LƯƠNG THỰC TRONG NGAY

Thảo luận trong 'Nghệ thuật sống là Lợi mình = Lợi người: Luôn đúng' bắt đầu bởi Toc'Ma^y, 26 Tháng chín 2006.

  1. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    12 Tháng Mười Hai
    Thế Giới Sẽ Hết Nghèo Ðói

    Mẹ Têrêxa thành Cacutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 đã kể lại câu chuyện sau đây: ngày nọ, có một thiếu phụ và 8 đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần... Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: "Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn".
    Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau. Càng giàu có, chúng ta càng muốn tích lũy thêm, nhưng càng nghèo khổ, chúng ta càng dễ chia sẻ hơn.
    Nghèo không là một điều xấu, giàu cũng không là một cái tội. Xấu hay không, tội hay không đó là lòng tham lam và ích kỷ của con người mà thôi. Giá trị và danh dự của con người tùy thuộc ở lòng quảng đại của mình.
     
  2. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    13 Tháng Mười Hai
    Danh Hiệu Của Ánh Sáng

    Không những ở Việt Nam, nhưng trên toàn thế giới, nhiều thánh nữ mang tên thánh bổn mạng Lucia, như nữ tu Lucia, một trong ba trẻ đã được thấy Ðức Mẹ hiện ra ở Fatima.
    Những người thiếu nữ mang tên Lucia này không khỏi thất vọng khi tìm hiểu về đời sống và sự nghiệp của thánh nhân. Vì những sách cũ đã viết tiểu sử của các thánh nhân đã ghi lại nhiều câu chuyện về thánh Lucia, để rồi các tác giả viết về đời sống của các thánh nhân thời đại chúng ta lại phê bình những câu chuyện ấy không có tính cách lịch sử. Chúng ta chỉ có thể tóm lại những chứng tích lịch sử để viết về cuộc đời, nhất là cái chết vì niềm tin của thánh Lucia như sau:
    Một chàng thanh niên không Công Giáo thất vọng vì không được Lucia đáp trả lại tình yêu của mình đã tố cáo với nhà cầm quyền Lucia là người Công Giáo. Và nàng đã bị xử tử vào năm 304 tại thành Syracuse vùng Sicilia, mạn Nam nước Italia. Di tích lịch sử thứ hai là tên Lucia được ghi trong danh sách những thánh tử đạo trong lời nguyện thánh lễ Roma, nay là lời nguyện Thánh Thể thứ nhất trong phụng vụ mới.
    Những di tích bên lề cũng nên nói đến là nhiều địa danh, nhiều làng mạc, thành phố bên Âu Châu mang tên nàng, cũng như có những bằng chứng lịch sử về sự tôn kính nàng từ trước thế kỷ thứ 5.
    Chữ "Lucia" có nghĩa là ánh sáng. Và gương can đảm chết vì lòng tin của nàng vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tâm hồn những người đang bị thử thách và đau khổ vì lòng tin, cũng như làm rạng rỡ những khuôn mặt của những thiếu nữ mang tên thánh bổn mạng Lucia.
    Muốn hiểu sự can đảm của thánh Lucia Giáo Hội mừng kính hôm nay với tước hiệu đồng trinh, tử đạo, chúng ta có thể tưởng tượng một thiếu nữ Công Giáo sống giữa những người không Công Giáo vào thời kỳ tôn giáo này bị bách hại. Ðể sống trọn niềm tin Công Giáo, nàng cũng gặp nhiều khó khăn như đại đa số những tín hữu Kitô trong thời đại chúng ta phải sống chung với những người vô thần, không tin tưởng.
    Lạ lùng hơn là niềm tin của Lucia. Nàng tin vào một người sáng lập tôn giáo với thân thế và sự nghiệp không mấy được rõ ràng ở một nước thuộc địa xa xôi với thủ đô Jerusalem bị quân đội Roma phá hủy cách đó 200 năm. Trước khi truyền đạo, ông này làm nghề thợ mộc và sau một thời giảng đạo ngắn ngủi, ông bị quân lính Roma đóng đinh vào thập tự, một hình phạt dành cho dân thuộc địa phạm những trọng tội sát nhân hay nổi loạn. Nay Lucia tin tưởng với tất cả tâm hồn là ông ấy đã Phục Sinh, như một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã chấp nhận những gì ông truuyền dạy và đã làm.
    Ðể biểu lộ lòng tin của mình, Lucia đã thề hứa giữ sự trinh khiết, không lập gia đình.
     
  3. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    14 Tháng Mười Hai
    Cánh Tay Của Người Ganh Tị Và Tham Lam

    Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn Ðộ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.
    Ðể chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
    Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu người ganh tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố: "Tôi xin được chặt đứt một cánh tay...". Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
    Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn.
     
  4. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    17 Tháng Mười Hai
    Ðôi Vai Của Người Cha

    Tháng 11 năm 1958, ngay chính ngày đăng quang, khi nói chuyện với khách hành hương, Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã kể lại một giai thoại trong cuộc đời của ngài như sau:
    "Khi tôi lên 7, một hôm cha tôi đưa tôi đến một làng bên cạnh, nơi đang tổ chức một buổi lễ của Công Giáo tiến hành trong giáo phận. Phải đi bộ nhiều cây số, tôi cảm thấy mệt mỏi. Cha tôi đã phải đặt tôi trên vai của người. Ðến nơi, tôi cảm thấy thất vọng, bởi vì dân chúng qúa đông, mà tôi thì bé nhỏ. Mất hút trong chợ người, tôi không thể nhìn đoàn người đang diễn hành... Thế là một lần nữa, cha tôi lại bồng tôi trên vai của người. Từ trên cao, tôi có thể xem thấy tất cả mọi sự".
    Và vị Giáo Hoàng được mệnh danh "nhân lành" đã kết luận như sau: "70 năm qua, nhưng tôi vẫn còn ghi nhớ trong tâm trí tôi cử chỉ của cha tôi. Nó đã trở thành một biểu trưng kỳ diệu. Ngày nay, mỗi khi mệt mỏi, mỗi khi tôi không còn thấy gì nữa, tôi nài xin vị Cha trên trời nâng tôi lên đôi cánh của Người".
     
  5. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    18 Tháng Mười Hai
    Cái Nhìn Của Một Tướng Lãnh

    Ðại tướng Marbot, trong tập ký sự, có kể lại một hôm, khi còn là thiếu úy, vua Nã Phá Luân sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Ðó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế của địch quân. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sông và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng dòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó đã báo động bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
    Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa tỏa ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng, Nã Phá Luân đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
    Ðôi mắt phượng hoàng của Nã Phá Luân đã xé tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ vũ khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
     
  6. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    19 Tháng Mười Hai
    Hợp Tác Là An Toàn

    Ngày nay, khi đi trên các nẻo đường của nước Thụy Sĩ, người ta lại nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó trình bày hai chiếc xe hơi, một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều, những người ngồi trên hai xe đang chào nhau, cười với nhau. Người lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.
    Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ: "Hợp tác là an toàn". Ðiều này muốn nói lên rằng giúp đỡ lẫn nhau, đối sử với nhau như người cộng sự, bằng tình bằng hữu là một đảm bảo cho một cuộc hành trình không nguy hiểm.
    Tinh thần hợp tác không những chỉ đảm bảo cho một cuộc sống bình yên trên các lộ trình, mà cũng còn là một đảm bảo cho một cuộc sống bình yên ở mọi vị trí trong xã hội. Có tinh thần hợp tác là đặt kẻ khác vào chính vị trí của mình, quan tâm tới họ như quan tâm tới chính mình, kính trọng, yêu mến, giúp đỡ họ như kính trọng, yêu mến giúp đỡ chính mình vậy.
     
