1. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    XV.- Chiêm Thất Vật​


    Xem thất vật lấy Thể làm chủ, Dụng làm thất vật.

    Thể khắc Dụng, tìm được nhưng phải chậm.
    Dụng khắc Thể, tìm không được.
    Thể sinh Dụng, rất khó tìm.
    Dụng sinh Thể, tìm ngay được thấy.
    Thể Dụng tỵ hòa, của không mất.

    Lại xem Biến quái cho biết phương hướng nào:

    - Biến quái là Càn thì tìm ngay phương Tây Bắc, hoặc trên lầu gác các công sở hoặc dấu ở bên kim thạch, hoặc dấu trong vật hình tròn, hoặc chỗ trên cao khỏi mặt đất.

    - Biến quái là Khôn tìm hướng Đông Nam, gần ruộng vườn hoặc ở kho vựa hoặc chỗ gặt hái, hoặc chôn trong hang dưới đất hoặc trong đống gạch ngói hoặc trong đồ hình vuông.

    - Biến quái là Chấn tìm về hướng Đông, gần chỗ sơn lâm, hoặc dấu trong bụi gai góc, hoặc gần chỗ trống chiêng, hoặc ở trong chiêng trống, hoặc ở chỗ ồn ào hoặc gần đường cái.

    - Biến quái là Tốn tìm phương Đông Nam, hoặc gần chỗ sơn lâm, hoặc gần chùa chiền, hoặc tại vườn rau hoặc trong xe thuyền, hoặc dấu trong đồ bằng mộc.

    - Biến quái là Khảm tìm phương Bắc, dấu gần ven nước hoặc gần kinh ngòi, mương rảnh, giếng ao hoặc gần chỗ để rượu, dấm hoặc ở chỗ có cá muối.

    - Biến quái là Ly tìm phương Nam, gần lò bếp, hoặc ở gần cửa sổ, hoặc dấu ở nhà trống, hoặc gần chỗ văn thư hoặc ở chỗ có khói lửa.

    - Biến quái là Cấn tìm phương Đông Bắc, gần chỗ sơn lâm, hoặc gần mé đường, hoặc chỗ đá sỏi hoặc dấu trong hang đá.

    - Biến quái là Đoài tìm phương Tây, hoặc gần bờ ao giếng, hoặc trong đống vách tường đổ vở, hoặc trong nền hoang đổ nát, hoặc trong ao giếng bỏ hoang.
     
  2. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    VIII.- Chiêm Tật Bệnh​


    Chiêm bệnh thì lấy Thể làm bệnh nhân, Dụng làm bệnh chứng.

    Thể quái nên vượng chẳng nên suy, Thể nên phùng sinh không nên thấy khắc.

    Dụng sinh Thể chớ nên khắc Thể,
    Thể sinh Dụng bệnh dễ lành.
    Dụng sinh Thể bệnh khó khỏi.
    Thể khắc Dụng không thuốc cũng lành.
    Dụng khắc Thể tốn thuốc vô công.
    Nếu Thể phùng khắc nhưng được vượng khí thì cũng còn hy vọng.
    Thể ngộ khắc mà lại gặp suy, đoán chẳng được bao nhiêu ngày nữa.

    Muốn biết có thể cứu được trong cơn hung thì xem có quẻ nào sinh Thể chăng.

    Thể sinh Dụng, bịnh dây dưa liên sàng,
    Dụng sinh Thể bịnh càng chóng khỏi.
    Thể Dụng tỵ hòa ắt bịnh chẳng phải lo.

    Muốn xem bịnh ngày nào khỏi hẳn, xét ở quẻ sinh Thể mà suy, muốn rõ thời kỳ lâm nguy, xét quẻ khắc Thể mà định.

    Muốn biết bịnh cho uống thuốc gì, xét quẻ sinh Thể mà xử dụng như:

    - Ly quái sinh Thể nên uống thuốc sắc chín.
    - Khảm quái sinh Thể nên uống thuốc lạnh.
    - Cấn thì ôn bổ, Càn Đoài thì dùng lương dược (thuốc mát).

    Nếu có thuyết tin quỷ thần tuy không phải là đạo của Dịch, nhưng cũng không nói rằng Dịch đạo chẳng lưu tâm, hãy lấy lý mà suy, như có quái khắc Thể, tức biết được bịnh phạn quỷ thần.

    - Càn quái khắc Thể, chủ Tây Bắc phương chi thần, hoặc binh đao chi quỷ, hoặc thiên thời hành khí, hoặc xung chính chi tà thần.

    - Khôn thuộc Tây Nam chi thần, hoặc khóang dạ (ruộng đồng) chi quỷ, hoặc liên thân chi quỷ (quỷ ở cạnh nhà), hoặc phạm Thổ Thủy thần trong làng, hoặc phạm quỷ đạo lộ, hoặc phạm vô chủ chi quỷ.

    - Chấn thuộc Đông phương hoặc Mộc hạ chi thần, hoặc yêu quái, hoặc bị ảnh hưởng chi thời.

    - Tốn là quỷ Đông Nam, hoặc quỷ tự ải tự sát hoặc quỷ già tỏa trí mạng (bị xiềng xích mà chết, thắt cổ treo cây v.v...)

    - Khảm là quỷ phương Bắc, hoặc Thủy thần, hoặc trầm mịch chi vong, hoặc quyết bịnh chi quỷ.

    - Ly thì quỷ Nam phương, hoặc Dũng mạnh chi thần, hoặc phạm Táo tự, hoặc đắc tội Tổ tiên, hoặc bị Phần thiêu chi quỷ, hoặc bị quỷ đau sót mạng vong.

    - Cấn là bị thần phương Đông Bắc, hoặc bị sơn lâm chi thần, hoặc bị sơn tiêu (yêu quái hiện người), mộc khách hoặc Thổ quái thạch tinh.

    - Đoài thì phạm Tây Nam hoặc Trận vong chi quỷ hoặc Phế tật chi quỷ hoặc Vẩn kỉnh tường sinh (thắt cổ tự sát, xiềng xích mà chết) chi quỷ.

    Trong Bản quái không có quẻ khắc Thể thì chớ nên bàn đến.

