Tử Vi Tinh Điển

Thảo luận trong 'Trao đổi kiến thức về Tử Vi' bắt đầu bởi cabachlong, 23 Tháng bảy 2006.

  1. cabachlong

    cabachlong New Member

    Tham gia ngày:
    20 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    1,152
    Điểm thành tích:
    0
    Loạt bài này giới thiệu cuốn Tử Vi Tinh Điển của tác giả Vũ Tài Lục.
    Hiện ông cư ngụ tại USA, ông là đồng tác giả của rất nhiều cuốn sách nổi tiếng trong lĩnh vực lý số, ví dụ như cuốn Người đàn bà trong tướng mệnh hoc, Tướng mệnh khảo luận, Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, và gần đây nhất là Tử Vi Tinh Điển .
     
  2. cabachlong

    cabachlong New Member

    Tham gia ngày:
    20 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    1,152
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    Những bài viết sau đây copy từ loạt bài của chị Thiên Đồng tại site www.tuvilyso.com.

    ---------------
    LUẬN VỀ CÁC SAO TRONG TỬ VI

    LỜI NÓI ĐẦU

    Bước sang thế kỷ 21, nói chuyện số mệnh có phải là lỗi thời không? Trí óc con người nhờ khoa tin học đã được trang bị những hiểu biết thật rộng rãi, vượt hẳn những gì con người thâu thập khi còn ở trong thế kỷ 20 từ thiên nhiên đến xã hội, chính trị….Ta đang ở trong dòng sông lớn của tin học được coi như sức mạnh vạn năng làm lại sinh hoạt trên trái đất. Vậy thì hãy ngồi trước bàn máy vi tính để tìm hiểu, phấn đấu; chuyện mệnh số nên coi như nắm xương khô của mấy chục thế kỷ trước.

    Lập luận trên là sai lầm! Vì chỉ bằng quan điểm khoa học, xem mệnh tướng là hoang đường và mê tín vì đã chẳng hiểu sâu xa những kiến thức đến từ số mệnh học. Lưới tin học giăng xa khắp thế giới, cho con người đủ mọi tin tức và hiểu biết ngay tức khắc khi một sự việc xảy ra ở bất cứ nơi nào trên địa cầu. Duy có một hiểu biết mà “hệ thống internet” không thể cung cấp được là hiểu biết và nhận thức về chính bản thân mỗi người trong chúng ta.

    Tại một ngôi đền ở thành Athens có khắc một câu châm ngôn của các nhà hiền triết Hy Lạp cổ thời “HÃY NHẬN THỨC BẢN THÂN MÌNH”. Châm ngôn ấy chính là cơ sở của tất cả các loại mệnh số học từ trước tới nay, ở bất cứ đâ. Tôi nhắc lại ba chữ mệnh số học để nói rằng những khoa thuộc loại này đã được kể là một học vấn tồn tại lưu truyền từ mấy ngàn năm, được phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng. Xã hội loài người càng tiến hoá càng phức tạp. Thời hồng hoang chưa có số mệnh nhưng chưa có đạo đức, chưa có văn hóa, chưa có hệ thống cơ chế, vẫn có số mệnh nhưng chưa có số mệnh học vì con người chỉ biết vái trời mà cầu đảo, mọi sự trông vào lối giả quyết của những cúng kiến mang tính chất thuần tôn giáo, mê tín.

    Thoát khỏi cuộc sống ăn lông ở lỗ, bước vào sinh hoạt văn hóa, đạo đức và cơ chế, đường đi nước bước của hành động dần dần thay thế tình trạng tuyệt đối tùy thuộc ông trời và bọn thầy cúng, số mệnh con người được đưa ra xem xét cặn kẽ để hình thành khoa số mệnh học. Kinh dịch chính là một trong những bộ sách cổ của số mệnh học trong cái tinh thần “Hãy nhận thức bản thân mình”. Khi Văn Vương lập Bát quái bắt nguồn từ tìm thấy ở Lạc thư hà đồ, một công thức toán nguyên thủy viết trên những ô vuông như mai con rùa gồm chín ô (như bàn cờ tướng). Mỗi ô viết một chữ số thành ra số 15 gồm mỗi ô cộng lại, cho bất cứ hướng nào, ngang dọc chéo như sau:

    4 9 4
    3 5 7
    8 1 6

    Tổ chức xã hội với các mặt cơ chế chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa tinh vi bao nhiêu thì số mệnh học con người càng hiện rõ bấy nhiêu. Quyền cao chức trọng, luân lạc giang hồ, giai nhân mệnh bạc, bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mói được phần thanh cao. Vương Khải, Thạch Sùng, Bill Gates, Turner, công nương Diana… đều mang số mệnh riêng biệt.

    Dịch là chuyển biến, thay đổi không ngừng. Toàn vũ trụ không lúc nào không chuyển dịch, biến đổi. Chuyển đổi là nguyên động lực đẩy quay bánh xe số mệnh và con người ở trần thế này. Tốc độ biến dịch mỗi thời kỳ một mau hơn. Con người cần nhận thức được bản thân để thích ứng hoặc trực diện đương đầu, hoặc tránh né để chờ thời mà thực hiện tốt cuộc tranh sống với hoàn cảnh thiên nhiên, hoàn cảnh xã hội.

    Khả năng của lưới tin thời đại chỉ lan xa, mở rộng và chỉ xuất hiện mới đây, nhưng tấm lưới của số mệnh đã có từ khi hình thành vũ trụ, chẳng những bao la, xa rộng mà còn thấm sâu vào đời sống vạn vật. Lưới tin chỉ có thể cho ta biết những gì đang xảy ra, đã xảy ra nhưng lưới của số mệnh Nostradamus phát hiện được những gì sẽ đến sau cả trăm năm. Nếu không dùng số mệnh học để giải đáp, chúng ta không thể hiểu tại sao?

    Vở kịch La Moueette của Anton Tchkoov lần đầu trình diễn là một thất bại thê thảm đến nỗi tác giả phải bỏ trốn để không bị nghe những lời mạt sát, công kích. Nhưng chỉ ba tháng sau thôi, hào quang của vở kịch những những bao trùm nước Nga mà còn chiếu sang ra toàn thế giới, mà làn trình diễn thứ hai vở kịch không hề được gọt dũa hay thay đổi dù một chữ.

    Gần hai chục năm, mạng lưới số mệnh đã bủa vây công nương Diana, từng lớp từng lớp, cuối cùng đưa tới cái chết thê thảm của bà giữa lúc mà kỹ thuật lưới tin phát triển rầm rộ. Vậy thì nói chuyện số mệnh vào lúc này khi nhân loại bước sang kỷ nguyên kỹ thuật lên cao nhất, kinh tế toàn cầu phức tạp nhất trong lịch sử lại là hợp thời.

    Phương Đông không dùng hai chữ định mệnh mà dùng số mệnh. Như Tử Vi Đẩu Số, Mai Hoa Dịch Số, mở đầu bộ Kinh Dịch là thấy ngay những con số như Thái Cực Sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng và sáu mươi bốn quẻ dịch. Ngôi vua được gọi là ngôi Cửu Ngũ, căn cứ và hệ tử qua quẻ càn “Cửu Ngũ, Phi Long tại Thiên”. Dùng số cốt để chỉ một bài toán có thể tính ra, tìm thấy. Nếu kể là định mệnh thì đành chỉ bó tay chịu thôi.

    Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa kể mấy chuyện về trận Xích Bích như Gia Cát Lượng đã tính ra ngày sương mù để sản xuất ra những mũi tê lấy từ kho vũ khí của Tào Tháo; tính thời gian có gió đông để đánh chiến thuyền của quân Ngụy bằng hỏa công và còn rất nhiều chuyện tương tự rải rác ở các sách khác hoặc từ văn học dân gian.

    Lịch sử nước ta có mấy câu kể vào loại “nhất ngôn hưng bang” ảnh hưởng lâu dài đến vận mệnh của cả nước đều bắt nguồn từ tính toán mệnh số:

    - Lúc họ Trịnh toan cướp ngôi Lê sai người vào hỏi ông Trạng Trình. Ngài trầm ngâm chẳng muốn bàn thảo thẳng vào vấn đề. Các sứ gia của Trịnh lặng yên ngồi chờ thì bỗng Trạng Trình sai bảo người nhà một điều: “Hẵng quét dọn sạch sẽ nơi thờ tự vào chùa thờ Phật thì được ăn oản” chỉ một câu ấy thôi rồi ngài xin phép các sứ giả vào nghỉ. Sứ giả về tâu trình lại với chủ, họ Trịnh hiểu ý, không đoạt ngôi Lê nữa mà chỉ xưng là chúa nhưng quyền hành đã nắm hết trong tay. Câu vào chùa thờ Phật thì được ăn oản đã khiến cho nước hết loạn, dân được yên. Nếu tranh đoạt ngôi Lê thì cái thù của dòng họ còn kéo dài và giết chóc chưa chấm dứt.

    - Một lần khác khi Nguyễn Hoàng bị chúa Trịnh chèn ép bèn sai gia nhân đến thỉnh ý Trạng Trình. Ngài bảo: “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” (Dãy núi Hoành Sơn có thể dung thân vạn đời). Nguyễn Hoàng hiểu ý xin với chúa Trịnh cho mình đi trấn thủ phía Nam, một nơi mà chúa Trịnh coi là tử địa cho Nguyễn Hoàng. Thế nhưng Nguyễn Hoàng từ đấy đã mở mang bờ cõi cho nước ta, trải dài tới đến Cà Mau.

    - Trạng Trình một nhà số mệnh học uyên thâm, cụ đã tính và nhìn thấy rõ chẳng những tương lai của một người, một dòng họ àm còn tương lai của một dân tộc. “Vào chùa thờ Phật thì được ăn oản” là câu nói tạo nên một thời an dân. “Hoàng Sơn nhất đái vạn đại dung thân” là câu nói hưng bang, mở mang bờ cõi

    - Các lời tiên tri của Nostradamus thiết tưởng tất cả mọi tin tức của ngành tin học cho dù có lúc nó phát triển cao độ nhất chắc chắn cũng vẫn chẳng theo kịp. Họ Trịnh, họ Nguyễn đã được Trạng Trình chỉ bảo mà nhận thức ra chính mình dối với tình thế trước mặt. Nhận thức ấy đã ảnh hưởng rất lớn cho đất nước đương thời và những thế hệ mai sau. Alexandra không chết tại trận tiền đẫm máu và đầy thây người nhưng đã lìa đời bởi một căn bệnh khônglấy gì làm độc hại. Cesar đã gục ngã ngay ngưỡng cửa thượng viện bởi những lưỡi dao của người bạn mà ông rất tin cậy, quí trọng Brutus. Napoleon tạ thế trong trại giam khi bị lưu đầy ra đảo Saint Heleneb bởi chứng đau bao tử (cũng có giả thuyết nói ông bị đầu độc). Napoleon từng nói: “Giữa cái ngố nghếch lố bịch và cái vĩ đại huy hoàng chỉ cách nhau gang tấc”

    Những vĩ nhân lịch sử kế trên, họ từng đi rất xa để chinh phục thế giới rộng lớn và rồi họ đã gặp những cái chết như lời ghi trên một bản viết tìm thấy dưới hầm tòa thánh thế kỷ 15”. Va où tu veux, meurs où tu dois (người muốn đi tới nơi nào tùy ý, nhưng cuối cùng người sẽ phải chết ở chỗ đã định sẵn). Sự trớ trêu và điều trớ trêu chính là một bộ mặt ẩn dấu của số mệnh.

    - Sau khi họp với các tướng lãnh đạo thảo luận về chiến dịch tấn công Nga Xô Viết, Hitler lên máy bay trở về đại bản doanh tại tư dinh ông ở Rastenburgus, bay gần đến nơi thì máy bay ngộ nạn. Một số tùy tùng chết, riêng ông thì hôn mê nửa năm. Cuộc chiến với Nga ngay lúc khởi sự đã gặp trục trặc, ảnh hưởng đến cả tương lai lịch sử thời ấy. Thiếu Hitler các tướng không đồng ý chặt chẽ được với nhau, các tướng cũng không phục thống chế Goering mà Hitler có ý định chọn làm người kế vị. Bởi thế chiến dịch Barbarossa đã không thành công trước mùa đông để rồi thất bại.

    - Ông Buachau người Thái Lan được cả thế giới coi là ông vua rắn. Nhưng ông lại đã chết vì rắn cắn sau khi hưởng danh hiệu vua chưa đầy 3 năm. Lý do ông chết chỉ tại người thân thuộc không đưa ông tới nhà thương ngay vì họ nghĩ ông là vua rắn, làm saio chết bởi rắn cắn được.

    Sách truyền thế ngôn có câu:

    Thời cùng thế kiển chi nhân, đương nguyên kỳ thực tâm
    Công thành danh lập chí sĩ, đương quan kỳ mạt lộ
    (Người ở vào cái thế cùng kiệt mà không đánh mất nhiệt tâm phấn đấu
    Người đang lúc công thành danh toại hãy nhìn ra lúc mạt lộ của mình)

    Câu này đáng để ta suy ngẫm về cái triết lý của mệnh số.

    Ba Khải quốc công thần đời Hán: Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương
    - Tiêu Hà bị ngục hình chết trong tù
    - Hàn Tín bị chu di
    - Trương Lương thoát chạy lên núi tu tiên
    Sở dĩ Trương Lương sắp xếp an toàn tình cảnh mạt lộ của mình chính là nhờ ông giỏi khoa toán mệnh.

    LỜI DẪN

    Luận đoán một lá số phải căn cứ vào các sao đã an qua lề lối được ấn định bởi ngày giờ năm tháng sinh. Ta thấy hơn một trăm sao từ chính tinh đến phụ tinh như Tử Vi, Thiên Phủ, Kình Dương, Đà La, Văn Xương, Văn Khúc, Cô Thần, Quả Tú…

    Như vậy có phải khoa Tử Vi liên hệ đến thiên văn không? Nhất là lại nhắc tới các hệ nam đẩu với bắc đẩu tinh.
    Khoa Tử Vi không dính dáng gì đến thiên văn. Những sao ấy chỉ là những hư tinh dùng làm ký hiệu cho sự lập thành lá số, cũng như trong khoa kham dự (địa lý) dùng Phá Quân, Liêm Trinh, Cự Môn để chỉ hình thù của một trái đất. Nhiều người vẽ rắn thêm chân cho rằng tinh hệ của tử vi đẩu số còn liên quan cả đến từ trường…

    Cuốn sách này chỉ diễn dịch cho rõ rằng cổ nghĩa đã ghi ở các bài phú của cổ nhân mà thôi. Tỉ dụ khi nói về Hỏa Tinh Linh Tinh, người xưa bảo “Hỏa Minh Linh Ám” thì thế nào là minh, thế nào là ám cho rõ trắng đen để người đọc dễ dàng nắm được then chốt. Ở đây cũng tìm hiểu thêm lý do tại sao Không Kiếp lại khởi từ cung Hợi mà tính đi, tại sao Xương Khúc lại từ Thìn Tuất, tại sao Tứ Hóa lại bắt đầu từ Hóa Lộc đến Quyền đến Khoa và sau cùng là Kị.

    Số với lý phải gắn liền
    Số thiếu lý thì số khó đứng vững

    Ngoài ra là ít nhiều tìm tòi về những sao có ghi trong sách vở bên Trung Quốc mà không hề được nhắc tới khi Tử Vi truyền qua nước ta như: Âm Sát, Quan Sát, Tuế Dịch, Phan Án, Tức Thần, Thiên Sát, Chỉ Bối, Nguyệt Sát, Vong Thần….

    CÁC CẤP SAO

    Chư tinh có hai hệ: Bắc đẩu và Nam đẩu

    Tử Vi dẫn đầu Bắc đẩu hệ
    Thiên Phủ dẫn đầu Nam đẩu hệ

    Rồi đến các sao cấp hai như Xương Khúc, Tứ Hóa, Kình Đà, Linh Hỏa, Tuần Triệt không vong, bộ tam minh Đào Hồng Hỉ…

    Sao cấp ba là hệ Lộc Tồn, Tràng Sinh, Thái Tuế

    Sao cấp bốn như Riêu Hình, Kiếp Sát, Long Phượng, Thai Tọa…

    Sao tính theo năm, theo tháng, theo ngày và theo giờ.

    Sao tính theo năm còn chia ra Can với Chi, như Lộc Tồn theo Can, Linh Hỏa theo Chi.

    Thời cổ lập luận lấy năm làm gốc rễ, tháng là mầm mống, ngày là hoa, giờ là quả, cho nên năm được coi làm thần dẫn đạo. Đến đời Tử Bình mới bác bỏ luận cứ trên vì năm làm thần dẫn đạo tính số không được chính xác, phải lấy ngày làm thần dẫn đạo mới đúng. Từ đấy đến nay không được thay đổi nữa.

    Khoa Tử Vi cũng lấy ngày làm chủ như Tử Bình. Lập cục rồi tìm Tử Vi theo ngày. Cõi nguồn của lý số là Đạo gia không phải Nho gia vì Nho gia không đặt nặng lẽ chí huyền chí vi. Âm Dương Ngũ Hành gần với Đạo gia hơn Nho gia. Khi Khổng Khâu giảng Kinh dịch, ông bẻ công vào khuynh hướng chính trị và nhân luận vốn là tư tưởng căn bản của Nho. Dịch vào lý số lại đi theo con đường khác hẳn. Nhưng không phải Nho gia không ảnh hưởng vào lý số. Mười hai cung trên lá số gồm Mệnh, Bào, Tử, Tài, TẬt, Thiên, Nô, Quan, Điền, Phúc, Phụ chính là tổ chức của Nho gia. Ý nghĩa nhân luận của Nho gia được dùng làm cơ sở thực tế để luận về số mạng. Nho gia có lục nghệ: Lễ, Nhạc, Sạ, Ngự, Thư, Số để phân định văn với vũ, các sao của khoa Tử Vi cũng chia ra văn và vũ. Sự suy đoán một lá số Tử Vi xuất hiện khá nhiều sắc thái Nho.
     
  3. cabachlong

    cabachlong New Member

    Tham gia ngày:
    20 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    1,152
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO TỬ VI

    Tử vi thuộc âm thổ, chủ tinh của hệ Bắc đẩu. Về hiện tượng Tử Vi, đứng bậc chí tôn còn gọi là đế toà (như vị vua). Khi luận về Tử Vi, điểm tối trọng yếu là phải thấy được những sao phò tá cho chủ tinh này. Như cổ ca viết:

    Tử Vi nguyên thuộc thổ
    Quan lộc cung chủ tinh
    Hữu tướng vi hữu dụng
    Võ tướng vi cô quân
    (Sao Tử Vi vốn thuộc thổ
    Chủ quan tước quyền vị
    Có bề tôi thì mới hữu dụng
    Như vua mà không triều đình)

    Những sao tá tinh đứng ở đâu? Ở hai bên hoặc theo tam hợp chiếu gọi là giáp hay hiệp, hoặc đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi đứng giữa hai cung bên có Tả Phụ Hữu Bật Xương Khúc. hoặc Tử Vi cùng Tả Hữu đứng chung một cung, hoặc tam hợp xung chiếu là Tả Hữu.

    Tử Vi thiếu Tả Hữu là cô quân. Vua phải có quần thần mới thành quyền lực, mới uy nghi. Quần thần là những sao nào? Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Thiên Mã.

    Nếu không có quần thần lại còn gặp nhiều hung tinh tức là đế ngộ hung đồ (vua gặp kẻ cướp) hoặc “quân tử tại dã tiểu nhân tại vị” (vua bị đám gian thần tiểu quân uy hiếp). Đế tinh trở nên vô dụng còn gặp nguy hại nữa.
    Hung đồ tiểu nhân là những sao nào? Kình Dương, Đà La, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Tham Lang, Tuần Triệt. Đừng quên rằng những sao kể trên chỉ là hung đồ tiều nhân đối với Tử Vi thôi. Ở một số trường hợp khác, chúng lại thành cực tốt.

    Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có câu: Quần thần khánh hội, phú quí song toàn (vua tôi hợp hội giàu sang)
    Cách này là cách Tử Vi gặp đầy đủ sao phò trợ, như Tả Hữu làm tướng súy, Thiên Tướng Xương Khúc làm phụ tá, Khôi việt làm quan truyền lệnh, Thiên Phủ làm quan coi kho, binh lương, Lộc Mã làm quan giữ sổ bộ phong chức tước.

    Trong “Chư tinh vấn đáp”, Trần Hi Di tiên sinh viết: “Tử Vi là đế hoa ở mọi cung đều có khả năng giáng phúc tiêu tai, hóa giải những hung ác của các sao khác, khả dĩ chế ngự Hỏa Tinh, có năng lực biến Thất Sát thành quyền, hợp cùng với Thiên Tướng, Thiên Phủ đều thành sang quí, nếu không thế lực thì cũng giàu có, dù gặp Tứ Sát phá vẫn xem là trung cục hoặc bình thường chứ không đến mức thấp kém, hạ tiện.

    Sang đến “Cổ Ca” lại thấy một câu khác: “Tụ hội với Kình Dương Hỏa Linh biến thành loại ăn trộm, ăn cắp vặt”. Thế là thế nào? Hai câu mâu thuẫn nhau? Thật ra không mâu thuẫn. Tử Vi phải đi cùng với các sao tốt khác đã, rồi gặp Tứ Sát mới là trung cục. còn như gặp toàn sát tinh không tất nhiên thấp kém, hạ tiện.

    Trường hợp Tử Vi đứng một mình tại Ngọ cung và Tí cung (đứng Ngọ đẹp hơn) tất có Thiên Phủ Thiên Tướng chiếu lên hội họp, sách gọi bằng cách Cực Ưỡng Ly Minh (Cực là tên gọi khác của Tử Vi, Ly là cung Ngọ). Cách Cực Ưỡng Ly Minh dù không đến nỗi ra cái thân phận cô quân.

    Chỉ xem thê cung mà thấy nhiều đào hoa tinh thì dễ bị vợ lừa. Vào số nữ thì khác, thường chỉ là chồng kém mình trên địa vị học vấn hoặc tiền bạc. Phủ, Tướng trong cách “Cực Ưỡng Ly Minh” đã góp phần nào cho sự cân bình lực lượng chống với hung sát tinh. Căn cứ vào câu phú: “Tử Vi cư Tí Ngọ, Khoa Quyền Lộc chiếu tối vi kỳ”, Tử Vi Tí Ngọ gặp thêm Khoa Quyền Lộc thì cán cân lực lượng ngã về Tử Vi, ác thế lực cũng phải nhường bước.

    Tử Vi thủ Mệnh an ở Ngọ
    Không Sát tinh chức có tam công

    Tử Vi Thiên Tướng đồng cung (Thìn Tuất) đương nhiên Thiên Phủ chiếu hội, nhưng cách cục này không hay bằng Tí Ngọ Tử Vi hội chiếu Phủ Tướng (Phủ Tướng triều viên). Tử Tướng Thìn hay Tuất hãm vào Thiên La địa Võng khó khăn hơn, nhất là vào số nữ không tránh khỏi vất vả.

    Tử Vi Phá Quân, Tử Vi Thiên Tướng thủ Mệnh nữ, việc trăm năm không suôn sẻ, lận đận chồng con. Tử Vi Phá Quân đóng Mệnh bị Liêm Tham Tỵ hoặc Hợi xung chiếu. Tử Vi Thiên Tướng đóng Mệnh, Phu cung Tham Lang hội Liêm Trinh ở Dần hoặc Thân. Liêm Tham là hai sao mang tính chất sắc tình rắc rối, bởi vậy nên vấn đề gia thất không êm.
    Bây giờ bàn riêng về Tử Vi Phá Quân. Tử Vi Phá Quân đi cặp chỉ thấy ở hai cung Mùi và Sửu. Phá Quân là sao xung phong hãm trận, đi với Tử Vi được tính như vị tướng dũng mãnh. Tử Vi ra hiệu lệnh, Phá Quân thi hành. Muốn khống chế Phá Quân, Tử Vi cũng cần một trí lực cao. Do đó Tử Phá đóng Mệnh bất luận nam hay nữ đều là con người quyết đoán, chí phấn đấu sôi nổi, can trường lì lợm, phiêu lưu, không thủ cựu, có đời sống hiếu động nhiều màu sắc.

    Số trai Tử Phá dễ đi vào chính giới hay quân giới nếu gặp cơ duyên. Được Hóa Quyền Tả Hữu Kình Dương là thành công. Tuy nhiên cuộc sống bôn ba thăng trầm. Tử Phá ra kinh doanh cũng đắc lực nhưng không bền vì nguyên tắc tiền bạc cần phải an định mới tụ để phát triển lớn.
    Tử Phá nữ mệnh, người đàn bà tháo vát, ngang ngạnh, bướng bỉnh, dám làm dám chịu, riêng về tình ái rất tùy tiện, tính dục mạnh. Sách mới có câu:

    Tử Phá Tham Lang vi chí dâm
    Kìa nữ mệnh xem tướng cách cuộc
    Tử Phá Tham hội ước đa dâm

    Tử Phá và Tử Vi Tham Lang (tức các Đào hoa phạm chủ). Nam mạng Tử Phá mà tuổi Sửu, Mùi, Thìn, Tuất vào quân giới chính trị hay hơn các tuổi khác (Qua kinh nghiệm thôi, sách vở không nêu lý do tại sao).

    Tử Phá nữ mệnh đối với hiện đại tốt hơn thời xưa vì hiện đại người đàn bà được trọng qua sự nghiệp hơn là qua hôn nhân theo quan niệm tự do phóng khoáng là hạnh phúc.

    Về cách Tử Vi Tham Lang đóng Mão và Dậu, cách này cổ thư gọi bằng Đào hoa phạm chủ. Tử Vi là chủ, Tham Lang là Đào hoa. Tham Lang ví như Đắc Kỷ, Tử Vi ví như Trụ Vương. Tham Lang như Tây Thi, Tử Vi như Phù Sai.
    Tử Tham nữ mạng đa tình hiếu dâm. Tử Vi nam mạng dễ rơi vào lụy tình, bẫy tình, dại gái, mê gái. Sách có câu: Tử Tham Mão Dậu gặp Kiếp Không, Kình Đà Linh Hỏa thường đi vào đường tu hành. Tu hành nên hiểu theo nghĩa khác nhau. Lão kỹ đầu thiền về già đi tu, hương nhang thờ cúng cũng kể làm thoát tục. Nhiều chồng rút cuộc nằm không cũng kể là tăng. Cả đời toàn gặp thất bại, lấy cho lắm vợ cuối cùng ngồi trơ thân cụ, đây là kết quả của Tử Tham Tứ Sát Kiếp Không trong Mệnh cung của lá số.

    Tử Tham Tứ Sát tâm thần sinh ra chán nản thường trực. Không cứ phải cạo trọc đầu hay khoác áo nhà tu mới là thoát tục, mới là tăng lữ.

    Cách Tử Tham nếu chỉ gặp Hỏa hay Linh tinh tránh được Kình Đà Không Kiếp thì tốt hơn. Trong khi cách Tử Vi Phá Quân gặp Linh Hỏa lại không tốt mà gặp Kình Đà lại hay, như câu phú: Tử Phá thủ Mệnh ngộ Dương Đà, tiện khứ kinh thương (hội Dương Đà vào kinh thương hoạnh phát)

    Cổ nhân còn đưa ra câu phú sau đây:

    Tử Vi ngộ Phá Quân ư Thìn Tuất Sửu Mùi tứ mộ cung, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu
    (Tử Vi gặp Phá Quân ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi làm bề tôi bất trung, làm con bất hiếu)

    Tử Vi Thiên Tướng tại Thìn hay Tuất đều gặp Phá Quân ở Tuất hay Thìn. Còn Tử Vi Sửu Mùi đương nhiên đứng bên Phá Quân.

    Tử Phá Sửu Mùi vào quân giới, chính trị đạt ước nguyện, hai giới này sự phản phúc bất trung chẳng khác gì chất dẫn hỏa chỉ chờ có lửa liền bốc cháy, bởi vậy không nên dùng người mang số Tử Phá làm tâm phúc.

    Tử Vi Thiên Tướng gặp Phá Quân ở cung xung chiếu cũng thế. Chỉ khác nhau ở điểm Tử Phá thì tự mình tạo phản còn Tử Tướng thì nghe theo người làm phản. Một đàng do tham vọng, mộg đàng gió chiều nào ngả chiều ấy.

    Còn vấn đề làm con bất hiếu? Bản chất con người Tử Phá không bao giờ chịu ước thúc trói buộc, làm việc chỉ hoàn toàn tự ý, vì lợi hay vì vợ dụ mà bất hiếu do cái lòng ích kỷ và ba phải.