  7. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    20 Tháng Mười Hai
    Không Nhà Không Cửa

    Hiện nay trên thế giới có khoảng một trăm triệu người không có nhà để ở. Riêng tại Châu Mỹ La Tinh, có khoảng 20 triệu trẻ em đang ngủ đầu đường xó chợ. Nhìn chung, có một tỷ người trên thế giới không có được một nơi ở tươm tất.
    Trên đây là kết quả của một cuộc điều tra dựa trên những con số do các Hội Ðồng Giám Mục và các Giáo Hội Công Giáo địa phương cung cấp. Cuộc điều tra này do Ủy ban công lý và hòa bình của tòa thánh thực hiện và ấn hành thành lập một tập tài liệu vào dịp cuối năm quốc tế những người không nhà không cửa do Liên Hiệp Quốc khởi xướng năm 1988 vừa qua.
    Theo tập tài liệu này thì vấn đề nhà ở chắc chắn là một trong những vấn đề trầm trọng nhất của thế giới ngày nay. Tài liệu cho thấy những kẻ không nhà là những người nghèo nhất trong số những người nghèo và tố cáo những người chủ nhà chỉ vì tính toán thủ lợi mà thà bỏ trống những căn nhà hơn là hạ giá để nâng đỡ những kẻ không nhà.
    Chúa Giêsu đã chào đời như một con người không nhà không cửa.
    Ngài đến là để cho con người được sống và sống một cách sung mãn. Tiếng kêu khóc chào đời của Ngài giữa khung cảnh cùng cực của hang lừa máng cỏ, là tiếng kêu than của hàng triệu triệu trẻ em đang bị tước đoạt quyền sống, đang bị từ chối những điều kiện cơ bản nhất để được sống như con người.
    Máng cỏ mà chúng ta đang chuẩn bị ở nhà thờ hay trong gia đình phải là một nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện và tiếng van xin của không biết bao nhiêu người không nhà, không cửa xung quanh chúng ta. Hơn ai hết, người Việt Nam chúng ta đang nhìn thấy tận, mắt thế nào là cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
    Chúng ta chuẩn bị một trú ngụ cho Hài Nhi Giêsu, chúng ta có nghĩ đến những người cùng khổ xung quanh chúng ta không?
    Chúng ta có biết rằng khi chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước đau khổ của người anh em chúng ta là chính lúc chúng ta khước từ Chúa Giêsu không?
    Chúng ta có biết rằng ngày Giáng Sinh của Chúa Giêsu cũng là ngày Giáng Sinh của những con người cùng khổ nhất không?
    Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ không bao giờ đến trong máng cỏ hào nhoáng của chúng ta, nếu chúng ta xua đuổi những người khốn khổ xung quanh chúng ta.
     
  8. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    21 Tháng Mười Hai
    Rạn Nứt Trong Tâm Hồn

    Một ông vua giàu có nọ rất keo kiệt và hà khắc đối với thần dân. Thành ra, tất cả mọi người đều oán ghét ông.
    Một hôm ông ra lệnh cho quan tể tướng tiến hành việc thu thuế hằng năm. Nhưng quan tể tướng cho biết: "Năm nay mùa màng hư hại, dân chúng đang chết đói, họ không thể nào nộp thuế được".
    Nhưng nhà vua vẫn một mực cho tiến hành việc thu thuế và yêu cầu quan tể tướng dùng tất cả tiền thuế để sửa sang cung điện và nội thành. Quan tể tướng đi một vòng xung quanh cung điện, nơi nào cũng có sự rạn nứt, nhưng sự rạn nứt sâu xa hơn vẫn là sự bất mãn và ta thán của người dân.
    Thế là, năm đó, thay vì tiến hành lệnh của vua, quan tể tướng đã cho người đi khắp nơi và loan báo như sau: "Năm nay, nhà vua miễn thuế cho tất cả mọi người". Nghe thế, ai cũng vui mừng vỡ lở. Khắp nơi, tuy đói kém, ai ai cũng làm tiệc ăn mừng.
    Trở lại triều đình, quan tể tướng thông cáo với nhà vua rằng với số tiền thu thuế được, ông đã cho làm những tu sửa cần thiết nhất.
    Ngày hôm sau, quan tể tướng mời nhà vua và đoàn tùy tùng đi tham quan một vòng xung quanh những nơi mà ông báo cáo đã được tu sửa. Vừa ra khỏi cung điện, nhà vua đã được dân chúng tung hô vạn tuế không dứt lời. Nhìn đám đông vui mừng phở lở, nhà vua mới quay sang quan tể tướng để hỏi lý do của ngày hội này. Quan tể tướng mới giải thích như sau: "Tâu bệ hạ, ngày lễ hôm nay được tổ chức là để đánh dấu những tu sửa quan trọng trong cung điện. Trước khi tiến hành việc thu thuế, hạ thần đã đi tham quan một vòng, hạ thần nhận thấy rằng những rạn nứt đáng kể nhất không phải là những rạn nứt trên tường thành của cung điện mà chính là trong lòng người dân. Người dân không thể vui mừng được vì từ bao lâu nay, họ không còn thấy được lòng tốt nữa. Ðó là lý do đã khiến hạ thần tuyên bố miễn thuế cho họ trong năm nay".
    Nghe thế, nhà vua mới sực tỉnh lại và nhận ra thái độ keo kiệt hà khắc của ông. Ông nhìn xuống đám đông dân chúng đang hân hoan vẫy chào, lòng ông cảm thấy xúc động. Lần đầu tiên, người ta thấy nụ cười của vui tươi và yêu thương nở trên môi ông.
     