    Lại có người hỏi: Chiêm bịnh mà gặp quẻ Càn Khôn, tức là quẻ Thiên Địa Bí thì đoán như thế nào?

    Nhiêu Phu dạy rằng:

    1.- Càn thượng Khôn hạ, mà sơ hào động, ấy gọi quái sinh Thể, Biến thì thành Cấn thuộc Mộc, Hổ thì thấy Tốn Cấn đều là sinh Thể chi nghĩa, vậy chẳng nên lo gì, gặp ngày tương sinh thì bịnh khỏi hẳn. (Ghi chú của người đánh máy: Trong sách phần Tượng đồ riêng một trang, nhưng tôi đưa vào đây theo lời giải thích của từng hào động.)

    Chánh quái
    (Sơ hào động)

    _____
    _____ Thể
    _____ Càn: Kim

    __ __
    __ __ Khôn: Thổ
    __ __ * Dụng
    Biến quái


    _____
    _____
    _____ Càn: Kim

    __ __
    __ __
    _____ Chấn: Mộc
    Hổ quái


    _____
    _____
    __ __ Tốn: Mộc

    _____
    __ __
    __ __ Cấn: Thổ



    2.- Thấy phát động hào 2 thì Biến quái thành Khảm (Thủy). Thể là Kim tức Kim sinh Thủy, nghĩa là Thể sinh cho nên gọi là tiết Thể hại Kim (là Thể thì Kim mà bị tiết ra, chảy ra, thì tất nhiêm Kim phải hao mòn) tức là Thể phải hao, và cũng gọi là Kim nhập Thủy hương (vàng chìm trong nước). Hổ quái lại hấy Tốn Ly có nghĩa là Phong Hỏa phiến lô đều là khắc Thể hết, lại xem đương thời ngoại ứng như thế nào, tức là cái triệu thiêu thây (phần thi chi tượng).

    Chánh quái
    (hào 2 động)

    _____
    _____ Thể
    _____ Càn: Kim

    __ __
    __ __ * Dụng
    __ __ Khôn: Thổ
    Biến quái


    _____
    _____
    _____ Càn: Kim

    __ __
    _____
    __ __ Khảm: Thủy
    Hổ quái


    _____
    _____
    __ __ Tốn: Mộc

    _____
    __ __
    _____ Ly: Hỏa



    Thế đoán là phải chết, chẳng phải nghi ngờ, lấy Xuân, Hạ, Thu, Đông tứ quý mà suy thì thấy lý rõ ràng.

    3.- Thấy phát động hào 3: Khôn quái biến Cấn quái thuộc Thổ, tức là quái sinh Thể, khỏi cần suy đến Hổ quái cũng đã đủ biết tốt rồi, vậy đoán tốt không còn nghi ngời gì nữa.

    Chánh quái
    (hào 3 động)

    _____
    _____ Thể
    _____ Càn: Kim

    __ __ * Dụng
    __ __
    __ __ Khôn: Thổ
    Biến quái


    _____
    _____
    _____ Càn: Kim

    _____
    __ __
    __ __ Cấn: Thổ
    Hổ quái


    _____
    _____
    _____ Càn: Kim

    _____
    _____
    __ __ Tốn: Mộc



    4.- Thấy phát động hào 4: quẻ Càn biến thành quẻ Tốn thuộc Mộc. Kim Mộc đều có nghĩa là khắc Thể, ví dù Hổ quái có tốt chăng thì cũng phải xấu. Vì Mộc có nghĩa là Giang thi (khiêng thây), Kim vị nguyên huởng chi suy (gạch ngói), đó là suy cái lý mà định, mà cũng gọi là "Thi" đó, mà lôi ra cái lý.

    Chánh quái
    (hào 4 động)

    _____
    _____ Càn: Kim
    _____ * Dụng

    __ __
    __ __ Thể
    __ __ Khôn: Thổ
    Biến quái


    _____
    _____
    __ __ Tốn: Mộc

    __ __
    __ __
    __ __ Khôn: Thổ
    Hổ quái


    _____
    __ __
    __ __ Cấn: Thổ

    __ __
    __ __
    __ __ Khôn: Thổ



    5.- Thấy phát động hào 5: quẻ Càn biến thành Ly thuộc Hỏa, ấy là sinh Thể quái. Hổ và Biến đều sinh Thể. Ấy là tốt khỏi nghi ngờ gì nữa. Nếu gặp thêm triệu tốt thì càng thêm tốt, triệu hung thì chậm hơn, không đến nỗi chết. Thật là đoán rất rõ ràng.

    Chánh quái
    (hào 5 động)

    _____
    _____ * Dung
    _____ Càn: Kim

    __ __
    __ __ Thể
    __ __ Khôn: Thổ
    Biến quái


    _____
    __ __
    _____ Ly: Hỏa

    __ __
    __ __
    __ __ Khôn: Thổ
    Hổ quái


    __ __
    _____
    __ __ Khảm: Thủy

    _____
    __ __
    __ __ Cấn: Thổ



    6.- Thấy phát động hào 6: quẻ Càn biến thành quẻ Đoài thuộc Kim, Thể bị tiết khí. Hổ thấy Tốn Cấn, một tốt một xấu. Bịnh chẳng chết thì cũng chí nguy, cung nên xem triệu ngoại ứng, gặp triệu tốt đoán tốt, gặp triệu hung đoán hung. Cách đoán ấy rất rõ ràng. Tất cả các quái đều cũng đoán như thế, thời Tâm dịch bao giờ mà không linh ứng.

    Chánh quái
    (hào 6 động)

    _____ * Dụng
    _____
    _____ Càn: Kim

    __ __
    __ __ Thể
    __ __ Khôn: Thổ
    Biến quái


    __ __
    _____
    _____ Đoài: Kim

    __ __
    __ __
    __ __ Khôn: Thổ
    Hổ quái


    _____
    _____
    __ __ Tốn: Mộc

    _____
    __ __
    __ __ Cấn: Thổ
     
  3. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    XVII.- Chiêm Quan Tụng​


    Phàm chiêm quan tụng lấy Thể làm chủ, Dụng làm đối từ nhân, cũng ứng vào sự kiện cáo.

