ ở trong trụ tháng mà bất kỳ trụ nào.

    Dĩ nhiên mức độ ưu tiên, cường vượng, suy nhược, hữu dụng hay vô dụng của Tài hay Quan là từ trụ tháng mà tính. Sau đó là trụ giờ. Điều này dễ hiểu vì người ta cần sinh tồn ở Tài hay Quan, trụ năm là tổ tiên cha mẹ cũng kể như ấn thụ, trụ ngày là bản thân và vợ nên cách cục nằm ở đó là mấu cuối cùng (nếu có). Trụ giờ là mục tiêu ngang với trụ tháng vì cũng là hậu vận, điểm tựa sau trung niên, bởi vậy nên thành đạt hay không là đoán ở đây.

    Tôi chưa dò lại tất cả thí dụ nhưng có thể nói cách luận Tử bình trên chỉ dành cho nam giới, ngày nay đoán cho nữ giới mà theo cách này thì rất khó trúng, phải có suy luận riêng mới được.

    Ai theo Thiệu Vĩ Hoa mà đọc những câu phú này sẽ mở ra được một chân trời khác, rộng hơn, nhưng chỉ nên lấy làm nền (không thể thiếu được) cho cách suy luận của mình. Lý do vì Thời thế đã khác, vạn vật không thay đổi chỉ là hình ảnh bên ngoài, bên trong là đã đổi thay rất nhiều.

    Cám ơn chanthuyen nhiều. Dịch như vậy là căn bản ngũ hành âm dương, tử bình và cả tử vi phải rất giỏi. ~_coffee
     
    Last edited by a moderator: 22 Tháng tư 2009
  13. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    Cảm ơn chị moclan đã có những lời bình sâu sắc. Quả ko hổ danh người học rộng, đọc một mà hiểu mười. =D> . Nếu ko có những lời bình của chị, những câu phú chỉ là nhữg cục đất sét vô tri vô giác.

    ~_rose


    Đã hết 40 câu phú Kế thiện biên, hôm nay chanthuyen sẽ dịch tiếp "Minh thông phú" , phần "Nữ mệnh luận" cũng sẽ cố đưa lên sớm để chị moclan cho ý kiến , cũng là 1 cách "hiểu/luận tử bình" trong thời đại mới (theo ý gợi mở của chị moclan).
     
  14. dinhman_kt

    dinhman_kt New Member

    Tham gia ngày:
    24 Tháng ba 2009
    Bài viết:
    74
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    Chân thuyên sao hay quá ta!
    cảm ơn cung cấp tư liệu nghiên cứu cho mọi người!một mầm lành sau này sẽ có nhiều người được giúp!Tôi cũng học thêm một phần tư liệu từ anh bạn.Cảm ơn!
     
  15. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    MINH THÔNG PHÚ ĐOÁN

    Lời dẫn:

    Thái cực phán vi thiên địa , nhất khí phân vi âm dương . Lưu xuất ngũ hành , hóa sanh vạn vật .

    Vi nhân bẩm mệnh , bần phú quý tiện do chi , thuật sĩ tri cơ , cát hung phúc họa định hĩ .

    Phàm khán mệnh dĩ nhật can vi chủ , tam nguyên nhi phối hiệp bát tự can chi .

    Luận vận giả dĩ nguyệt chi vi thủ , phân tứ thời nhi khởi , cửu hành tiêu trưởng .

    Hướng quan vượng dĩ thành công , nhập cách cục nhi trí quý .

    Quan , ấn , tài vi cát . Bình định toại lương . Sát , thương , kiêu , bại vi hung , chuyển dụng vi phúc .

    Toàn bị trữ súc vu " thìn tuất sửu mùi " . Trường sinh trấn cư vu " tị hợi dần thân " .

    Tý ngọ tắc thành bại tương phùng , mão dậu nãi do nhập tương hỗ .
    Chi can kiến hữu bất kiến chi hình , vô trung sanh hữu .

    Tiết khí vi hữu dư chi số , hỗn xứ cầu phân .

    Thiện ác tướng giao , khước hỉ hóa ác sùng thiện , cát hung hỗn tạp , chí phạ hại cát thiêm hung .

    Thị cố đắc cục triều nguyên , phi phú tắc quý .

    Phạm viên phá cục , phi yểu tắc bần , đắc thất quân kiêm , tiến thoái nhưng phục .

    Thần sát tương bán , khinh trọng giác lượng , nội hữu tạp khí tài quan , tương kiêm Thiên Chánh lưỡng Ấn .

    Đồng cung lộc mã , hiệu vi nội ngoại Tam kì .
     