  9. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    SUY NIỆM

    SUY NIỆM BÊN MÁNG CỎ
    Anh chị em thân mến, bầu khí lành lạnh của những ngày mùa đông này đưa ta đến với Bêlem, đến với một mầu nhiệm hay đúng hơn đến với một Tình yêu, vì Tình yêu bao giờ cũng mầu nhiệm. Trong giây phút thánh thiện này, cùng với muôn triệu người Kitô hữu khắp thế giới, chúng ta hãy hân hoan mừng biến cố Thiên Chúa giáng trần làm người. Chúng ta cùng dành một ít phút, để đứng trước máng cỏ, đứng như một mục đồng nghèo khó đơn sơ, lặng lẽ chiêm ngắm Tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người.
    Thật vậy, có ai đến trước máng cỏ mà không thấy lòng mình rung động, không phải vì muôn ánh đèn màu nhấp nháy, mà vì thấy mình đối diện với một Tình yêu, Tình Yêu viết hoa, vì đó là Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người. Trong giây phút ngắn ngủi của Đêm huyền diệu này, chúng ta hãy dừng chân ở Bêlem. Chúng ta cứ để cho tim mình rung động, cứ để cho trí tuệ mình mở ra trước những kích thước khôn dò của Tình yêu Thiên Chúa (Ep 3, 18 – 19), và nhất là cứ để cho Tình yêu ấy đưa mình đến những chuyển biến cụ thể trong đời sống hàng ngày.
    Chúng ta sẽ suy niệm về 4 điểm:
    Điểm 1: TÌNH YÊU CỞI MỞ
    Thiên Chúa đã mở ra để yêu con người. Thiên Chúa có thể để mặc con người sống trong tội và chết trong tội, bởi lẽ chính con người đã hất hủi Tình Yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể khép kín trước con người. Ngài không cần gì nơi con người, ngài không thiếu gì. Ngài hoàn toàn hạnh phúc trong cuộc sống thân tình giữa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, và ngài có thể yên nghỉ trong hạnh phúc đó. Thế nhưng Đấng có thể khép kín và có quyền khép kín lại muốn mở ra trước loài người tội lỗi, những thụ tạo bé nhỏ, trên một tinh cầu bé nhỏ, mất hút giữa vũ trụ bao la. Chính Tình Yêu đã khiến Thiên Chúa mở ra trước thế giới con người. Chính Tình Yêu đã khiến Thiên Chúa ra khỏi thế giới tự tại của mình, hay đúng hơn Thiên Chúa đã muốn đưa thế giới siêu việt, riêng tư của Ba Ngôi vào thế giới hạn hẹp của con người và như thế cũng là đưa thế giới con người vào thế giới của Thiên Chúa. Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục và thực thi ý Cha (Dt 10, 5). Chúa Thánh Thần đã mở ra bằng cách đến trên Trinh Nữ Maria, để khiến bà cưu mang Con Thiên Chúa. Bởi thế, khi đến máng cỏ, ta bắt gặp Tình yêu của cả Ba Ngôi Thiên Chúa đang mở ra cho ta. Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm Thiên Chúa mở ra trước con người. Ngôi Con đi vào thế giới, đặt chân lên Trái Đất bé con con. Ngài trở thành công dân của nước Do Thái nhược tiểu, đang bị đế quốc Rôma đô hộ, nước này là nước Cha đã tuyển chọn và chuẩn bị từ bao đời cho đến hôm nay là thời viên mãn (Dt 1, 1tt). Thế là Thiên Chúa siêu việt, tự tại, vô phương dò thấu đã trở thành Thiên Chúa gần gũi với chúng ta, Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa dựng lều trên trái đất ( Ga 1, 14).
    Thiên Chúa đã mở ra trước con người, nhưng cả kế hoạch này sẽ bị vỡ tan một lần nữa, nếu đã không có một tâm hồn mở ra và khiêm nhu đón nhận. Tâm hồn đó là Maria. Trước lời mời của Thiên Chúa, Maria đã xin vâng, để cho Thiên Chúa có thể đi vào đời mình, để mình trở thành khí cụ phục vụ cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Maria cũng đã mở ra trước tha nhân, khi Maria mau mắn đi phục vụ bà Isave gần ngày sinh nở.
    Đến với máng cỏ, chúng ta thường thấy Hài Nhi Giêsu nằm, hai tay giang rộng. cử chỉ đó vừa gợi cho ta thấy Tình Yêu cởi mở của Thiên Chúa đối với ta, vừa mời gọi ta đáp lại bằng một tình yêu tương tự.
    Hãy mở lòng ra trước Thiên Chúa, như Maria xưa, để Con Thiên Chúa qua tôi và nhờ tôi mà được cưu mang và được sinh ra cho con người hôm nay. Hãy mở lòng ra trước tha nhân, khiêm tốn đến với mọi người để cho và để nhận, để yêu và được yêu.
    Trong tâm tình đó, chúng ta hát bài Ephata ! Hãy mở ra (Nhạc và lời của Thành Tâm). Xin Chúa cho ta một tình yêu cởi mở đối với Chúa và tha nhân.
    Ephata! Hãy Mở Ra
    Lạy Chúa, xin mở mắt con
    Biết nhìn kỳ công của Ngài
    Trời xanh, tinh tú long lanh
    Hoa ngàn cùng muôn muông thú
    Ðồi kia ai đắp nên non
    Sông dài, trùng dương mênh mông
    Biết rằng Ngài đã thương con
    Thế mà con đâu có hay!
    ÐK: EPHATA Hãy mở! Mở ra!
    EPHATA Hãy mở ra!
    EPHATA, EPHATA
    2. Lạy Chúa, xin mở tay con
    Nối liền vòng tay kẻ nghèo
    Tình thương dâng hiến nơi nơi
    Cho người đời vương tăm tối
    Bạn ơi, xin mở đôi tay
    Ðón về người thân cô thế
    Chính Ngài, Ngài đến thăm anh
    Thế mà anh đâu có hay!
    3. Lạy Chúa, xin mở môi con
    Ca ngợi tình thương của Ngài
    Ngài ơi, xin mở tai con
    Nghe lời hằng ban sự sống
    Lạy Chúa, xin hướng chân con
    Lên đồi ngày xưa Chúa chết
    Nẻo đừơng Ngài đã đi qua
    Có Ngài con đâu lẻ loi!

    Điểm 2: TÌNH YÊU ĐI BƯỚC TRƯỚC
    Thông thường trong cuộc sống, ta chỉ yêu người nào yêu ta. Ta yêu để đáp lại tình yêu của người khác, ta chào hỏi người chào hỏi ta, thế thôi (Mt 5, 46 – 47). Hơn thế nữa, khi ta yêu một người, thì thường là vì người đó đáng yêu, dễ thương hay có một đức tính nào đó khiến ta say mê. Đôi khi ta yêu một người chỉ vì người đó giàu có, hay tài ba.
    Tình yêu của Thiên Chúa đối với ta thật hoàn toàn khác. Ngài yêu ta không phải vì ta đã yêu Ngài trước (1 Ga 4, 10). Chính Ngài đã đi bước trước để đến tìm ta. Ngài như người chăn chiên đi tìm con chiên ham vui mà lạc xa đàn (Lc 15, 4 – 7). Ngài đi tìm ta ngay chính lúc ta từ khước Tình yêu của Ngài, ngay chính lúc ta bị hư hỏng vì tội lỗi (Rm 5, 8). Như thế, Ngài yêu ta đâu phải vì ta có cái gì hay ho, hấp dẫn hay tài ba, thánh thiện. Ngài yêu ta vì chính tội lỗi của ta. Chính tội đã kéo ghì Tình Yêu Ngài xuống, chính thân phận đáng thương của ta đã khiến Thiên Chúa không thể quay mặt đi trước con người mà Ngài đã dựng nên để được hạnh phúc nhờ Ngài và bên Ngài. Bởi thế Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài, Ngôi Hai Thiên Chúa đến với con người tội lỗi: Thiên Chúa đã đi bước trước, một bước kinh khủng mà con người không dám mong cũng chẳng dám ngờ.
    Trong cuộc sống cụ thể, chúng ta thường thấy khó khăn khi phải đi bước trước, để làm hòa sau một vụ xích mích giữa vợ chồng, anh em, bạn bè, làng xóm hay giữa những đồng nghiệp. Chúa mời gọi ta để lễ vật lại, lo đi làm hòa với người cố ý gây chuyện với ta. Lời mời đó vẫn là một lời khó thực hiện (Mt 5, 23 – 25). Chúng ta luôn sợ hãi, sợ rằng mình sẽ phải đụng một tảng băng, một câu trả lời nhát gừng hay một cái quay mặt lạnh lùng. Chúng ta sợ tình yêu của mình bị từ chối thêm một lần nữa, hay đúng ra, chúng ta không có can đảm để tự hạ mình, vì bất cứ ai đi bước trước thì đều có nghĩa mình đang cần đến người kia. Lạ lùng thay, Thiên Chúa, Đấng không hề cần đến con người, không hề lệ thuộc con người, thì lại muốn đi bước trước như thể Ngài cần đến con người.
    Xin Chúa giúp ta vượt qua được nỗi sợ, tuy hợp lý, nhưng không hợp với lối cư xử quảng đại của Thiên Chúa. Trong cuộc sống, chúng ta cũng thường từ chối gặp gỡ một số người vì họ không hợp với ta, không có gì để ta yêu mến hay cảm phục, thậm chí họ có thể là những người tội lỗi nữa. Nhưng Thiên Chúa vẫn mời gọi ta yêu họ theo kiểu của Ngài: yêu một người không phải vì người đó đáng yêu, nhưng để người đó trở nên đáng yêu hơn vì được tôi yêu.
    Xin Chúa biến đổi trái tim chúng ta để đón Chúa và đón tha nhân. Chúng ta cùng hát bài Để Chúa đến ( Nhạc và lời của Nguyễn Duy).