    Số nữ Tử Phá thủ mệnh bậc làm cha mẹ phiền lòng hơn Tử Tướng. Số nam ngược lại Tử Phá bướng, phiêu lưu, gây tai tiếng, gây xáo trộn, phá rối kỷ cương nhưng một ngày nào đó thành công.

    Nam mạng Tử Vi Thiên Tướng, phụ mẫu cung Thiên Lương hãm tại Tị hoặc Hợi. Thê cung Tham Lang bất hiếu nặng hơn như mê vợ mà quên công ơn sinh thành (Thê hội chiếu Đào Hoa), hoặc bỏ quê hương gia đình lưu lạc, hoặc phụ mẫu sớm xa trần thế, muốn ân trả nghĩa đền không được.

    Tử Vi Thiên Tướng không thành công bằng Tử Phá. Sách ghi câu:”Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân, phú quí hư danh”. Hư danh là không thực, hão huyền.

    Nói đến Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung. Cách này hiện lên chỉ ở hai cung Dần và Thân. Phú ghi mấy câu:

    Tử Vi Nam Hợi Nữ Dần cung, Nhâm Giáp sinh thân phú quí đồng
    Tử Vi Thiên Phủ toàn y Phụ Bật chi công
    Tử Phủ đồng cung chung thân phúc hậu
    Tử Phủ, Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoán định công hầu khí

    Câu thứ nhất Tử Vi Nam Hợi không có Thiên Phủ đồng cung, đó là cách Tử Vi Thất Sát với cung xung chiếu là Thiên Phủ. Chỉ có Dần cung mới đứng cùng Thiên Phủ thôi.
    Vậy thì số gái Tử Phủ mà tuổi Nhâm Giáp giàu sang là bởi tại tuổi Giáp Lộc Tồn đóng Dần, hội với Hóa Lộc đứng bên Liêm Trinh và Hóa Khoa đứng với Vũ Khúc. Hội đủ Khoa Quyền Lộc: tuổi Nhâm Quyền Khoa ngay tại mệnh và Lộc Tồn nhị hợp từ Hợi.

    Câu hai còn như gấm thêm hoa, đã Khoa Quyền Lộc còn cả Tả Hữu càng đẹp, đã sang trọng giàu có còn quyền thế.

    Câu ba ý chỉ dù không phải là tuổi Giáp Nhâm cũng có đời sống bình ổn vững vàng.

    Câu bốn nói Tử Phủ đồng cung tại Thân tốt hơn tại Dần, vì Thân thì Thái Dương Thái Âm đắc địa trợ giúp cho vận trình, trong khi ở Dần, Thái Dương Thái Âm vào thế hãm (chỉ riêng cho tuổi Giáp).

    Có một luận cứ đáng ghi nhận nói: Tử Phủ đồng cung hội tụ cả hai chủ tinh Bắc và Nam đẩu, như vậy thái quá nên dễ cô đơn. Trường hợp Mệnh Phụ Mẫu, Phu chịu ảnh hưởng Cô Thần Quả Tú càng nặng dễ ly hôn, góa bụa hoặc sớm khuyết cha mẹ.

    Chuyển qua cách Tử Vi Thất Sát. Cách này chỉ hiện lên ở hai cung Tỵ và Hợi. Trần Đoàn tiên sinh viết: Tử Vi năng hóa Thất Sát vi quyền. Tử vi đứng bên Thất Sát thế vị oai nghiêm, hùng tâm vạn trượng, như vị hoàng đế xuất chinh có bầy tướng giỏi.

    Tử Vi Thất Sát khả năng hành động cũng như khả năng suy tưởng kế hoạch đều giỏi, tham vọng cao , vào bất cứ lãnh vực nào học vấn, kinh doanh, chính trị, quân sự, kỹ nghệ đều được. Thành tựu lớn hay nhỏ, cao hay thấp còn tùy thuộc các phụ tinh. Nếu nhiều phụ tinh tốt thì chức trọng quyền lớn, địa vị chức nghiệp khả kính.

    Tử Vi Thất Sát có Hóa Quyền thế lực càng lớn. Phú nói: Tử Vi Thất Sát Hóa Quyền phản tác tinh tường (Tử Sát mà gặp Hóa Quyền lại thành hay đẹp). Tại sao dùng hai chữ phản tác? Bởi tại Tử Vi không Thất Sát mà chỉ Hóa Quyền tự mình không điều khiển được Quyền sẽ đưa đến hung hiểm
    Tử Vi hợp với Lộc Khoa Khôi Việt Tả Hữu hơn đứng riêng với Hóa Quyền. Tử Vi Thất Sát thủ Mệnh gặp Tuần Triệt ưu thế bị giảm nhiều, thành công với hư vị, không có thực quyền. Như phú nói: Tử Vi Thất Sát gia không vong, hư danh thụ ấm.

    Tử Vi Thất Sát vào số Nữ thường được chồng nể vì do tài điều khiển gánh vác. Nhưng Tử Sát nam mạng thì vợ quán xuyến

    Vai trò Thiên Phủ từ cung xung chiếu của cách Tử Vi Thất Sát chỉ là phụ họa vào cái tốt đã sẵn thôi. Về hình thái và tính nết của Tử Vi có những điểm sau: Tử Vi người đầy đặn, mặt vuông vắn hoặc tròn. Tử Vi có một sở đoản trên tính tình, ưa nghe lời phiến động, khoán nịnh, đôi lúc kiêu căng và dễ phụ hội với kẻ quyền thế, hay biến tâm, bản chất tương đối trung hậu nhưng khí lượng hẹp hòi, thiếu anh hùng bản sắc.Có khuynh hướng năm thê bảy thiếp.
    Trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có đoạn viết:

    Tử Vi viên hội cát tinh lâm
    Nhị hạn phùng chi phúc lộc hưng
    Thương nhân đắc ngộ đa tài phú
    Quan quí phùng chi chức vụ thăng
    Tử Vi nhập hạn bản vi tường
    Chỉ khứng tam phương Sát Phá Lang
    Dân thứ phùng chi đa bất lợi
    Quan viên lạc hãm hưu kinh thương

    Nghĩa là:”Vận hạn gặp sao Tử Vi, thương nhân phát tài, làm quan thăng chức. Tử Vi là sao đem may mắn đến. Nhưng nếu gặp thêm với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang thì lại không tốt. Kẻ dân giã bất lợi, người chức vị khó khăn.

    Sát Phá Tham đây là Tử Sát, Tử Phá và Tử Tham ở cung vận hạn. Không hẳn gặp những sao ấy sẽ bất lợi với khó khăn. Vì Tử Sát, Tử Phá thường gây ra biến động. Thời xưa con người sợ biến động, nhưng thời nay biến động là cần thiết.

    Thấy Tử Sát, Tử Phá ở vận trình hoặc tiểu hoặc đại vận mà hay tốt lên thì mừng chứ sao lại lo ngại. Những câu cổ ca trên không lấy gì là đúng cho hiện đại.

    Về sao Tử Vi còn thấy những câu phú khác không ghi trong toàn thư mà của những nhà tướng số đời sau ghi lại qua kinh nghiệm.

    - Đế toạ ly cung Tam Kỳ Hình Ấn Khôi Xương Hồng Bật, mỹ mạo tài hung, hạn hữu Cự Sát Đà Linh, Chu Du cam hận mệnh vong
    (Tử Vi đóng Ngọ hội hợp với Khoa Quyền Lộc, Hình Ấn, Khôi Xương là người tài giỏi, tướng mạo khôi ngô, nếu gặp vận hạn có Cự, Sát, Đà, Linh (Cự Môn, Đà La, Linh Tinh hoặc Thất Sát, Đà La, Linh Tinh) thì giống như Chu Du đời tam quốc nuốt hận mà chết)

    - Đế lạc nhàn cung, gia Khúc Xương đa ngôn giảo hoạt
    (Tử Vi đóng Tí Mão Dậu hội tụ Xương Khúc thì giảo hoạt và ưa nói quá sự thực)

    Trong khi Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có câu: ”Tử Vi Quyền Lộc ngộ Dương Đà tuy hoạch cát nhi vô đạo” nghĩa là Tử Vi có Quyền Lộc nên danh có của nhưng nếu gặp thêm Dương Đà nữa thì tâm chất bất nhân vô đạo.

    - Tử Vi mạc phùng Kiếp Không Hồng Đào nhập Mệnh giảm thọ
    (Tử Vi mà gặp Kiếp Không, Hồng Đào tại Mệnh tất không thọ)

    - Tử Phủ đồng cung, Tuần Không xâm nhập, đế vô quyền nan giải hung tinh hạn ngộ
    (Tử Vi Thiên Phủ tại Mệnh bị Tuần Không, vua thành vô quyền khó giải cứu cho vận gặp hung tinh)

    - Dần mộc, Phủ Vi hội Tam Kỳ, Kình Bật cư lai, Mệnh xuất võ do văn quyền hành cứ phục chúng nhân, mạc phùng Không Kiếp hư vô
    (Dần cung, Tử Vi Thiên Phủ có Khoa thêm Kình Dương Hữu Bật có văn tài nhưng lại theo nghiệp võ, thành công người đời kiêng nể, nhưng nếu bị Không Kiếp lại thành sôi hỏng bỏng không)

    - Tử Phá mộ cung vô ưu họa ách, vận lai Phụ Bật nguyên vọng đắc như cầu, Thân kiêm Hồng Lộc Hóa Khoa khánh hội long vân
    (Tử Vi Phá Quân ở Sửu Mùi Thìn Tuất không lo những họa tai lặt vặt, tới vận gặp Tả Hữu thì mưu sự thành tựu, nếu cung Thân lại được Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hồng Loan cảnh thêm hay).

    - Đế toạ Thiên La Thân cư Triệt xứ, Giáp Kỷ nhân chung niên nan toại chí đa trái thê nhi
    (Tử Vi đóng Thìn, cung Thân bị sao Triệt án ngữ, tuổi Giáp tuổi Kỷ suốt đời không toại chí, còn khổ vì vợ vì con)

    - Tứ Sát Tốn cung, đề huề bảo kiếm, Hỏa Tuyệt nhập xâm đa sát. Hạn hội Hồng Khoa Ấn Mã dị lập chiến công.
    (Tử Vi Thất Sát ở cung Tỵ gặp Hỏa Tinh và sao Tuyệt thành người đa sát nếu có Hồng Loan, Hóa Khoa, Quốc Ấn, Thiên Mã hội tụ làm võ tướng dễ lập công to)

    - Tử Phủ Vũ Tướng Tả Hữu Long Phượng Khoa Quyền Lộc Ấn, quần thần khánh hội chi cách gia Kình Kiếp loạn thế nan thành đại sự
    (Cách quần thần khánh hội Tử Phủ Vũ Tướng Long Phượng Tả Hữu Khoa Quyền Lộc Ấn nếu bị Kình Dương Địa Kiếp gặp thời loạn bất thành đại sự)

    - Tử Tham Tả Hữu hội trung
    Có người con gái trốn chồng theo trai
    (Ở cách này Tả Hữu biến chất, tuy nhiên Tử Tham Tả Hữu còn phải thêm cả Tang Hổ nữa thì mới liều như thế)

    - Tử Tham Khôi Việt phương Đoài
    Long thần kỳ đảo ai ai cúng dường
    (Tử Tham đóng ở Dậu cung gặp Khôi Việt dễ đi vào nghề thầy chùa thầy cúng)
     
  4. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO THIÊN CƠ

    Mục “Chư tinh vấn đáp” Thiên Cơ được gọi là sao giỏi tính toán mưu lược, quyền biến cơ mưu. Hóa khí của sao Thiên Cơ là “thiện”, thâm ý cổ nhân muốn tính chất kế mưu quyền biến đặt trên chính đạo hơn tà đạo.
    Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết: Thiên Cơ giao hội với Thiên Lương Xương Khúc, văn thì thanh hiển, vũ trung lương “nhưng cũng viết tiếp…” nếu rơi vào đất hãm bị tứ sát xung phá là hạ cách
    Đa số chủ tinh đều có “hóa” khí - tỉ dụ Phá Quân hóa khí là “Hao” – Thiên Tướng hóa khí là “Ấn”. Đi thuận chiều hóa khí mới đắc dụng.
    Thiên Cơ thuộc âm mộc, mộc của hoa cỏ mềm mại dễ uốn và lay động. Tư tưởng mẫn tiệp, ưa nghĩ ngợi nghi ngờ, phản ứng mau lẹ, nóng nẩy.
    Kết hợp những điểm trên, Thiên Cơ lúc hành động dễ mắc vào tình trạng quá nóng vội, dù kế hoặc thấu đáo mà tự mình làm không thành. Thiên Cơ vì hiếu động nên cuộc sống ba động luôn.
    Thiên Cơ là sao Nam đẩu, Thiên Cơ thủ Mệnh thông minh sáng suốt, hiếu học, tâm địa từ thiện, vì quá hiếu học, cái gì cũng học, nên học rộng mà không tinh.
    Thiên Cơ đa tài đa nghệ, làm mưu sĩ được, làm con người hành động không hay. Vào nghiên cứu tốt, ở vị thế chỉ huy bình thường.
    Thiên Cơ nhạy cảm, sức đối kháng không lì lợm nên không hợp với Hỏa Linh, Kình Đà, Không Kiếp và sợ nhất Hóa Kị. Gặp Hóa Kị, Thiên Cơ dễ biến ra không tưởng, ảo tưởng khó bắt kịp thực tế.
    Thiên Cơ tinh đứng một mình chỉ ở Tí Ngọ, Tỵ, Hợi, Mùi, Sửu; đi cặp với Thái Âm tại Dần Thân; đứng với Cự Môn ở Mão Dậu; đồng cung với Thiên Lương ở Thìn Tuất.
    Trước hết nói về Thiên Cơ Cự Môn đồng cung tức là cách Cơ Cự đồng lâm. Cách này có những nét đặc thù, không thể không chú ý. Cổ ca viết:”Với Cự Môn đứng chung, khả dĩ vào vũ chức nơi biên ải, cần phải thêm Quyền phùng Sát để lập công danh” Như thế cổ ca muốn nói rằng Cơ Cự được Hóa Quyền, mà gặp Tứ Sát không phải ở bản tam cung mà ở tam hợp chiếu, chủ quí hiển về võ chức.
    Qua kinh nghiệm thì cách cuộc trên mang nhiều biến hóa, nếu Thiên Cơ Hóa Lộc lại không thành võ nghiệp chỉ mưu sinh dư dả phong lưu. Cự Cơ Hóa Lộc mà gặp Hỏa Linh, kể luôn cả chuyện mưu sinh cũng thăng trầm vô độ, hoặc danh lợi hư ảo. Bởi vậy cách Thiên Cơ Cự Môn cần Hóa Quyền hơn Hóa Lộc. Trường hợp bị Hóa Kị kể như hỏng.
    Thiên Cơ bên cạnh Thiên Lương, cổ nhân gọi bằng cách “Cơ Lương gia hội”.
    Cơ Lương Xương Khúc văn thanh hiển, vũ trung lương
    Cơ Lương giao hội thiện đàm binh
    Thiên Cơ cánh phùng Thiên Lương tất hữu cao nghệ tùy thân.
    Thiên Cơ Thiên Lương đồng tại Thìn Tuất thủ Mệnh, gia cát diệu, phú quí từ tường nhược ngộ Kình Đà, Không Kiếp thiên nghi tăng đạo.
    Cách Cơ Lương nhiều biến thái như thế đấy, có thể viết lý thuyết ra binh lược, có thể đạt một nghề nghiệp ở mức cao, có thể phú quí, có thể thành người tu hành.
    Cổ ca viết:”Thiên Cơ đứng cùng Thiên Lương, có khuynh hướng đạo với tăng, nữmệnh gặp phải tính dâm bôn”. Ý cổ nhân muốn bảo rằng nữ mạng không nên có Cơ Lương. Cổ nhân hơi quá đáng khi dùng hai chữ dâm bôn. Cơ Lương bất quá chỉ là con người khéo đến mức sảo khi thủ mệnh Nữ. Không phải cứ Cơ Lương là dâm dật. Hợp tác với người nữ Cơ Lương hãy cẩn thận. Cơ Lương chỉ thật sự dâm dật nếu gặp Kình Đà Hóa Kị mà thôi.
    Kình Đà Hóa Kị phá xung
    Lại là dâm dật tư thông âm thầm
    Gặp Kình Đà Hóa Kị trai tăng đạo, nữ dâm bôn, khác nhau ở điểm này.
    Về mấy chữ “thiên nghi tăng đạo” còn phải hiểu thêm một ý khác là vô duyên, với những người xa bố mẹ anh em trên không gian, cũng như trên tình cảm. Tăng đạo cũng xem là một người thông hiểu về tôn giáo triết học hoặc thuật âm dương số tướng. Đừng nghĩ hai chữ tăng đạo qua hình ảnh mặc áo nâu sồng quét lá đa trong chùa.
    Cách phổ biến của Thiên Cơ có: Cơ Nguyệt Đồng Lương. Sách nói: Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân (Mệnh hội tụ đủ bộ sao Thiên Cơ, Thiên Lương, Thiên Đồng, Thái Âm thì làm lại người phụ giúp cơ quan chỉ huy). Chuyển vào hiện đại ngữ thì là công chức, rồi đoán cách ấy hiển hiện thành con người đi làm ba cọc ba đồng hàng tháng lĩnh lương. Không phải vậy, chữ “lại” cho bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương còn mang cái nghĩa thâm thúy sâu sắc hơn.
    “Lại nhân” thời xưa là loại người ưa lộng quyền trong phạm vi quyền lực của hắn, Tây phương coi bọn lại nhân như một thế lực thư lại. Lại nhân giỏi cơ biến, có mưu lược, ăn nói mồm mép, tham tiền khéo dụng quyền thuật. Nếu chỉ coi như vị công chức thì cái nghĩa đó hiền lành quá e không lột được thâm ý Cơ Nguyệt Đồng Lương.
    Cơ Nguyệt Đồng Lương chỉ giỏi phục vụ, mượn quyền mượn thế, không bao giờ làm được kẻ khai sáng, tiên phong. Số Cơ Nguyệt Đồng Lương khả dĩ dùng làm thủ túc rất tốt.
    Cơ Nguyệt Đồng Lương chính là cách mà Thiên Cơ đứng chung với Thái Âm tại Dần hay Thân. Cổ ca viết: “Thiên Cơ Thái Âm đồng cư Dần Thân, nan miễn bạt tha hương” (Thiên Cơ Thái Âm đứng chung ở hai cung Dần Thân tất có ngày lưu lãng quê người). Lưu lãng cùng tình trạng phù động. Do vậy mệnh nữ mà Thiên Cơ Thái Âm thì tình cảm không chuyên nhất dễ biến tâm.
    Đồng cung Cơ gặp Thái Âm
    Tấm lòng phóng đãng gian dâm đáng buồn
    Có một điểm chung, người nữ Thái Âm bao giờ cũng xinh và khéo. Cơ Âm mà ở Thân tốt hơn ở Dần. Vì Thân đắc vị cho Thái Âm. Cơ Âm nếu gặp Hóa Quyền vào ngành tài chánh kinh thương thành công. Cơ Âm được Hóa Khoa học vấn nghệ thuật hợp cách. Cơ Âm Hóa Lộc làm ăn khá giả nhưng thường lao tâm khổ tứ về tiền, thần kinh bén nhậy đưa đến suy nhược vì nghĩ ngợi.
    Bây giờ bàn đến những cách Thiên Cơ độc toạ Mệnh. Thiên Cơ đứng một mình tốt nhất ở hai cung Tí và Ngọ. Vì hai cung này là đất miếu của Thiên Cơ, mặt khác vì nó kết với Cự Môn từ cung xung chiếu Tí với Ngọ đất vượng của Cự Môn. Thiên Cơ tại Tí Ngọ thi triển được toàn bộ khả năng của nó. Khả năng giải quyết công việc, khả năng thuyết phục , khả năng phản ứng mau với những bất ngờ, khả năng học vấn thi cử.
    Vấn đề còn lại là việc của Khoa Quyền Lộc. Quyền cần thiết nhất, Khoa thứ nhì, Lộc thứ ba. Trường hợp gặp Hóa Kị, cái thế của Thiên Cơ Tí Ngọ giảm hẳn. Sở dĩ Hóa Quyền cần thiết với Thiên Cơ không phải vì bản thân Thiên Cơ mà vì sao Cự Môn xung chiếu. Cự Môn thiếu Hóa Quyền sức mạnh kém (Sẽ nói thêm khi bàn riêng về Cự Môn). Với Hóa Kị, Cự Môn càng bị phiền hơn, Thiên Cơ đóng Sửu hay Mùi kể như rơi vào hãm địa. Nếu không được Tả Hữu, Xương Khúc, hoặc Quyền Khoa Lộc trợ giúp, chỉ loanh quanh với tiểu chức. Nếu bị Hỏa Linh Không Kiếp xung phá hoặc Hóa Kị ám hại sẽ không tránh khỏi tâm tư hoảng loạn, tình cảm thống khổ.
    Thiên Cơ Sửu Mùi nên an thân thủ phận. Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư còn có câu phú: “Thiên Cơ gia ác sát đồng cung cẩu du thử thiết” nghĩa là Thiên Cơ cố nhiên phản ứng mau lẹ, đầu óc lại hiếu động, ở một tình thế ép buộc nào đó có thể là tay trộm cắp rành tay nghề.
    Sách đời sau đưa ra một cách gọi bằng: Mệnh cung Tỵ Hợi nói về sao Thiên Cơ đóng Hợi hay Tỵ, nếu gặp phụ tinh hay thì sang quí mà có sát tinh biến thành con người gian tà, tiểu nhân.
    Sau đây cần luận thêm bản chất của Thiên Cơ tinh:
    - Đa học đa năng về suy tư nhưng cũng dễ có xu hướng ảo tưởng
    - Đa biến nên khó mà theo đuổi nghề nghiệp công việc lý tưởng nào lâu dài
    - Thuộc ất mộc, mộc của cỏ hoa nên dễ xung động, thường tạo cho bề ngoài đẹp đẽ, nói năng thuyết phục được người nghe, ít có bụng chân thành cảm phục ai, thông minh mà thường dễ bị cái thông minh của chính mình làm mình nhầm.
    - Có một cách về Thiên Cơ không thấy ghi các sách Hán, mà lại rất phổ biến trong khoa Tử Vi tại Việt Nam là Thiên Cơ gặp Thiên Khốc Thiên Hư đưa đến bệnh lao phổi, lao xương.
    - Thiên Cơ cư Sửu, kinh vân hài đặc thủy diệu cánh nại tài bồi
    (Thiên Cơ ở Sửu bị lâm thế hãm sách nói nhưng nếu được nhiều sao của hành thủy thì cũng nên công vì Thiên Cơ thuộc mộc lại ở cung thấp thổ có thêm nước cây khả dĩ đâm chồi nảy lộc, nhưng Thiên Cơ ở Mùi cung táo thổ dù gặp thủy diệu vô ích).

    - Cơ, Thư, Hồng cư Dần địa, nhi phùng Lộc, Ấn cận cửu trùng
    (ở Dần Thiên Cơ tất đi cùng Thái Âm. lại có Tấu Thư, Hồng Loan mà gặp cả Lộc Tồn hay Hóa Lộc và Quốc Ấn người nữ lấy chồng sang, chồng quyền thế. Vì Cơ Âm Hồng là người đàn bà đẹp, đa tình, khôn khéo, Tấu Thư có duyên giỏi nịnh giỏi đàn ngọt hát hay, còn thêm Lộc Ấn là những may mắn thì chuyện cận cửu trùng đâu khó)
    - Cơ Lương tứ sát Tướng Quân xung, Vũ khách tăng lưu mệnh sở phùng
    (Cơ Lương Thìn Tuất bị tứ sát lại có cả Tướng Quân xung chiếu thì làm nghề mãi võ (múa võ dong) hoặc làm thầy tu thầy ngãi)

    - Thìn cung Cơ Lương Giáp Nhâm dương nữ lợi tử thương phu, Ất Quí âm nam do phú thành vinh, duy thê khắc hại
    (Cung Thìn lập Mệnh Cơ Lương thủ, người nữ tuổi Giáp Nhâm sinh con nhiều nhưng ăn ở không vừa bụng chồng (không nhất định là sát chồng). Người nam tuổi Ất, Quí làm ăn có tiền mà thành vinh hiển nhưng lại gặp vợ lăng loàn)

    - Cơ Nguyệt Cấn Khôn nhi hội Riêu Xương thi tứ dâm tàng
    (Mệnh Cơ Nguyệt ở Dần hay Thân mà lại thêm Xương Riêu thường suy nghĩ đến chuyện dâm. Riêng cho nữ mạng thôi)

    - Kỷ tuế Cơ Nguyệt Đồng Lương, hạn đáo trúc la gia lâm Phụ Bật, đăng vân nhất bộ
    (Mệnh mang cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà người tuổi Kỷ, khi gặp vận Sát Phá Tham thì lại đột phát công danh. Ý chỉ Mệnh có Khoa gặp vận Hóa Quyền)

    - Ất Tân tuế văn đoàn hỷ ngộ Hư Kình Tuế Khách hạn lâm hoạnh đạt võ công
    (Tuổi Ất Tân mang cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà gặp vận Thiên Hư, Kình Dương, Thái Tuế, Điếu Khách bất ngờ tạo được võ công. Câu này không có căn cứ vững vàng)

    - Cơ hội Phục Binh nơi Ngọ vị
    Vận gặp thời chức vụ quản binh
    Thiên Di Cơ Mã cùng ngồi
    Đông trì Tây tẩu pha phôi cõi ngoài
    (Thiên Cơ gặp Thiên Mã tại Thiên di cung, thường làm việc ở nước ngoài, nơi xa quê hương bản quán)