    Quái Thể nên vượng, Dụng quái nên suy.
    Dụng phải sinh Thể, chẳng nên Thể sinh Dụng.
    Thể nên khắc Dụng, chẳng nên Dụng khắc Thể.
    Thể mà khắc Dụng thì ta thắng người.
    Dụng mà khắc Thể thì người thắng ta.

    Thể sinh Dụng là ta thất lý, hoặc vì sự kiện cáo mà ta phải táng tâm.

    Dụng sinh Thể, chẳng những là ta đã thắng lý, à lại còn sở đắc.

    Thể Dụng tỵ hòa, quan tụng rất tốt; nếu không có người phù trợ, thì ít ra cũng chủ hòa.
     
  4. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    XVIII.- Chiêm Phần Mộ​


    Lấy Thể làm chủ, lấy Dụng làm phần mộ.
    Thể khắc Dụng, sự an táng rất tốt.
    Dụng khắc Thể, chỗ chôn thấy xấu.
    Thể sinh Dụng, chỗ chôn ấy chủ thối bại.
    Dụng sinh Thể, chủ hưng vượng, có âm phước hậu tự.
    Thể Dụng tỵ hòa, là chôn đất tốt, chôn chỗ ấy rất cát xương.

    Trên đây nói về thuyết Thể Dụng, tất cả 18 chương, để làm thí dụ cho hậu học, ngoài ra còn biết bao nhiêu là vấn đề, vô số kể. Há chỉ có 18 chương đã đủ hay sao? Vậy nên noi theo lời đoán 18 chương trên đây để suy nghiệm, kẻ học đạo nên xét đoán cho tinh vi.
     
  5. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    Thiên Tựa Tam Yếu Linh Ứng

    Vả chăng! Dịch là bản chất thuộc Tinh lý hoc, bản chất của Tinh lý ấy hoàn toàn do ở Tâm của ta vậy. Cái Tâm ấy là bản chất của một Tâm linh sáng suốt, trong sạch, chẳng bị một tơ hào nào xúc phạm, chẳng có một bụi trần nào làm hoen ố được. Tinh lý đây đủ là Dịch thể hiện hoàn toàn ở Tâm ta, ấy là Dịch, ấy là Tiên Thiên Dịch vậy.

    Chí như mối lo tư, tự nhiên bắt đầu bộc phát, ngoại vật gắn liền với tâm, như mây che không trung, như bụi làm lu mờ kiếng, chìm đắm mịt mù không rõ ràng. Mà trong vào Dịch thể hiện nơi Tâm của ta, há để xen lẫn được như thế sao?

    Cho nên cái nguyên nhân kỳ diệu của Tam yếu, nó xoay vần ở Nhĩ (tai), Mục (mắt), Tâm (cái tâm tư), ba yếu tố hư linh ấy thể hiện vào sự vật. Tai thì thông, Mắt thì sáng, Tâm thì thật trong sạch sáng suốt. Vì sự căn là do nơi Tâm, mà Tâm thì chủ trị lấy sự căn. Song le sự căn chưa phát động, thì quỷ thần chưa rõ được cái nguyên nhân, cát hung, họa phước không nơi thâm nhập. Cho nên Tiên sư dạy rằng: Tư lự chưa phát động, Quỷ Thần chưa hay, chẳng phải do nơi ta, thì do tại ai?

    Nếu sự căn mà dấy động ở Tâm ta, ắt là quỷ thần thấu hiểu, sự cát hung hối lận tất phải có số, thì tất nhiên ta đã có sẵn một lẽ gì đó rồi, ắt phải cầu đến Tâm Dịch của ta vậy.

    Như vậy im lặng, không tiếng, không động, yên lặng mà lo nghĩ, mà xét đoán cho chân thành, chú ý xem sự thay đổi, ngẫm ngợi xét tìm, quay vần trong Tam yếu, ắt hẳn ta thấy, mà thấy rõ ràng, nghe không rõ, ta nghe rõ ràng, như thấy rõ hình ảnh, như nghe âm thanh báo hiệu, ta xem xét rõ ràng, thì biết Dịch là đạo chiêm bốc, chính Dịch là ở nơi Tâm ta vậy.

    Tam yếu chẳng phải là sự hư không, mà sự huyền diệu linh ứng rất cao xa, ấy là đạo vậy.

    Xét lý cho chí tình, chí thần, trăm họ hàng ngày thường dùng mà chẳng hay. Làm sao được, để biết cho đầy đủ cái ảo diệu chân tình để luận bàn ấy chỉ có tiên sinh Lưu. Tiên sinh người ở Giang Hạ, hiệu Trạm Nhiên Tử, được Vương Ốc Sơn nhhân, Cao Xử sĩ Vân Thạch trao truyền.

    Bảo Khánh năm thứ 4, sau rằm tháng Trọng hạ, Thanh Linh Tử Chu Hư, bái thủ tự
     
  6. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    Thiên Tam Yếu Linh Ứng

    Tam Yếu Linh Ứng quây quần trong ba yếu Tố Nhĩ, Mục, Tâm, linh ứng là linh diệu ứng nghiệm vậy.

    Xét Nhĩ để mà nghe, Mục để mà nhìm xem, Tâm để mà lo nghĩ. Ba yếu tố ấy, người ta không thể hiểu được, mà cái lý thuyết của vạn vật cũng không ra ngoài phương thức ấy được.

    Để cho thích đáng với sự chiêm quyết, yên lặng mà nghe, mà nhận thức sự lo nghĩ, tịnh mà xem xét vạn vật, mà nhận xét các âm thanh, để biết cát hung, thấy rõ hình ảnh của thiện ác, thấy rõ cái lý của họa phước đều do sự chứng nghiệm của thuật chiêm bốc.

    Như hợp với cái ứng thanh, như bóng theo hình làm sáng tỏ cho ta thấy vậy.

    Cái chân lý của Chu Dịch là: gần thì thủ (lấy chư thân (mình), xa thì thủ chư vật.