    Điểm 3: TÌNH YÊU KHIÊM TỐN
    Điều làm ta rung động khi bước vào máng cỏ, đó là một Tình yêu khiêm tốn. Lắm khi tôi đã yêu, đã cho đi, đã chia sẻ, nhưng kiểu yêu, kiểu cho của tôi có cái gì mang tính trịch thượng, cha chú, ân nhân, thậm chí có vẻ bố thí nữa. Mặt khác, đôi lúc tôi thẳng thừng từ chối một món quà, một đặc ân người ta cho tôi, chỉ vì thái độ của người cho làm tôi thấy danh dự mình bị xúc phạm, tự ái bị tổn thương.
    Thiên Chúa, khi yêu con người và muốn cứu con người, dù Ngài là Đấng vượt trên ta ngàn trùng, nhưng Ngài đã không muốn yêu theo kiểu người trên ban bố ơn cho kẻ dưới. Ngài yêu ta như yêu một người bạn. Ngài không cho ta của dư thừa, nhưng cho ta chính Con yêu dấu của Ngài. Ngài không cứu độ ta một cách rẻ tiền, khỏe ru, nhờ phán một lời nào đó, nhưng Ngài đã sai Con Ngài làm người, như ta mọi đàng, trừ tội lỗi (Dt 4, 15).
    Bước đến máng cỏ là nhận ra Tình Yêu khiêm tốn của Thiên Chúa: Con Thiên Chúa làm người, nơi hang súc vật. Không một chút hào quang: Ngài sinh trong đêm tối. Không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe vì giá lạnh. Ngài là Tạo Hóa, nhưng bây giờ được sinh ra bởi một phụ nữ (Ga 4, 4). Ngài không đội đất chui lên hay từ trời ngự xuống. Buớc đến máng cỏ, ta nhận ra một Tình Yêu dịu dàng, mời gọi nhưng không cưỡng ép, làm rung động nhưng không làm tổn thương, một Tình yêu mộc mạc, nhưng chính cái mộc mạc của nó lại có sức lôi cuốn con người đáp trả.
    Chúng ta không những xin Chúa Giêsu ở Bêlem dạy ta biết yêu, nhưng còn biết yêu theo kiểu Thiên Chúa, nghĩa là yêu một cách khiêm tốn. Người có tình yêu khiêm tốn không đặt mình trên cao như một thần tượng, nhưng cúi xuống gần người mình yêu, lấp đi những hố sâu ngăn cách bởi địa vị, học thức, gia thế. Tình yêu khiêm tốn không làm người khác bị choáng ngợp vì mình biết nhiều, giàu nhiều, đạo đức nhiều hay có quyền nhiều hơn họ. Trái lại, Tình yêu này khiến ta ngửa tay xin ngay cả một người nghèo nhất.
    Trong tâm tình biết ơn Tình yêu khiêm hạ của Thiên Chúa, chúng ta cùng hát bài Chúa thương loài người (Nhạc và lời của Tâm Bảo)

    Điểm 4: TÌNH YÊU ĐÒI TỰ HỦY
    Khi nói đến mầu nhiệm tự hủy của Đức Kitô, ta thường nghĩ ngay đến việc Ngài chịu chết treo trên thập giá. Nhưng theo thánh Phaolô, Đức Kitô đã bắt đầu từ hủy ngay từ khi ngài cất tiếng khóc chào đời, chấp nhận thân phận làm người: "Đức Kitô, cốt cách là cốt cách của Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải giằng cho được chức vị ngang hàng với Thiên Chúa. Song Ngài đã hủy mình ra không, nhận lấy thân phận tôi tớ, trở thành giống như loài người, và qua bề ngoài, người ta thấy Ngài như một người bình thường" (Pl 2, 6 – 7; Dt 10, 4 – 7).
    Công chúa Tiên Dung khi yêu anh Chử Đồng Tử nhà nghèo, thì đã sẵn sàng bỏ cả chức vị là công chúa để lấy người mình yêu, để được sống gần người yêu. Con Thiên Chúa, vì yêu con người, nên đã làm người, để được chia sẻ cùng một định mệnh với con người. Khi Ngài thành người, thì Ngài vẫn là Thiên Chúa, nhưng chắc chắn Ngài đã tạm thời để cho thiên tính của mình phần nào bị che khuất trước mặt người đời: đó là sự tự hủy của Con Thiên Chúa khi làm người.
    Đấng Siêu Việt, Vô Hạn nay bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Đấng thiêng liêng trở thành có thân xác hữu hình. Đấng toàn năng, trở thành một trẻ thơ yếu đuối. Đấng Tự Hữu và tác sinh muôn loài (Ga 1, 3; Cl 1, 15 – 20) bây giờ lại được sinh ra, sống nhờ bầu sữa mẹ, lớn lên nhờ tiếng ru.
    Chấp nhận thân phận làm người là chấp nhận tự hủy. Thiên Chúa quyền uy bây giờ phải vâng phục mệnh lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế Lamã Augustô (Lc 2), phải chạy trốn trước cơn thịnh nộ của vua Hêrôđê đa nghi bạo ngược (Mt 2). Thiên Chúa giàu sang phải chịu chào đời trong một hang súc vật, vì không có chỗ cho Ngài trong quán trọ (Lc 2, 7). Thiên Chúa chói lòa vinh quang trên trời, khi trở nên một người bình thường, thì dân Ngài không nhận ra Ngài nữa. "Ngài đã đến nơi nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài" (Ga 1, 11).
    Đến với máng cỏ là ta gặp ngay Con Thiên Chúa trong mầu nhiệm tự hủy, một Thiên Chúa yếu đuối và nghèo khó. Nhưng chính sự yếu đuối và nghèo khó của Thiên Chúa đã cuốn hút ta đến với Ngài. Bởi vì càng thấy Chúa Giêsu tự nguyện yếu đuối, khó nghèo, ta càng cảm nhận được Tình yêu của Thiên Chúa khiêm hạ. Một Tình yêu vô cùng đã làm Thiên Chúa trở nên yếu vô cùng và nghèo vô cùng. Nhưng nhờ sự nghèo khó của Ngài mà ta được nên giàu có ( 2 Cr 8, 9).
    Trong cuộc sống thực tế, chúng ta thường muốn mến Chúa, yêu người, nhưng chúng ta lại không dám tự hủy, tự xóa mình, chấp nhận những hy sinh, mất mát. Thế mà Tình yêu đích thực nào cũng đòi hỏi những từ bỏ đớn đau, những hy sinh đụng chạm đến cái gì thâm sâu nhất, quý giá nhất của ta. Nhìn Chúa Giêsu trong máng cỏ, Đấng đã yêu và dám yêu đến cùng (Ga 13, 1), chúng ta xin Ngài cho ta đừng yêu một cách nửa vời, tính toán, nhưng xin cho ta dám trả giá cao để mua được Tình Yêu chân thực.
    Mời anh chị em cùng dâng lên Chúa Hài Nhi lời nguyện sau đây:
    Giữa giá rét của mùa đông,
    xin cho con gặp Chúa.
    Giữa những long đong và bấp bênh của phận người,
    xin cho con gần Chúa.
    Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
    xin cho con thấy Chúa
    đi với con và hiểu con.
    Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
    xin cho con cảm
    được sự bình an của Chúa,
    ngay giữa những âu lo hằng ngày.
    Xin cho con
    đón lấy cuộc đời con
    với bao điều không như ý.
    Và cuối cùng,
    xin cho con dám sống như Chúa
    vì Chúa
    đã dám sống như con.