    - Thiên Cơ Khốc Hư chẳng màng
    Phổi kia hãy phải lo toan lấy mình
     
  5. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO THÁI DƯƠNG

    Thái Dương ý tượng là mặt trời. Cổ ca trong Đẩu số Toàn Thư viết: “Từ ái lượng khoan đại. Phúc thọ hưởng hà linh (Lòng từ thiện, quảng đại, tuổi thọ lâu dài). Thái Dương ví như mặt trời chiếu sáng cho vạn vật. Cây cỏ đất đai người vật thiếu ánh nắng không thể sống. Nhưng vạn vật lại không bao giờ phải đền đáp cái ân đó, Thái Dương chỉ cho đi thôi mà không nhận lại.
    Thái Dương mặt hóp thân gầy
    Thông minh tươm tất thảo ngay hiền hoà
    Câu phú nôm trên - dĩ nhiên - không thể nào mà nói hết được tấm lòng bao dung của Thái Dương. Hiểu rõ bản chất của Thái Dương ta đem so sánh với Thái Âm thì thấy rằng “Thái Dương thường hành động là để phục vụ, để trợ giúp, trong khi Thái âm thì lại thường hành động vì tư lợi bản thân” . Vì vậy cố nhân mới bảo Thái Dương “Quý nhi bất Phú” còn Thái Âm là tài tinh, cái tâm Thái Âm ưa hưởng thụ, vơ vét.
    Thái Dương thủ mệnh vào hành chính, y khoa hoặc công tác xã hội thì hợp và có thể đạt địa vị cao. Nhưng buôn bán kinh doanh hoặc làm những việc gì cần mưu lợi, thủ đoạn lại thường rất dở. Trong khi Thái Âm dễ vào kinh doanh, không phải vì Thái Âm giảo quyệt nhưng Thái Âm tham hơn
    Thái Dương chủ QUÝ cho nên khi đoán Thái Dương thủ mệnh phải căn cứ trên chức vị, danh vọng. Không phải bất phú là nghèo. Có địa vị, tất nhiên địa vị càng cao tiền càng nhiều. Bất phú nghĩa là không tự mình làm nên giàu có thế thôi. Ở trường hợp Thái Dương đóng Tài Bạch cung đắc địa lại khác.
    Thái Dương cần nhất đắc địa thì ánh sáng mới quang minh. Thái Dương đóng Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ là mặt trời rực rỡ buổi sáng buổi trưa.Thái Dương đóng Dậu, Tuất Hợi ví như mặt trời buổi đêm đã mất quang huy.
    Ngoài đứng đúng chỗ, Thái Dương còn đòi hỏi người mang số Thái Dương phải sinh ban ngày mới là hợp cách, sinh ban đêm giảm đi. Sinh ban ngày dù Thái Dương hãm cũng nửa hung nửa cát, sinh ban đêm Thái Dương hãm tuyệt đối hung.
    Thái Dương được cổ nhân gọi bằng “trung thiên chi chủ” (chủ tinh giữa trời), giống sao Tử Vi cần bách quan tề tựu. Tất nhiên không bao giờ có Thiên Phủ Thiên Tướng triều củng.
    Cách đẹp là Thái Dương đóng ở Thìn hội chiếu Thái Âm đóng ở Tuất, gọi là Nhật Nguyệt song huy hay Nhật Nguyệt tịnh minh. Thái Dương thuộc Hoả, quang minh chính đại, thông minh sái lệ, tài hoa.
    Trong ngũ hành trí tuệ Thuỷ có sự khác biệt nhau. Trong hàng ngũ các sao, sự đa tài của Thái Dương cũng vậy, khác với sự đa tài của Thiên Cơ.
    Trí tuệ của âm Mộc thâm trầm.
    Trí tuệ của dương Hoả quang minh lộ liễu
    Thái Dương đa tài về mặt biểu hiện làm chính trị, ra đám đông hoặc vào nghệ thuật biểu diễn như nhạc họa, kịch nghệ là hợp cách. Thiên Cơ đa tài với kế hoạch trong bóng tối, làm chính trị ở địa vị nghiên cứu, phân tích tình báo hoặc vào thuật số âm dương viết văn là hợp cách.
    Thái Dương thuộc Bính Hoả mãnh liệt, hoá khí là “QUÝ” chứa chất phản kháng tính. Phá Quân cũng phản kháng nhưng thường có khuynh hướng phản nghịch. Khác nhau thế nào? Vì Thái dương bản chất quang minh, thấy điều trái thì chống, nhưng chống đối với nguyên tắc không đi quá đà đến mức phản nghịch. Trong khi Phá Quân cương mãnh làm theo ý mình muốn dễ quá khích đi đến phản nghịch
    Thái Dương đóng cung Quan lộc đắc địa ý niệm khai sáng mở lối cao và vững. Một ngành nào đang trên đà xuống dốc vào tay người Thái Dương quan lộc khả dĩ sẽ hưng thịnh trở lại. Thái dương ở Tài bạch dễ có tiền, ưa phô trương tiền bạc qua ăn chơi, chưng diện …
    Mệnh Thái Dương có một cách đặc biệt - ấy là Thái Dương thủ Mệnh tại Hợi. Tại Hợi cung Thái Dương là phản bối. Thái Dương mất đi vẻ huy hoàng - tương ý là mặt trời đêm. Thái Dương tại Hợi đi vào một trong hai tình trạng cực đoan: hay cũng vô cùng mà dở cũng vô cùng; rất thuận lợi hoặc rất khốn khó.
    Thái Dương đóng Hợi nếu có trợ giúp của xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt thì tuy thất huy nhưng vẫn được cải thiện nhiều, có một đời sống dễ dãi được. Thái Dương cư Hợi lại hay vô cùng nếu như nó gặp Thiên Mã Hóa Lộc, Lộc Tồn tức cách Lộc Mã giao trì. Cách này bỏ xứ bỏ quê mà đi trồi phấn đấu thành công phú quí.
    Thái Dương tại Hợi phú gọi bằng Nhật trầm thủy để (mặt trời chìm sâu đáy nước) có Lộc Mã giao trìlại thêm cả Binh hình Tướng Ấn thì ăn to vào thời loạn. Chư tinh vấn đáp viết: “Thái Dương được các cát tinh khác thủ hay chiếu, rồi lại có Thái Âm đồng chiếu giàu sang đủ cả…Nếu Thân cung Thái Dương đắc địa mà gặp nhiều cát tinh khả dĩ làm môn hạ khách chốn công hầu, hoặc làm dân chạy cờ cho bậc công khanh.
    Thái Dương vào Mệnh với vào Thân cung rõ ràng tạo ảnh hưởng khác biệt hẳn. Một đằng tự mình gầy dựng phú quí, một đằng chỉ làm môn hạ khách ở nơi cửa quyền. Trừ trường hợp Mệnh cung tự nó có cách tốt riêng. Trường hợp Thân cư phối thì số gái lấy chồng sang, số trai được vợ giàu sang hoặc gia đình vợ thế lực nâng đỡ, nhờ vã nhà vợ mà lên to.
    Thái Dương ưa Xương Khúc và sợ Hóa Kị. Có lý luận cho rằng nếu Thái Dương đắc địa gặp Hóa Kị càng tốt. Hóa Kị như đám mây ngũ sắc khiến Thái Dương thêm rực rỡ. Không phải vậy, Thái Âm gặp Hóa Kị đắc địa, Hóa Kị khả dĩ biến thành đám mây ngũ sắc, còn với Thái Dương thì không. Hóa Kị là đám mây đen, là ám tinh trong khi tính chất căn bản của Thái Dương là quang minh, quang với ám chẳng thể hợp cùng. Nhất là Mệnh nữ Thái Dương mà có Hóa Kị tất nhiên hôn nhân gẫy vỡ, lúc nhỏ mồ côi cha hoặc xa cách, hoặc thiếu vì Thái Dương Hóa Kị như thế bất lợi hoàn toàn với những người thân thuộc nam tính. Ngoài ra còn có thể bị xảy thai, trụy thai.
    Thái Dương hãm hội Riêu Kị, Thiên Hình hoặc Kình Đà khó tránh khỏi bệnh tật ở đôi mắt.
    Kình Đà Riêu Kị phá xung
    Lại là đôi mắt chẳng mong được cùng
    Kình Đà Riêu Kị khá kinh
    Ắt rằng mắt chịu tật hình không ngoa
    Gặp Riêu Kị rồi Kình Đà hay Hỏa Linh thì cũng thế.
    Thái Dương thủ Mệnh còn cách cục trọng yếu khác: Nhật chiếu lôi môn, tức thái dương đóng tại Mão. Mão thuộc cung chấn, Chấn vi lôi (sấm sét). Khi đóng Mão đương nhiên Thái Dương đứng cùng Thiên Lương. Cách Nhật chiếu lôi môn tuyệt đối tốt nếu hội cùng Thái Âm Hợi với Hóa Lộc, thêm Văn Xương Văn Khúc càng đẹp lắm, nhất là đối với chuyện thi cử khoa bảng. Như phú viết:”Dương Lương Xương Lộc, lô truyền đệ nhất danh” (Dương Lương Xương Lộc loa gọi người đỗ đầu)
    Hiện đại cách Dương Lương Xương Lộc có thể là nhà phát minh, người làm những cuộc nghiên cứu nổi danh, một tay thể thao tăm tiếng…Cách Dương Lương Xương Lộc phải là Thái Âm đi với Hóa Lộc chiếu qua mới hợp cách. Nếu hóa Lộc đứng ngay bên cạnh Thiên Lương thì lại kém hẳn. Tại sao? Vì quan hệ Thiên Lương với Hóa Lộc không ổn thỏa (sẽ bàn khi luận về Thiên Lương)
    Về cách Thái Dương cặp với Cự Môn tức “Cự Nhật đồng lâm”, hãy xếp qua phía Cự Môn. Ngoài ra còn những cách: Nhật Nguyệt đồng cung Sửu Mùi, Nhật Nguyệt chiếu bích, Nhật Nguyệt tịnh minh.
    Nhật Nguyệt tịnh minh gồm có Dương tại Thìn, Âm tại Tuất hoặc Dương tại Tị, Âm tại Dậu. Cách Nhật Nguyệt tịnh minh cũng như các cách khác cần Tả Hữu, Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc, học đỗ cao, địa vị xã hội vững, kém hơn nếu bớt đi những phụ tinh, tuy nhiên không kể làm cách đặc biệt.
    Về Nhật Nguyệt đồng cung Sửu Mùi, nếu Mệnh VCD Nhật Nguyệt Mùi hoặc Sửu thì chiếu đẹp hơn là thủ Mệnh. Căn cứ vào câu phú:”Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu”
    Phú đưa ra những câu:
    Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu hầu bá chi tài
    Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi, tam phương vô cát phản vi hung
    Cách trên là cách Nhật Nguyệt chiếu, cách dưới là cách Nhật Nguyệt đồng thủ Mệnh.
    Mấy người bất hiển công danh
    Bởi chưng Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi
    “Nhật Mão, Nguyệt Hợi Mệnh Mùi cung, đa triết quế” nghĩa là Mệnh lập tại Mùi không chính tinh, Hợi Nguyệt chiếu lên, Nhật Mão chiếu qua học hành đỗ đạt cao, lấy vợ giàu sang.
    Trường hợp Thái Dương đắc địa gặp Hóa Kị thế nào? Tỉ dụ Thái Dương tại Tỵ thì Cự Môn đương nhiên tại Hợi, nếu có Hóa Kị hợp với Cự Môn hẳn nhiên xấu, tranh đấu cho sự thành đạt khó khăn vất vả hơn gấp bội. Thái Dương đắc địa bị Hóa Kị dễ chiêu oán, nếu đi vào ngành thầy kiện, thầy cò, cảnh sát làm chức nghiệp sinh sống hợp hơn ngành khác.
    Về sao Thái Dương còn có những câu phú khác đáng suy ngẫm như:
    - Nhật Nguyệt Dương Đà khắc thân (Nhật Nguyệt gặp Dương Đà phần lớn khắc người thân).
    - Nhật Nguyệt Tật Ách, Mệnh cung Không, yêu đà mục cổ (nghĩa là Mệnh Nhật Nguyệt gặp Tuần Triệt Không Vong hoặc ở cung Tật Ách có Nhật Nguyệt gặp Tuần Triệt thường có tật ở mắt hoặc ở sống lưng)
    Cổ ca còn ghi câu:”Thái Dương đắc địa được sao Thiên hình cũng đắc địa dễ phát võ nghiệp”. Sao Thái Dương còn có những câu phú sau đây:
    - Nhật Nguyệt phản bối hà vọng thanh quang, tố hỉ ngoại triều Khôi Việt
    (Thái Dương Thái Âm hãm tất tối ám, nhưng nếu được Khôi Việt hội tụ vào Mệnh lại là người có khả năng thông tuệ đặc sắc).

    - Nhật, Nguyệt lạc Mùi cung, vi nhân tiền cần hậu lãn
    (Thái Dương hoặc Thái Âm đóng tại Mùi, làm việc lúc đầu chăm chỉ lúc sau vì lười mà bỏ dở).

    - Dương Âm Thìn Tuất, Nhật Nguyệt bích cung. Nhược vô minh không diệu tu cần. Song đắc giao huy nhi phùng Xương Tuế Lộc Quyền Thai Cáo Tả Hữu nhất cử thành danh chúng nhân tôn phục.
    (Thái Dương ở Thìn, Thái Âm ở Tuất là cách Nhật Nguyệt đắc địa ở bích cung, bích là bức vách chỉ ý chí, Thìn Tuất là Thổ, ngược lại nếu Thái Dương tại Tuất, Thái Âm tại Thìn thì cần gặp Tuần Triệt Thiên Không Địa Không để đảo lộn thế hãm. Đã song huy rồi mà gặp cả Xương Tuế Lộc Quyền Tả Hữu Thai Cáo thì danh phận phấn phát sớm chiều).

    - Nhật Nguyệt Sửu Mùi ái ngộ Tuần Không, Quí Ân, Xương Khúc ngoại triều tất đường quán xuất chính (Nhật Nguyệt đóng Sửu hay Mùi mà có Tuần Không, lại được Ấn Quang, Thiên Qúy lại được Văn Xương, Văn Khúc có thể xuất chính làm quan về ngành văn)

    - Nhật Nguyệt Sửu Mùi, âm dương hỗn hợp, tự giảm quang huy, kỵ phùng Kiếp Triệt
    (Nhật Nguyệt đóng Sửu hay Mùi nơi Mệnh cung, cả hai đều giảm đi vẻ rực rỡ và rất sợ gặp Địa Kiếp và Triệt không).

    - Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung, định thị phương bá công
    (Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu cùng đóng với Khoa Lộc thì có thể sẽ được vinh hiển).

    - Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi, tam phương vô cát phản vi hung
    (Mệnh Thân Sửu Mùi có Nhật Nguyệt đồng cung toạ thủ mà các cung tam hợp chiếu không gặp sao nào tốt là hung mệnh - cả đời sẽ chẳng nên cơm cháo gì).

    - Nhật Nguyệt chiếu hư không, học nhất tri thập
    (Mệnh VCD được Nhật Nguyệt miếu vượng hợp chiếu thì học một biết mười)

    - Giáp Nhật giáp Nguyệt cận đắc quý nhân
    (Mệnh giáp Nhật Nguyệt đắc địa thường được gần cận bậc quý nhân)

    - Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân dung
    (Mệnh có Thái Dương hãm thì vẻ mặt thường buồn bã, nhăn nhĩ).

    - Nhật tại Tỵ cung, quang mỹ huy thiên, kiêm lai Lộc Mã Tràng Tồn Phụ Bật, thế sự thanh bình vi phú cách, nhược kiêm Tướng Ấn Binh Hình vô lại Tuần Triệt loạn thế công thành
    (Thái Dương thủ Mệnh ở Tỵ, ánh sáng rực rỡ, đứng cùng Lộc Mã Tràng Sinh hoặc Lộc Tồn, Tả Hữu thì thời bình giàu có ; nếu đi cùng Tướng Quân, Quốc Ấn mà không gặp Tuần Triệt thì thời loạn thành công)

    - Nhật cư Hợi địa, Nhật trầm ải nội, ngoại củng tam kỳ, Tả Hữu Hồng Khôi kỳ công quốc loạn dị viên thành, hoan ngộ Long Phượng Hổ Cái bất kiến sát tinh thế thịnh phát danh tài
    (Thái Dương thủ Mệnh ở Hợi, ví như mặt trời lặn xuống biển, nếu được Khoa Quyền Lộc và Tả Hữu Hồng Loan Thiên Khơi ở đời loạn hay lập công lạ. Nếu được bộ Tứ Linh Long Phượng Hổ Cái mà không gặp sát tinh thì vào thời binh đao ắt nổi danh là người tài cao).

    - Thái Dương tại Thuỷ, Nhật trầm thuỷ để loạn thế phùng quân, mạc ngộ sát tinh tu phòng đao nghiệp
    (Thái Dương đóng Hợi thủ Mệnh tức là cách Nhật trầm thuỷ để, thời lạo phị giúp quân vương lập chiến công, nhưng nếu bị sát tinh thì khĩ tránh khỏi hoạ binh đao).

    - Nhật lệ trung thiên, ái ngộ Hình Tang Hổ Khốc vận lâm
    (Thái Dương đóng Ngọ thủ Mệnh, cần gặp vận Thiên Hình, Tang Mơn, Bạch Hổ, Thiên Khốc công thành danh toại nguyện).

    - Nhật Nguyệt vô minh thi phùng Riêu Kỵ Kiếp Kình ư Mệnh Giải, tật nguyên lưỡng mục
    (Nhật Nguyệt hãm địa mà gặp Thiên Riêu, Hóa Kị, Kình Dương, Địa Kiếp ở Mệnh hay Tật Á \ch có ngày hư mắt )

    - Nhật Nguyệt nhi phùng Hình Hoả, thân thiểu hạc hình
    (Mệnh có Nhật Nguyệt mà gặp Thiên Hình, Hỏa Tinh thì dáng gày gò, mình hạc xương mai).

    - Xét xem đến chốn thuỷ cung
    Kị tinh yểm Nhật uý đồng Kình Dương
    (Thái Dương hãm ở Hợi Tí mà lại gặp Kình Dương là rất xấu)

    - Nhật Nguyệt gặp Đà Linh chốn hãm
    Hố Kỵ gia mục ám thong manh
    (Nhật Nguyệt hãm ở Hợi Tí mà gặp Đà La, Linh Tinh lại thêm Hố Kỵ thì mắt hỏng, mắt thong manh).

    - Thiên Tài gặp Nhật bất minh
    Tính ưa lếu láo những khinh Phật Trời
    (Thái Dương hãm thủ Mệnh mà lại gặp sao Thiên Tài thì tính tình lếu láo, ưa nhạo báng).

    - Mấy người phú quý nan tồn
    Bởi vầng ô thỏ đóng miền sát tinh.
    (Giàu sang phú quý không bền bởi tại Nhật Nguyệt đi cùng với hung sát tinh).

    - Con em xa khứ xa hoàn
    Bởi vì Nhật Nguyệt chiều miền Nô cung
     
  6. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO VŨ KHÚC

    Trong Tử Vi Đẩu Số có ba sao thuộc về tiền bạc (tài tinh) là: Vũ Khúc, Thái Âm, và Thiên Phủ cùng tác dụng nhưng tính chất lại không giống nhau.
    Vũ Khúc qua hành động tìm tiền
    Thái Âm ý thức tìm tiền sắc bén
    Thiên Phủ là năng lực lý tài
    Muốn phấn đấu kiếm tiền phải quả cảm quyết đoán
    “Chư tinh vấn đáp” viết: “Vũ Khúc là người tính cương, quyết đoán, lúc mừng lúc giận, khi hiền khi tàn bạo, lúc gây phúc, lúc tạo tai ương”. Rồi viết tiếp:”Vũ Khúc quả quyết, tâm vô độc”. Nói chung hễ đã Vũ Khúc ở Mệnh không thể bao giờ là con người nhu nhược nếu vào nam mạng, không thể là con người thùy mị hiền lành nếu vào nữ mạng.
    Thời xưa xã hội không chấp nhận đàn bà con gái cương trực quả quyết như kinh thi có câu: “Nam tử cương cường, nữ tử nhu” trừ trường hợp người đàn bà ấy phải đứng mũi chịu sào nắm quyền sinh sống của gia đình, hoặc đoạt quyền chồng. Đứng mũi chịu sào tất là quả phụ phải ly khắc, đoạt quyền chồng thì cô đơn.
    Cổ nhân đặt tên sao Vũ Khúc là quả tú (Vũ Khúc chi tinh vi quả tú)
    Vũ Khúc vi quả tú tinh
    Gái kia gặp phải cướp tranh quyền chồng
    Vũ Khúc âm kim hóa khi là “tài” còn có tên khác “tướng tinh” và thuộc bắc đẩu hệ. Âm kim nội liễm (ẩn vào trong) nên tịch mịch, cô đơn. Vũ Khúc tính quật cường, cố chấp, thường tự biến thành một địch thủ không dễ chấp nhận thua cuộc hay chịu thất bại, sức tranh đấu bền bỉ dai dẳng. Người Vũ Khúc thủ Mệnh tiếng nói sắc nhọn, rõ ràng. Thời xưa cầm gươm đao trước trận tiền, làm đồ tể, đúc tiền đều thuộc cái nghề của Vũ Khúc cả. Cho nên cổ nhân luận sao Vũ Khúc mới nói: “Vũ Khúc miếu địa với Xương Khúc đi chung thì xuất tướng nhập tướng, vào võ nghiệp thắng lợi, đóng hãm địa là con người nghề nghiệp khéo, giỏi”.
    Ngày nay mấy chữ “sảo nghệ chi nhân” khả dĩ suy diễn rộng rãi hơn như làm thợ máy, thợ kim hoàn…Đắc địa không phải cứ xuất tướng nhập tướng mà là tay cự phách trong ngành tài chính kim dung cũng vậy.
    Thế đứng của Vũ Khúc gồm có:
    Nếu ở Thìn Tuất thì đơn thủ
    Ở Tỵ Hợi cùng Phá Quân
    Ở Sửu Mùi cùng Tham Lang
    Ở Mão Dậu cùng Thất Sát
    Ở Dần Thân cùng Thiên Tướng
    Ở Tí Ngọ cùng Thiên Phủ
    Nói đến cách Tham Vũ, ở Sửu Mùi Tham Vũ đồng hành, ở Thìn Tuất Tham Vũ thủ chiếu. Vũ Khúc ở Thìn Tuất độc tọa gặp thêm Hỏa Tinh hay Linh Tinh là cách bạo phát. Cách này nên buôn bán kinh doanh, Nếu biết tiến thoái không thất thời thì không bị bạo hại.
    Cách Vũ Khúc thủ Mệnh tại Thìn hay Tuất cần phụ tinh Hóa Quyền hơn Hóa Lộc, cần Linh Hỏa hơn Lộc Tồn. Vũ Khúc Hỏa Linh tự nó đã có thể tạo dựng bạo phát. Tại sao cần Hóa Quyền? Vũ Khúc vốn là tài tinh, gặp được Hóa Quyền thì vừa có tiền vừa có thế mới phát mạnh.
    Đến như Vũ Khúc, Tham Lang đóng cung Sửu Mùi cũng là cách bạo phát. Chỉ khác một điểm, không phát sớm trước tuổi 32, lúc trẻ bôn ba lận đận. Vũ Tham đồng hành bất phát thiếu niên. Cổ nhân còn gọi cách Vũ Tham đồng hành bằng bốn chữ “Y cẩm hoàn lương” (áo gấm về làng) nghĩa là đã từng có thời gian lưu lạc giang hồ lúc còn trẻ tuổi, sau thành công về thăm quê cũ. Vũ Tham đóng cùng, dù sinh từ gia đình phú quí cũng không được hưởng phúc lộc mẹ cha dễ trở nên thân phận quốc biến giao vong.
    Vũ Khúc ở Tỵ hay Hợi có Phá Quân kèm bên, cực thông tuệ bất kể trai hay gái, cái thông tuệ thăng trầm không biểu diễn được nhưng quyết liệt không nhượng bộ hay lui bước. Nếu có mềm dẻo chỉ để đạt được mưu tính nào đó.
    Vũ Phá đồng cung gặp Kình Đà, Linh Hỏa học nghệ cho tinh sẽ gây tiếng tăm qua nghề nghiệp. Vào kinh doanh thương mại kém hay, cũng đứng ngồi vào cái ghế văn chức suốt đời lụi đụi thôi.
    Vũ Phá đồng cung gặp Xương Khúc như con dao phay trên lãnh vực nào thấy đều đắc lực, thêm Khoa Quyền Lộc càng tốt hơn
    Một điều cần chú ý:”Vũ Khúc Phá Quân đóng ở Tài Bạch không mấy tốt vì tiền tài khó tụ bền. Căn cứ vào câu phú:”Vũ Khúc Phá Quân đồng ư Tài Bạch, tài đáo thủ nhi thành công” (Vũ Khúc Phá Quân ở Tài Bạch tiền vào tay rồi lại hết)
    Vũ Khúc Văn Khúc rất hay
    Hội Khoa Quyền Lộc là tay anh hùng
    Vũ Khúc hội Kình Dương không nên gặp luôn cả sao Kiếp Sát. Vì phú có câu: Vũ Khúc Kiếp Sát hội Kình Dương nhân tài trì đao (Vũ Khúc hội Kình Dương lại cả sao Kiếp Sát nữa, nam mệnh dễ đi vào con đường cướp trộm). Nhân tài trì dao nghĩa là vì tiền mà cầm dao. Vũ Khúc Kiếp Sát kiêm Dương Đà Hỏa tú tang mệnh nhân tài (Vũ Khúc Kiếp Sát gặp Kình Đà, Hỏa tinh có thể mất mạng vì tiền (bị cướp)). Hỏa Linh phải đồng cung với Vũ Sát mới kể.
    Vũ Khúc thủ Mệnh đứng bên Thiên Phủ là một cách kết cấu khác hẳn. Vũ Khúc là tài tinh, Thiên Phủ là tài tinh. Vũ Khúc phải phấn đấu để có tiền, Thiên Phủ vận dụng năng lực để quản thủ tiền. Nếu được các sao tốt phù trì cách này là cách làm giàu, buôn bán kinh doanh rất hợp.
    Phú Tử Vi viết:”Thiên Phủ Vũ Khúc đóng Tài Bạch, Điền Trạch lại thêm Quyền Lộc hẳn sẽ thành phú ông”. Phù trì là Quyền Lộc, Xương Khúc, Tả Hữu, nhưng trường hợp gặp Lộc Tồn lại thành trọc phú, tham lam biển lận và keo kiệt.
    Cách Vũ Khúc Thiên Phủ hội Thiên Khôi Thiên Việt thì nên học ngành tài chính làm công chức thuế vụ, làm ngân hàng, không thể tự mình đứng ra kinh thương. Về câu phú: Vũ Khúc Thất Sát ư Mão địa, mộc yểm lôi kinh chỉ vào cách Vũ Khúc Thất Sát ở Mão, mộc yểm lôi kinh ý chỉ tai nạn. Ở Mão hay xảy ra bị thương nơi đầu vì tường đổ, cây gẫy, sét đánh. Ở Dậu hay xảy ra té ngã, xe cộ và thú vật cắn. Vũ Khúc Thất Sát Mão hay Dậu mà thấy Thiên Hình Song Hao hay Sát Kị cũng là số bị cướp trộm, kể cả luôn vào vận hạn.
    Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư đưa ra câu: Linh Xương Đà Vũ hạn chí đầu hà là thế nào? Theo nghĩa thì Linh Tinh, Văn Xương, Đà La, gặp Vũ ở vận hạn chết sông nước hoặc tự trầm hoặc tai nạn. Nói đầu hà (đâm đầu xuống sông) thì hơi quá, bất quá chỉ là những chuyện hung hiểm trên mọi hình thức do Văn Xương Đà La gây nên.
    Về cách Vũ Sát, phú nôm của Tử Vi Khoa có câu:
    Vũ Quyền Thất Sát ở cùng
    Thai Tọa Khôi Việt ba phương chiếu về
    Ấy là phát võ uy nghi
    Luận sang cách Vũ Khúc Thiên Tướng.Thân với Dần là hai nơi Thiên Mã trú đóng. Vũ Khúc Thiên Tướng ham hoạt động ít chịu nhàn tản, nhiều sáng tạo lực rất sung sức để san bằng khó khăn. Xa quê hương bản quán dễ phát triển với đầu óc kinh doanh tài giỏi.
    Vũ Tướng Lộc Mã giao trì phát tài ư viễn quận
    Vũ Tướng Lộc Mã an bài
    Buôn xa hoạch phát mấy người dám đương
    Vũ Khúc Thiên Tướng lại thường lận đận công danh khó mà theo đuổi chức cao bổng hậu. Phải tránh không gặp Tuần Triệt thì Thiên Tướng với Thiên Mã mới không bị bẻ gãy khả năng phấn đấu.
    Vũ Khúc không hợp với Hóa Kị. Hai sao này đi đôi trên tính tình khó chịu không hòa đồng được với người chung quanh. Vũ Khúc Hóa Kị vào Mệnh cung gây ra những căn bệnh kéo dài khó khỏi.
    Theo quan niệm cổ nhân sao Vũ Khúc trên căn bản không tốt cho nữ mệnh thường khắc phu và ưa đoạt quyền chồng. Vũ Khúc Hóa Kị lại còn Hỏa Tinh nữa thì khắc sát tới mấy lần.
    Còn những câu phú khác về Vũ Khúc:
    - Thân cư Vũ Khúc, hắc tử trung tang
    (Vũ Khúc đóng Thân trong mình có nhiều nốt ruồi. Câu này không lấy gì làm đúng lắm)

    - Vũ Xương Tỵ Hợi đinh
    Lục Giáp súy biên đình
    (Vũ Khúc đóng Tỵ hay Hợi mà gặp Văn Xương, người tuổi Giáp phát về nghiệp võ. Vì Vũ Khúc đóng cùng với Phá Quân ở hai cung trên, tuổi Giáp hội tụ được Khoa Quyền Lộc lại có nhị hợp Lộc Tồn nếu đóng Hợi)

    - Vũ Tham Thìn Tuất, Mậu Canh dương nữ vô hạnh hữu tài; Kiếp Không hung kiến phùng Hà, Nhẫn vận lâm mệnh vị nan toàn
    (Vũ Tham thủ Mệnh đóng hai cung Thìn Tuất, số gái tuổi Canh Mậu tài giỏi mà vô hạnh, vận trình gặp hạn Không Kiếp đi cùng với Lưu Hà, Kình Dương tính mạng nguy)

    - Vũ Khúc, Tham Lang, Hóa Kị kỹ nghệ chi nhân
    (Vũ Tham mà gặp Hóa Kị ở Mệnh vào nghề xuất sắc như một kỹ sư giỏi, thợ khéo)

    - Vũ Phá Tỵ Hợi đãng tử vô lương
    (Vũ Phá đóng Tỵ Hợi ích kỉ và lắm thủ đoạn, không thích sống với khuôn thể nền nếp)