  16. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    Dịch nghĩa:

    Thái Cực phân ra thiên địa, nhất khí chia âm dương, lại hóa ra ngũ hành hóa sanh vạn vật; con người có số mệnh, thành ra vậy mới có bần - phú - quý - tiện, Thuật sỹ hiểu rõ cái cơ trời ấy mới định cát hung phúc họa. Phàm xem mệnh lấy Nhật Can làm chủ, phối hợp tam nguyên can chi Bát tự. Luận vận lấy chi tháng làm đầu, phân bốn mùa mà khởi, rồi xét rõ ngũ hành tiêu trưởng trong vận ra sao. Định thành công xem Quan vượng nhập cách không bị phá, thì phải quý. Quan, ấn, tài là cát, cứ an tâm toại chí. Sát, thương, kiêu, bại là hung, chuyển thành hữu dụng lại là phúc. Mộ khố là "Thìn tuất sửu mùi" như của để dành , Trường sanh trấn cư ở "Tị hợi dần thân", đất Tý ngọ thời thành bại tương phùng, mão dậu lại thu nhập (trói buộc) lẫn nhau. Can Chi, thấy mà như không thấy (hình), trong hư mà sinh ra có. Trong 24 Tiết khí có biết bao là số mệnh, khu hỗn độn này (tiết khí) phải phân luận rành mạch. Thiện ác tương giao, nhưng mừng cải hóa cái ác mà theo về thiện; cát hung hỗn tạp, chỉ dẫn đến làm hại sự tốt mà thêm hung họa. Tất cả điều đó là lý do: đắc cách phò trợ nhật nguyên, không phú cũng quý; phạm vào cách cục xấu, bị phá hư, không chết yểu cũng bần hàn; "được" hay "mất" cũng phải xem cả hai, "tiến" hay "thoái" vẫn phải xem cho kỹ. Quá nửa Thần sát phải đo lường nặng nhẹ; xem rõ bên trong tàng chứa tạp khí Tài Quan hay không; đồng thời xem cả Thiên ấn Chánh ấn. Nếu thấy Lộc mã đồng cung, xét xem dấu hiệu Tam kỳ (Tài Quan Ấn) trong ngoài cho rõ.
     
  17. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    Chú thích :

    - Trong lời phú về Mệnh lý thời nhà Minh trước đây, có một thói quen của văn nhân (người viết hay người tập hợp), ngay cả từ luận thuyết đến chính văn trước kia, có một đoạn nhỏ tóm ý chính Minh thông phú, đây là tính nguyên tắc trong trình bày tác phẩm mệnh lý.

    - Minh Thông phú dường như là một loại phú sâu sắc, hành văn rất ngắn gọn, súc tích, một ít chi tiết cũng không nói rõ, có thể là nguyên tác giả cho rằng người có thể xem phú này không phải nhập môn mà là người đã thâm học Mệnh Lý, nên quan điểm thể hiện hơi đi vào tự thuật các trọng điểm, nên ngữ khí tương đối ngắn gọn, trong sáng.

    - Hơn nữa, phàm đọc sách Mệnh Lý có điều cần lưu ý, Mệnh Lý phú văn dĩ nhiên là nói đến các nguyên lý sanh khắc ngũ hành, nhưng các văn nhân này thông thường rất coi trọng việc văn chương viết được tốt hoặc không tốt, bởi vậy khi hành văn thường chú ý nắn nót, cẩn thận đối đáp câu cú chữ nghĩa, thường thường không là ảnh hưởng đến nội dung thực tế, cho nên với một số hình dung từ, như câu cú "gia chức gia phong, công danh cái thế", v.v... không cần phải đi giải thích chữ nghĩa, hầu hết đều chỉ ý nghĩa "cát tường".


    1. Chân quan thời ngộ mệnh cường , tảo thụ kim tử chi phong.

    (Chánh quan cách gặp được mệnh vượng cường, sớm có phong thái phát đạt, phú quý.)

    Lời người dịch: Kim: màu vàng, vàng. Tử: màu tím ; ngày xưa người mặc áo quần vàng, tím óng ánh phải là người phú quý.

    Chú thích: "Quan" chỉ Chánh quan cách , và "Chân quan" là chỉ tứ trụ được tạo thành "chánh quan cách" .

    Một, Chánh Quan bất phùng xung, cũng bất phùng hợp .

    Hai, Tứ Trụ không gặp Thất Sát, Thương Quan, can chi đều thấu Quan. Khi không gặp gỡ hai loại tình huống không tốt này thì "Chánh Quan cách" có thể xưng là "chân Quan". Chỉ có "chân Quan" vẫn không đủ để luận là mệnh tốt, hảo cách cục cũng phải có Nhật Chủ kiện toàn thì mới có thể hưởng phúc hay không, nên phú viết "thời ngộ mệnh cường".


    Chữ "Thời" giải thích có ba điểm:

    a) "Thời" là Ngũ hành tứ thời chi, cũng chính là chỉ thời tiết 4 mùa "xuân , hạ , thu , đông". "Thời ngộ": là chỉ nhật can so với nguyệt lệnh chi tháng. Như ngày Giáp , Ất sanh ở tháng "dần , mão", tức là mộc vượng ở mùa xuân, nếu gặp được thì có thể gọi là "Mệnh cường" , cũng chính là Nhật can rất kiện toàn, rất vượng.

    b) "Thời" chỉ thời khắc, nhật chủ giả dụ như là "Giáp , ất" , nhưng lại không sanh tại tháng "dần , mão" , mà xuất sanh ở giờ "dần, mão", cũng khả dĩ gọi là "mệnh cường".

    c) Như nhật can Giáp giả sử sanh tại ngày "Giáp dần", cũng khả dĩ gọi là "mệnh cường". Nguyên tắc "Mệnh cường" là nhật can đóng tại địa chi gặp "Lâm quan , Đế vượng , Trường sinh", đều khả dĩ luận là "cường". Giả sử như "Chánh quan" không gặp phải "sát, thương, xung, hình, hợp", thì nhật can kiện cường, tức khả luận phát đạt từ nhỏ.
     