    Kết:
    Chúng ta vừa trải qua những phút suy niệm trước máng cỏ, đặt mình trước tình yêu Thiên Chúa, mẫu mực của mọi Tình Yêu. Chắc chắn máng cỏ còn dạy nhiều điều cho những ai biết thinh lặng và lắng nghe trong mùa Giáng Sinh này. Ước gì niềm vui Giáng Sinh, niềm vui không dựa trên vật chất, thấm vào lòng những ai dám yêu theo kiểu Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
    Cao Nguyên​
     
  10. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    22 Tháng Mười Hai
    Mùa Của Gửi Thiệp Tặng Quà

    Người Anh thường nói: "Một quà tặng không có người tặng là một quà tặng trống rỗng trơ trụi". Giá trị của một quà tặng do đó, không tùy thuộc nhiều ở giá trị vật chất của nó, mà đi chính tâm tình của người tặng quà.
    Ngày nay, cũng giống như ở bất cứ thời đại nào, cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo quốc gia thường đi kèm với nghi thức trao tặng quà cho nhau. Trong một cuộc họp thượng đỉnh ở ngoài khơi đảo quốc Malta cuối năm 1989, tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng cho chủ tịch Gorbachov của Liên Xô một viên gạch lấy từ bức tường ô nhục Bá Linh. Dù chỉ là một viên gạch, nhưng đây lại là một món quà vô giá, bởi vì tổng thống Bush đã muốn gói ghém trong đó tất cả thiện chí và ước muốn xây dựng hòa bình của ông, của nhân dân Hoa Kỳ, cũng như của tất cả những ai yêu chuộng hòa bình.
    Trước đó vài ngày, chủ tịch Gorbachov cũng đã trao tặng và nhận quà trong cuộc gặp gỡ với Ðức Thánh Cha. Nhà lãnh đạo của Liên Xô đã tặng cho Ðức Thánh Cha một tập thánh vịnh in vào thế kỷ thứ 13 và 14, qua đó ông muốn khẳng định rằng những giá trị đạo đức và luân lý do tôn giáo đề ra là những nhân tố cần thiết cho việc xây dựng xã hội.
    Ðáp lại, Ðức Thánh Cha đã tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống".
    Ðó là tất cả những gì mà Ðức Gioan Phaolô II và qua ngài, toàn thể Giáo Hội có thể trao tặng cho một xã hội đã từ lâu muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
    Riêng với bà Raissa, phu nhân của chủ tịch Gorbachov, Ðức Thánh Cha đã tặng một cỗ tràng hạt. Lòng yêu mến đối với Nữ Vương của hòa bình: đó là món quà cao quý nhất mà một vị Giáo Hoàng đã có thể tặng cho tất cả những ai đang mưu tìm hòa bình cho nhân loại.
    Mùa Vọng là mùa của gửi thiệp và tặng quà Giáng Sinh.
    Chúng ta gửi thiệp chúc mừng đến những người thân thương quen thuộc đã đành, chúng ta cũng gửi đi những cánh thiệp xã giao đến những người chỉ một lần gặp gỡ, quen biết... Có một cánh thiệp nào, một quà tặng nào cho những người không quen biết, cho những người đầu ngõ cuối xóm mà chúng ta không hề muốn đưa mắt nhìn đến, cho những người hành khất bên vệ đường, cho những kẻ không nhà không cửa, cho những ai đang rét run vì giá lạnh, vì cô đơn không?
    Hãy nhiệt tình chào hỏi những người mà chúng ta ghét cay ghét đắng. Hãy làm hòa với những ai chúng ta vừa gây gổ. Hãy dọn một bữa ăn cho những người hành khất quen thuộc. Hãy thăm viếng một người bệnh đang chờ một lời an ủi, đỡ nâng. Hãy san sẻ đôi chút với những người hàng xóm đang túng thiếu hơn ta.
    Ðó là những cánh thiệp, những món quà Giáng Sinh có giá trị nhất mà chúng có thể gửi ngay đi trong Mùa Vọng này, bởi vì đó là phần cao đẹp nhất của chúng ta.
     
  11. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    23 Tháng Mười Hai
    Một Căn Nhà Trật Tự

    Giá trị của một ngôi nhà chính là được con người cư ngụ. Một mái nhà tranh nhưng đầy ắp tiếng cười tiếng khóc của trẻ thơ vẫn đầm ấm hơn một dinh thự bỏ trống. Chúng ta có thể xác quyết rằng sự sinh sống, sự hiện diện, sự cư ngụ của con người trong căn nhà đã giữ gìn và bảo trì nó khỏi hư nát. Nhưng một khi con người bỏ đi, căn nhà sẽ trở nên tồi tàn. Sức mạnh, vẻ đẹp, sự linh động, sự tồn tại của ngôi nhà chính là được cư ngụ.
    Cũng giống như thế, đời sống của chúng ta phải là một ngôi nhà được cư trú, được chiếm ngự. Nhưng cư trú ở đây không có nghĩa là chất chứa những vật dụng lỉnh kỉnh. Sự đầm ấm của một ngôi nhà còn tùy thuộc ở sự sắp xếp, sự bài trí. Ngôi nhà càng lộn xộn, càng dơ bẩn, thì càng trật trội, càng nóng nực.
    Ðời sống của chúng ta có thể là một căn nhà đầy ắp, nhưng lại thiếu trật tự, thiếu ngăn nắp, thiếu sự hiện hữu linh động và những điều kiện tinh thần để bảo trì căn nhà đời sống của chúng ta.
    Ngôi nhà của chúng ta có thể là một cao ốc với không biết bao những tầng lầu của lo lắng, đau buồn, bận bịu và sợ hãi. Chúng ta chất chứa cho cuộc sống chúng ta đầy ắp, nhưng những chất chứa ấy chỉ làm cho ngôi nhà của chúng ta ra buồn thảm, nhơ bẩn.
     