    - Vũ Khúc lâm Cô Thần Hàn Nguyên tần tần khử quỉ
    (Vũ Khúc gặp Cô Thần như Hàn Nguyên xưa giỏi về đạo pháp trừ ma quỉ)

    - Vũ Khúc Khôi Việt miếu vượng, tài chức chi quan
    (Vũ Khúc miếu vượng gặp Thiên Khôi, Thiên Việt giỏi về công việc tài chánh)

    - Sao Vũ Tướng ở đầu cung ấy
    Nghề bách công ai thấy cũng dùng
     
  7. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO THIÊN ĐỒNG

    Thiên Đồng dương thủy, hóa khí là ‘Phúc’ chủ về Phúc đức thuộc nam đẩu hệ. Ở đắc địa người đầy đặn, vào hãm địa người thấp nhỏ. Thiên Đồng gặp Đà La nơi Mệnh cung hay có tật ở mắt như lác, lé, cườm mắt. Thiên Đồng hành thủy nên cũng ưa động, bị động chứ không chủ động, tâm thần không kiên nhẫn mà giao động, luôn luôn đổi ý. Thiên Cơ già dặn kinh lịch, Thiên Đồng động một cách non nớt, ấu trĩ.
    Thiên Đồng gặp Thiên Riêu tâm tình y như người đồng bóng ưa giận dỗi, nay thế này, mai thế khác. Số nữ có Thiên Đồng thì hiền thục nhưng khó chiều, dễ hờn mát. Thiên Đồng khoái hưởng thụ hơn phấn đấu. Chủ về Phúc nên đóng ở cung Phúc Đức kể như tốt nhất. Phúc Đức cung có sao Thiên Đồng đời đời mãi mãi sống sung túc với điều kiện không đi cùng Cự Môn.
    Điểm đặc biệt của Thiên Đồng là không sợ Sát Kị, dễ có thể dựa vào Sát Kị làm khích phát lực. Sát Kị đẩy Thiên Đồng vào quyết liệt phấn đấu. Đó chính là lý do cổ nhân đưa ra câu phú: ‘Thiên Đồng Tuất cung Hóa Kị Mệnh ngộ phản vi giai (Thiên Đồng tại Tuất hội Hóa Kị thủ Mệnh hóa ra tốt)
    Đồng đóng cung Tuất yên vì
    Hãm cung nhưng lại được bề hiển vinh
    Nhờ sao Hóa Kị thêm xinh
    Ấy là ưng hợp dễ thành giàu sang
    Cách Thiên Đồng cung Tuất hội Hóa Kị cổ thư gọi bằng ‘Càn cung phản bối’. Không phải chỉ gặp Hóa Kị không là đủ. Hóa Kị còn cần Cự Môn, Hóa Lộc, Văn Xương thì mới đến tình trạng bĩ cực thái lai sức dồn ép đến sức cùng bật ngược trở lại.
    Song song với cách ‘Càn cung phản bối’ là cách ‘Mã đầu đới tiễn’ (Cung tên treo cổ ngựa). Mã đầu chi cung Ngọ, tiển là Kình Dương. Chỉ những người tuổi Bính Dậu mới gặp Kình Dương thôi.
    Phú nói ‘Thiên Đồng Kình Dương cư Ngọ vị, uy chấn biên cương’ nghĩa là ‘Thiên Đồng đóng cung Ngọ gặp Kình Dương uy thế ra tới ngoài biên ải. Đừng nhầm lẫn hễ cứ thấy Thiên Đồng hội Kình Dương cả ở cung Tí mà gọi là ‘Mã đầu đới tiễn’. Cung tên chẳng thể treo ở cổ chuột.
    Tử Vi Đẩu Số viết: ‘Người tuổi Bính an Mệnh ở cung Tỵ, Hợi gặp Thiên Đồng, công danh tiền bạc tốt’. Đó là cách Điệp Lộc (hai sao Lộc). Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung xung chiếu Tỵ. Cách Điệp Lộc thì giàu có. Nếu thêm Tả, Hữu, Khôi, Việt còn sang cả nữa.
    Thiên Đồng đóng Dậu, người tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung Tài Bạch đứng cùng Cự Môn chiếu qua, Hóa Quyền đi theo Thiên Cơ chiếu lên, tiền bạc khá giả nhưng không hay bằng cách Điệp Lộc của Thiên Đồng Tỵ Hợi bởi lẽ cả ba sao Đồng Cơ Cự không đắc địa.
    Còn như Thiên Đồng tại Sửu mà tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn cung Quan kém hơn. Vì Cự Đồng đồng cung gây chướng ngại trên hoàn cảnh cũng như trên tính tình. Và Lộc ở Quan cũng chẳng bằng Lộc ở cung Tài Bạch.
    Điệp Lộc còn vào người tuổi Đinh khi Thiên Đồng đóng Ngọ, nên Tử vi trong tinh điển mới viết: “Đồng Ngọ hãm, Đinh nhân nghi chi”. Đồng Âm Ngọ hãm địa, nhưng tuổi Đinh lại tốt vì có Điệp Lộc. Vậy thì Thiên Đồng cần Điệp Lộc.
    Với tuổi Canh, cách Thiên Đồng có một điểm nghi nan trên an bài Tứ Hóa. Tuổi Canh Đồng gặp Hóa Kị hay Hóa Khoa? Là Nhật Vũ Đồng Âm hay Nhật Vũ Âm Đồng? Theo trình tự của Tứ Hóa? Không ai đủ uy quyền mà quyết định. Bên Trung Quốc đã bàn cãi nhiều mà rút cục phe nào làm theo ý phe ấy. Người trọng tài duy nhất chỉ là Trần Đoàn tiên sinh thôi, mà tiên sinh thì chưa sống lại. Tuổi Canh hễ dính dấp đến Thiên Đồng vấn đề muốn nát óc, phải mượn tướng cách mà đoán thêm.
    Toàn thư viết rằng: “Nhược tại Hợi địa, Canh sinh nhân hạ cục cách ngộ Dương Đà Linh Kị xung hội, tác cô đan phá tướng mục tật”. Câu trên nghĩa là Nếu Đồng đóng Hợi mà tuổi Canh thì xấu, lại gặp cả Dương Đà Linh Kị nữa, thì cô đơn, phá tướng, có mục tật (cận thị nặng hoặc đui mù). Vịn vào câu trên mới lập luận chắc Thiên Đồng bị Hóa Kị nên mới thành hạ cục, thiết nghĩ không lấy chi làm rõ lắm. vì cũng câu trên lại bảo ‘cánh ngộ’ (lại gặp cả) Hóa Kị. Sao phải dùng chữ ‘cánh ngộ’ nếu như đương nhiên Thiên Đồng đi với Hóa Kị.
    Và rõ ràng hơn ở mục sắp xếp các sao thì chính Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư vẫn sắp Hóa Kị đứng bên Thái Âm.

    Canh Nhật Vũ Đồng Âm vi thủ
    Tân Cự Dương Khúc Xương chí.
    Riêng tôi thấy Đồng Âm đúng. Bên Trung Quốc, Tử vi thấu phái chủ trương Âm Đồng.
    Về cách ‘Càn cung phản bối’ của Thiên Đồng tại Tuất đứng với Hóa Kị, cách này chỉ hiện lên vì hai tuổi Tân và Đinh. Tuổi Tân, Hóa Kị theo Văn Xương đóng Tuất hoặc Thìn (tùy theo giờ sinh Tí Ngọ). Tuổi Đinh, Hóa Kị theo Cự Môn đóng Thìn. Tuổi Tân Cự Môn còn có cả Hóa Lộc nữa. Tuổi Đinh thì Đồng đứng bên Hóa Quyền
    Khi giải thích về: “Càn cung phản bối”, cổ nhân viết câu :”Thiên Đồng tại Tuất, Đinh Tân nhân ngộ phản vi kì” là thế.
    Thiên Đồng cần đi với Hóa Lộc, ở trường hợp ‘Càn cung’ nó cần Hóa Kị để làm sức khích động, sức khích động ấy chuyển tình trạng bất lợi sang tình trạng thuận lợi, chuyển hàn vi thành khá giả.
    Bĩ cực thái lai, cổ nhân ngầm báo cho hay rằng cách Càn cung phản bối trước khi nên công phải bị đẩy vào chỗ bĩ đa. Thiên Đồng còn được nhận như bạch thủ hưng gia (tay trắng làm nên) chính là rút tỉa từ cách ‘Càn cung’ vậy. Cách ‘Càn cung phản bối’ cổ nhân cho rằng không hợp với nữ mạng. Đàn ông con trai phải thiên ma bách triết được, đàn bà mà như thế chẳng khác gì cô thôn nữ chất phác dấn thân vào chốn phồn hoa.
    Chỉ thấy nói Thiên Đồng tại Tuất mới có cách Càn vi phản bối. Thiên Đồng tại Thìn thì không. Không thấy Đẩu số toàn thư giảng tại sao? Tuy nhiên có luận cứ của người đời sau cho rằng Thìn là cung Thiên La, Tuất là cung Địa Võng. Đã Thiên thì hết khích động phản ứng, chỉ có Địa tiếp xúc với cái thực tế trước mặt mới chịu khích động phản ứng mà thôi. Luận cứ này cũng cho rằng Thiên La nên hiểu theo nghĩa Thiên Nhai, Địa Võng nên hiểu theo nghĩa Địa Dốc (chân trời góc biển). Thiên Nhai (chân trời) không tạo khích động lực như Địa dốc. Cái gì thuộc trời như đã an bài rồi, cái gì thuộc đất còn tiếp tục đấu tranh.
    Vào số nữ, cổ nhân cho rằng không nên nếu nó đi với Thái Âm hay Thiên Lương.
    Đồng Âm ở Ngọ ở Tí
    Đồng ở Tuất hội chiếu Cơ Âm ở Dần
    Đồng ở Dậu đối xung với Thái Âm tại Mão
    Đồng đóng Mão, Thái Âm tam hợp từ Hợi
    Đồng Lương cùng đóng Dần Thân
    Đồng ở Tỵ Lương ở Hợi, Đồng ở Hợi Lương ở Tỵ
    Đẩu Số Toàn Thư viết:”Nữ mệnh bị sát xung phá ắt hẳn hình phu khắc tử, Nguyệt Lương xung phá và hợp thường làm thứ thất hay lẽ mọn”. Ngoài ra cũng sách trên viết câu: “tuy mỹ nhi dâm” (tuy đẹp nhưng mà dâm). Thiên Đồng cung Tí là người đàn bà nhan sắc diễm lệ:
    Đồng Nguyệt Tí gái hoa dung
    Gặp Tang, Riêu, Khốc khóc chồng có phen
    Đồng Âm tại đây nếu bị Tang Riêu Khốc thường ly phu, khắc phu thậm chí sát phu. Đồng Âm ở Ngọ đa đoan, nhan sắc không đẹp như Đồng Âm cung Tí nhưng tính dục cực vượng thịnh. Đồng Dậu, Nguyệt Mão, Đồng Mão Nguyệt Hợi cũng đẹp và dâm vậy. Luận đoán quan kiện đặt trên căn bản ý chí lực và tình tự. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thái Âm làm cho ý chí lực bạc nhược. Nếu bị xung phá của Hỏa Linh càng bạc nhược lại thêm bị kích thích. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thiên Lương đưa ý chí vào mộng cảnh. Nếu bị Kình Dương Đà La thì càng như sống trong mơ.
    Chủ yếu khi luận đoán về Thiên Đồng là ý chí và tình tự. Ý chí với tình tự phải cân bằng khi vào nữ mạng thì cuộc đời mới yên ổn thảnh thơi. Bị Thái Âm làm cho bạc nhược ý chí, bị Thiên Lương làm cho viển vông tình tự đều không hay, nếu như lại chịu xung phá của Kình Đà Linh Hỏa lại càng thêm phiền nữa.
    Thiên Đồng mừng thấy Khoa Lộc đi bên
    Ý chí tình tự vừa đúng, cân bằng
    Nếu Thiên Đồng gặp Quyền, Kị, Lộc, ý chí tình tự cũng mất thăng bằng như gặp Linh Hỏa Lương Âm Kình Đà. Cổ nhân cho rằng cơm no ấm cật quá tất nghĩ chuyện dâm dật.
    Phú có câu: “Nữ Mệnh Thiên Đồng tất thị hiền” (Người nữ Thiên Đồng thủ mệnh hiền thục). Thiên Đồng không giản đơn như thế đâu. Như cách Cự Đồng vào nữ thì tâm trạng không lúc nào hết thống khổ.
    Bản chất hiền thục tất cần an định êm ả, không có khả năng chống trả với phá phách phiền nhiễu nên Thiên Đồng ý chí phải vững vàng không bạc nhược, không quá khích, tình tự phải chân chất, không viễn vông mơ ước hão. Bởi vậy Thiên Đồng sợ Kị, Kình Đà, Lương Âm, Hỏa Linh.
    Các sao trong Tử vi khoa ẩn chứa cái lý của nhân sinh thật phong phú. Thiên Đồng Thái Âm đi vào nam mạng thì sao? Đồng với Thái Âm ở Tí Ngọ đều là con người hào hoa đa tình. Thiên Đồng Dậu Mão dễ vướng bẫy tình. Cự Đồng đóng cung Sửu Mùi, nam mạng tầm thường cuộc đời nhiều chướng ngại.
    Cần nghiên cứu thêm qua những câu phú sau đây nói về Thiên Đồng:
    - Thiên Đồng ngộ Kiếp Không bất cát
    (Thiên Đồng thủ mệnh gặp Kiếp Không thành xấu)

    - Đồng Âm Ngọ, Bính Mậu tuế cư phúc tăng tài hoạch, gia hãm Long Trì tu phòng mục tật
    (Đồng Âm đóng Ngọ tuổi Bính Mậu công danh phát đạt, tiền tài phấn chấn, ngại gặp Long Trì tất có tật ở mắt)

    - Đồng Âm tại Tí, Nguyệt Lãng Thiên Môn, dung nhan mỹ ái, Hổ Khốc Riêu Tang xâm nhập chung thân đa lệ phối duyên
    (Đồng Âm thủ Mệnh tại Tí, như mặt trăng sáng nơi cửa trời nhan sắc xinh đẹp, nếu bị Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Riêu, Tang Môn xâm nhập thì dang dở, khổ tình hay góa bụa)

    - Phúc điệu phùng Việt điệu ư Tí cung định thị hải hà dục tú
    (Đồng Âm đóng tại Tí thủ mệnh gặp Thiên Việt có vẻ đẹp sang trọng uy nghi)

    - Phúc điệu nhi ngộ Cự Môn thê nhi lãng đãng
    (Thiên Đồng Cự Môn Đồng cư thủ Mệnh lận đận cuộc đời, nhưng Thiên Đồng Cự Môn đóng phối cung thì hoặc muộn chồng, muộn vợ con hoặc gãy đổ duyên tình)

    - Đồng Lương viên, ngộ Khôi Quyền tăng phùng Linh Kị, giao lại Song Lộc doanh thương dị đạt phú cường (Đồng Lương đóng Mệnh gặp Thiên Khôi Hóa Quyền lại có Linh Kị và Song Lộc chiếu làm thương mại dễ nên giàu)
     
  8. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO LIÊM TRINH

    Liêm Trinh thuộc Âm Hỏa kiêm Mộc, hóa khí là ‘tù’ trong hệ Bắc Đẩu, còn mang tên Đào Hoa thứ hai (sau Tham Lang). Nói theo Tử vi hệ phái Việt Nam là Đào Hoa thứ ba vì Tử Vi Việt có hẳn một sao Đào Hoa mà Trung Quốc thường gọi bằng ‘Hàm Trì’. Với Trung Quốc chỉ có 4 chỗ đương nhiên Đào Hoa ở đây là Tí, Ngọ, Mão, Dậu mà họ gọi bằng bại địa.
    Hình dáng Liêm Trinh gầy nhiều xương hơn thịt, mắt lộ hầu lộ. Liêm Trinh cát hung vô định hội hợp với nhiều sao tốt thì công danh địa vị cao, trong chính giới phát triển tốt, gặp các hung sát tinh hay bị hoạn nạn tai ách.
    Đời Hán nhà dịch học Dực Phụng viết :’Tham Lang thiện hành, Liêm Trinh ác hạnh’. Hai sao ấy phẩm hạnh đi ngược chiều nhau. Liêm Trinh chủ về phẩm chất sự vinh nhục trên địa vị khi lên thì tốt, khi xuống thì xấu, Liêm Trinh mang hóa khí là ‘Tù’
    Liêm Trinh trên cảm tình, tính tình khi thân cảm tình hòa hiệp, lúc ghét giận thì hung dữ bất thường. Chất Đào Hoa của Liêm Trinh cũng căn cứ trên tình trạng đổi thay ấy mà định. Liêm Trinh với nữ nhân biến thái của tình cảm mau và mạnh hơn với nam nhân.
    Trường hợp Liêm Trinh đứng với Hóa Kị hoặc gặp Hoá Kị chuyện hôn nhân không tránh khỏi gãy đổ. Liêm Trinh đi với Tham Lang, Thất Sát, Phá Quân nữ mạng vợ chồng lấy nhau tự nhiên không nghi lễ, hoặc lấy chồng người.
    Có câu phú Liêm Trinh thanh bạch năng tương thủ (Liêm Trinh ôm chặt khối tình)
    Liêm Trinh độc tọa ở Dần Thân
    Liêm Trinh đứng bên Thiên Phủ ở Thìn Tuất
    Đứng cùng Thiên Tướng ở Ngọ Tí
    Đứng cùng Thất Sát ở Sửu Mùi
    Đứng cùng Tham Lang ở Tỵ Hợi
    Thanh bạch năng tương thủ có hai kết cấu:
    - Liêm Trinh đứng một mình ở Dần cùng với Lộc Tồn hoặc Lộc Tồn chiếu
    - Liêm Trinh đứng một mình ở Thân với Lộc Tồn hoặc Lộc Tồn chiếu
    Nói tóm lại, chỉ ở trường hợp Liêm Trinh độc tọa gặp Lộc Tồn mới thanh bạch thôi. Năng tương thủ có nghĩa là yêu mà bị xa nhau, yêu mà bị thất bại trong tình yêu nhưng vẫn giữ được mối tình ấy mãi mãi..
    Tính chất của Lộc Tồn là đôn hậu, tâm địa chân thành, trân trọng, cẩn thận. Khi đã đi cùng với các sao khác thì cái điều thanh bạch năng tương thủ của Liêm Trinh, Lộc Tồn bị trộn không còn thuần khiết nữa. Cách này chỉ áp dụng đối với nữ mạng.
    Nói về cách Liêm Sát, phú viết : Liêm Trinh Mùi cung vô sát, phú qúy thanh dương phan viễn danh (Liêm Trinh đóng Mùi – bên cạnh Thất Sát – không gặp hung sát tinh thì phú quí tiếng tăm). Điểm đáng chú ý không thấy nói tới Liêm Trinh đóng Sửu. Nếu chỉ đóng ở Mùi chưa đủ, cần phải có Tả Hữu nữa mới thực sự ăn to như câu phú trên đây.
    Liêm Trinh còn được coi là cách ‘Hùng tú triều nguyên’ đời nếm trải gian tân, ngoài tuổi trung niên thành công, thêm Quyền Lộc dĩ nhiên như gấm thêu hoa, nhưng căn bản cần Tả Hữu đã. Liêm Sát vào Mùi hay Sửu bị Hóa Kị hay Linh Hỏa Kiếp Không sẽ biến thành cách ‘Mã cách lý thi’ (Da ngựa bọc thây) đa số vào võ nghiệp có địa vị cao và rồi chết với nghề. Liêm Sát như thế vào nữ mạng vất vả bôn ba và chết đột ngột. Liêm Sát ở Mùi sách chỉ nói là con người làm ăn có của (Tích phú chi nhân).
    Đọc trong ‘Cốt Tủy Phú’ của Đẩu Số toàn thư khi luận về sao Liêm Sát có mấy câu cho ta cảm tưởng như mâu thuẫn. Những câu ấy là : ‘Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phu chi nhân; Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng thiên nhai.’ Rồi ở ‘Thái vi phú’ lại viết câu: ‘Thất Sát Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi’
    Thật ra những câu phú ấy không mâu thuẫn vì Liêm Sát đồng vị bao giờ cũng xuất hiện ở hai cung Sửu và Mùi, Liêm Sát ở Mùi mới là miếu địa, Liêm Sát ở Sửu bị vào thế hãm nhược. Vì Mùi là Mộc cục và Hỏa khố trong khi Sửu là Kim cục và Thủy khố. Liêm Sát tại Mùi miếu địa nên tích phú, phấn đấu gian khổ thành công.
    Liêm Sát Sửu nếu không hội tụ được những cát tinh mà lại bị hung sát kị vây bọc thành ra lữu đãng thiên nhai, lộ thượng mai thi. Liêm Trinh vào Sửu cung Hỏa bị Thủy khắc.
    Chuyển qua cách Liêm Tham (Tỵ hoặc Hợi) cách này đưa đến tình trạng hình tù hay khách tử tha hương. Liêm Trinh vốn là Đào hoa tinh, Tham Lang cũng lại là Đào hoa tinh. Trước hết tình trạng hình tù ở tình trường đã, mê đắm sắc dục, bài bạc ăn chơi, mang công mắc nợ, bệnh tật triền miên.
    Hình tù có mấy loại:
    - Cảnh sát bỏ tù
    - Nợ bỏ tù (suốt đời nợ nần)
    - Bệnh bỏ tù (đau ốm hoài)
    - Vợ hoặc chồng bỏ tù (cuộc duyên giao hãm)
    Không cứ phải vào nhà giam mới bị gọi là tù.
    Liêm Trinh không ưa Hóa Kị, nhưng ở cách Liêm Tham mà được Hóa Kị lại giảm bớt hẳn chuyện hình tù. Hỏa hay Linh cũng tạo chuyện tốt hơn cho Liêm Tham. Liêm Tham ở Hợi hội với Kình Dương Mão, đàn ông tù tội, đàn bà phong trần, hoặc Kình Dương Dậu hội với Liêm Tham ở Tỵ cũng thế. Có lập luận cho rằng Liêm Tham Tỵ nặng hơn Hợi, lập luận này không vững lắm.
    Tham Lang là Đào hoa tinh, Liêm Trinh cũng là Đào hoa tinh. Nay hai đào hoa tụ lại một chỗ ở Hợi, cổ nhân gọi bằng phiếm thủy đào hoa (hoa đào trên sóng nước) thường là con người đam mê tửu sắc, bài bạc khác với ở Tỵ ưa mạo hiểm vướng vít vào những rắc rối luật pháp. Bởi thế Liêm Tham Tỵ dễ bị tù hơn ở Hợi. Cũng có thuyết cho rằng Tham Lang cung Tí mới gọi bằng phiếm thủy đào hoa. Tí hay Hợi đều thuộc thủy nhưng ở Hợi có lý hơn vì ở Tí chỉ có Tham Lang đứng độc thủ. Tham Lang tại Tí cũng đam mê sắc tình nhưng nhẹ hơn Liêm Tham Hợi. Tham Lang Tí ưa phét lác hơn thực sự hành động.
    Trường hợp người tuổi Giáp lại gặp cách Liêm Tham Hợi lại thường phong lưu vì một Lộc ở Mệnh môt Lộc theo thế nhị hợp chưa kể đến hai sao Quyền Khoa hội tụ.. Tại Tí tuổi Giáp không phong lưu như Hợi (thiếu mất Lộc Tồn), công danh lận đận nhưng cũng đáng nể.
    Liêm Trinh đứng ở bốn cung vượng Tí Ngọ Mão Dậu thế nào? Đứng Mão Dậu với Phá Quân, đứng Tí Ngọ với Thiên Tướng. Liêm Phá là con người tinh thần mạo hiểm cao, ưa xông xáo, thông tuệ nhưng học hành thường thôi, hay làm liều, lợi mình trước đã dù có hại người. Liêm Phá có thể là tay sai đắc lực, nhưng không thể thành người bạn tâm giao với ai, có nhiều nghị lực phấn đấu.
    Liêm Phá hợp với tuổi Giáp và Ất. Ất tốt hơn Giáp nếu Liêm Phá đóng ở Mão cung. Liêm Phá sợ gặp Hỏa Tinh, nếu gặp dễ bị tai nạn hoặc ốm đau dữ dội với những bệnh hiểm nguy. Phú có câu: Liêm Phá Hỏa cư hãm địa tự ải đầu hà (Liêm Phá hội Hỏa Tinh bị tai nạn đến độ phải tự sát). Cái nghĩa đâm đầu xuống sông, treo cổ chỉ nói lên tình trạng hiểm nguy chứ không nhất định phải vậy.
    Liêm Hỏa Không Kiếp Phá Quân
    Hãm cung thắt cổ nợ trần hết duyên
    Liêm Phá tại Mão Dậu cung
    Sát tinh cùng hội công danh khó màng
    Sát tinh ý chỉ Kình Đà Không Kiếp. Tuy nhiên đối với các tuổi Giáp Ất lại không thể ứng dụng những lời ca trên. Tử vi đẩu số toàn thư có đưa ra một câu phú:
    Liêm Trinh Tham Sát Phá Quân phùng
    Văn Khúc Thiên Di tác cự nhung
    (nghĩa là Liêm Trinh hội Tham Lang, Thất Sát hay Phá Quân, nếu tự cung Thiên Di lại xuất hiện Văn Khúc thì…)
    Mấy chữ ‘tác cự nhung’ không thể giảng giải ra được. Chỉ khả dĩ ghép hai chữ ‘cự nhung’ thành chữ tặc (làm giặc) thì mới có lý thôi. Ý chỉ nếu Liêm Tham Sát Phá gặp nhau lại thêm Văn Khúc xung chiếu Mệnh thì có khuynh hướng làm loạn, làm giặc. “Cự nhung’ cổ nhân tách chữ tặc ra cho vần điệu với âm thanh ‘phùng’ ở vế trên.
    Liêm Phá vào nữ mạng tháo vát, nhưng tính không nhu thuận đưa đến những khó khăn trong cuộc sống duyên tình. Liêm Trinh hợp với hai sao Thiên Tướng và Thiên Phủ. Chỉ đi với hai sao này Liêm Trinh không gây tác hại.
    Phú trong Tử vi đẩu số viết :”Thiên Phủ Tuất cung vô sát tấu, Giáp Kỷ sinh nhân phú vạn kim” (Thiên Phủ đóng ở Tuất mà người Giáp Kỷ giàu có).
    Thiên Phủ ở Tuất đương nhiên phải đứng với Liêm Trinh. Tuổi Giáp Hóa Lộc ở Mệnh. Lộc Tồn cung Dần hội tụ theo thế tam hợp. Tuổi Kỷ Lộc Tồn chiếu từ Ngọ, Hóa Quyền chiếu từ Dần.
    Thiên Phủ tại Thìn với tuổi Giáp không có Song Lộc, với tuổi Kỷ Tử Vi hãm. Xem như vậy thấy rằng Liêm Trinh phải đi với Lộc mới hay. Câu phú chỉ nhắc đến Thiên Phủ, không nhắc đến Liêm Trinh, đó là một lối ẩn ý của cổ nhân. Sự thật là Liêm Trinh đóng vai chủ chốt.
    Liêm Trinh hội Lộc tiền bạc hoạnh phát, Thiên Phủ thành ông thần giữ kho. Liêm Phủ khi đã nên công thì cơ nghiệp bền không thăng trầm. Liêm Trinh đứng cùng với Thiên Tướng tại Tí Ngọ thì Ngọ hay đẹp hơn cho tuổi Giáp vì Giáp có Song Lộc ở Ngọ.
    Kỷ Lộc Tồn tại Mệnh cung, cái thế gần cận mạnh hơn chiếu. Tuy nhiên cách Liêm Phủ với Liêm Tướng có một khác biệt ấy là: Liêm Phủ trong cuộc phấn đấu gặp may nhiều hơn như thuyền đi gió đẩy. Trong khi Liêm Tướng dùng mồ hôi sức lực để thành công như thuyền phải chèo.
    Liêm Tướng nữ mệnh đàn bà giỏi trị gia gánh vác tự tay gây dựng cơ nghiệp và ít được nhờ chồng, tuy nhiên cuộc sống lứa đôi vẫn hạnh phúc. Liêm Tướng nếu không phải tuổi Giáp Kỷ thì vất vả hơn. Liêm Phủ nếu không phải tuổi Giáp Kỷ chỉ ở mức tiểu phú quí thôi.
    Về Liêm Trinh còn những điều cần biết như sau:
    Phú viết: Liêm Trinh Bạch Hổ hình tượng nan đào (Liêm Trinh gặp Bạch Hổ hay bị dính vào pháp luật, tù tội hoặc bị phạt tiền). Bạch Hổ ở câu phú này chỉ lưu niên Bạch Hổ chứ không phải Bạch Hổ đóng ngay tại Mệnh.
    Riêng Quan Lộc tinh mà Liêm Trinh gặp Kình Dương thì thường bị thưa gửi, kiện tụng hoặc mất quyền chức.
    Liêm Phá, Liêm Sát vào cung Thiên Di tất phiêu lãng quê người như phú có câu: Liêm Trinh Phá Sát hội Thiên Di tử ư ngoại đạo”, phiêu lãng hoài, đương nhiên không phải chết nơi quê hương bản quán, chứ không phải tử ư ngoại đạo là chết đường chết chợ.
    Liêm Trinh ở hãm cung mà gặp Hóa Kị Văn Khúc biểu thị con người tham lam vô độ, chỉ ưa tiện nghi không chịu được kham khổ, dễ vì tiện nghi mà phản bội. Liêm Trinh đứng cùng với các sao đào hoa như Tham Lang, Đào Hoa đàn bà hay có bệnh máu huyết, đàn ông bệnh thận.