    Chu Dịch là do của Tiên hiền, Tiên sư làm ra và đã chọn lựa lấy những thành ngữ của thế tục làm thành lệ, mà nghiệm ra như Quỷ Cốc Tử, Nghiêm Quân Bình, Đông Phương Sóc, Gia Cát Khổng Minh, Quách Phác, Quản Lộ, Lý Thuần Phong, Viên Thiên Cương, Hoàng Phủ Chân nhân, Ma Y Tiên, Trần Hy Di, kế sau Thiệu Khang Tiết, Thiệu Bá Ôn, Ngưu Tư Hối, Ngưu Tư Kế, Cao Xử Sĩ, Lưu Trạm Nhiên, Phu Thọ Tử, Thái Nhiên Tử, Chu Thanh Linh Tử mà thời đại tương truyền không chuyên nhất, mà chẳng biết tên họ, chẳng tham dự vào đó hay sao?

    Và xét ra thì trời cao đất dày, vạn vật tan rã, âm trọc dương thanh, ngũ khí phơi bày, họa phước khó tránh khỏi số mạng, cát hung đều có cơ. Người đứng đầu trong muôn vật, cái Tâm là chủ cái thân, Mắt ngụ ra hình sắc, Tai nhận lãnh âm thanh, ba yếu tố ấy bao gồm đầy đủ cả muôn vật.

    Như trên là cái linh ứng của Thiên Địa vạn vật, mà Nhĩ, Mục Tâm là ba yếu tố nên gọi là Tam Yếu.

    - Cho nên gặp triệu tốt mà thuận là tốt - Gặp triệu xấu, thì chẳng có thể tránh được sự hung - Vật tròn là thể hiện sự thành, vật khuyết (sứt mẻ, hư hỏng) là thể hiện sự hại.

    Cái lý do đó, đoan nhiên chẳng phải nghi ngờ gì nữa, như trên là xét vật khắc ứng, thấy tốt tức là tốt, gặp hung ắt là xấu.

    - Như mây tan thì thấy trời, sự vật đều sáng (tốt), khí sương mù che lấp không trung, vật bị phai mờ (xấu). Thình lình trận cuồng phong làm cho trôi dạt (rối rít) - Gặp Chấn sấm động thì rối loạn, hoảng sợ khống - Mặt trăng thình lình ló dạng, thì trong trẻo sáng suốt - Thốt nhiên mưa thầm nhuần áo, khá nhờ ân trạch (ân huệ).

    Như trên nhận xét Thiên văn mà suy luận vậy.

    - Trùng sơn ngăn cách khó gặp, trùng trạch (ao đầm), nhuần thấm càng sâu; nước chảy sự việc thông; đất dồn chứa lại sự việc dình trệ - Đá cứng bền là nhờ ruột rắn chắc (cứng); cát vải ra thì tay phải xòe; sóng nổi cuộn thì chủ kinh hoàng khốn khổ - Núi sụp lở chủ hao tán thổ điền - Gần kề ao khô cạn, tâm lực kiệt mòn - Đứng dưới cây khô, tướng mạo suy vi.

    Ấy là xét địa lý mà suy nhân sự.

    - Gặp người phẩm giá, là ứng điềm tốt lành - Gặp hiển quan cao tước ắt thấy sự sang trọng - Gặp phú thương đại gia, chớ lo chi tài - Thấy nhi đồng than khóc ắt phải ưu lo cho con cháu - Lại, Tốt (Lại là viên chức, Tốt là binh lính) kêu xôn xao, kỵ nhất là kiện cáo - Hai nam hai nữ là triệu trùng hôn - Nhất đạo nhất tăng là triệu ở riêng một cõi - Phu nhân cười nói, sự vui mừng ngầm sẽ tới - Nữ tử giằng co nhau là triệu bí ẩn (tà gian) thấy lụy - Gặp thợ, chủ cải hoán gia môn - Gặp đồ tể, ắt cốt nhục phân ly - Gặp người săn thú, ắt được ngoại tài đồng áng- Gặp ngư phủ, ắt có lợi về giang biên - Gặp đàn bà chửa thì sự việc trong tâm bộc phát - Gặp người mù thì trong tâm sẵn mối lo buồn.

    Ấy là xem nhân phẩm mà xét nhân sự.

    - Chí như vẫy tay bảo đừng, hoặc lắc đầu chẳng chịu, dụi mắt, sịt mũi, phun nước, phà hơi, hắt hơi, là điềm tang khốc - Gãi đầu búng gàu chắc là có sự lo âu - Chân lay động là dấu hiệu đi - Khoanh hai tay là triệu tổn thất - Co ngón tay lại, là trở tiết danh - Thở ra là sự bi ưu - Le lưỡi ra mà lay động, là chủ sự thị phi - Cùng đâu lưng lại, xem chừng lường gạt giả dối - Vung cánh tay lên, triệu chứng tranh đoạt hơn thua - Hạ chân xuống là triệu khuất phục để cầu xin.

    Ấy là xem sự cử động chư thân gần nhất để ứng vào sự việc.

    Nhược gặp kẻ nào trao sách cho, ắt rắc rối về văn thư, từ tụng - Chủ đánh tớ, phòng bề trên khiển trách - Giảng luận kinh sử, ắt hẳn sự thể đổ vỡ, rạn nứt vì hư khuyết - Hát xướng ngâm nga, mưu sự (đồ mưu) trở thành tán thán (tưng bốc, ca ngợi) - Thấy cờ bạc, chủ tranh đấu về tài - Gặp biên chép, viết lách, chủ động văn thơ - Thấy tay nắm dắt vật gì, là được người giúp việc - Nắm tay lôi kéo, gặp nhiều liên lụy.

    Ấy là ứng vào nhân sự.
     