  12. phongthuygia

    phongthuygia Moderator

    Tham gia ngày:
    24 Tháng mười hai 2006
    Bài viết:
    4
    Điểm thành tích:
    1
    Giới tính:
    Nam
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    Nhu*ng~ bai` nay` hay qua'. Thank you Toc' Ma^y nhie^u`.
     
  13. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    24 Tháng Mười Hai
    Cặp Kính Lão

    Tại một viện dưỡng lão nọ, ai ai cũng cảm thấy vui, vì ngày Giáng Sinh sắp đến. Lễ Giáng Sinh không những là lễ của nhận quà, mà còn là của tặng quà nữa. Cho nên, dù không dư dả, các lão ông lão bà cũng cặm cụi suốt ngày để chuẩn bị một món quà gửi tặng cho thân nhân, người quen.
    Duy chỉ có một bà lão xem chừng như dửng dưng trước những rộn rịp xung quanh. Bà ngồi trong một góc nhà, gặm nhấm từng nỗi cô đơn của mình. Bà không còn một người thân nào trên trần gian này. Kỳ thực, bà còn một người con trai, nhưng người con ấy kể như đã chết với bà. Từ lâu, anh đã bị giam trong một trại khổ sai chung thân.
    Dù vậy, đối với trái tim của một người mẹ, một đứa con, cho dù có đốn mạt đến đâu, vẫn là một người con. Cũng như những lão ông lão bà khác, người đàn bà đáng thương cũng đã có ý nghĩ gửi một món quà cho đứa con bạc phước của mình. Nhưng bà không có một đồng xu dính túi. Tất cả tài sản của bà chỉ là cặp kính lão còn đeo trên mắt... Người đàn bà ước ao được gửi cho người con của mình một gói thuốc lá. Một gói thuốc không là bao, nhưng gói trọn tình thương mà bà vẫn dành cho anh.
    Bà đi trao đổi với các cụ già, nhưng không ai có gì để trao tặng bà. Cuối cùng, có một ông lão còn một gói thuốc lá, loại thuốc mà có lẽ con trai bà ưa thích. Nhưng trong viện dưỡng lão này, dường như ai cũng sống theo nguyên tắc "có qua có lại". Lão ông chỉ trao cho bà gói thuốc với điều kiện bà cũng trao tặng cho ông một món quà nào đó.
    Người đàn bà đành lấy cặp kính khỏi đôi mắt và trao cho ông lão. Gương mặt người đàn ông sáng rỡ lên vì ông đã có thể đọc được tỏ tường. Cuộc trao đổi chấm dứt. Người đàn bà gói bao thuốc lá lại thành một món quà Giáng Sinh quý giá để gửi tặng cho con.
    Trở lại góc phòng của mình, người đàn bà làm một cử chỉ máy móc: bà đưa tay lên mắt để để sửa lại cặp kính lão. Nhưng cặp kính không còn nữa. Dù vậy, người đàn bà cảm thấy vui hơn bao giờ hết: bởi vì người con trai của bà nơi trại khổ sai sẽ vui vì nhận được quà Giáng Sinh, bởi vì lão ông trong viện dưỡng lão sẽ đọc được báo trong những ngày Giáng Sinh.
    Quà tặng chỉ có ý nghĩa khi nó là biểu tượng của người tặng. Người tặng quà không chỉ gửi đi một cánh thiệp, một cái áo, một chiếc bánh, một món đồ chơi, mà gói ghém tất cả tình cảm, sự biết ơn, lòng ngưỡng mộ, tâm tình thương mến của mình. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao tặng chính bản thân mình.
    Do đó, sự trao tặng nào cũng là một mất mát: mất mát một chút tiền của, mất mát một ít thì giờ. Sự mất mát càng lớn, thì quà tặng càng có giá trị. Bà cụ trong viện dưỡng lão trên đây quả thực đã mất mát nhiều: bà đã mất đi một phần ánh sáng của mình. Nhưng bù lại, niềm vui của người con và niềm vui của người đồng viện của bà sẽ lớn hơn. Mất đi một chút ánh sáng để cho người khác được thấy, chấp nhận một chút đau khổ để cho người khác được vui, thua thiệt một phần để cho người khác được cười: đó là tất cả ý nghĩa của sự tặng quà đích thực.
    Nhưng đó cũng là niềm vui đích thực, bởi vì niềm vui của người chính là niềm vui của ta. Mục đích của quà tặng là làm cho người khác được vui. Do đó, niềm vui của người khác phải là quà tặng đích thực mang lại niềm vui cho ta.
     
  14. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    25 Tháng Mười Hai
    Phép Lạ Giáng Sinh

    Hằng năm, cứ đến Giáng Sinh, Hài Nhi Giêsu thường đi một vòng rảo qua khắp các làng mạc và đô thị để tặng quà cũng như nhận quà và phân phát cho những ai cần đến.
    Năm nay, tại một đô thị nọ, Ngài đang cần một món quà không dễ tìm ra: đó là một quả tim lành mạnh để thay thế quả tim của một người bệnh đang hấp hối.
    Bệnh nhân có quả tim gần như ngừng đập này là một nhân vật nổi tiếng trong cả nước: đó là bộ trưởng tài chính!