    Người đời sau đưa thêm ra một số phú đoán về Liêm Trinh:
    - Liêm Trinh Phá Quân hiểm phòng vô hạn.
    (Số có Liêm Phá ở Mệnh luôn luôn phải đề phòng những hiểm nguy)

    - Liêm tại Cấn, Khôn cung, nữ mệnh trích lệ thương phu, nhược lại cô quả không môn tiềm ẩn; nam nhân bất đa truân tai ách ư thương lê
    (Liêm Trinh độc thủ Dần hay Thân, số gái dễ xa chồng phải nhỏ nước mắt thương nhớ, nếu lại gặp phải Cô Thần Quả Tú thì xa hẳn hoặc góa chồng. sống đơn độc, trai được vợ hiền mà vợ lại chết sớm)

    - Liêm tọa Thân cung phùng Phụ Bật
    Cách kiêm Hóa cát phúc quang vinh
    (Liêm Trinh tọa thủ ở Thân có Tả Phụ hay Hữu Bật mà được Hóa Lộc, Hóa Quyền hay Hóa Khoa thì giàu sang)

    - Liêm Sát Sửu Mùi, Ất Kỷ âm nam khí hùng trí dũng, Tuần Triệt vô xâm kiêm hữu Khoa Sinh hạn đá danh tài tốc phát
    (Liêm Trinh Thất Sát đồng Sửu hay Mùi không bị Tuần Triệt anh hùng trí dũng tuổi Ất, tuổi Kỷ gặp vận hạn có Hóa Khoa Tràng Sinh thì phấn phát mau chóng)

    - Liêm phùng Văn Quế cánh bôn ba
    (Liêm Trinh đứng bên Văn Khúc càng bôn ba)

    - Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu hội Tướng Quân
    (Liêm Trinh đứng miếu địa cùng sao Tướng Quân là người anh hùng dám đương đầu như thầy Trọng Do học trò Khổng Tử)

    - Vương Lương ải ngục Liêm Trinh hãm Địa Kiếp ư Hỏa cung
    (Liêm Trinh đóng Tỵ gặp Địa Kiếp như vl ngộ nạn trong ngục thất)

    - Liêm Trinh Tỵ Hợi chớ bàn
    Chàng Tiêu thuở trước tân toan ngục trường

    - Công danh đợi tuổi tác cao
    Giáp Liêm giáp Sát đoán nào có sai
    (Mệnh cung bị Liêm Trinh, Thất Sát giáp thì về già mới nên công danh)

    - Liêm Hao Tài Bạch cùng ngồi
    Phá tan tổ nghiệp ra người lãng nhân
    (Liêm Trinh Phá Quân vào Tài Bạch phá tổ nghiệp bỏ quê hương mà đi)

    - Tham Liêm đồng độ đảo điên
    Trai thì phiêu lãng gái duyên dâm tàng
     
  9. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO THIÊN PHỦ

    Thiên Phủ là chủ tinh của hệ Nam đẩu. Tính chất của chủ tinh mang một đặc điểm trên mặt nào đó. Cũng có tài lãnh đạo, nhưng Tử Vi khả năng sáng tạo mạnh mẽ trong khi Thiên Phủ chỉ đắc lực khi cục diện đã xong xuôi. Thiên Phủ dễ bị ảnh hưởng người khác, quyết định tính thấp. Cổ nhân coi Tử Vi chủ về tước lộc và chỉ xem Thiên Phủ chủ về tiền bạc y lộc. Bởi tại người xưa quan niệm quyền chức hơn giàu có, uy thế hơn tiền bạc. Ngoài ra tính chất của nam đẩu là gìn giữ, bảo thủ và tuổi thọ.
    Tính chất của Bắc đẩu là tranh đấu, khắc phục và dễ lâm hiểm nguy. Thiên Phủ càn là chứng tượng của sinh ra nuôi, lớn lên, cho nên Thiên Phủ mà đóng ở bào huynh thì anh em đông, Thiên Phủ đóng Mệnh thì trường thọ. Thiên Phủ thuộc dương Thổ, hóa khí là hiền năng. Thiên Phủ thủ Mệnh làm việc gì cũng cẩn thận chú ý, nhưng lại ưa chỉ tay năm ngón hơn tự mình động thủ. Khiêm cung bề ngoài nhưng tâm ý lại khác, tính tình phong lưu.
    Thiên Phủ bản chất là chất chứa, cất dấu nên gọi bằng tài khố (kho tiền) bởi vậy cần Lộc thì kho mới đầy. Thiên Phủ sợ gặp sát tinh, nếu bị Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp xung chiếu hay thủ, cổ nhân ví như kho không có cửa (lộ khố) tương phản với bản chất Thiên Phủ ắt không tốt đẹp. Cổ ca có câu:”Thiên Phủ hội hợp với Hỏa Linh Dương Đà là con người gian trá lắm thủ đoạn thích dùng quyền thuật”
    Thiên Phủ là chư tinh nên cũng ưa được chầu hầu vì thế hợp với Hóa Khoa, điểm này thì hoàn toàn cùng chất với Tử Vi. Tử Vi có Thiên Phủ Thiên Tướng chiếu gọi bằng “Phủ Tướng triểu viên” hay Thiên Phủ có Tử Vi Thiên Tướng chiếu gọi bằng “Tử Tướng triều viên” tất cả đều coi là trăm quan hướng chầu cả.
    Thiên Phủ cần an định, bởi vậy sự có mặt của Thiên Khôi Thiên Việt không quan trọng lắm, vì lẽ Khôi Việt chủ về cơ hội, đã an định đương nhiên cơ hội không được coi làm cần thiết. Thiên Phủ cần Tả Phù Hữu Bật và Văn Xương, Văn Khúc, hoặc đứng cùng hoặc tam hợp chiếu hoặc giáp mệnh.
    Một khi Thiên Phủ đã có Hóa Khoa, Xương Khúc Tả Hữu rồi thì dù cho không gặp Lộc hay bị vài sát tinh cũng không xem như tình trạng kho rỗng, kho không cửa. Thiên Phủ Hóa Khoa được thiên hạ tín nhiệm trên mặt tiền bạc, thêm Tả Hữu càng mạnh hơn, mặt khác cũng là con người giỏi cáng đáng trách nhiệm.
    Thiên Phủ đóng Thìn Tuất (cùng với Liêm Trinh) có Hóa Khoa mà thêm Khôi Việt giáp hay hội tụ qua tam hợp, gặp cơ hội thi triển tài năng xứng đáng địa vị cầm đầu. Đối với Thiên Phủ cổ nhân cho rằng Hóa Khoa tốt hơn Hóa Quyền.
    Bản thân Thiên Phủ là kho đựng chủ về tài quyền không gặp Hóa Lộc hay Lộc Tồn hẳn nhiên quyền lực Thiên Phủ phải kém đi, lại luôn luôn chịu ảnh hưởng Thất Sát từ xung đối xung mà lại có Hóa Quyền nữa thì sức xung kích quá mạnh, Thiên Phủ khó bảo vệ tính chất an định. Thiên Phủ Lộc Tồn đồng cung là kho có tài lộc chính là một triệu chứng an định vững bền. Lực lượng bảo thủ đã thắng sức xung kích của Thất Sát.
    Trường hợp Thiên Phủ không đứng với Lộc nhưng có Tả Hữu và không phải bị những sát tinh khác quấy nhiễu và đối cung Thất Sát lực lượng hùng mạnh hơn thì Thiên Phủ mới có được sự kích thích mà tự biến thành một kẻ phấn đấu không mệt mỏi mà thành công (trên mặt tiền tài thôi). Tỉ dụ Thiên Phủ đóng Tỵ Hợi, xung chiếu có Tử Vi Thất Sát, phía lực lượng xung kích còn có cả Hóa Quyền. Có sự xung kích như thế Thiên Phủ mới từ bỏ hẳn bản chất an định. Nếu sức xung kích chỉ vừa phải như thiếu Quyền thì cuộc phấn đấu của Thiên Phủ thường đưa đến kết quả nửa đường bỏ cuộc.
    Một trường hợp ngoại lệ cho Thiên Phủ Tỵ và Hợi là gặp Không Kiếp đồng cung thì lại biến ra con người thâm trầm khó hiểu nhưng đủ thủ đoạn để chống với sức xung kích kia mà làm nên giàu có. Không Kiếp phải đứng ở Tỵ Hợi mới hợp cách, Không Kiếp hội tụ theo thế tam hợp đều kể là “kho rỗng”, “kho lộ”, “kho thủng”. Không Kiếp chiếu làm cho tâm ý giảo quyệt, nghi hoặc, không thích ứng với thực tế, cuối cùng như kẻ thất bại cô đơn.
    Với nữ mệnh cũng áp dụng lối đoán như nam mệnh, chỉ khác một điểm Thiên Phủ đắc thế thì tranh đoạt Phu quyền, gây dựng cơ nghiệp. Thiên Phủ không đắc thế mà gặp Không Kiếp thì tình duyên đứt đoạn dở dang. Nhất là Thiên Phủ ở Mão hay Dậu. Thiên Phủ đứng một mình ở Mão Dậu, Sửu Mùi mà gặp Hỏa Linh Không Kiếp, Kình Đà thường là con người đầu cơ thủ xảo, gian ngoan.

    Những câu phú về Thiên Phủ đáng chú ý:
    - Nam Thiên Phủ giao long vãng đực
    (Mệnh đàn ông có Thiên Phủ tọa thủ là người làm việc thận trọng suy nghĩ chín chắc)

    - Thiên Phủ tối kị Không tinh nhi ngộ Thanh Long phản vi cát tường
    (Thiên Phủ sợ gặp Không Kiếp, nếu được Thanh Long thì tốt lắm)

    - Phủ cư địa võng nhược lâm Tuần Không Nhâm Đinh tuế, mãn thế hoài bão nan phùng vận lộ
    (Thiên Phủ tại Tuất mà bị Tuần Không, tuổi Đinh Nhâm cả đời hoài bão không đạt)

    - Thiên Phủ kị ngộ Không tinh lại nhập tài cung tán hao vô độ
    (Thiên Phủ không hợp với Tuần Triệt Kiếp Không án ngữ Thiên Phủ ở cung tài bạch thì tiền bạc hao tán hoài)

    - Thiên Phủ lâm Tuất cung vô sát tấu, Giáp Kỷ nhân yêu kim hư thả phú
    (Thiên Phủ đóng Tuất thủ Mệnh không bị sát tinh, người tuổi Giáp Kỷ dễ phát công danh và cũng dễ làm giàu)

    - Thiên Phủ cư Ngọ Tuất Thiên Tướng lai triều Giáp nhân nhất phẩm chi quí
    (Thiên Phủ đóng Ngọ hay Tuất có Thiên Tướng chầu, người tuổi Giáp chức lớn)

    - Phủ tướng lai triều chung thân Phúc Lộc
    (Mệnh có Phủ Tướng chầu, suốt đời có Lộc, tiền bạc dư dả, tốt nhất là ở hai cung tài bạch, quan lộc chiếu lên, có kèm lộc càng hay)

    - Phủ Vũ Tí cung, Giáp Đinh nhân phúc vượng danh hương; hung lại Tuần Kiếp danh sứ nhân khi ư Canh Nhâm tuế, tài phúc trường hành
    (Cung Mệnh có Thiên Phủ ở Tí, người tuổi Giáp Đinh hưởng phúc nên danh nên giá nếu bị Tuần Không, Địa Kiếp thì dễ mang tiếng mang tai, riêng tuổi Canh Nhâm không đáng ngại)

    - Phủ Vũ Khúc an bài cung Tí
    Người Giáp Đinh cách ấy rất hay
    Gặp phải Tuần Kiếp rủi thay
    Tiếng bia miệng xấu tháng ngày không yên
    Nhưng gặp tuổi Canh Nhâm chế ngự
    Phúc tài kia vẫn cứ hanh thông

    - Thiên Phủ Lộc Tồn Xương Khúc cự vạn chi tư
    (Mệnh có Thiên Phủ Lộc Tồn Xương Khúc là số giàu)

    - Thiên Phủ Xương Khúc Tả Hữu cao đệ ân vinh.
    (Mệnh Thiên Phủ cùng Tả Hữu Xương Khúc công thành danh toại)

    - Thiên Phủ cư Tài bạch diệt thị đa tài, ngộ Thiên hình tất hao tổn
    (Thiên Phủ đóng Tài bạch thì tiền cũng nhiều, nhưng bị Thiên Hình thành hao tốn)

    - Phủ phùng Đà Tuế Tỵ cung
    Cuồng ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày
    Phủ phùng Không xứ tài suy
    Thuỷ chung nan bảo tư cơ lưu truyền
    Phủ bị Không Kiếp đồng cung

    - Gặp Thanh Long lại biến thành vòng cát tinh
    (Phủ gặp Không Kiếp đồng cung, có Thanh Long lại trở nên tốt hẳn như ở trên đã bàn)

    - Dần cung Tử Phủ khá tường
    Tam Hóa Kình Bật là phường văn nhân
    Ấy văn cách chuyển sang võ tướng
    Nắm quyền uy bốn hướng phục tòng
    Nếu gặp Không Kiếp giao lâm
    Ất danh hư ảo có lầm được đâu
     
  10. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO THÁI ÂM

    Tử vi đẩu số Toàn thư khi luận về sao Thái âm bao giờ cũng dựa trên 3 cơ sở:
    a - Đứng đúng chỗ hay không? Miếu hay hãm địa?
    b - Sinh ban ngày hay ban đêm?
    c - Sinh vào thượng tuần, trung tuần hay hạ tuần trong tháng?
    Thái âm đóng Hợi Tí Sửu tốt nhất; Thân Dậu Tuất thứ nhì; ở Dần Mão Thìn thì gọi là thất huy (mất vẻ sáng); ở Tỵ Ngọ Mùi là lạc hãm. Trong chỗ tốt nhất thì Hợi tốt hơn cả, cổ nhân đặt thành cách:”Nguyệt lãng thiên môn”
    Sinh ban ngày hay ban đêm chia theo 2 nhóm giờ như sau:
    1. Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi.
    2. Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tí, Sửu.
    Về thượng tuần hay hạ tuần thì từ 1 đến rằm là thượng tuần, từ 16 đến ba mươi là hạ tuần. Thượng tuần mặt trăng mỗi ngày mỗi tròn. Hạ tuần mặt trăng mỗi ngày mỗi khuyết. Tròn tốt, khuyết xấu. Người sinh hôm rằm trăng tròn tới cực điểm lại không đẹp bằng người sinh ngày 13, 14.
    Về Thái âm trong những câu luận đáng có một câu đáng chú ý là: “Thái âm tại Mệnh Thân cung tuỳ nương cải giá” – nghĩa là bỏ chồng về nhà mẹ đẻ? Điều này không phải cứ Thái âm là áp dụng. Còn phải tuỳ Thái âm có rơi vào hãm địa không đã. Nếu Thái âm ở Tỵ, lại sinh vào hạ tuần mà sinh vào ban ngày nữa thì lời luận đoán trên rất đúng về cái việc “tuỳ nương cải giá”, còn thêm sát tinh phụ hội thì lại càng đúng hơn, nhất là Hoả Tinh.
    Cổ nhân còn viết: “Thái âm thủ mệnh bất lợi cho những người thân thuộc về phái nữ, vào số trai mẹ mất sớm, về cuối đời goá vợ, xa chị em gái; vào số gái cũng thế, ngoài ra còn ảnh hưởng đến cả bản thân nữa”. Điều này cũng chỉ có thể áp dụng qua tình trạng Thái âm lạc hãm, sinh thượng tuần, hạ tuần và sinh ban ngày ban đêm
    Thái âm vào cung Thân, ảnh hưởng còn nghiêm trọng hơn so với Thái Âm đóng Mệnh. Với trường hợp Thái âm tại Tỵ mà gặp Thái Dương Thiên Lương ở Dậu, rồi bên cạnh Thái Âm còn gặp sát tinh hội tụ nữa, ảnh hưởng nặng nề hẳn
    Với thời đại ngày nay, chuyện “tuỳ nương cải giá” không như ngày xưa nên khi nói về hậu quả của sự việc ấy phải rộng rãi hơn. nhiều hướng và nhiều ý nghĩa khác nữa. Nguyên tắc của Tử vi sao hay có cặp đôi thấy Thái Âm thì trước tiên hãy xem thế đứng của Thái Dương.
    Trong bản số chỉ có 2 cung Thái Dương Thái Âm đứng một chỗ là Sửu và Mùi. Nếu tốt cả hai cùng tốt, mà xấu thì cả hai cùng xấu. Các sao đi cặp, hễ các sao xung chiếu bị ảnh hưởng tốt xấu đều phản xạ qua sao bên kia.
    Nhật Nguyệt ở Sửu Mùi thì ở Mùi tốt hơn ở Sửu. Tại sao? Vì Thái Dương ảnh hưởng mạnh hơn Thái âm mà Mùi cung thì Thái Dương không bị “thất huy” như ở Sửu mới có sức trợ giúp Thái âm. Cho nên Nhật Nguyệt ở Sửu, cuộc đời khó hiển đạt và lên xuống thất thường, còn Nhật Nguyệt ở Mùi thì an định hơn.
    Nhật Nguyệt đồng cung mang nhiều khuyết điểm, vì cổ ca viết: Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu hội, tịnh minh nghĩa là, Nhật Nguyệt đóng Mệnh không bằng chiếu Mệnh hoặc đứng hai chỗ cùng sáng như Thái Âm Hợi, Thái Dương Mão hoặc Thái Âm Tuất, Thái Dương Thìn.
    Phú nói:
    Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi
    Tam phương vô cát phản vi hung.
    Vậy thì cách Nhật Nguyệt Sửu Mùi cần những sao tốt khác trợ lực mới đáng kể.
    Thái âm gặp Cự Môn Hoá Kị bị nhiều phiền luỵ. Như trường hợp Mệnh VCD gặp Nhật đóng ở cung Thân, Nguyệt đóng ở cung Ngọ thì lúc ấy bên cạnh Nhật có Cự mà lại thêm Kị thì phá mất cái tốt của việc hợp chiếu. Thái Âm cũng không ưa Thiên Lương, trong trường hợp Thái Âm đóng ở Tỵ mà Dương Lương từ Dậu chiếu sang thường đưa đến tình trạng vợ chồng ly tán. Trường hợp Mệnh Cự Môn Thái Dương mà cung Phu thê có Đồng Âm gặp Hoá Kị duyên cũng khó bền.
    Về Thái Âm cổ nhân còn tìm thấy cách “Minh châu xuất hải” (hòn ngọc sáng rực ngoài biển khơi). Cách này đòi hỏi Mệnh VCD tại Mùi, Thái Âm đóng Hợi, Thái Dương đóng Mão. Sách viết: “Nhật Mão Nguyệt Hợi Mệnh Mùi cung. Minh châu xuất hải vị tam công” (Thái Dương Mão, Thái Âm Mùi, Mệnh lập Mùi là cách minh châu xuất hải chức vị cao, quyền thế). Nhưng cách “Minh châu xuất hải” vẫn phải cần Tả Hữu đứng cùng Nhật Nguyệt mới toàn bích, thiếu Tả Hữu mà gặp thêm hung sát tinh thì chỉ bình thường.
    Luận về Thái Dương Thái Âm còn phải chú ý đến các cách giáp mệnh. Như Thiên Phủ thủ Mệnh ở Sửu, Nguyệt tại Dần, Nhật tại Tí; Thiên Phủ Mùi, Nguyệt ở Thân, Nhật giáp từ cung Ngọ.
    Rồi đến Nhật Nguyệt hiệp Mệnh như Tham Vũ ở Sửu và Mùi. Tham Vũ Sửu thì Thái Âm Tí, Thái Dương Dần. Tham Vũ Mùi thì Thái Âm Ngọ, Thái Dương Thân. Mệnh lập Sửu vẫn tốt hơn Mệnh lập Mùi. Hiệp với giáp vào cung vợ chồng không mấy tốt, nếu kèm theo hung sát tinh đưa đến tình trạng hôn nhân có biến.
    Trường hợp Thiên Phủ ở cái thế kho lủng, kho rỗng, kho lộ mà giáp hiệp càng gây khó khăn hơn. Thái Âm là âm thủy chủ về điền sản, tiền bạc.
    Thái Âm thủ Mệnh nữ hay nam đều có khuynh hướng về hưởng thụ công việc gì cần nhẫn nại gian khổ không thể giao cho người Thái Âm. Thái Âm vào nữ mạng sinh ban đêm là người đàn bà có nhan sắc, có cả Xương Khúc nữa càng mặn mà. Thái Âm trên khả năng thông tuệ nhưng lại thiếu nhẫn nại để mà học cao đến mức hiển đạt vì học vấn.
    Thái Âm hãm độc tọa thủ Mệnh vào nam mạng vào nội tâm đa nghi. Vì Thái Âm chủ về điền sản nên đắc địa vào cung điền trạch rất tốt. Thái Âm đắc địa thủ mệnh số trai dễ gần cận phái nữ không ồn ào mà âm thầm nhưng khi thành gia thất rồi, vợ nắm quyền.
    Thái Âm nữ mạng đắc địa, đa tình lãng mạng, thiện lương nhưng thiếu chủ kiến, có tâm sự u uẩn phải bộc bạch ra mới yên, với bản chất qúy thủy (nước trong) nên bao giờ cũng thích làm dáng, ăn ngon mặc đẹp.
    Thái Âm hãm thủ mệnh lại đứng cùng Văn Khúc hãm nữa chỉ thành tựu như một nghệ nhân tầm thường với cuộc sống phiêu bạt, kiếm chẳng đủ miệng ăn. Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư còn ghi một câu: Thái Âm cư Tí, thủy chừng quế ngạc, Bính Đinh nhân dạ sinh phú quí trung lương (Thái Âm đóng Tí như giọt sương mai đọng trên hoa quế, người tuổi Bính Đinh sinh vào ban đêm giàu sang, tâm địa trung lương vì tuổi Bính tuổi Đinh đều có gặp Lộc Quyền hay Lộc Tồn mà nên vậy)
    Sau đây là những câu phú liên quan đến Thái Âm:
    - Nguyệt diệu Thiên Lương nữ dâm bằng
    (Thái Âm gặp Thiên Lương đàn bà đa dâm và nghèo. Câu này chỉ vào trường hợp Thái Âm ở Mão hay Tỵ, hội chiếu Thiên Lương từ Mùi hoặc Dậu, Thái Âm hãm mới kể)

    - Nữ mệnh dung nhan mỹ tú, ái ngộ Nguyệt Lương
    (Người đàn bà có nhan sắc là bởi Thái Âm Thiên Lương. Về nhan sắc thì Thái Âm hãm hay đắc địa như nhau, duy Thái Âm đắc địa dung nhan phúc hậu hơn)

    - Nữ mệnh kị Nguyệt ngộ Đà
    (Đàn bà rất kị Thái Âm gặp Đà La. Tại sao? Vì ưa loạn dâm. Thái Âm vốn dĩ đa tình lại có Đà La tượng trưng sinh thực khí của đàn bà tức kể như nữ tính quá phần mạnh mà loạn)

    - Nguyệt tại Hợi cung minh châu xuất hải tu cần Quyền Kỵ Khúc Xương hạn đáo
    (Nguyệt ở Hợi là cách minh châu xuất hải, để phấn phát còn cần gặp vận Khúc Xương Quyền Kỵ)

    - Âm Dương lạc hãm tu cần không diệu tối kị sát tinh
    (Âm Dương đứng không đúng chỗ cần gặp Tuần Triệt, Địa Không ngại gặp sát tinh hãm hại)

    - Thái Âm Dương Đà tất chủ nhân ly tài tán
    (Sao Thái Âm gặp Kình Dương Đà La thì nhân ly tài tán. Đây là nói về Thái Âm hãm thôi)

    - Âm Tang Hồng Nhẫn Kỵ Riêu, tân liên hàm tiếu, hạn phùng Xương Vũ dâm tứ xuân tình liên xuất phát. (Thái Âm có Hồng Loan, Kình Dương, Riêu Kỵ người đàn bà đẹp như đoá sen mới nở, nhưng hạn gặp Văn Xương, Văn Khúc tất sa ngã vì tình)

    - Thanh kỳ Ngọc Thỏ tuy lạc hãm nhi bất bần
    (Mệnh có sao Thái Âm dù không đắc địa, không bao giờ túng quẫn)

    - Âm Dương lạc hãm gia Hình Kỵ Phu Thê ly biệt
    (Cung phối Nhật hay Nguyệt hãm mà thêm Hình Kỵ vợ chồng không sống đời với nhau)

    - Nguyệt phùng Đà Kị Hổ Tang, thân mẫu thần trái nan toàn thọ mệnh
    (Thái Âm gặp Đà La, Hóa Kị, Tang Hổ thì mẹ mất sớm)

    - Thái Âm đồng Văn Khúc ư Thê cung thiềm cung triết quế
    (Thê cung có Thái Âm đứng cùng Văn Khúc như lên cung trăng bẻ cành quế, lấy vợ đẹp và giàu sang. Nếu là Phu cung thì không được như vậy, tuy vẫn gọi là tốt)

    - Duyên lành phò mã ngôi cao
    Thái Âm đắc địa đóng vào Thê cung

    - Vợ giàu của cải vô ngần
    Thái Âm phùng Khúc Lộc Ấn Mã đồng

    - Âm Dương Tuần Triệt tại tiền
    Mẹ cha định đã chơi tiên chưa nảo
    (Phải Âm Dương đắc địa mới kể)

    - Âm Dương hội chiếu Mệnh Quan
    Quyền cao chức trọng mới đàng hanh thông.