  7. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    Gặp lái đò chèo thuyền, ắt gặp được người dẫn đường chỉ lối - Xa mã lên đường là triệu mang trách nhiệm nặng nề đã hết - Dương cung nách tên, ắt được tiến cử tài danh - Có tên không cung, tài danh chưa khá đạt - Cầm đao nắm kiếm ắt được khoái lạc hân hoan - Vạch giáp múa đao đoán chắc binh quyền chi triệu - Thấy ươm tơ, mọi việc rối như vò - Đánh cờ vây (đánh cờ bàn), chỗ chủ yếu phơi bày trước tứ chúng - Trang hoa (trang sức) chạm quả, sự giao kết cuối cùng không trọn - Họa ảnh vẽ hình, đều thuộc loài trang điểm - Kết hợp đều thành (quây, cuốn, chắp nối mối tơ, chỉ) cầu chức vụ càng tốt - Bút mực hiện thấy là triệu cầu văn - Gặp nghiêng dù (nghiêng dù để chào) là chủ thối quyền - Thình lình soi kiến, ắt được chiếu chỉ - Ôm cầm vật quý, ắt được trọng dụng phi thường - Vác cây khiên gỗ, có tài (của) chẳng ít - Gặp đồ đong lường (như cái lít, cái cân chẳng han) phải nên trù liệu tinh tường - Gặp thước kéo nên đắn đo sự việc - (giảm mức độ) - Thấy chân đá, gạt, bị người gạt bỏ khinh khi - Mở khóa cởi vòng, gặp việc ít thông - Thấy sửa chửa đồ vật, ắt lâu chẳng bền - Cầm đá mài kiếng soi, sự việc hai lần mới được - Chơi đùa búa rìu, mài sắt thép, sự việc chậm trễ mới nên - Vung dao chặt cây, thì có thương tài mới được việc - Cắt áo quần trước tổn sau thành - Làm đồ gốm, trước thành sau bại - Đánh cờ bàn, giữ mưu thủ kế - Bủa lưới (giăng lưới) tìm tòi phương sách kế hoạch cũng tất không - Cầm búa cầm cưa ắt sẽ bị thương - Rửa chén, sút bình phòng họa vì uống - Phất quạt thân yêu chiêu đãi chi nghĩa - Bận áo dơ bẩn, đề phòng mưu hại.

    Trên đây là ứng về vật khí, tức xa thì dùng chư vật.

    - Thảo mộc tuy vô hình, nhưng cũng có ứng với khoa chiêm bốc: cỏ Chi, cỏ Lan ứng điềm tốt lành - cây Tùng cây Bá là điềm thọ - Gặp cây Thung, cây Cổi thì sống lâu - Gặp mạ non, nấm thì sớm nở chiều tàn, chiêm sinh sản hoặc bịnh gặp phải triệu này thì chết - Cành lá xác xơ, nhiều nỗi vất vả - Rễ hột rời rạc là liên lụy với người - Thấy bông hoa ấy thực hư hao - Thấy trái quả là có kết quả tốt đẹp.

    Trên đây là ứng vào loài thảo mộc

    - Chí như bay chạy cũng là điềm ứng - Con chim quạ báo tai ương - Nhện giăng báo hỉ - Chim Hồng chim Nhạn chủ bằng hữu chí tín - Rắn hổ mang, phòng mưu độc hại - Chuột cắn áo, phòng tiểu khẩu (gây lộn) - Chim sẻ kêu trên mái nhà, báo tin người đi xa về - Chó cắn nhau phòng đạo tặc - Gà đá nhau, chủ sự ồn ào - Dắt Dê được nhiều khánh hỷ - Cởi ngựa thì buôn bán chi thu có lợi - Khỉ vượn leo cây, thân tâm chẳng yên - Cá gáy nhảy lên khô, sự biến chẳng phải tầm thường - Thấy dây dàng ngựa, bịnh tật chẳng an - Thấy chuồng, lồng muông chim, nhờ cậy người chưa dứt.

    Ấy là ứng về cầm thú.

    - Chí như rượu là món giải phiền, thuốc dùng để giải bịnh, tuy vậy, chén rượu bị bể, là điềm cực lạc sinh bi - Gặp được Y sư giữa đường, nạn trung hữu cứu - Dây sắn, dây bìm, dây bầu, dây mướp là loại ỷ tựa vào người - Dáng điệu hổ báo là vẻ thị oai - Cày ruộng, bừa đất là sự thể loay quay tráo trở - Chẻ tre, rạch nứa. sự thế ắt thuận lợi yên vui - Xuân hoa, Thu nguyệt tuy không thực nhưng có cảnh thái, Hạ cây bông, Đông cây sắn, tuy hữu dụng nhưng trái thời - Cái quạt mỏng, để quạt cho mát, nhưng lắm lúc vô dụng - Cái dù, cái lọng, lúc tạnh ráo thì bỏ suông (không xài) - Ảnh bong bóng (bọt) nước và ánh đèn là triệu hư ảo khó tin - Mạng nhện, kém tằm, xảo kế thành công.

    Trên đây là xem tạp vật ứng

    Xem hình vật tức nhiên biết thể chữ(*).

    - Đá gặp da thì rách, tức là chữ Phò (chữ Phá một bên chữ Thạch là đá, một bên chữ bì là da).

    - Người đứng bên cây là chữ Hưu là vui (chữ hưu một bên có chữ nhân là người, còn bên có chữ mộc là cây.

    - Nón trôi ở ven nước, rõ ràng là chữ Khấp là khóc (chữ khấp một bên có ba chấm thủy tức là ven nước, một bên chữ lập, đọc trại là liệp, tức là cái nón).

    - Lửa vào núi rừng, đốt hình sẽ thấy là chữ Phần là đốt (chữ phần tên có chữ lâm là rừng, dưới chữ hỏa là lửa).

    - Ba cô gái là có gian xảo tà dâm tức là chữ Gian (chữ gian có ba chữ nữ, một trên và hai dưới).

    - Ba trâu là triệu bôn tẩu chi ưu, tức chữ Bôn (chữ bôn có ba chữ ngưu, một trên hai dưới).

    - Một cây hai lửa là triệu quang vinh, tức là chữ Vinh (chữ vinh trên hai chữ hỏa là lửa, giữa chữ nhất và dưới chữ mộc là cây).

    - Một nước bốn cá là tượng góa vợ tức là chữ Quan (chữ quan một bên là chữ ngư là cá, một bên thì chữ tứ là bốn, dưới hết chữ thủy là nước).