    Tất cả các bác sĩ trong nước đều bó tay. Cuối cùng, họ mới chạy đến với Hài Nhi Giêsu, vì tin tưởng rằng ít ra trong đêm Giáng Sinh, Ngài sẽ làm một phép lạ. Nhưng Hài Nhi Giêsu trả lời với các bác sĩ: "Không phải Ta là người phải làm phép lạ, nhưng chính là lòng quảng đại của một người dâng hiến quả tim của mình".
    Tin tưởng ở lòng người, Hài Nhi Giêsu đã đến gõ cửa nhà của thân nhân, bạn hữu của vị bộ trưởng. Họ đang mừng lễ Giáng Sinh: cây Giáng Sinh của họ đầy những hoa đèn và quà tặng, bàn ăn của họ đầy những thịt rượu và của ngon vật lạ. Họ đang ăn uống say sưa... Vừa thấy Hài Nhi đứng trước nhà, họ tưởng Ngài là một cậu bé vô lại phá đám, cho nên đã tống khứ Ngài đi càng sớm càng tốt.
    Hài Nhi Giêsu buồn bã bỏ đi... Nhưng Ngài vẫn chưa thất vọng về tình người.
    Lần này, Ngài đến gõ cửa của những người thân cận vị bộ trưởng. Họ là những người đã từng bán đứng lương tâm, chối bỏ phẩm giá của mình để tìm kiếm lạy lục một chút cặn bã của vinh hoa, lợi lộc phù phiếm. Hài Nhi Giêsu nghĩ thầm ít ra đây cũng là dịp để họ tỏ lòng biết ơn đối với ông bộ trưởng. Nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối, trái tim của họ đang hướng đến người sẽ lên thay thế ông bộ trưởng trong những ngày gần đây.
    Hài Nhi Giêsu lại tiếp tục đi gõ cửa từng nhà, nhưng ai cũng đang bận bịu với cuộc vui đêm Giáng Sinh.
    Ngài đi, đi mãi trong đêm, để rồi mệt lả không còn lê bước nữa. Ngài ngồi xuống bên vệ đường ven đô thị. Ngài đang miên man nghĩ đến tình người thì bỗng dưới ánh đèn đường mờ ảo, một bóng đen thất thểu tiến lại gần Ngài. Con người này xem chừng như không biết lễ Giáng Sinh là gì. Quần áo bẩn thỉu, dáng đi ngập ngừng. Trên vai của anh đeo lủng lẳng một chiếc đàn vĩ cầm cũ kỹ. Ðó là tất cả vốn liếng của một kẻ lãng tử. Vừa thấy em bé ngồi tiu nghỉu bên vệ đường, anh mới dừng lại, lấy chiếc đàn ra và dạo lên những khúc nhạc du dương, trầm buồn. Bản nhạh bỗng mang lại hy vọng cho Hài Nhi. Trên môi Ngài, một nụ cười bé thơ cũng vừa hé mở. Con người lang thang phiêu bạt này, con người không có lấy một mái nhà để nương náu, không có được một ngày lễ trong cuộc sống, không biết được đêm nay là đêm Giáng Sinh: vậy mà con người ấy có được một trái tim quảng đại sẵn sàng dâng hiến!
    Hài Nhi Giêsu đến nắm tay anh, đưa anh vào bệnh viện. Tại đây, với nụ cười tươi nở trên môi, anh để cho các bác sĩ khoét vào lồng ngực của anh để lấy quả tim quảng đại của anh và đặt vào chỗ của quả tim đang thoi thóp của ông bộ trưởng tài chính.
    Cuộc ghép tim vừa chấm dứt, thì mọi người đã có thể chứng kiến được phép lạ. Ông bộ trưởng với quả tim quảng đại và yêu đời của người lãng tử đứng dậy khỏi giường và bắt đầu ca hát.
    Ông đã ném đi quả tim chỉ biết rung động vì tiền của, để thay thế bằng quả tim quảng đại biết ca hát, và sẵn sàng tự hiến cho người.

    <FONT face="Times New Roman" size=3>
     
  15. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    26 Tháng Mười Hai
    Ông Già Noel

    Tháng 9 năm 1897, một bé gái 8 tuổi tên là Virginia đã viết cho tờ báo Công Giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không?
    Vài ngày sau, trên một quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau:"Virginia yêu dấu của bác. Ðiều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.
    Virginia yêu dấu, tất cả mọi trí khôn của loài người, dù là của trẻ em, dù là của người lớn, tất cả đều nhỏ bé. Trong cái vũ trụ bao la này, con người chỉ là một con kiến nhỏ bé.
    Virginia ạ, ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại nhờ đó cuộc sống của cháu trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào? Không có những tâm hồn ngây thơ trong trắng của những trẻ thơ như cháu thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào? Không có một niềm tin của trẻ thơ như cháu thì không có một áng văn, một dòng thơ nào có thể làm cho cuộc sống của chúng ta đáng sống nữa. Không có một niềm tin của trẻ thơ thì ánh sáng vĩnh cửu đang lấp đầy thế giới cũng sẽ tắt dần.
    Virginia, nếu cháu không còn tin ở ông già Noel nữa, thì cháu cũng chẳng còn tin ở chuyện thần tiên nữa. Có thể cháu sẽ yêu cầu bố cho người ngồi canh ở lò sưởi, ở cuối giường để bắt cho được ông già Noel... Nhưng dù cháu không bắt được ông già Noel đi nữa, điều đó ý nghĩa gì? Chưa có ai thấy ông già Noel, nhưng cũng không ai chứng minh được là không có ông già Noel. Những điều có thực nhất trong thế giới của chúng ta đó là những điều mà trẻ con và ngay cả người lớn cũng chưa từng thấy.
    Cháu đã bao giờ thấy các nàng tiên nhảy múa trên thảm cỏ chưa? Dĩ nhiên là chưa. Nhưng có ai chứng thực được các nàng tiên không có không? Không ai có thể có khái niệm hay tưởng tượng được bao điều kỳ diệu chưa thấy hoặc không thể thấy được trong thế giới của chúng ta.
    Chỉ có Ðức Tin, chỉ có tình yêu mới có thể vén mở được bức màn bí mật của thế giới chúng ta.
    Nhờ ơn Chúa, ông già Noel vẫn sống và tiếp tục sống, cháu Virginia ạ. Ông già Noel sẽ tiếp tục làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc".
     
  16. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    27 Tháng Mười Hai
    Ngạc Nhiên

    Tại miền Provence thuộc miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Ða số các nhân vật trong máng cỏ, du khách thường để ý đến một con người nhỏ bé với hai bàn tay mở ra trống trơn, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó tả. Chính vì thế mà người ta đặt tên cho nhân vật này là "ngạc nhiên".
    Người địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên trên gương mặt của nhân vật này bằng một câu chuyện như sau: Một hôm tất cả các nhân vật trong máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa, đều tỏ ra khó chịu đối với nhân vật có tên là "ngạc nhiên" này, bởi vì anh ta không có gì để mang tặng cho Chúa Hài Nhi, ngoài hai bàn tay trắng của anh. Họ sỉ vả anh như sau: "Mày không biết xấu hổ sao? Mày đến chầu Hài Nhi Giêsu mà không mang theo gì cả?".
    Nhưng con người có tên là "ngạc nhiên" ấy không để lộ một phản ứng nào, đôi mắt của anh vẫn mở to và chăm chú nhìn vào Hài Nhi Giêsu.
    Những lời rủa sả cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến độ Ðức Maria phải lên tiếng để biện hộ cho anh như sau: "Quả thực anh "ngạc nhiên" đã đến với Hài Nhi Giêsu với hai bàn tay trắng. Nhưng anh đã mang đến món quà cao đẹp nhất: đó là sự ngạc nhiên của anh! Ðiều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư của anh".
    Và Ðức Mẹ kết luận như sau: "Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu luôn có những con người như anh "ngạc nhiên", biết ngây ngất vì ngạc nhiên".
     