    - Nguyệt miếu vượng trùng phùng Xương Khúc
    Việt Khôi Hóa Quyền Lộc Đào Hồng
    Thiên Hỉ Tả Hữu song song
    Giàu sang hổ dễ ai hòng giám tranh

    - Thái Âm lạc hãm phải lo
    Kỵ lâm thường thấy tay vò đăm chiêu

    - Nguyệt gặp Long Trì ở cùng
    Tuy xấu nhưng cũng được phần ấm thân

    - Thiên Cơ với Nguyệt cùng ngồi
    Ở cung hãm địa ấy người dâm bôn
    (Cơ và Thái Âm ở Dần, đẹp nhưng lãng mạn)

    Về hai sao Thái Dương và Thái Âm còn có một luận đoán đáng kể mà không thấy ở các sách Tử Vi chính thống như sau:
    Nam mạng Thái Âm thủ mệnh trên cử chỉ thái độ hao hao như nữ tử, trái lại nữ mạng Thái Dương thủ thì tính quyết liệt, động tĩnh nhiều nét nam tử
    Nam mạng Thái Dương thường xung động Thái Âm ở cung đối chiếu thường có khuynh hướng tà dâm, đổi lại nữ mạng Thái Âm thủ xung động Thái Dương thường là thủy tính dương hoa (lẳng.lãng mạn) nhiều ít cũng còn phải tùy thuộc cung Phúc Đức. Nam mạng Thái Âm thủ ưa thân cận với nữ phái, ngược lại nữ mạng Thái Dương thủ thích giao du với nam phái
     
  11. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO THAM LANG

    Tham Lang là sao dương mộc đới thủy, thuộc hệ bắc đẩu. Chủ về họa phúc và hóa khí là đào hoa. Đẩu Số Toàn Thư gọi Tham Lang là:”bắc đẩu giải ách chi thần”
    Khi đến phần bình giải thì Tham Lang lại thành khuôn mặt của con người tửu sắc phiêu đãng. Con người như thế làm sao có thể là giải ách chi thần được? Đời sau tìm tòi mới hay rằng giải ách chi thần ở đây có nghĩa là khả năng đa diện tài hoa khả dĩ làm êm thấm mọi chuyện, nói khác đi là có tài thu xếp, điều giải, ngoại giao.
    Ngoài ra Tham Lang nếu gặp được những cát tinh khác là số trường thọ, lại ưa học tu luyện thần tiên thì đây cũng kể là mặt khác của giải ách chi thần. Nếu Tham Lang hội với Hỏa Linh Tinh đóng ở Thìn Tuất Sửu Mùi hoặc đứng cùng Kình Dương ở Ngọ thì lại chủ về quyền thế, tựa vào quyền thế mà phú quí, khi đã quyền thế tất giải quyết được nhiều sự việc đáng kể như một giải ách chi thần vậy.
    Tham Lang đắc địa nơi mộ cung Thìn Tuất Sửu Mùi. Ở vượng địa Tí Ngọ Mão Dậu không hay bằng mộ địa. Có giả thuyết khác cho rằng Tham Lang vốn hóa khí đào hoa, mà Tí Ngọ Mão Dậu lại là đất của Đào Hoa thì quá mức mà thành không hay. Tham Đào như vậy dễ dâm loạn. Giảo quyết trên hơi quá hóa.
    Tính chất của Tham Lang có thiên hướng về vật dục, nếu vào vượng địa khuynh hướng ấy nặng hơn, luôn cả về mặt tình dục. Nhưng lời đoán bảo rằng Tử Tham gặp Đào Hoa trai thì trộm đạo, gái làm kỹ nữ không đúng, hãy chỉ coi như con người nặng về tình dục, vật dục thôi.
    Cổ ca viết:”Tử Tham đồng cung tu Tả Hữu Xương Khúc hiệp chế” (Tử Tham đóng cùng cần có Tả Hữu và Xương Khúc hiệp để chế bớt đi). Hiệp là tam hợp chứ không phải giáp.
    Tham Lang mộc nhưng căn thủy, dương mộc trôi trên sông nước là hình ảnh phiêu đãng, xông xáo hiếu động nhưng thiếu nhẫn nại. Lúc trẻ cân còn non chưa đủ sức, lớn lên cây già mới thành giường cột, cho nên tuổi thiếu niên thường lãng đãng hào hoa hăm hở vui sống. Lúc đứng tuổi nhiều kinh lịch tâm ý biến đổi hẳn sức phấn đấu cũng bền bỉ mạnh mẽ. Do vậy, Tham Lang ít tham công trong tuổi niên thiếu.
    Hình thái của người Tham Lang thủ mệnh đắc địa vì là dương mộc nên cao lớn đẫy đà. Tuy nhiên hành động lanh lẹ không chậm rãi như Thiên Đồng hay Tử Phủ. Tham Lang độc tọa ở Tí Ngọ Dần Thân và Tuất Thìn. Tham Lang đứng ở Vũ Khúc ở Sửu Mùi, đứng với Liêm Trinh ở Tỵ Hợi, đứng với Tử Vi ở Mão Dậu.
    Trước hết nói về cách Tham Lang đứng với Vũ Khúc ở Sửu và Mùi. Tham Vũ Sửu Mùi là một cách tốt nói nhiều trong Tử Vi khoa. Mệnh Tham Vũ thì tam hợp hội tụ Tử Vi Thất Sát và Liêm Trinh Phá Quân, một tinh hệ với tính chất biến hóa phức tạp, vì có đa số hung tinh nên sức biến hóa càng mãnh liệt.
    Tham Vũ thủ Mệnh còn có Nhật Nguyệt giáp Mệnh, nếu được cả Tả Hữu Xương Khúc nữa thì cách Tham Vũ đồng hành kể như toàn bích để mà công danh phú quí. Tham Vũ đi với Linh Hỏa cũng hay, nhưng là con người thiếu đức hạnh so với đứng cùng Tà Hữu Xương Khúc. Tham Vũ Linh Hỏa ích kỷ gian tham. Với Hỏa Tinh còn bôn ba bươn chải trong tuổi niên thiếu nhiều hơn, qua cái nghĩa cổ nhân bảo:”Tham Vũ đồng hành bất phát thiếu niên nhân”
    Tham Lang là Đào Hoa, tính chất đào hoa ấy có thể phát triển thành sảo nghệ như câu phú ghi:”Tham Vũ tứ sinh, tứ mộ cung, Phá Quân Kị Sát bách công thông” (Tham Vũ đóng ở các cung tứ sinh hay tứ mộ mà gặp Phá Quân Kị Sát thì tay làm đủ thứ nghề)
    Tỉ dụ Tham Vũ Sửu Mùi gặp Kình Dương Đà La không Tả Hữu Xương Khúc hoặc Tham Lang độc thủ ở Thìn Tuất mà không được Tả Hữu Xương Khúc mà gặp Sát Kị thì rất tháo vát trong chuyện mưu sinh. Đóng Dần Thân hay Tỵ Hợi không hội cát tinh mà Thất Sát Kị thì cũng dùng sảo nghệ kiếm tiền. Nói tóm lại, Tham Vũ hay Tham Liêm đồng cung hoặc gặp nhau đều thuộc loại sảo nghệ. Vấn đề nghệ nào còn tùy thuộc kết cấu với các sao khác. Với Xương Khúc là người thiết kế giỏi. Với Đà La tinh thông máy móc. Ngoài ra khả dĩ qua quy xét mà tìm thấy những biến hóa phức tạp khác
    Ở Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có cả quyết viết những câu:”Tham Nguyệt đồng Sát hội Cơ Lương, tham tái vô yểm tác kinh thương” (Tham Lang cùng Thái Âm hội sát tinh gặp Thiên Cơ Thiên Lương thì tham tiền luôn luôn tính chuyện bán buôn). Cơ Lương Tham Nguyệt đồng sát hội, đa bán kinh thương vô miên thụy (Những sao Cơ Lương Tham Nguyệt gặp sát tinh, suốt ngày đêm tần tảo không muốn nghỉ ngơi)
    Những câu trên có thể vì tam sao thất bản ra chăng? Trên nguyên tắc các sao ấy chẳng bằng cách gì gặp nhau. Đệ tử của Trần Đoàn là Ngô Cảnh Loan có chú giải những câu tương tự trong bộ sách “Đẩu Số Tử Vi tinh quyết”, tiếc rằng tôi chưa đọc được nó để tìm hiểu.
    Một cách cuộc đáng suy ngẫm: Tham Lang Mệnh rất kị Thân đóng nơi Thất Sát hay Phá Quân. Như vậy là con người sốc nổi phiêu bạt thăng trầm khó dừng lại mà an định.

    Cổ nhân viết:Mệnh Tham Lang Thân Thất Sát con trai cử chỉ điếm đàng, con gái phong thái lẳng lơ dù có cát tinh cũng khó lòng giáng phúc, gặp hung tăng càng tăng vẻ gian không chân thực, sống hư hoa, giao thiệp người đáng tốt lại chơi xấu, người xấu lại đối tử tế, bởi vậy mới nói Thất Sát thủ Thân chung thị yểu, Tham Lang nhập mệnh tất vi sương (Trai mà Thân Thất Sát không thọ, gái mà mệnh Tham Lang tất đĩ thõa)
    Nếu Thân là Phá Quân thì trai thích bài bạc du đãng, gái bỏ theo trai. Chỉ gặp Tuần hay Triệt thì Tham Lang mới đoan chính mà thôi. Câu trên đây của cổ nhân xét ra có phần quá đáng, không chính xác khi đoán về người Tham Lang Mệnh, mà Thất Sát hay Phá Quân thủ Thân.
    Những cách cục ấy chỉ có thể bảo rằng con người quá ham muốn vật dục, tình dục lại ưa thay đổi và không có nghị lực để chịu đựng gian khổ mà làm nên việc không nhất thiết là kẻ lừa gạt hay đĩ điếm.
    Tuy nhiên có một điểm đáng chú ý: Tham Lang hội sát tinh không nên gặp Văn Khúc, nếu Tham Lang thủ Thân mà Thất Sát thủ Mệnh lại cả Văn Khúc thì cuộc đời thường gặp tai họa bất ngờ. Chẳng chỉ Văn Khúc ngay cả Văn Xương cũng thế.
    Tham Lang Xương Khúc thường là đa hư thiểu thực nói nhiều làm ít. Tham Lang cũng không hợp với Kình Dương Đà La. Gặp Kình Đà ở Tí hoặc Hợi cung thì thường ra con người phóng đãng lưu lạc trong tình trường. Gặp Kình ở Ngọ cung, cổ nhân gọi bằng:”Mã đầu đới tiễn”, gặp Đà La ở Dần cung cổ nhân gọi bằng:”phong lưu thái trượng”. Ở Tí cung và Hợi cung gọi bằng “Phiếm thủy đào hoa”.
    Những cách kể trên dễ rơi vào họa sắc tình. Họa sắc tình gồm có: a) tù tội, đổ máu, mất cơ mất nghiệp vì tình hay bệnh tật b)lấy phải vợ quá dữ như kẻ bị cầm tù mà vợ là giám ngục.
    Cùng các cách trên đây nếu được thêm các cát tinh phù trợ thì chỉ là con người phong hoa tuyết nguyệt, thi tửu cầm kỳ, chứ không đến nỗi tang thân, bại sản vì tình.
    Tham Lang đứng cùng Hóa Quyền hoặc Hỏa Linh là tốt nhất, chủ quyền qúy. Tham Lang Hóa Lộc được thêm Hỏa Linh thì dễ làm nên giàu có hoạnh phát. Nói tóm lại, sao Tham Lang sự biến hóa giữa tốt và xấu rất rõ ràng và mãnh liệt.
    Tham Lang đi cùng Không Kiếp hay đam mê bài bạc. Tham Lang đi cùng Đào Hồng đàn bà đam mê vui thú xác thịt. Tham Lang không sợ Tuần Triệt, Tuần Triệt khả dĩ chế giảm bớt vật dục vượng thịnh của Tham Lang.
    Cần đọc thêm những câu phú về Tham Lang sau đây:
    - Tham Lang độc cư đa hư thiểu thực
    (Tham Lang đứng một mình ưa nói viễn vông thiếu thực tế, cũng hay khoác lác nữa. Đứng một mình mà không gặp cát tinh như Hỏa Linh, Khoa Quyền Lộc thì mới kể)

    - Nữ Mệnh Tham Lang đa tật đố
    (người nữ có sao Tham Lang thủ Mệnh rất hay ghen, ghen đầu năm trọn tháng chày, bởi sao Tham Lang đóng ở tầy Mệnh cung)

    - Tham Lang cư Mão Dậu ngộ Hỏa tắc công khanh.
    (Tham Lang đứng với Tử Vi ở hai cung Mão Dậu, gặp Hỏa Tinh khả dĩ làm lớn, có quyền thế. Khi có Hỏa Tinh thì Tham Lang biến thành chủ tinh lấn át hẳn Tử Vi)

    - Tham Lang gia cát tọa Tràng Sinh thọ khảo vĩnh như Bành Tổ
    (Tham Lang đóng Dần Thân Tỵ Hợi hội với các tinh sống rất thọ)

    - Tham Lang Thân cung vi hạ cách
    (chỉ hạ cách nếu bị Hóa Kị đi kèm)

    - Tham Lang Tỵ Hợi gia sát bất vi đồ hộ diệc tao hình
    (Tham Lang gặp Sát mà đóng Tỵ Hợi nếu không làm đồ tể thì cũng dễ vương tội tù)

    - Tham Lang kị ngộ sát tinh, ưu xâm Không Kiếp, vãn niên phúc thọ nan lương toàn
    (Tham Lang gặp Sát tinh hay Không Kiếp thì luống tuổi nếu khá giả tất không thọ, nghèo khổ mới sống lâu)

    - Tham Lang Hợi Tí hạnh phùng Quyền vượng biến hư thành thực ư Giáp Kỷ tuế phú danh viên mãn (Tham Lang đóng ở Hợi hay Tí mà được Quyền Lộc biến hư thành thực với người tuổi Giáp Kỷ khả dĩ nên danh phận cơ nghiệp)

    - Tham cư Đoài Chấn thoát tục vi tăng Kiếp Kị lai xâm trần hoàn đa trái
    (Mệnh Tử Tham Mão Dậu gặp Hồng Loan, Thiên Không thì đi tu, nhưng hễ đã thấy Hóa Kị, Địa Kiếp xuất hiện thì tu không trọn nghiệp mà phá giới)

    - Tham Đào tại nhàn cung, nữ mệnh độc phụ chi nhân ngộ Triệt Tuần thi tâm tình thư thái
    (Tham Lang đóng nhàn cung (như Hợi Tí hoặc Thân) thường là người đàn bà tâm tính độc, hay tư tình, nhưng nếu đã có Tuần Triệt án ngữ thì đỡ hẳn)

    - Tham Sát Ngọ Dần kiêm ngộ Hổ, Tang lôi thú nan đề
    (Tham Lang Thất Sát ở Dần hay Ngọ thủ Mệnh gặp Bạch Hổ Tang Môn phải đề phòng tai nạn sét đánh, hoặc thú vật cắn)

    - Tham tọa thủy cung, giáp biến tứ sát bần khổ
    (Tham Lang ở Tí Hợi lại giáp Kình Đà Không Kiếp thì nghèo khổ)

    - Tham Kị trùng Riêu thủy tai nạn miễn
    (Tham hãm địa gặp Hóa Kị Thiên Riêu thì dễ bị tai nạn về sông nước)

    - Tham Lang Vũ Khúc thủ Thân vô cát mệnh phản bất tường
    (Cung Thân có Tham Vũ mà cung Mệnh xấu thì danh phận ngắn ngủi, dễ gặp hiểm nguy)

    - Tí Ngọ Tham Đào Ất Kỷ âm nam lập nghiệp do thê, kiêm năng sát diệu hành sự do thê
    (Mệnh ở Tí Ngọ có Tham Lang Đào Hoa, người tuổi Ất Kỷ nhờ vợ mà nên cơ nghiệp nếu lại thấy cả sát tinh nữa thì quyền hành đều ở trong tay vợ)

    - Dần Thân nhi hội Tham Liêm ngộ Văn Xương nhập lao Quản Trọng
    (Tham Lang ở Dần hay Thân thì cung đối chiếu là Liêm Trinh lại thấy cả Văn Xương dễ bị dính vào vòng lao lý)

    - Tham Đào giải ách nhi ngộ Linh Riêu lãnh hoàn chi bệnh
    (Đàn ông Tham Đào đóng giải ách gặp Linh Tinh, Thiên Riêu bị lãnh tinh, hiếm con)

    - Tham Lang Bạch Hổ trùng sinh
    Tuất Thìn số ấy lánh mình sơn lâm
    (Mệnh có Tham Lang đi cùng Bạch Hổ, người tuổi Thìn Tuất đừng nên ham thú săn bắn, sẽ bị thú vật cắn)

    - Quan cung Tham Vũ cùng xâm
    Đừơng mây thủa ấy hải lâm bôn trì
    (Cung Quan Lộc Tham Vũ cùng đóng, ra làm quan lận đận lao đao)

    - Tham Riêu hãm địa cùng xâm
    Gia trung thất vận gian lâm trạch tài
    (Tham Lang Thiên Riêu hãm địa đóng cung Tài Bạch, Điền Trạch thường bị mất trộm hoặc hốt nhiên sụp đổ cơ nghiệp)

    - Tham Lang miếu vượng chi cung
    Thân hình to lớn là giòng lược thao
    (Tham Lang đắc địa khổ người to lớn, tháo vát lanh lẹn)

    - Dần Thân Tham gặp Tràng Sinh
    Không sao ác sát thọ tinh ấy mà
    (Tham Lang ở Dần hay Thân là cung của Tràng Sinh tuổi thọ thường cao nếu không bị ác sát tinh)

    - Tham Đào số nữ thường dâm loạn
    Ở hãm cung hãy đoán cho tường
    Tí Ngọ Mão Dậu mấy phương
    Nếu gặp Tuần Triệt lại phường đoan trinh

    - Tham Vũ đóng đất Võng La (Thìn Tuất)
    Gặp loài Tang Điếu một nhà lại hung

    - Mệnh chính diệu cung Phu Tham đóng
    Ấy là người phúc trọng chính thê
    Mệnh vô chính diệu đáng chê
    Cung Phu Tham đóng giữ bề tiểu tinh
     
  12. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO CỰ MÔN

    Cự Môn thuộc âm thủy trong hệ Bắc Đẩu chủ về thị phi và hóa khí là Ám. Hai chữ Ám điệu đã gây cho người đọc hiểu lầm không ít. Cự Môn tự nó không có ánh sáng thì đươngnhiên không trở thành tối ám như Nhật Nguyệt hãm.
    Cự Môn sở dĩ thành ám vì khả năng cản ngăn che khuất của nó. Vậy thì tính chất căn bản của Cự Môn là một vật gây chướng ngại. Đã gây chướng ngại tại sao nó đứng với Thái Dương ở cung Dần lại thành tốt? Trong vũ trụ duy chỉ có vầng Thái Dương không vật gì có thể che khuất bởi vậy Thái Dương đắc địa không sợ Cự Môn.
    Cự Môn đứng bên cạnh Thái Dương biến thành một vật gây phản chiếu cho Thái Dương, đồng thời Thái Dương đã chuyển Cự Môn từ ám thành minh. Ảnh hưởng cản ngăn che khuất của Cự Môn gây khó khăn nhiều nhất là quan hệ giao tế.
    Đẩu số toàn thư viết: “Tính chất Cự Môn ngoài mặt thì thế mà trong lòng thì khác, đối với người thân ít hợp, giao du với người mới thì trước yêu sau ghét”. Mấy chữ “Cô độc chi số, khắc bạc chi thần” là nói về giao tế.
    Cự Môn là sao của thị phi vậy thì Cự Môn “thị” hay “phi”? Vốn là ám điệu như mầu đen chìm dưới đáy biển khó mà biết được thị hay phi.
    Trong lối sắp xếp bốn sao Hóa cổ nhân đã đặt để sao Cự Môn không bao giờ đứng cùng Hóa Khoa, nó chỉ đứng bên Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Hóa Kị thôi. Cự đi cùng Hóa Kị lực lượng chướng ngại tăng cao hẳn, bởi vậy Mệnh mà gặp Cự Kị dễ rơi vào khẩu thiệt thị phi, tình cảm khôn khó, hoặc cò bót kiện tụng, ngoài ra còn dễ lên bàn giải phẫu.
    Cự Môn đứng cùng Hóa Lộc thì lời ăn tiếng nói hoạt bát, tranh biện hay, khả dĩ nói ra tiền vào nghề thầy kiện, vào ngành truyền thông hợp cách. Nhưng bản tính thì không thực, nói cười thân mật mà thiếu tình cảm chân thành.
    Cự Môn đứng với Hóa Quyền sách bảo rằng đó là hung mà ra triệu chứng tốt (hung vi cát triệu). Nhờ chướng ngại tạo ra phấn đấu mà nên công nên nghiệp, do chướng ngại mà thành công. Tỉ dụ xã hội biến động bị đẩy vào bước đường cùng, từ cùng sinh biến mà hóa thông. Càng vượt nhiều khó khăn càng thành công lớn. Những người làm chính trị, những người có số hoạnh phát thường thấy Mệnh Cự Môn Hóa Quyền. Cự Môn không cần Hóa Khoa, nhưng gặp Hóa Khoa Cự Môn sẽ tan biến đi tính chất thị phi cố hữu của Cự Môn.
    Cự Môn đứng một mình ở các cung Tí, Ngọ, Thìn, Tuất và Tỵ Hợi. Cự Môn đứng cùng Thiên Cơ ở Mão và Dậu. Đứng cùng Thiên Đồng ở Mùi, Sửu. Đứng cùng Thái Dương ở Dần Thân.
    Trước nói về Cự Môn Thiên Cơ. Thiên Cơ vốn đã động, Cự Môn lại đa biến. Hai sao này thủ Mệnh cuộc đời biến động nhiều và có tài soay sở, tuy nhiên chỉ thành công nếu như giữ được sự an định, nếu cứ mặc sức biến động thì càng lún sâu vào những khó khăn. Cự Cơ trên nguyên tắc là cách làm giàu với điều kiện phải có Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Song Hao (Đại Tiểu Hao), đã Lộc thì không nên Hao.
    Cự Môn Thái Dương ở Dần tốt hơn ở Thân. Vì Dần cung TháiDương quang huy cònmạnh trong khi ở Thân Thái Dương đã về chiều sức không đủ. Câu phú “Cự Nhật Dần Thân quan phong hầu bá” không hẳn là vậy.
    Cự Môn Thiên Đồng gây phiền nhất cả trên tình cảm lẫn danh phận. Cự Đồng thủ Mệnh số trai khó lập công danh cơ nghiệp, số gái lận đận duyên tình.
    Nói về Cự Môn đóng hai cung Tí và Ngọ mà ta thường gọi bằng cách “Thạch trung ẩn ngọc” (ngọc còn ẩn trong đá). Cự Môn Tí Ngọ nếu được Khoa Quyền Lộc thủ chiếu là hợp cách ẩn ngọc, tuy không quyền uy lớn nhưng ắt giàu sang. Cự Môn ở Tí tốt hơn Ngọ. Vì lẽ đóng ở Tí mới được Thái Dương Thìn đắc địa, đóng Ngọ thì Thái Dương ở Tuất đã mất nhiều quang huy. Cự Môn Tí hay Ngọ thì Hóa Lộc tạo nhiều sức mạnh hơn Lộc Tồn.
    Các sao của Tử Vi Khoa bao giờ cũng mang hai bộ mặt cát và hung. Cự Môn Hóa Kị bị coi làm hung thần, nhưng lúc biể hiện cũng vẫn có hai mặt tốt xấu. Hãy đọc câu phú sau: “Cự Môn Thìn cung Hóa Kị, Tân nhân Mệnh ngộ phản vi kỳ” (nghĩa là Cự Môn thủ Mệnh tại cung Thìn có Hóa Kị, người tuổi Tân lại biến ra kỳ cách)
    Cự Môn Hóa Kị đi cặp rất xấu, nhưng ở trường hợp này lại chuyển thành tốt. Vì nó được cả bốn Hóa, Hóa Quyền đứng bên Thái Dương chiếu lên, Hóa Khoa đứng Tuất với Văn Khúc chiếu qua, và Hóa Lộc đứng cùng Cự Môn thành ra kỳ cách “Tứ Hóa toàn phùng”
    Cách này thường gây sôi nổi thị phi nhưng cuối cùng lập thành sự nghiệp to lớn. Cự Môn Hóa Kị ở cách này là con người đi ngược thời thương không a dua mà đặt định một lề lối riêng biệt tiến bộ. Nó đi vào mọi lãnh vực chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc đến hội họa, y học….
    Nếu như Cự Môn ở Thìn không Hóa Kị, Hóa Khoa chỉ có Quyền với Lộc thôi thì công danh lại thường do người đề bạt mà nên phú quí thiếu sức ông phá của Hóa Kị nên không thành ra người sáng tạo sự nghiệp.
    Sao Cự Môn rất hợp với những người tuổi Tân. Vì tuổi Tân sự an bài tứ hoá theo thứ tự Cự Nhật Khúc Xương, đương nhiên nếu Cự Môn thủ Mệnh mà tuổi Tân thì đã chắc chắn có Lộc Quyền. Ngay cả đến cách Cự Đồng vào Mệnh là xấu nhưng với tuổi Tân cái xấu giảm hẳn đi. Bởi vậy mới có câu phú rằng: “Cự Môn Thìn Tuất hãm địa Tân nhân hóa cát lộc tranh vinh” (Cự Môn ở hai cung Thìn Tuất là đất hãm nhưng nếu tuổi Tân thì lại vinh hiển)
    Cự Môn đóng ở Thìn là cung Thiên La (lưới trời) hoặc cung Tuất là cung Địa Võng (lưới đất) kể như hãm. Thế hãm này chỉ phá ra được nếu Cự Môn có Địa Không, Địa Kiếp đi bên hoặc đứng với Kình Dương hay Linh Tinh. Cuộc đời trải qua nhiều bôn ba thăng trầm vượt lên mà thành công. Nhắc lại đã Kình thì thôi Linh, đã có Linh thì đừng nên Kình thêm nữa.
    Cự Môn có liên hệ nhiều với Thái Dương. Sách Đẩu Số Toàn Thư viết: “Cự Nhật Dần lập Mệnh Thân tiên khu danh nhi thực lộc, Cự Nhật Thân lập Mệnh Dần trì danh thực lộc” nghĩa là Mệnh lập tại Thân Cự Nhật Dần xung chiếu hoặc Mệnh lập tại Dần Cự Nhật xung chiếu cả hai đều danh vị đi trước Lộc tới sau.
    Hai cách trên đều có tiền qua chức vị, chức lớn tiền nhiều, chức nhỏ quyền ít không thể do kinh thương mà làm giàu. Rồi một câu khác: “Cự tại Hợi cung, Nhật Mệnh Tỵ thực lộc trì danh, Cự tại Tỵ Nhật Mệnh Hợi phản vi bất giai” nghĩa là Cự đóng Hợi Thái Dương thủ Mệnh Tỵ có tiền rồi có danh, nếu như Cự đóng Tỵ Thái Dương thủ Mệnh tại Hợi thì xấu khó màng đến danh lộc. Cự Hợi xung chiếu Mệnh khả dĩ kinh thương làm giàu, lớn nhỏ còn tùy các phụ tinh khác.
    Còn một cách khác về liên hệ giữa Cự Môn với Thái Dương: “Cự Tuất, Nhật Ngọ Mệnh viên diệc vi kỳ” An Mệnh tại cung Dần, Cự Môn đóng Tuất, Thái Dương từ Ngọ chiếu xuống, không bị Tuần Triệt làm ngăn trở Thái Dương cách này công danh tài lộc dễ dàng.
    Cự Môn vào Mệnh thường là người ăn nói, lý luận vững vàng, mà cũng dễ vạ miệng nếu như nó đứng cùng các sao xấu. Văn Khúc cũng có khả năng ăn nói, nhưng Văn Khúc biết lựa chiều nên ra tiền và làm đẹp lòng người. Còn Cự Môn nói để lập luận, phân tích, đả kích mà tạo quyền uy. Nếu có Hóa Quyền thì đạt ý muốn, nếu bị các hung sát phá, kết quả gây thù chuốc oán phiền não.
    Tài ăn nói của Văn Khúc mang ý hướng đào hoa, thuyết phục. Tài ăn nói của Cự Môn đầy quyền lực, có khuynh hướng áp đặt. Cự Môn đứng với Thiên Đồng ăn nói thường gàn gàn khó nghe.
    Cự Môn tuyệt đối không hợp với Linh Tinh, Hỏa Tinh. Cự Môn ngại thấy Kình Dương Đà La. Có những câu cổ quyết ghi trong Đẩu Số Toàn Thư: “Cự Hỏa Linh Tinh phùng ác hạn tử ư ngoại đạo” (Mệnh Cự Hỏa Linh Tinh hay hạn gặp Cự Hỏa Linh Tinh rất hung nguy)
    Cự Môn Dương Đà ư Thân Mệnh, tật bệnh doanh hoàng (Cự Môn gặp Dương Đà ở Thân hay Mệnh bệnh tật triền miên)
    Những cách trên nếu như gặp Hóa Khoa, hay bộ tam minh Đào hồng Hỉ có thể hóa giải, thêm cả Hỉ Thần càng tốt. Ngoài ra Cự Môn còn có một cách nữa qua câu quyết: Cự Lương Thân Mệnh, bại luân loạn tục (Cự Môn và Thiên Lương một ở Thân, một ở Mệnh thường có khuynh hướng loạn luân)
    Cách này chỉ xuất hiện khi nào Cự Môn đóng Mệnh cung mà Thân lại ở Phúc Đức thôi. Trường hợp Thiên Lương Mệnh thì Cự Môn bắt buộc phải đóng Thê cung, không ăn nhập gì đến câu quyết trên.
    Qua kinh nghiệm thì chuyện bại luân loạn tục chỉ xảy ra nếu như Mệnh hay PHúc Đức còn có thêm những sao Đào hoa, Thiên Riêu, Mộc Dục, Không Kiếp.
    Những câu phú khác về sao Cự Môn cần biết:
    - Cự Nhật Dần Thân thiên môn nhật lãng, kị ngộ Lộc Tồn ái giao Quyền Phượng
    (Cự Nhật thủ Mệnh cung Dần không nên gặp Lộc Tồn mà cần gặp Hóa Quyền, Phượng Các).