    - Người kề trâu lộn ngược đề phòng thất thoát tức là chữ Thất là mất (chữ thất xemg iống chữ ngưu con trâu đảo ngược lên và có chữ nhân là người ở kế).

    - Người nói chó buồn lo ngục tù, tức chữ Ngục (chữ ngục một bên có bộ như chữ nhân đứng tức người, giữa chữ ngôn là nói, bên phải có chữ khuyển là chó)

    - Một cái đấu vào cửa trống, chủ đấu tranh, tức là chữ Đấu (chữ đấu ở ngoài chữ môn là cửa, trong lòng chữ đấu là cái đấu đong lường)

    - Hai sợi tơ đèo cây trắng là triệu sự vui, tức là chũ Lạc (chữ lạc giữa chữ bạch là trắng, hai bên đèo hai bộ mịch là sợi tơ, dưới chữ mộc là cây).

    - Một người đứng trong cửa, mọi việc nên né mình mà tránh, tức là chữ Thiểm (chữ thiểm ngoài chữ môn là cửa, trong lòng có chữ nhân đứng là người đứng).

    - Hai người đứng hai bên cây, là triệu hỏi gì được nấy tức là chữ lai là tới (chữ lai giữa chữ mộc là cây, hai bên có hai chữ nhân là người).

    Trên đây là ứng vào chiết tự chữ Hán.

    Ghi chú: (*) Chữ Hán, đây nói về chiết tự, bây giờ ít dùng nhưng cũng xin dịch để xem cho biết.
     
  8. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    - Chí như tên vật, cũng lấy nghĩa đồng âm mà ứng vào các triệu như: thấy con Lộc (con Hươu) ấy là có lộc - Thấy Phong (con ong) là điềm được thụ phong - Thấy cây Lê là chủ phân biệt - Thấy cây Đào là triệu đào tẩu - Thấy cây Lý chiêm tụng sự đắc lý - Phùng quan (quan là cái mão), cầu quan ắt thành - Thấy hài (là giày, dép), trăm sự hòa giải - Thấy khạp (cái cốc đựng rượu) mọi việc đều hợp.

    Hãy còn nhiều lắm khỏ tả cho hết, mà chỉ cần tại trí biến thông.

    - Lại như xét ở thân ta mà ứng vào sự việc của người, ắt phải hiểu rõ quan hệ khác nhau của lời nói - Tương phản nhau thì lời nói ngượng ngùng - Nghi kỵ nhau thì lời nói chống đối - Người hiền lành êm dịu thì ít nói - Người xao động tính nóng nảy, thì nói nhiều. Nói vu lỗi cho người hiền thì lời nói vu vơ không bằng cớ - Mất đức liêm khiết, chân thật, là lời nói chìu luồn.

    Trên đây là nhất động, nhất tịnh, gần thì lấy chư thân mà ứng vào việc.

    Đã suy luận Ngũ hành, tất phải tinh tường Bát quái quẻ tốt mà ứng cát, thì cát vẹn toàn; quẻ xấu mà ứng hung thì vẹn hung.

    Quẻ và Ứng một tốt, một xấu, thì sự việc phần cát, phần hung.

    Suy rõ Sinh Khắc chi lý, xét rõ động tịnh chi cơ, sự tương quan (có quan hệ với nhau), vật vật tương hợp. Như vậy là cái chân lý của Ngũ hành, Bát quái, Khắc Ứng, Động Tịnh của Dịch, ắt phải do cái linh động hoạt bát của tấc lòng (tâm linh).

    Sự mầu nhiệm của huyền cơ, lại còn do ở thầy truyền, ví phỏng muôn chúng phân vân, duy chỉ có một lý do mà xuyên suốt, sự là do cơ mà nảy sanh, thì tất yếu phải am tường sự việc đang gặp phải.

    Trên đây là cái lý của phép chiêm bốc, mà hay là ở tại người biết biến thông linh diệu.

    Chí như, xưa Phương Sóc, bói mà biết được các vật dấu ẩn khuất; Chư Cát đứng trước ngựa, mà định được cát hung trong giây lát; Hoàng Phủ tự dưng khai phá được cái ảo diệu; Thần Phong giác ngộ nhờ điểu giác. Tuy sở dụng thì có khác nhau, nhưng đồng chung một ý, chẳng khác nhau vậy.

    Tất cả trên đây nói về Tam Yếu linh ứng ky diệu.

    Khá kết hợp ý chí tình của quỷ thần, mà hiệp với linh thuật Thi Quy (cách bói cỏ Thi và vỏ Rùa). Song le, người trong tam thế quá khứ, hiện tại và vị lai chưa thấu rõ sự huyền vi của tâm mà chẳng có thất khiếu (bảy lỗ: tai, mắt, mũi và miệng) cúng chưa giác ngộ được sự diệu lý; cho nên hiểu được thuật, cần phải kín đáo, người chẳng truyền thì không nên truyền, khinh thì làm tiết lậu thiên cơ, trọng thì vướng phải âm trách, gầy đắp sâu rộng thì khá nhập được đạo, áp dụng lâu dài ắt được thần thông.

    Trên đây là bàn về sự kỳ diệu linh ứng, chẳng nên truyền xằng trao lẫn, cần thận trọng sâu kín, để bảo trọng lấy đạo vậy.
     
  9. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    Mục Luận Thập Ứng​


    Thập ứng vốn từ Tam yếu mà ra và cũng kỳ diệu như Tam yếu.

    Chỉ cần tai mắt mà có; như thấy triệu cát, chung qui là tốt, như gặp hung sấm (lời sấm) chẳng tránh khỏi sự hung, đó là cái lý tự nhiên vậy.

    Song le, gặp sư cát hung đó, cũng chưa chắc hẳn là như vậy cả đâu; ví như vàng bạc, loài kim là của báu của đời, nhưng đối với Tam yếu thì cần phải có Thập ứng mới phân biệt mà giải thích.

    Gặp vàng và loài kim mà không cho là tốt, là khi nào dùng nó để rèn kiếm luyện binh, thì đời cho là hung khí, theo Tam yếu cũng cho là hung, còn cái thuyết Thập ứng lại cho là tốt.