    Last edited by a moderator: 4 Tháng năm 2009
  18. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    2. Lương mã nguyệt thừa thời kiện , vị thiên ngân thanh chi chức.

    ( Lương mã nếu vượng nơi trụ tháng hay trụ giờ, chưa đoán hết được chức vị trong tương lai thăng tiến đến đâu.)

    Lời người dịch: "
    ngân": bạc, phương tiện tiền tệ thông dụng thời xưa; "thanh": màu xanh là đại biểu màu sắc của phương Đông, cũng là chỉ thẻ tre dùng để khắc viết. Nên "ngân thanh chi chức" chỉ người có chức vị được tiếp xúc với bạc và văn khố tất nhiên phải ở nơi quyền quý.


    Chú thích:

    Chữ "Mã" trong Mệnh Lý khả dĩ mang 2 hàm nghĩa thông dụng, vừa chỉ Chánh tài vừa chỉ Dịch mã, "lương mã" là chỉ Chánh tài tọa vượng (Trường sanh, Lâm quan, Đế vượng), hoặc Dịch mã tọa vượng.

    Câu "nguyệt thừa thời kiện", thì lương mã tại Tứ Trụ đều có khả năng tọa nơi đất vượng, nhưng tốt nhất là ở "nguyệt/tháng" hoặc "thời/giờ", trong câu này cũng không chỉ ra một điều kiện riêng biệt, nhưng bất luận cát thần nếu muốn sử dụng được tất nhiên là không gặp phải "xung, hình", điểm này không cần kể thêm gây trùng lắp vì "lương mã" cũng đã bao quát không ngộ "xung, hình", và khi Nhật Can cũng vượng, đều có thể cho rằng chức vị trong tương lai ngày càng thăng tiến.

    ~_coffee
     
  19. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    03. Nguyệt ấn phụ nhật vô tài khí , vi hoàng bảng chiêu hiền .


    Chú thích:

    "Nguyệt ấn"
    chỉ Chánh Ấn cách trên trụ tháng; "phụ nhật" là một hình dung từ trừu tượng, bởi vì trụ tháng "Chánh Ấn cách" đương nhiên là kề cận phù trợ trụ ngày, "vô tài khí" là chỉ Tứ Trụ ko có Chánh Tài (Thiên tài thì không sao), bởi vì trụ tháng đã thành "Chánh Ấn cách", lấy lục thần sanh khắc mà định cách "Tài khắc Ấn", thì Chánh Ấn cách gặp Chánh Tài là tượng "phá ấn", Chánh Ấn cách thậm kỵ trong tứ trụ có Chánh Tài.
    Bởi vậy, nếu trụ tháng mà là Chánh Ấn cách, Tứ Trụ ko có Chánh Tài, tức thành một cách cục tốt đẹp nên viết: "hoàng bảng chiêu hiền". Hoàng bảng chiêu hiền, là chỉ triều đình thời xưa muốn mời nhân tài liền soạn dán bảng văn cầu người hiền tài ra giúp nước, ở đây là chỉ "năng ngộ kiến thưởng thức chi quý nhân" (gặp được quý nhân thỏa lòng ngưỡng mộ).

    ~_coffee
     
  20. ChanThuyen

    ChanThuyen New Member

    Tham gia ngày:
    27 Tháng một 2009
    Bài viết:
    90
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử bình phú đoán và luận giải (sưu tầm)

    04. Nhật lộc quy thời một quan tinh, hiệu thanh vân đắc lộ.
    (Nhật lộc quy thời không có Quan tinh, công danh nhẹ bước đường mây)


    Chú thích:

    "Nhật lộc quy thời" chỉ Nhật Can tọa vị trí Lâm Quan tại chi giờ. Như Nhật Can Giáp chi giờ dần, Nhật Can Ất chi giờ mão, Nhật Can Bính, chi giờ tị, Nhật can Đinh, chi giờ ngọ, Nhật can mậu, chi giờ ngọ. Nhật Can Kỷ, chi giờ tị. Nhật Can Canh, chi giờ thân. Nhật Can Tân, chi giờ dậu. Nhật Can Nhâm, chi giờ hợi. Nhật Can Quý, chi giờ tý. Tất cả là chỉ chi giờ thông với Nhật Can, đều là vị trí Lâm Quan của Nhật can, "Lâm Quan" cũng xưng là "Lộc". Lộc của Nhật can tại chi giờ, nên gọi là "nhật lộc quy thời", Tứ Trụ không thấy Chánh Quan viết "một(vô) Quan tinh", "thanh vân đắc lộ" tức là ý chỉ thuận gió một bước lên mây.


    ~_coffee
     

Chia sẻ trang này