    Câu này mâu thuẫn với câu phú: “Cự Môn Dần Thân, tới chi Giáp Canh sinh” nghĩa là Cự Môn đóng ở Dần hay Thân rất tốt cho tuổi Canh và Giáp, hai tuổi này Lộc Tồn ở ngay Thân hay Dần (Trên nguyên tắc thì Cự Môn cần Hóa Lộc, Hóa Quyền hơn Lộc Tồn). Một điểm sai khác trong câu này: Cự Môn tại Dần không thể gọi là “Nhật lãng Thiên Môn”.

    - Cự Nhật Mệnh viên, hạn đáo Sát Hình Kiếp Kị tu phồng tâm phế, kiêm Thiên Mã hãm tật tứ chi, duy hạn Song Hao khả giải.
    (Cự Nhật ở Mệnh, vận hạn đến Sát Hình Kiếp Kị phải lo bệnh nơi tim phổi, nếu thấy cả Thiên Mã Tuần Triệt thì phải đề phòng thương tích tay chân)

    - Cự Cơ Dậu thượng hóa cát giả, túng hữu tài quan đã bất chung
    (Cự Cơ thủ Mệnh tại Dậu, nếu giàu sang lớn thì không bền hay không thọ)

    - Tây Nương Tử áp đảo Ngộ tiền do hữu Cự Cơ Song Hao Quyền Ấn Đào Hồng phu cung
    (Nàng Tây Thi làm mưa làm gió dưới triều đại Ngô Vương bởi vì phu cung có Cự Cơ Song Hao, Quyền Ấn Đào Hồng. Cách này tất Mệnh cung Thiên Lương thủ, đàn bà bạt nhưng Phu cung tuyệt bậc giàu sang, cũng là cách làm đĩ nên bà)

    - Mão Dậu Cự Cơ Tân nữ ích tử vượng phu bất kiến Triệt Tuần đa tài thao lược
    (Mệnh Cơ Cự thủ ở Mão Dậu, người nữ tuổi Tân vượng phu ích tử, nếu không bị Tuần Triệt là người đàn bà đảm đang quán xuyến)

    - Cự Cơ nhi ngộ Lộc Tồn ngữ bất chính ngôn
    (Mệnh Cự Cơ đồng cung với Lộc Tồn thì hay ăn nói hồ đồ thiếu thận trọng)

    - Cự Cơ chính hướng hạnh ngộ Song Hao uy quyền quán thế
    (Cự Cơ thủ Mệnh gặp Song Hao giàu sang hơn người)

    - Tân nhân tối ái Cự Môn nhược lâm tứ Mộ phùng Tả Hữu cứu Mệnh chi tinh
    (người tuổi Tân hợp với sao Cự Môn, nếu vào đất tứ Mộ Thìn Tuất Sửu Mùi mà gặp Tả Hữu tránh đươc nhiều hung hiểm trong đời)

    - A Man xuất thế do hữu Cự Kị Khốc Hình Thìn Tuất
    (Tào Tháo lừng lẫy do Mệnh có Cự Kị Khốc Hình ở Thìn Tuất)

    - Cự Đồng nhi phùng La Võng, ngộ Khoa Tinh thoại thuyết Lịch Sinh
    (Cự hay Đồng thủ Mệnh ở Thìn Tuất, có Hóa Khoa thì làm du thuyết như Lịch Sinh thời xưa)

    - Cự Môn Tị Hợi kị ngộ Lộc Tồn nhi phùng Quyền Lộc kiếm sạ Đẩu Ngưu.
    (Cự Môn an Mệnh ở Tỵ hay Hợi không nên gặp Lộc Tồn. Lộc Hóa Quyền thì ví như cầm kiếm mà chém sao Đẩu sao Ngưu)

    - Cự Môn phùng Đà Kị tối hung
    (Cự Môn đóng Mệnh gặp Đà Kị rất xấu)

    - Cự phùng Tồn tứ cát xứ tang hung, ưu nhập tử cung vô nhị tống lão
    (Cự Môn đứng bên Lộc Tồn tuy tốt nhưng có hung tiềm ẩn bên trong, nếu hai sao này vào tử tức tới già không con cái nối dõi)

    - Cự Môn thê thiếp da bất mãn hoài
    (Cự Môn đóng Thê luôn luôn bất mãn với duyên tình, không yên với một vợ)

    - Cự Môn bất mãn trong lòng, ba lần kết tóc mới xong mối sầu
    (Số nữ Cự Môn tái Phu, phải mấy đời chồng)

    - Giải sứ mạc ngộ Cự Đồng kiêm phùng Tang Hổ Đà Riêu hữu sinh nan dưỡng
    (cung Tật ách thấy Cự Đồng mà đi với Tang hổ Đà Riêu thì sinh mà không nuôi được)

    - Cự phùng Dương miếu tốt thay
    Thăng quan tiến chức vận lành mừng vui.
    (Vận đến Thái dương đắc địa hội Cự Môn làm quan thăng chức)

    - Kình Đà Linh Hỏa cùng ngồi
    Với sao Cự tú một đời tai ương

    - Hợi Tỵ Cự Lộc Quyền rất quý
    Gặp Lộc Tồn biến thể ra hư

    - Cự gặp Hổ Tuế Phù hội viên
    Ấy là nghề thầy kiện quan tòa

    - Cự Tí Ngọ gặp Khoa Quyền Lộc
    Ấy là người đa học đa năng

    - Cự Nhật đồng thủ Dần Thân
    Một đời chức tước cháu con sang giàu

    - Gặp Quyền Vượng càng thêm vinh hiển
    Gặp Lộc Tồn lại kém lắm thay
     
  13. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO THIÊN TƯỚNG

    Thiên Tướng thuộc Nhâm Thủy, Nam đẩu tinh, hóa khí là Ấn, người xưa quan niệm như một vị quan trông coi về ấn tín, trong khi Thiên Cơ được coi làm mưu thần. Thiên Tướng và Thiên Cơ đều mang chung một khuyết điểm là thiếu khả năng lãnh đạo, nhưng lại khá hay giỏi về mặt phò tá. Trên căn bản Thiên Tướng khác Thiên Cơ ở chỗ: Thiên tướng tài về hành chánh, còn Thiên Cơ tài về tham mưu.
    Thiên Tướng đắc thời làm to hay ở địa vị phó hay thứ. Tính tình Thiên Tướng cẩn trọng, ăn nói cẩn thận, làm việc chậm và kỹ, đối với người có thủy có chung, chịu đựng, gánh vác, thông minh và ưa giúp đỡ. Thiên Tướng ở địa vị lãnh tụ thường thất bại.
    Thiên Tướng đứng cùng sao xấu biến ra xấu, đứng cùng sao tốt biến ra tốt. Luận về sao Thiên Tướng luôn luôn phải kết hợp với các sao khác, không thể tách riêng biệt ra để mà nói lên nhân cách của sao này. Tỉ dụ Tướng đi với Hóa Lộc hoặc Hóa Lộc xung chiếu là người rất quyến rũ đối với đàn bà con gái.
    Tướng đi với Hoa Cái Đào Hoa đàn bà đẹp và lẳng. Tướng đi với Hồng Loan thì đẹp mà đoan chính lấy chồng sang. Tướng đứng cùng Liêm Trinh gặp Phụ Bật là thầy thuốc giỏi. Tướng đi với Khoa Hình Quyền cung Ngọ lẫy lừng về nghiệp võ.
    Thiên Tướng giữ ấn tín dĩ nhiên chủ về quyền lực, quyền lực lớn nhỏ tùy thuộc các sao phụ tá nhiều hay ít. Quyền lực về mặt nào còn phải xem nó kết hợp với sao nào. Xin nhắc lại, quyền lực của Thiên Tướng chỉ là thứ quyền lực tương đương chứ không phải quyền lực lãnh đạo.
    - Cùng với Tử Vi tại Thìn Tuất
    - Cùng với Liêm Trinh ở Ngọ Tí
    - Với Vũ Khúc ở Dần Thân
    - Một mình ở Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi, Mão, Dậu
    Về Tử Vi Thiên Tướng xin xem đoạn luận sao Tử Vi.
    Về Thiên Tướng Liêm Trinh xin xem đoạn luận sao Liêm Trinh
    Về sao Thiên Tướng Vũ Khúc xin xem đoạn luận sao Vũ Khúc
    Còn Thiên Tướng độc tọa Sửu Mùi. Đóng Sửu hay Mùi thì cung Phối cũng là Liêm Tham hoặc Tỵ hoặc Hợi. Đóng Sửu gặp Tử Vi Phá Quân xung chiếu từ Mùi, đóng Mùi gặp Tử Phá xung chiếu từ Sửu.
    Thiên Tướng trên bản chất là con người phấn đấu, cái sức xung phá của Tử Phá kế là mạnh, khiến chí tiến thủ của Thiên Tướng tăng cao. Nếu như được sự phù trợ của Tả Hữu Quyền Lộc mới thành công, đựơc sự phò trợ của Xương Khúc thành ra tài hoa vào lãnh vực văn nghệ hợp cách. Thiên Tướng Sửu Mùi không Tả Hữu, không Quyền Lộc, không Xương Khúc ắt là vất vả.
    Thiên Tướng Sửu Mùi đường vợ con phiền não. Số nữ tự lo lấy thân không có phận được nhờ chồng. Thiên Tướng ở Tỵ với Hợi đứng một mình, cung xung chiếu là Vũ Khúc Phá Quân, nếu gặp các phụ tinh đẹp đẽ thì tay trắng dựng nên cơ đồ.
    Thiên Tướng khi ở Tỵ Hợi tất Thê cung là Tử Tham Mão hay Dậu, nếu lấy vợ hay chồng hơn tuổi thì vợ mới đảm đang quán xuyến, chồng mới lo toàn. Trường hợp vợ hay chồng trẻ hơn thì nuôi chồng hay khổ vì vợ. Nhất là Tử tham ấy lại cặp với Đào hoa, Mộc Dục, Thiên Riêu, Thiên Hình.
    Thiên Tướng Tỵ Hợi làm việc giỏi, quản thủ tiền bạc vững chắc, ham hưởng thụ, không phải con người có lý tưởng. Có câu phú: “Tỵ Hợi Tướng Binh Ấn nhập ư Bính Nhâm nhân, quyền hành chấn động, vận hữu Lộc Quyền hao điệu tài sản vượng tăng” (Nghĩa là Thiên Tướng thủ Mệnh tại Tỵ Hợi mà người tuổi Bính Nhâm có Phục Binh, Quốc Ấn thì có quyền hành gặp vận Quyền Lộc, Song Hao hay Phá Quân đắc địa tất hoạch phát tiền tài). Qua câu phú trên cho thấy Thiên Tướng còn hợp với Quốc Ấn Phục Binh và Tướng Quân nữa.
    Thiên Tướng độc thủ Mão hay Dậu. Tại Mão gặp Liêm Phá từ cung xung chiếu, Mão không phải đất miếu mà là đất hãm. Thiên Tướng Mão chí phấn đấu bền bỉ, nhưng thiếu tự tin, quá lo xa thành ra bảo thủ cầu an nên không tiến bộ, thường ít dám đương đầu với khó khăn, thảng hoặc khi gặp hiểm nguy không phải là tay quyền biến.
    Thiên Tướng Dậu cũng thế, nếu như các vận đi tốt đẹp còn khả thủ, ngược bằng vận trình xấu thì rất phiền, cuộc đời vướng víu như kẻ mắc vào lưới. Thiên Tướng Mão Dậu thì Thê cung Tham Vũ ở Sửu hay Mùi. Cung này có nhiều phụ tinh tốt thì vợ tháo vát đảm lược, nếu như Thê cũng lại có cả Hỏa Tinh, Linh Tinh hoặc Hóa Quyền thì bà vợ nắm quyền hành tuyệt đối. Thê cung hội hợp luôn cả những dâm tinh hay Đào hoa tinh thì chính cống là Võ Đại Lang vậy (Trong Thủy Hử truyện Võ Đại Lang bị vợ Phan Kim Liên quanh năm suốt tháng đi với trai)
    Người đời sau qua kinh nghiệm đưa ra một cách cục kể là hấp dẫn và đúng về Thiên Tướng đóng Mão cung như sau: “Tướng lâm chấn địa, Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương diện hoa vũ bá vận phùng Phá Đà Kình Kiếp Lã Bố do dâm mãn kiếp” (Nghĩa là Mệnh an tại Mão có Thiên Tướng thủ hội Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương mặt đẹp như ngọc, võ nghệ hơn người gặp vận Phá Đà Kình Kiếp như Lã Bố vì mê Điêu Thuyền mà phá hỏng đời mình)
    Thiên Tướng rất hiểm nguy, nếu gặp Triệt án ngữ Mệnh cung
    Thiên Tướng Tuần Triệt trước miền
    Khi lâm trận địa đầu liền phân thây
    Thiên Tướng ngộ Triệt dễ là số bất đắc kỳ tử, tuy nhiên phải phối hợp thêm các hung sát tinh khác mới rõ rệt. Thiên Tướng hoàn toàn không chịu Hỏa Tinh, Linh Tinh. Bị Hỏa Linh người thủ Mệnh Thiên Tướng dễ đứng đầu với tai nạn gây thương tích
    Luận về Thiên Tướng, sách Đẩu Số Toàn Thư đưa ra hai câu đáng chú ý:
    a. “Thiên Tướng, Tham Liêm Vũ Phá Dương Đà sát tẩu, sảo nghệ an thân” (Thiên Tướng gặp Tham Lang, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân và các sát tinh Kình Đà tấu hội thì giỏi tay nghề, tạo dựng cuộc đời an định)
    b. “Phùng Phủ khán Tướng” (Có Thiên Phủ phải tìm Thiên Tướng, không thấy nói “Phùng Tướng khán Phủ”)
    Câu a đã xong vì quá rõ ràng. Dưới đây chỉ bàn về câu b thôi. Gặp Phủ phải tìm Thiên Tướng ý chỉ rằng nếu Thiên Tướng hay đẹp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tốt xấu của Thiên Phủ. Thiên Phủ thật ra không cần các sao đi theo thế tam hợp bằng sao Thiên Tướng như đã nói ngay từ đầu. Vậy thì ta cũng có thể nó: “Phùng Tướng khán Phủ”
    Phủ bao giờ cũng đi với Tướng, đương nhiên theo cung cách an sao thì hễ đã có Tướng phải có Phủ đứng theo thế triều củng, hoặc tam hợp mà gặp nhau để ảnh hưởng lẫn nhau.
    Nếu Thiên Tướng được hội hợp Thiên Phủ đứng với Hóa thì Thiên Tướng đắc lực hơn. Nhược bằng Thiên Phủ vốn không có Lộc đứng bên mà lại đi cùng các sát tinh thì Thiên Tướng cũng vì thế kém hẳn. Tại sao? Vì Thiên Phủ đứng với Sát tinh có nghĩa là kho rỗng, kho lộ tất nhiên phải gây phiền cho Thiên Tướng.
    Về sao Thiên Tướng sách Tử Vi Đẩu Số còn đưa ra hai cách cục khác là: “Hình Kỵ hiệp Ấn” và “Tài Ấm hiệp Ấn”. Như đã biết, Thiên Tướng hóa khí là Ấn, và sao Thiên Lương là Ấm.Thiên Tướng đứng đầu, cung trước mặt phải là Thiên Lương, cung sau phải là Cự Môn.
    Nếu như Cự Môn đi kèm với Hóa Lộc thì mới là “Tài Ấm hiệp Ấn” chủ về phú qúy. Trường hợp Thiên Tướng đóng ở Mão hay Dậu, Hóa Lộc đứng cùng Thiên Lương ở đằng trước thì không kể như Tài Âm hiệp.
    Nếu Cự Môn đi kèm Hóa Kị thì lại biến ra Hình Kị hiệp Ấn cuộc đời sẽ phiền toái lận đận. Tại sao Thiên Lương biến thàn Hình? Đẩu Số Toàn Thư ghi rằng: “Thiên Lương là hình biến chi tinh”. Cứ thấy Kị đằng sau lập tức Thiên Lương chuyển ra Hình.
    Trường hợp Thiên Tướng đằng trước Kình Dương, đằng sau Đà La cũng kể là Hình Kị hiệp Ấn, vì hóa khí của Kình Dương là Hình, hóa khí của Đà La là Kị.
    Trường hợp Thiên Tướng với Vũ Khúc có Hóa Kị, hoặc đứng với Liêm Trinh có Hóa Kị, đằng trước Kình phía sau Đà thì lại thêm ra một cách cục khác gọi bằng “Kình Đà hiệp Kị” cách cục này còn ác liệt nữa, dễ vướng vào quan tụng, tai nạn, thăng trầm dữ dội. Kình Đà hiệp Kị chỉ thủ phận không nên đua chen mới yên.
    Bàn sang câu: “Thiên Tướng chi tinh Nữ mệnh triền, tất đương tử qui cập phu hiền” (Thiên tướng vào số nữ chồng hiền, con thành đạt. Cách này cần hội tụ Khoa Quyền Lộc thì mới được phu hiền, tử quí. Bởi vậy Liêm Tướng thủ mệnh ở Tí mà người nữ tuổi Kỷ, hoặc Liêm Tướng tại Ngọ mà tuổi Giáp mới thật là hợp cách.
    Câu phú:”Nữ mệnh Thiên Tướng Hữu Bật phúc lai lâm” ý chỉ sao phò tá Hữu Bật rất tốt với số Nữ Thiên Tướng thủ Mệnh nhưng hai sao ấy phải ở cùng một cungnếu chiếu theo tam hợp thì giảm đi. Tuy nhiên có một điểm xấu cho cách này là chồng thường có thiếp hầu, do đó ở vào hiện đại cách Thiên Tướng Hữu Bật không còn thể gọi là phúc lai lâm nữa. Ngày xưa ông chồng có thiếp hầu là chuyện thường, bây giờ là chuyện rắc rối.
    Nữ mệnh Thiên Tướng không nên có Văn Xương Văn Khúc, vì gặp Xương Khúc người đàn bà thông tuệ mà thân phận mỏng, không thọ, dễ làm thiếp. “Thiên Tướng Xương Khúc nữ đa thị thiếp” “Nữ mệnh Thiên Tướng thủ mệnh, ngộ Xương Khúc xung phá, thiên phòng thị thiếp chi lưu”.
    Xin xem thảo thêm những câu phú về sao Thiên Tướng:
    - Thiên Tướng tối hỉ cư Thê vị
    (Nam mạng có Thiên Tướng đồng Thê cung tất gặp người vợ đảm lược quán xuyến)

    - Tướng ngộ Cái Đào Khúc Mộc thuần tước dâm phong, hạn ngộ Cơ Riêu vô phu tự giải cố miên
    (số nữ Thiên Tướng gặp Hoa Cái Đào Hoa Mộc Dục Văn Khúc thì nhan sắc xinh đẹp nhưng dâm đãng, vận gặp Thiên Cơ Thiên Riêu đêm nằm thao thức tơ tưởng chuyện gái trai như con chim chìa vôi đến ngày động đực)

    - Tướng Liêm tại Ngọ, Khoa Hình Quyền củng, Hàn Tín đạt cao võ thượng chi công
    (Mệnh lập Ngọ Liêm Tướng thủ hội Khoa Hình Quyền như Hàn Tín xưa đăng đàn bái tướng lập võ công oanh liệt).

    - Tí Ngọ Tướng Liêm phùng Phụ Bật thái y đắc thế
    (Mệnh đóng Tí hay Ngọ Liêm Tướng thủ được Tả Hữu thì làm thầy thuốc giỏi).

    - Thiên Tướng Tử Vi Thân phùng Phá, kiêm ngộ Vượng Tuần đa mưu yếm trá
    (Thiên Tướng Tử Vi thủ Mệnh Thân, Phá Quân mà gặp Tuần Không, Đế Vượng là con người lắm mưu lắm thủ đoạn và gian hùng)

    - Thiên Tướng Tử Vi Tuất Thìn khởi năng đạt công danh chi chí
    (Thìn Tuất an Mệnh Tử Vi Thiên Tướng thủ không gặp thêm cát tinh thì khó nên danh phận với đời).

    - Ấn mang liệt vị phong hầu,
    Sao lành Tướng Cáo hội vào Mệnh cung
    (Cung Mệnh có Thiên Tướng Phong Cáo thì công danh địa vị cao)

    - Thiên Tướng Không Kiếp cư quan
    Công danh chẳng được tân toan nhiều bề
    (Thiên Tướng gặp Không Kiếp ở Quan Lộc, công danh chịu lắm khó khăn cay đắng thăng trầm gian nan)

    - Thiên Tướng ngộ Lộc xung trung tọa
    Cửa mận đào có gã tình nhân
    (Mệnh Thiên Tướng gặp Hóa Lộc chiếu hay Hóa Lộc đứng cùng thì dễ quyến rũ đàn bà con gái, cũng thường là số đa thê)

    - Tướng miếu hoặc hãm gặp ngay
    Tuần Triệt án ngữ thân nay khó toàn
    Hoặc bị súng đạn đao gươm
    Hoặc lâm tai nạn thương đó mà

    - Cung quan Tướng đóng xem qua
    Hễ bị Tuần Triệt khó mà rạng danh

    - Tướng Hồng số gái yên vui
    Chồng sang kết nguyện phúc thôi dồi dào
    Nếu gặp Khúc Cái Mộc Đào
    Vẫn là phúc trọng tính âu đa tình
     
  14. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO THIÊN LƯƠNG

    Thiên Lương sao trong hệ Nam đẩu, chủ về thọ lộc, hóa khí là Ấm, thuộc dương thổ (xin nhắc sao Tham Lang trong hệ Bắc đẩu chủ về tai ách tử vong). Mệnh cung hay tật ách cung mà thấy sao Thiên Lương thì gặp hung chuyển ra cát tiểu tai giải ách. Trong khi sao Tham Lang vào Mệnh hay Tật ách bị thêm các sát tinh kị hình hao tinh khi gặp lưu Kị lưu Hình rất nguy hiểm về tai nạn có thể đưa đến chết chóc.
    Thiên Lương sao của tiêu tai giải ách, thì đương nhiên phải gặp tai ách thì mới cần triệt tiêu. Bởi thế người có Thiên Lương thủ Mệnh thường gặp lắm tai họa mà thoát khỏi hiểm nguy (của bệnh tật, của tù tội, của hoạn nạn). Cổ nhân bảo nguy mà không nguy là vậy.
    Thiên Lương tính tình ôn hòa, khéo sắp xếp khu xử, ít dám phiêu lưu xông xáo, xung phong. Người Thiên Lương thủ Mệnh trong một xã hội đầy biến động không bao giờ làm cách mạng. Thiên Lương trên phương diện phục vụ không hăng hái như Thiên Tướng, trên quyền vị không có khí thế mạnh bằng Thái Dương. Thiên Lương có khuynh hướng đón đợi thời cơ, ăn cỗ sẵn.
    Thiên Lương ở hãm địa Hợi Tỵ thì cuộc đời phiêu bồng không lý tưởng cũng không có mục đích để theo đuổi. Thiên Lương đứng một mình ở các cung Tí Ngọ Tỵ Hợi và Sửu Mùi. Thiên Lương đứng cùng Thiên Đồng ở Dần Thân, đứng cùng Thiên Cơ ở Thìn Tuất, đứng cùng Thái Dương ở Mão Dậu.
    Thiên Lương Tỵ Hợi thủ Mệnh không cần gặp Hình Kị Sát tinh cũng vẫn là một cuộc đời lắm tai lắm nạn, đến mức độ chín chết một sống, cuối cùng ra thoát như tên tử tội sắp tới ngày ra pháp trường mà được ân xá. Thiên Lương Tỵ Hợi lắm gian truân mà không thành tựu. Nghèo thì thọ, hễ gặp cơ may mà giàu sang khó tránh khỏi yểu mệnh. Như cổ nhân bảo:”Phi bần tất yểu”. Vận hạn đến Tỵ Hợi Thiên Lương bảy nổi ba chìm.
    Thiên Lương ở Mùi Sửu nếu gặp cát tinh thì bình ổn, có chức nghiệp vững vàng và phục vụ đắc lực hợp với tuổi Ất Nhâm, thêm Văn Xương càng hay. Khoa Tử Vi Việt không thấy nói tới sao Âm Sát nhưng ở Đại Hàn Nhật Bản và Trung quốc thì có cách Thiên Lương Âm Sát. Thủ Mệnh mà Thiên Lương gặp Âm Sát biến ra con người có âm nhãn dễ nhìn thấy ma quỉ hoặc có muội lực kỳ bí, tuy nhiên cũng vì vậy mà thần kinh dần dần suy nhược. Âm Sát là sao tính theo tháng cách an như sau: Tháng giêng tại Dần, tháng hai ở Tí, tháng ba ở Tuất, tháng tư ở Thân, tháng năm ở Ngọ, tháng sáu ở Thìn, tháng bảy ở Dần, tháng tám ở Tí, tháng chín ở Tuất, tháng mười ở Thân, tháng mười một ở Ngọ, tháng mười hai ở Thìn. Tháng đây là tháng sinh của người mang số.
    Muội lực kì bí càng mạnh nếu có cả Linh Tinh đi kèm. Nhưng nếu lại đi cùng hao tinh, không tinh thì ngả sang thần bí tôn giáo. Những nhà sư thuộc mật tông phái giỏi về khoa huyền bí phần lớn có Âm Sát đi với Thiên Lương hay Thiên Cơ.
    Thiên Lương đơn thủ Tí Ngọ thì ở Tí tốt hơn Ngọ. Bởi lẽ Thiên Lương Tí sao Thái Dương đắc địa tại Ngọ gây ảnh hưởng tốt thêm cho Thiên Lương, còn Thiên Lương Ngọ Thái Dương Tí không đắc địa. Nhưng trường hợp Thiên Lương đóng Ngọ mà đứng bên sao Văn Khúc thì lại chuyển thành tốt hẳn, có Văn Khúc Thiên Lương không cần sự trợ lực của Thái Dương nữa.
    Sách Đẩu Số Tử Vi Toàn Thư viết:”Thiên Lương Văn Khúc cư miếu vượng vị chí đài cương” (Thiên Lương Văn Khúc đứng cùng ở đất miếu vượng là người có chức vị). Câu phú trên chỉ vào Thiên Lương tại Ngọ với Văn Khúc vậy.
    Sang đến cách Thiên Cơ Thiên Lương (đã bàn qua ở mục luận về Thiên Cơ). Ngoài câu phú:”Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh” trong “Chư tinh vấn đáp” Trần Đoàn tiên sinh còn viết:”Thiên Lương gặp Thiên Cơ và hao điệu tăng đạo nhàn”. Hao điệu là Phá Quân? Đương nhiên Cơ Lương không thể gặp Phá Quân Hao điệu là Đại và Tiểu Hao? Hai sao này không có luận cứ nào chứng minh có thể biến Cơ Lương thành tăng đạo.
    Vậy thì hao điệu chỉ khả dĩ là một lời nói của cổ nhân bảo rằng Mệnh Cơ Lương là con người tài hoa học rộng biết nhiều mà thiếu quyết tâm hành động cho nên chỉ đánh trận trên giấy được thôi làm hao phí khả năng vì chỉ muốn thanh nhàn ẩn dật.
    Bây giờ bàn sang cách Thiên Lương đồng cung với Thái Dương ở Mão và Dậu. Nếu ở Mão thì phải được Hóa Lộc và Văn Xương tức cách Dương Lương Xương Lộc đã nói ở sao Thái Dương. Thiếu Xương Lộc tốt đẹp mất đi một nửa. Ở đây chỉ bàn về cách Thiên Lương bên Thái Dương tại Dậu thôi.
    Sách Đẩu Số Toàn Thư viết câu phú:”Lương tú Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách” (nghĩa là Thiên Lương gặp Thái Âm là người sống nổi trôi). Là nói Thiên Lương tại Dậu đứng cùng Thái Dương hội chiếu với Thái Âm tại Tỵ. Số trai lận đận trên danh phận, dù khá thông minh làm việc đắc lực. Số gái lang bang trên tình cảm dễ lỡ duyên. Giả tỉ có Văn Xương Hóa Lộc cũng không thể gọi là Dương Lương Xương Lộc. Tuy hay tốt hơn vẫn kể là hạ cách, trừ trường hợp có sao Hỏa Tinh đứng bên. Hỏa Tinh vào Thái Dương hãm loạn thế đắc chí.
    Câu phú:”Lương tú Âm Linh nghĩ tác đống lương chi khách” (Thiên Lương gặp Thái Âm thêm Linh Tinh là người có thể ở địa vị giường cột chỉ vào tình trạng Thiên Lương đóng Tí)
    Thiên Lương luôn luôn bị một điểm phiền là Cự Môn đóng vào cung Phu Thê, tại Ngọ Cự Môn Thìn, tại Tí Cự Môn Tuất, tại Mão Dậu Cự Đồng Sửu Mùi khiến cuộc sống lứa đôi khó thoải mái, không đồng sàng dị mộng thì cũng chia tay thì cũng hai vợ, hai chồng. Nam hay nữ đều như vậy, nhưng số nữ Cự Đồng vào Phu nặng hơn.
    Cự Đồng cùng đóng Phu cung.
    Một sầu góa bụa hai sầu lỡ duyên
    Thiên Lương vốn là sao của tuổi thọ,nếu mệnh cung lại có cả sao Thiên Thọ tính chất thọ khảo của Thiên Lương càng tăng thêm. Nếu Thiên Lương đứng trong cung Phu Thê cùng với Thiên Thọ thì gái thường lấy chồng già (từ hơn mười tuổi), trai lấy vợ già (từ ba bốn tuổi)
    Nếu Thiên Lương đứng với Thiên Thọ ở tử tức, phải luống tuổi mới sinh con. Nếu Thiên Lương cùng Thiên Thọ ở cung Phụ Mẫu, cha mẹ sống thọ. Trên đây chỉ là một cách cục thôi, không nhất thiết cứ phải Thiên Lương Thiên Thọ mới vợ già chồng trẻ, hay chồng già vợ trẻ.
    Thiên Lương là thọ tinh, đóng Mệnh cung được tuổi thọ, trừ trường hợp Thiên Lương Tỵ Hợi mà giàu sang, nhưng thọ không phải là sức vóc khỏe mạnh. Thiên Lương thủ Mệnh gặp nhiều Sát Kị tinh thì sức khỏe suy yếu, nhờ thuốc thang kéo dài sự sống. Tỉ dụ bị bệnh thổ huyết mà hút thuốc phiện, bị mất ngủ kinh niên mà dùng thuốc ngủ, thuốc an thần.
    Thiên Lương qua nhận xét của các nhà số học Trung Quốc mang phong độ danh sĩ khi nó gặp những sao Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Khúc, Văn Xương, Thiên Khôi, Thiên Việt. Họ căn cứ vào những câu phú ghi trong Đẩu Số Toàn Thư:
    - Lương Đồng đối cư Tỵ Hợi, nam lãng đãng, nữ đa dâm
    - Lương Dậu Nguyệt Tỵ, khước tác phiêu bồng chi khách
    - Thiên Lương Thiên Mã hãm, vi nhân phiêu đãng phong lưu
    Thiên Lương đóng tại Tỵ thủ Mệnh mà kèm bên là Hoả Tinh, Đà La thì vừa cô khắc vừa lắm tai nạn. Thiên Lương đi cùng văn tinh là người du thuyết giỏi. Thiên Lương đi với Đào Hoa vào kịch nghệ, trình diễn là hợp cách, nhưng cũng là người dễ vướng mắc lưới tình. Thiên Lương hội tụ cả Đào Hoa Xương Khúc Thiên Riêu có tài, nhưng chỉ ăn chơi hưởng thụ.
    Cách Thiên Lương đồng cung với Thiên Đồng tại Dần Thân thế nào? Sách viết: “Lương Đồng Cơ Nguyệt Dần Thân vị, nhất sinh lợi nghiệp thông minh” nghĩa là: Mệnh có Thiên Lương Thiên Đồng hội chiếu Thiên Cơ Thái Âm từ các cung Tài Bạch Quan Lộc là con người phúc hậu thông minh chức nghiệp tốt phục vụ đắc lực. Đồng Lương tại Dần tốt hơn tại Thân vì Dần Thái Âm cung Tuất đẹp hơn Thân Thái Âm cung Thìn, khả năng thông tuệ như nhau nhưng chót lọt suông sẻ khác nhau.
    Dần Thân là hai cung của Thiên Mã, hễ đã gặp Mã thì đừng có Đào Hoa. Vì Thiên Mã càng tài giỏi, thêm Đào Hoa thường từ bỏ hạnh phúc an định sẵn có mà đi vào rắc rối nhiễu sự nhất là về phương diện tình ái.
    Sau hết là nói về quan hệ của Thiên Lương với những sao Lộc, nhất là Hóa Lộc. Thiên Lương hóa khí là Ấm, cái khả năng quản thủ, điều khiển và phấn đấu cho tiền bạc rất kém bởi vậy không thể đứng sát cạnh Lộc. Như cách Dương Lương Xương Lộc thì Lộc phải đứng với Thái Âm chiếu qua mới toàn bích. Lộc đồng cung sẽ thành một khuyết điểm cho cách này. Lộc đứng kèm bên Thiên Lương sẽ đưa đến tình cảnh vì tiền mà mang tai mang họa. Thiên Lương qua chức vị nghề nghiệp mà hưởng phú quí, nói khác đi là người khác ban thưởng bổng lộc cho hơn là tự phấn đấu để giành giật lấy. Người Thiên Lương hoàn toàn không đủ thủ đoạn mưu chước đương đầu sự chống phá chung quanh.
    Những câu phú cần biết của sao Thiên Lương:
    - Thiên Lương nan bảo tư tài, dị dữ nhân
    (Thiên Lương không giỏi điều khiển quản thủ tiền bạc dễ vì nịnh nọt yêu thích mà đem tiền cho đi)