    Lại như chiêm sản (sanh đẻ), thấy nam nhi thì Tam yếu cho là sinh con tốt, trái lại Thập ứng lại cho là xấu.

    Lại như chiêm bịnh mà thấy áo quan (quan tài) thì Tam yếu lại cho là bịnh nhân phải chết, còn Thập ứng lại cho là tốt (sinh ý).

    Lệ luật nhiều như thế đó, cho nên phép chiêm bốc chẳng khá, không tất ứng (mất sự linh nghiệm) vậy.
     
  10. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    Luận Thập Ứng​


    Thập ứng lấy Thể quái làm chủ, các quẻ Dụng làm dụng. Mỗi một lấy Nội quái phân ra ngoại Thể, Dụng quái theo ta mà bàn luận cho tinh vi.

    Nội quái không tốt mà ngoại quái lại tốt thì có thể giải được sự không tốt.

    Nội quái tốt mà ngoại quái không tốt thì nó lại phá hỏng sự tốt.

    Nếu nội ngoại toàn quái tốt tất nhiên tốt, toàn xấu tất xấu.

    Nếu nội tốt, ngoại xấu. Nội xấu ngoại tốt phải suy rõ cái lý mới đoán cát hung, không nên đè chặt phím đàn (hay câu nệ, không biết biến thông) vậy.

    Mục Ngoại quái Thập ứng gồm cả Thiên thời, địa lý chia ra làm 10 loại đều lấy Thể quái làm chủ, rồi tùy sở ứng mà áp dụng.
     
  11. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    I.- Mục Thiên Thời Ứng​


    a.- Như trời không mây mù che, sáng lạng trong trẻo ấy là thuộc Càn thời.

    Nếu Càn Đoài là Thể quái tức tỵ hòa thì tốt.
    Nếu Khảm là Thể quái, ấy là phùng sinh rất tốt.
    Nếu Khôn Cấn là Thể quái, thì gọi là tiết khí (lộ khí ra ngoài).
    Nếu Chấn Tốn là Thể quái là khắc, tức là xấu.

    b.- Trời tạnh ráo giữa ngày, ấy gọi Ly thời.

    Nếu Khôn Cấn là Thể quái thì tốt.

    c.- Trời đang lúc mưa, hoặc có sương tuyết gọi là Khảm thời.

    Nếu Chấn Tốn là Thể quái thì tốt.
    Nếu Thể quái là Ly thì xấu.

    d.- Trời đang lúc có sấm gió, gọi là Chấn Tốn thời.

    Nếu Thể quái là Ly thì tốt.
    Nếu Thể quái là Khôn Cấn thì xấu.
     
  12. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    II.- Xét Rõ Địa Lý Ứng​


    a.- Chỗ đất mà loài cây tre mộc tươi tốt xum xuê, gọi là Chấn địa.

    Nếu Ly cùng Chấn Tốn là Thể quái thì tốt.
    Nếu Khôn Cấn là Thể quái thì xấu.

    b.- Chỗ đất thuộc về sông, ngòi, ao đầm, khe, suối, mương, rãnh gọi là Khảm địa.

    Nếu Chấn Tốn cùng Khảm là Thể quái thì tốt.
    Nếu Thể quái là Ly thì xấu.

    c.- Chỗ đất về lò bếp gọi là Ly địa.

    Nếu Khôn Cấn cùng Ly là Thể quái thì tốt.
    Nếu Thể quái là Càn Đoài thì lại xấu.


    d.- Chỗ đất về hang núi (đá đất) gọi là Cấn địa.

    Nếu Càn Đoài cùng Cấn là Thể quái thì tốt.
    Nếu Khảm là Thể quái thì xấu.
     
  13. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    III.- Cần Xét Rõ Thời Lệnh Ứng​


    Về thời lệnh chẳng cần luận đến quái tượng, chỉ cần biết ngày tháng gặp phảithôi, xét khí xuy vượng của Ngũ Hành.

    Khí vượng là ngày tháng Dần Mẹo là Mộc vượng.
    Ngày tháng là Tỵ Ngọ là Hỏa vượng.
    Ngày tháng là Thân Dậu là Kim vượng.
    Ngày tháng là Hợi Tý thì Thủy vượng.
    Ngày tháng là Thìn, Tuất, Sữu, Mùi thì Thổ vượng.

    Nếu khí mà suy thì như: Mộc vượng thì Thổ suy; Thổ vượng thì Thủy suy; Thủy vượng thì Hỏa suy; Hỏa vượng thì Kim suy; Kim vượng thì Mộc suy.

    Cho nên, quái khí của quái sinh Thể, phải gặp thời khí vượng, chẳng nên gặp thời khí suy.

    Còn như khí quái của quái khắc Thể, thì cần phải khí suy.
     
  14. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    IV.- Xét Rõ Nhân Sự Ứng​


    Nhân sự thì luận quái tượng theo ngũ hành, mà cũng có lúc không luận theo ngũ hành.

    Luận theo quái tượng như:

    - Lão nhân thuộc Càn.
    - Lão phụ thuộc Khôn.
    - Cấn là thiếu nam.
    - Đoài là thiếu nữ.

    Lý của ngũ hành sinh khắc tỵ hòa thì cứ đoán theo như mục Thiên Thời Luận và mục Địa lý luận nói trên.

    Còn như không luận theo quái tượng và ngũ hành, là vì nhân sự tạp loạn, rối rít, rộn ràng... thấy nhiều cách tốt có xấu có, hiện ra thì nó phải tùy theo cái triệu ứng vào sự việc tốt hay xấu.

    Lại nữa, xét đoán việc của người, cũng tùy theo cái sự ứng của người ấy nữa.
     
  15. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    V.- Xét Hướng Quái Ứng​


    Tức là phần phương hướng quái như:

    Ly là Nam, Khảm là Bắc, Chấn là Đông, Đoài là Tây.
    Tốn là Đông Nam, Càn là Tây Bắc.
    Cấn là Đông Bắc, Khôn là Tây Nam.

    Luận cát hung, thì xem người tới xem quẻ từ hướng nào tới, thuộc vào quái vị nào, phải dùng Dụng quái mà luận.