  17. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    28 Tháng Mười Hai
    Những Vị Thánh Vô Danh

    Có một vị thánh nọ thánh thiện đến độ, không hề dám có ý nghĩ rằng mình là một con người thánh thiện.
    Ngày kia, một thiên thần đến nói với ngài: "Chúa sai tôi đến gặp ngài. Ngài hãy xin bất cứ điều gì ngài muốn. Chúa sẽ ban cho ngài. Vậy ngài có muốn được ơn chữa bệnh không?"
    Vị thánh trả lời: "Không. Thà để cho chính Chúa chữa trị thì tốt hơn". Vị sứ thần đề nghị điều khác: "Ngài có muốn đem những người tội lỗi trở về đường công chính không?"
    Vị thánh cũng lắc đầu từ chối: "Không. Cải hóa tâm hồn không phải là việc của tôi. Ðó là công việc của các thiên thần". Vị sứ giả của Chúa mới gợi ý thêm: "Ngài có muốn trở thành một mẫu gương để thiên hạ luôn đến để bắt chước không?"
    Vị thánh cũng khiêm tốn trả lời: "Không. Bởi vì làm như thế tôi sẽ trở thành trung tâm thu hút sự chú ý". Thiên thần mới hỏi: "Vậy thì ngài mong muốn điều gì?". Vị thánh trả lời: "Ơn Chúa, có ơn chúa, đó là điều tôi hằng khao khát".
    Vị thiên thần được Chúa sai đến vẫn chưa chịu bỏ cuộc, nên đề nghị lần cuối cùng: "Ngài phải xin một phép lạ. Nếu không tôi đành phải để phép lạ xảy ra vậy". Vị thánh của chúng ta đành phải ưng thuận: "Vậy thì tôi xin điều này: ước gì mọi việc thiện được thực thi qua tôi mà tôi không hề hay biết". Thế là để là cho lời ước của vị thánh thành sự thật, Thiên Chúa ban cho cái bóng phía sau của ngài được mọi thứ quyền năng. Nơi nào có cái bóng ngài đi qua, thì nơi đó, người bệnh được lành, đất đai trở thành phì nhiêu, nguồn suối phát sinh sự sống, niềm vui trở lại trên những khuôn mặt sầu khổ.
    Nhưng vị thánh không hề hay biết điều đó, vì dân chúng chú ý đến cái bóng đến độ quên hẳn con người.
     
  18. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    29 Tháng Mười Hai
    Hoàng Tử Và Cậu Bé Nghèo

    Văn hào Anh Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một quyển tiểu thuyết mang tựa đề "Hoàng tử và cậu bé nghèo". Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà nghèo.
    Một ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người cùng cực nhất trong xã hội.
    Thế nhưng một lúc nào đó, hai cậu bé cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ quần áo rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã không tin... Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả mạo.
    Giữa lúc Tom, cậu bé nghèo, sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện... Không mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giàu lòng thương người.
     
  19. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    30 Tháng Mười Hai
    Sự Chọn Lựa Của Chúa

    Vào dạo tháng 12 năm 1987, Ðức Hồng Y Jean Marie Lustiger, đương kiêm Tổng Giám Mục Paris, Pháp Quốc, đã cho xuất bản một quyển sách mang tựa đề " Sự chọn lựa của Thiên Chúa". Qua tựa đề này, ai cũng đoán được đây là một quyển tự thuật ghi lại cuộc hành trình Ðức Tin của ngài.
    Sinh ra trong một gia đình Do Thái sùng đạo, ông ngoại là một thầy Rabbi uyên thâm, Jean Marie Lustiger đã tự ý trở lại với Ðức Tin Công Giáo vào năm 14 tuổi. Hành động này của Jean Marie dĩ nhiên đi ngược lại với xác tín của gia đình, nhất là mẹ cậu. Trước khi bị đưa lên xe chở đi qua trại tập trung Ðức Quốc Xã ở Auschwitz, bà còn nói với các con: "Các con hãy giữ mình, chớ theo đạo Công Giáo. Ðây là một cơn bệnh hiểm nghèo".
    Nhưng tiếng Chúa còn mạnh hơn sự cảnh cáo của người mẹ. Cũng giống như thi sĩ Paul Claudel khi ngắm nhìn ánh nến lung linh trên bàn thờ, bỗng nhận ra tiếng gọi của Chúa, Jean Marie Lustiger cũng đã nghe được tiếng gọi thầm kín ấy một ngày thứ năm tuần thánh nọ khi cậu bước vào nhà thờ chính tòa Orleáns. Dân chúng đứng chen chúc đông nghẹt trong nhà thờ. Nhưng ngày hôm sau, khi cậu trở lại, nhà thờ bỗng trống vắng... Nhưng chính trong nỗi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh đó mà Jean Marie Lustiger đã nhận ra tiếng gọi của Chúa.
     
  20. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Re: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    31 Tháng Mười Hai
    Lẽ Sống

    Ngày xưa có một ông vua, tuổi đã quá ngũ tuần mà vẫn chưa xem được một quyển sách nào. Bộ sách mà ông thèm khát được đọc nhất là bộ "Lịch sử loài người". Nhưng khốn nỗi, cuộc đời của ông, từ mái đầu xanh cho đến tóc điểm bạc, không lúc nào được rảnh rang. Ðời ông luôn luôn sống trên lưng ngựa, nằm sương, gối tuyết trên bãi chiến trường. Nay chinh phục nước này, mai ngăn chặn nước kia xâm lăng. Mắt ông chỉ thấy có gươm giáo và máu lửa. Ông rất ân hận vì chưa đọc được một trang sách của thánh hiền... Nay nước nhà đã hòa bình, ông muốn dành thời giờ còn lại để đọc cho kỳ được bộ lịch sử loài người, để xem con người xưa nay sống để làm gì? Nhưng tuổi ông đã cao, mà bộ sách lại quá dày. Biết sức mình không thể đọc hết bộ sách, cho nên nhà vua mới ra lệnh cho viên sử thần làm hộ cho mình công việc ấy. Với sự giúp đỡ của một ban gồm 50 người, viên sử thần mới bắt tay ngày đêm miệt mài đọc sách.
    Sau 10 năm cắm cúi đọc sách, viên sử thần đã có thể tóm tắt bộ lịch sử loài người thành 10 quyển sách, và cho mang vào trình lên nhà vua. Nhưng vừa nhìn thấy 10 quyển sách và đo lường tuổi tác của mình, nhà vua lại cảm thấy không đủ sức để đọc hết bộ sách đã được rút ngắn. Nhà vua mới đề nghị cho ủy ban làm việc thêm một thời gian nữa. Sau 5 năm làm việc thêm, ủy ban đã có thể tóm lược lịch sử loài người thành 5 quyển. Nhưng khi ủy ban mang 5 quyển sách vào ra mắt nhà vua, thì cũng chính là lúc nhà vua đang hấp hối trên giường bệnh. Biết mình không thể đọc được dù một trang, nhà vua mới thều thào nói với viên trưởng ban tu sử hãy tóm tắt bộ lịch sử loài người thành một câu mà thôi. Vị trưởng ban tu sử mới tâu với nhà vua như sau: "Hạ thần xin vâng mạng. Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ là: loài người sinh ra để khổ rồi chết". Nhà vua gật đầu. Ðôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở nụ cười mãn nguyện... rồi tắt thở. Và giữa lúc ấy, vị trưởng ban tu sử cũng nấc lên mấy tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng.
     

Chia sẻ trang này