    Thí dụ: Khảm là Dụng quái thì phương vị nên Khảm cùng Chấn Tốn; còn phương vị Ly là xấu.

    Nếu Ly là Dụng quái thì phương vị nên Ly và Khôn Cấn thì tốt, còn hai phương vị Càn Đoài thì xấu.

    Vả chăng, tốt hơn là phương vị của bổn quái, phải chịu Dụng quái sinh mới tốt, chớ không nên chịu Dụng quái khắc.

    Ví bằng xét khí ở quái, còn phương sở tại thì cần phải xét như:

    - Nếu Thủy từ Khảm tới, thì quái Khảm là khí vượng., nếu thủy từ Khôn Cấn mà tới, thì quái Khảm là khí suy.
    - Nếu Hỏa từ Nam tới, thì quái Ly là khí vượng, nếu từ Bắc tới thì quái ly là khí suy.

    Đại khái, phương của bổn quái, chịu sinh là vượng mà chịu khắc là suy, nên lấy Thể quái mà tham cứu.

    Quái khí của quái sinh Thể nên ở phương vượng.
    Quái khí của quái khắc Thể, nên ở phương khắc.
    Lại nữa Cấn Tốn phương, khỏi bàn đến Khôn Cấn.
    Khôn cấn phương, khỏi bàn đến Khảm.
    Khảm phương, khỏi bàn đến Ly.
    Ly phương khỏi bàn đến Càn.
    Càn Đoài phương, khỏi bàn đến Chấn Tốn.

    Tất cả các quái đều chịu khắc của phương quái hết thảy.
     
  16. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    VI.- Xét Động Vật Ứng​


    Động vật thì luận theo quái tượng như: Càn tượng trưng cho ngựa; Khôn cho trâu bò; Chấn cho rồng; Tốn cho gà; Khảm cho heo; Ly cho chim trĩ; Cấn cho chó; Đoài cho Dê. Còn ngao, sò, trai, ốc, rùa, ba ba cho là tượng Ly; loài cá cho là Khảm, ấy là động vật quái thì dùng Thể quái mà luận.

    Còn động vật không luận theo quái tượng, ngũ hành như: chim quạ đen báo hung tai; chim khách báo hỷ tín; chim hồng, chim nhạn báo tin thơ. Loài rắn, loài trùng phong có độc hại, gà gáy cón tin lành, ngựa hý tất có động ý.
     
  17. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    VII.- Xét Tịnh Vật Ứng​


    Các loài khí vật phải luận theo quái tượng như:

    Loài Thủy thuộc Khảm, loài Ly thuộc Hỏa, loài Mộc thuộc ChấnTốn, loài Kim thuộc Càn Đoài, loài Thổ thuộc Khôn Cấn, lấy Thể quái mà luận.

    Còn loài khí vật mà không luận theo quái tượng, nhưng phải xem cái triệu của khí vật như: Khí vật hình tròn, biểu hiệu cho sự thành; khí vật sứt mẻ, hao mòn, biểu hiệu cho sự bại.

    Lại nhận xét xem khí vật thuộc về loại nào như: bút nghiên thì chủ về văn thơ; bào hốt (áo bào và cái hốt) chủ về quan tước; chén, mâm, khay, quả là chủ về yến tập; kìm kẹp, xích xiềng phòng quan tai.

    Trăm mối bất nhất, xét từng vật khí.
     
  18. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    VIII.- Xét Về Ngôn Ngữ Ứng​


    Nghe người nói chuyện thì không luận theo quái tượng mà chỉ nghe lời người nói về việc gì để xem cách ứng như: nghe lời nói lành tốt thì tốt; nghe lời nói dữ thì xấu; nhược bằng nghe lời nói huyên náo, rộn ràng, ồn ào thì khó đoán. Nếu có thể nghe mà liệu được nói chuyện gì và hiểu rỏ ý lời nói, tâm thì nhận thức, để hội với cái ý cho hợp lý như: bàn về việc triều chính là ứng vào cầu danh; nói về việc giang, hồ, châu, quận là chủ xuất hành; nói về việc tranh tụng là chủ quan tư; nói chuyện vui mừng lợi về sự hôn nhân.

    Mỗi câu chuyện chẳng giống nhau, nên tùy theo sự nghe mà đoán.
     
  19. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    IX.- Xét Về Âm Thanh Ứng​


    Tai để nghe âm thanh mà luận quái tượng, như: Lôi thanh là Chân - Phong thanh là (gió) là Tốn - Vũ thanh là Khảm - Thủy thanh cũng là Khảm.

    Tiếng phách, tiếng sanh, tiếng nứt của gỗ, tiếng thuộc về loại Mộc đều thuộc về Chấn Tốn.

    Tiếng chuông, tiếng khánh, tiếng kiểng, tiếng thanh la, tiếng thuộc về loại Kim đều thuộc về Càn Đoài; ấy là thanh âm luận theo quái tượng, dùng Thể quái mà suy luận.

    Nghe âm thanh hòa với tiếng vui cười, chủ sự vui mừng, nghe tiếng sầu bi thì ắt có hoạn; tiếng ca, tiếng hát chủ sự khoái lạc; nghe tiếng giận, tiếng hờn, tiếng la chủ sự lộn xộn, tranh dành. Chí như tiếng vật kêu, tiếng quạ tất báo tai ương; tiếng chim khách kêu báo hỷ; chim nhạn, chim hồng kêu báo tin xa tới; tiếng gà, tiếng chim le le đều tốt.
     
  20. vhvd

    vhvd Hội viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    26 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    199
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Mai Hoa Dịch Số

    X.- Cần Xét Xem Màu Sắc Ứng​


    Năm sắc không dùng đến quái tượng luận, chỉ nhận thấy sắc gì thì cứ theo ngũ hành mà luận như: xanh, biếc,lục thuộc Mộc; hồng đỏ thuộc Hỏa; trắng thuộc Kim; đen thuộc Thủy; vàng thuộc Thổ.

    Ngũ hành, ngoại ứng xét rõ Thể Dụng của Nội quái, sinh khắc tỵ hòa, cát hung sẽ thấy.
     

Chia sẻ trang này