    - Lương tại Tỵ tắc dật du
    (Thiên Lương thủ Mệnh Tỵ cung ưa chơi bời rông dài)

    - Thiên Lương ngộ Mã nữ Mệnh tiện nhi dâm
    (Mệnh Tỵ Hợi, Thiên Lương đứng cùng Thiên Mã số đàn bà dâm tiện)



    - Thiên Lương gia cát tọa thiên di hoạch phát kinh thương
    (Thiên Lương ít thành công về kinh thương, nhưng nếu từ cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di mà thấy Thiên Lương cùng với nhiều sao tốt khác vào buôn bán kinh doanh lại hoạnh phát)

    - Lương Nhật Mão cung tướng mạo phương viên
    (Thái Dương thủ Mệnh tại Mão thì mặt mày vuông vắn sáng sủa)

    - Ấn tinh phùng Khôi tinh ư Hợi địa, ưng chi sơn nhạc giáng thần
    (Thiên Lương đứng với sao Thiên Khôi tại Hợi thủ Mệnh thì vóc dáng khôi vĩ như sơn thần)

    - Lương phùng Hao Sát tại Tỵ cung đao nghiệp hình thương
    (Thiên Lương gặp Hao Sát ở Tỵ bị tai nạn hình thương vì gươm đao)

    - Thiên Lương ngộ Hỏa chiếu qua
    Hại người hại của thật là tang ương

    - Cung Tỵ Hợi Lương cùng Thiên Mã
    Chí đổi thay ấy gã phiêu linh
    Còn như nữ mệnh cho rành
    Cách này thấy rõ dâm tình hạ lưu

    - Đồng Lương hội Dần Thân một khối
    Trọn đời người tránh khỏi tai ương

    - Thiên Lương hãm địa kiến Dương Đà, thương phong bại tục chi lưu
    (Thiên Lương ở đất hãm gặp Kình Dương Đà La hay làm chuyện ẩu, thương phong bại tục)

    - Thiên Lương hãm địa ngộ Hỏa Dương phá cục, hạ tiên cô quả yểu triết
    (Thiên Lương vào đất hãm gặp Hỏa Tinh, Kình Dương sống cô đơn, không thọ và tính nết thấp hèn)

    - Thiên Lương gặp Mã chẳng bàn
    Có chồng còn bỏ then làng bướm hoa
     
  15. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO THẤT SÁT

    Thất Sát trong hệ Nam đẩu, thuộc âm hỏa âm kim còn gọi là hỏa hoa chi kim, như sắt nung đỏ bắn ra những hoa lửa, chủ về sinh sát, tính chất của một thượng tướng. Hỏa hoa bắn tung ra ngoài, nhưng âm kim lại nội liễm cho nên tâm tính vừa âm trầm vừa dễ giận dữ.
    Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung sát tinh. Bất luận số đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểmhoặc có một thời gian bị lắm chướng ngại. Sách viết:”Nhị cung phùng chi định lịch gian tân” (Mệnh Thân có Thất Sát phải nếm trải gian nan tân khổ)
    Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ bôn ba chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay.
    Thất Sát có những thế đứng sau đây: đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ Khúc ở Mão Dậu.
    Sách viết:”Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh”. Hãm cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão Dậu gọi bằng cách “Sát hãm Chấn Đoài” (Chấn là Mão, Đoài là Dậu)
    Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với các hung sát tinh rồi lại gặp vận có lưu hung sát tinh thì tai họa không nhỏ, phần lớn do sự lầm lỡ của chính mình mà ra. Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm cũng thế thôi, đôi khi còn sinh nguy hiểm. Nếu như có được Hỏa Tinh Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất.
    Thất Sát hợp nhất với Tử Vi (đã nói ít nhiều trên phần luận về Tử Vi). Sách viết:”Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền”.
    Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ. Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi bằng cách “Thất Sát ngưỡng đẩu” hay “Thất Sát triều đẩu”.
    Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên hội tụ với Văn Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát luôn, đứng luẩn quẩn văn vẻ làm gì nửa văn nửa vũ thành nửa mùa tất hành động mâu thuẫn và thành công kém ác liệt.
    Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy Hóa Quyền nữa sẽ vì thế mà quyền lực quá nặng thành ra con người cô khắc, quan hệt giao tế sinh lắm kẻ thù, càng không nên thấy Hỏa Tinh quyền lực khốc liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận lưu ly, lục thân ghẻ lạnh, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp thật đấy nhưng đầy gian nan và lúc về già cô quạnh.
    Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiênma bách triết mới thành công.
    Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn cung: Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là “Ngưỡng đẩu” với “triều đẩu”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “Hùng tú càn nguyên cách”
    Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng chú ý rằng:”Thất Sát Ngọ mới đúng “hùng tú càn gnuyên” Thất Sát ở thủy cung Tí là phá cách” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói thêm:”Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “hùng tú càn nguyên”. Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.
    Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát. Hai ông còn cho rằng Thất Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rât cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh thì cuộc đời ít gian nan.
    Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ.
    Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh cương cường, là con người của hành động chủ động làm việc tích cực bởi vậy Thất Sát mới được coi làm tướng tinh.
    So với Thiên Cơ Thiên Lương thì Cơ Lương mang khuynh hướng tư tưởng lý thuyết trong khi Thất Sát xông pha chấp hành. Thất Sát chỉ huy lãnh đạo, Cơ Lương điều hành. Thất Sát điều khiển, Cơ Lương vẽ kế hoạch. Bởi vậy cuộc đời Thất Sát thường có những nút chuyển biến dữ dội triệt để, lên thật cao và xuống thật thấp tùy theo vận hay hay dở.
    Người xưa e ngại Thất Sát vào nữ Mệnh có những câu ca sau đây:
    Nữ Mệnh sầu phùng Thất Sát tinh
    Bình sinh tác sự quả thông minh
    Chí cao khí đại vô nam nữ
    Bất miễn hình phu lịch khổ tân
    (Thật đáng buồn khi số gái có sao Thất Sát, làm việc thông minh tháo vát, tham vọng nhiều và xông xáo như con trai, khó tránh đựơc chuyện khắc chồng và phải bôn ba vất vả)
    Thất Sát cô tinh Tham tú phùng
    Hỏa Đà tấu hợp phi vi quí
    Nữ mệnh đắc thử tính bất lương
    Chi hảo cô phòng vi tì thiếp
    (Thất Sát Cô Thần gặp Tham Lang gặp thêm Đà Hỏa ắt là không quí. Số nữ tính bạc bẽo liều lĩnh đưa đến khắc hại chồng làm thiếp hầu)
    Thất Sát Dần Thân nữ mệnh phùng
    Ác sát gia chi dâm sảo dung
    Cánh phùng cát hóa chung bất mỹ
    Tì thiếp thị phụng chủ nhân ông
    (Thất Sát tại Dần Thân mà số nữ có kèm sao hung nữa là người nhan sắc, tính tình khéo nhưng sảo, dù gặp cát tinh cũng vừa chưa hẳn là đẹp ắt phải có bận khắc phu)
    Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà sắc sảo, tháo vát, xông xáo, tự lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào những câu phú cổ hũ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát bây giờ đều là những người đàn bà thành công làm việc giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn vậy thôi.
    Có một điều khá chính xác là: Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới có câu phú:”Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi” (Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao vất vả dễ rơi vào tình trạng lẽ mọn)
    Bàn về câu:”Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi” (Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường). Thất Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát Mùi cung đã được coi làm cách tốt “hùng tú càn nguyên” thì tại sao còn có câu này?
    Các nhà số học Trung Quốc lập luận:”Liêm Sát đồng vị chỉ gặp hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có những sát tinh như Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng mai thi, mà lộ thượng mai thi không hoàn toàn là cứ phải vùi thây bên đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát, hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào?
    Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất nhiên không “lộ thượng mai thi”. Một điều chắc chắn hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì cũng không (?) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải có cuộc sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút khác thường.
    Nếu đem hai câu viết ở mục Trú giải Thái vi phú: “Thất Sát Liêm Trinh lưu đãng thiên nhai (Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc biển) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi” thì cái lý nó gần gần nhau, đã chân trời góc biển làm sao còn chết ở quê nhà?
    Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, (tất nhiên thủ Mệnh là Thiên Phủ Mùi hay Sửu) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung sát tinh cũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên.
    Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa Võng. Thất Sát sao của hành động không dễ thích ứng không dễ thuận tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo, biết theo thời thế, biết đứng vào hang lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát dữ dội của Thất Sát.
    Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ kiến và độc lập tính nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò trợ. Còn như quá nhiều hung sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ cho nên hung tinh đáng ngại nhất cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả năng thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất nhiên sẽ cực hơn.
    Về sao Thất Sát lâm Thân có hai câu phú hầu như mâu thuẫn:
    Thất Sát lâm Thân chung thị yểu
    Thất Sát cư Thân hưởng đắc an toàn chi phúc
    Yếu hay Phúc chỉ là vấn đề hãm hay đắc địa thôi. Ngoài ra còn phải xem thêm các hung sát kị tinh nữa mới chỉ định cho rõ được.
    Thất Sát có nhiều câu phú cần nghiên cứu:
    - Thất Sát cư Quan đắc vị uy áp vạn nhân
    (Thất Sát đóng Quan Lộc đắc địa, uy quyền. Uy quyền gồm vị thế và oai nghiêm. Thất Sát cư Quan chỉ huy mật vụ đắc lực)

    - Thất Sát phùng Thái Tuế trí dũng hữu dư
    (Thất Sát đi bên Thái Tuế vừa dám làm vừa giỏi liệu công việc)

    - Sát Phá hỉ trợ Kình Dương
    (Thất Sát Phá Quân có Kình Dương trợ thành công mau phát mạnh nhưng nhiều nguy hiểm ví như người cưỡi cọp)

    - Thất Sát thủ tha tài vi kỷ vật
    (Thất Sát tinh tấn lướt được đằng chân lên đằng đầu, lấy của người làm của mình)

    - Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại, chư ban thủ nghệ bất năng tịnh
    (Mệnh Thất Sát hay Phá Quân nên làm nơi xa, có nghề nhưng không giỏi tay nghề lắm. Đây là chỉ vào Thất Sát Phá Quân hãm)

    - Thất Sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong
    (Thất Sát hãm thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì dễ có tật trên người, thường gặp hiểm nguy nơi trận mạc)

    - Thất Sát Hỏa Dương bần thả tiện đồ tể chi nhân
    (Thất Sát hãm thủ Mệnh gặp Kình Dương Hỏa Tinh chỉ chuyên ăn người và hung bạo, cũng không nên danh phận được)

    - Thất Sát thủ chiếu, tuế hạn Kình Dương, Ngọ sinh nhân Mệnh an Mão Dậu chư hưng vong
    (Thất Sát thủ hay chiếu Mão Dậu, niên vận gặp Kình Dương, người tuổi Ngọ gặp một ngã rẽ thay đổi cuộc đời mình)

    - Sát Kinh tại Ngọ, mã đầu đới tiễn, tương giao sát điệu, Bính Mậu nhân mệnh vị nan toàn
    (Mệnh Thất Sát Kình Dương ở Ngọ, gặp vận nhiều sát tinh, người tuổi Bính Mậu nguy đến tính mạng)

    - Thân phùng Sát Phá Liêm Tham hạn lâm Địa Võng Hình Khôi sát điệu Kỵ Đà xâm nhập, Thục gia trường nội, Dực Đức mệnh vong
    (Cung Thân có Sát Phá Liêm Tham hội tụ đến vận hạn vào cung Địa Võng (Tuất) có Kỵ Đà, Thiên Hình, Thiên Khôi như ông Trương Phi bị ám toán chết ngay trong trướng phủ)

    - Sát cư Ly Khảm nam nhân, thê hiền đa hội, mạc ngộ Kiếp Riêu số phụ ái cô thân. Nữ mệnh trai oán hồng nhan nan tự chủ
    (Thất Sát thủ Mệnh Ngọ số trai gặp vợ hiền, nhưng nếu có Kiếp Riêu thì lại thích sống độc thân. Còn mệnh Nữ thường oan trái rơi lệ vì tình)

    - Sát phùng Hình Hổ hãm tại tử cung thai lệ chi ai
    (Sát gặp Hình Hổ tử cung, đến già chưa thấy tay bồng con thơ)

    - Sát Phá Tham tại Nữ mệnh nhi ngộ Văn Xương ư Tân Đinh tuế sương phụ chi nhân
    (Mệnh Sát Phá Tham gặp sao Văn Xương người nữ tuổi Tân Đinh thì góa chồng hoặc ly phu)

    - Sát Phá Tham tại phối cung đắc Quyền Lộc Khúc Xương mệnh phụ chi nhân
    Quí tuế ưu phùng Cô Quả, quả phụ chi nhân
    (Cung phu có Sát Phá Tham đắc địa hội Quyền Lộc lấy chồng quyền chức cao làm mệnh phụ nhưng tuổi Quí mà thấy thêm Cô Thần, Quả Tú thì lại thành quả phụ góa chồng)

    - Sát Riêu cư hỏa địa nữ nhân ba đào xuất hải, phùng Quyền Lộc tham bác chi nhân
    (Thất Sát Thiên Riêu thủ Mệnh ở Tỵ hay Ngọ đàn bà có cuộc sống lênh đênh, được Quyền Lộc thì sành sỏi thành công gây cơ dựng nghiệp)

    - Sát Hình tọa củng liêm trực vô tư
    (Mệnh Thất Sát hội chiếu Thiên Hình hoặc đồng cung là người liêm khiết chính trực)

    - Mệnh VCD hạn ngộ Trúc La Đào Hồng, Suy Tuyệt, Khổng Minh nan cầu trường thọ
    (Mệnh không chính tinh vận đến Trúc La; Sát Phá Tham hội với Đào Hoa, Hồng Loan và Suy hay Tuyệt như Khổng Minh có lập đàn cúng tế vẫn khó thọ)

    - Sát Phá Liêm Tham tam kỳ gia hội lai triều, Hồng Hình Tả Hữu uy danh nhất thế chi nhân
    Phùng Kị Không Triệt chung thân tác sự nan thành
    (Sát Phá Liêm Tham đắc địa hội tụ vào Mệnh cùng với Khoa Quyền Lộc Hồng Loan Thiên Hình Tả Hữu là người uy danh lừng lẫy. Nhưng hễ bị Tuần Triệt Hóa Kị thì làm việc gì cũng chẳng nên vì làm toàn chuyện bốc giời mà không có phận)

    - Thất Sát đan thủ Mệnh viên vô khả cửu trùng lâm chi hạn
    (Thất Sát Thìn Tuất vận lại gặp Thất Sát thì khó tránh tai ương thất bại)

    - Mấy người thủy ách, hỏa tai
    Sát Liêm ngộ Hỏa, Riêu ngồi Kị Tham
    (Sát Liêm gặp Hỏa Tinh hay bị nạn cháy nhà. Thiên Riêu gặp Hóa Kị Tham Lang dễ vướng tai nạn sông nước)

    - Dần Thân Sát Kị trùng gia
    Thương chiêu đá mạ thật là gian truân
    (Cung Dần Thân Thất Sát đứng cùng Hóa Kị, thường bị đẩy đưa vào những chuyện gây gổ, đánh chửi nhau phiền toái)

    - Sinh con điếc lác ngẩn ngơ
    Bởi cung tử tức Sát Đà Kiếp Không

    - Sát phùng Phù Hổ hay đâu
    Dã Tràng thưa ấy âu sầu ngục trung

    - Sát tinh chiếu ở cung Đoài
    Vì người tham của Phật đài họa toa
    (Câu này không rõ nghĩa lắm)

    - Ngôi cao chức trọng công hầu
    Mệnh Thân Sát Phá ở đầu Ngọ cung

    - Liêm tại Mùi đứng cùng Thất Sát
    Tính cang kiên tài cán đảm đương
    Được thêm Kỷ Ất sinh nhân
    Anh hùng trí dũng mười phần khá khen

    - Sát Kình ở tại Ngọ cung
    Tai ương chìm nổi luôn trong cuộc đời
    Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế
    Bậc anh hùng địa vị thênh thênh

    - Kìa nữ mệnh Đinh Tân hai tuổi
    Sát Phá Tham lại hội Văn Xương
    Ấy là góa bụa đáng thương
    Nếu không cũng chịu dở dang duyên tình

    - Thất Sát phùng Dương Đà ư Tật ách tàn tật chi nhân
    (Thất Sát gặp Dương Đà ở cung Tật Ách tất có tật thương)


    - Thất Sát lưu niên Bạch Hổ hình lục tai truân
    (Thất Sát hãm thủ mệnh lưu niên gặp sao Bạch Hổ tất bị kiện tụng cò bót)

    - Thất Sát lâm Thân Mệnh, lưu niên Hình Kị tai thương
    (Thất Sát vào Thân Mệnh, lưu niên có Hình Kị gặp tai nạn thương tích)

    - Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà Nhan Hồi yểu triết
    (Sát đứng với sao Tuyệt gặp Kình Đà không thọ)

    - Thất Sát Phá Quân chuyên ý Dương Linh chi ngược
    (Thất Sát Phá Quân hãm địa thủ mệnh gặp Kình Dương, Linh Tinh cuộc đời khó khăn chướng ngại, dễ thành dễ bại)

    - Cung Tỵ ấy Sát là đẹp quá
    Nếu mà Tuyệt Hỏa cùng ngồi
    Ấy phường tàn nhẫn hôi tanh sá gì

    - Thìn Tuất Thất Sát xem qua
    Kình Hình hội ngộ ắt là đảo điên
     
  16. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO PHÁ QUÂN

    Tiền nhân khi luận về sao Phá Quân thường chê bai. Như trong Đẩu Số Toàn Thư Viết:”Phá Quân thủ Mệnh là con người bạo hung gian trá, tính gian hoạt, không hợp với ai, làm việc gì chỉ chực ăn người, không ưa điều thiện, thích hùa vào việc ác, coi lục thân như người dưng, cốt nhục vô tình vô nghĩa”.
    Nói tóm lại, Phá Quân không có điểm nào gọi là tốt, phải. Luận như vậy thiên lệch không chính xác. Ngoài ra cũng ở sách trên có hai điểm lầm khi viết:”Gặp Thiên Phủ trở thành gian ngụy, hội Thiên Cơ thì sinh trộm cắp”. Làm thế nào mà an sao Phá Quân gặp Thiên Phủ với Thiên Cơ được?
    Lại viết ”Chỉ có Thiên Lương mới giải được cái xấu, Lương Lộc mới làm vơi đi chất ngông cuồng”. Phá Quân cũng không thể đứng cùng Thiên Lương hay hội hiệp với Thiên Lương. Chỉ có thể rút tỉa được một điểm đúng ấy là: Phá Quân cần Lộc, Lộc Tồn hay Hóa Lộc căn cứ trên câu: “Lục Giáp lục Quí sinh nhân hợp cách, chủ phú quí”
    Lục Giáp Phá Quân Hóa Quyền, lục Quí Phá Quân Hóa Lộc. Theo kinh nghiệm thì Lộc thuận lợi hơn Quyền. Quyền làm cho bôn ba hơn, Lộc thì yên ổn.
    Phá Quân hội Lộc đi cùng Tham Lang (trường hợp tuổi Kỷ) hoặc gặp Hóa Lộc đứng cùng (tuổi Quí) thì không nên có Thiên Mã. Lộc với Mã vốn là một cách hay gọi là Lộc Mã giao trì, riêng với Phá với Tham thì lại không hay.
    Sách Đẩu Số Toàn Thư đưa ra câu phú: “Phá Quân Tham Lang phùng Lộc Mã, nam lãng đãng nữ đa dâm”. Tại sao vậy? Vì bản chất Phá Quân đã ưa thay đổi, thích xáo trộn nếu còn thêm Lộc Mã thì càng nặng ý phiêu lưu, chỉ biết phát triển chỉ biết bốc trời mà không biết củng cố. Nói tóm lại chẳng khác gì chiếc xe không có thắng thì khó mà nên công trạng sự nghiệp hẳn hòi, rơi vào tình cảnh vung tay quá trán.
    Nữ Mệnh Phá Tham Lộc Mã ham của lạ, bỏ cái tốt sẵn có đi tìm cái mình tưởng tượng là tốt hơn. Đang gia đình yên ấm lại mơ tưởng một cuộc phiêu lưu không rõ sẽ đưa mình tới đâu. Người đàn bà này làm nhân vật tiểu thuyết thì vui mà làm vợ trong cuộc sống thực tế tất sinh phiền nhiễu dở dang duyên tình.
    Phá Quân làm bừa ít suy nghĩ chín chắn, bỏ cái tốt đi vào cái xấu, manh động nếu gặp luôn cả Thiên Mã đi cùng Lộc Tồn hay Hóa Lộc.
    Phá Quân có những thế đứng sau đây: đứng với Liêm Trinh tại Mão Dậu, với Tử Vi ở Sửu Mùi, đứng một mình ở Thìn Tuất Tí Ngọ Dần Thân, đứng với Vũ Khúc ở Tỵ Hợi. Phá Quân hãm đáng ngại nhất là đóng ở Mão Dậu, rồi mới đến Dần Thân.
    Liêm Phá tại Dậu Mệnh hay Thiên Di mà gặp Thiên Hình Hóa Kị thế nào cũng bị những thất bại, hoạn nạn đến bất ngờ. Liêm Phá Hóa Kị mà không bị Thiên Hình Hỏa Tinh có lúc bạo phát, nhưng rồi chuyển sang bạo hại. Hễ đã phát rồi thì nên đổi nghề chuyển những tiền bạc đã kiếm qua một công chuyện khác hẳn nghề nghiệp cũ thì còn bảo vệ được, nhược bằng tiếp tục tất có ngày mất hết. Liêm Phá tại Mão cũng vậy nhưng không mạnh bằng tại Dậu. Phá Quân không hợp với Văn Xương, Văn Khúc.
    Sách viết: “Phá Quân dữ văn tinh thủ mệnh nhất sinh bần sĩ” (Nếu Phá Quân thủ Mệnh cùng với Xương hoặc Khúc thì cả đời làm bần sĩ, có hay có giỏi mà không thành đạt)
    Nhưng Phá Quân đóng Mão cung được Văn Xương Hóa Khoa lại biến thành một cách khác gọi là “phản cách”, đột nhiên có người đề bạt mà bốc lên khiến thiên hạ kinh ngạc, có điều rồi cũng không bền, một thời gian ngắn làm mưa làm gió thôi.
    Bạo phát bạo bại không chỉ với Phá Quân Mão Dậu mà còn với cả Phá Quân Sửu Mùi khi nó đứng bên Tử Vi. Nếu nhiều sao tốt triều củng thì Tử Phá có thể giành được chức quyền lớn, nhất là vào chính trị hay quân giới (đã nói ở mục luận về Tử Vi)
    Nhưng Tử Phá cũng chịu qui luật gần giống như Liêm Phá, nghĩa là biết công thành danh thoái thì danh mới còn, của mới bền. Ngoài ra nếu Tử Phá hội với Xương Khúc Hóa Khoa Khôi Việt cũng bỗng nhiên do người đề bạt mà thăng cao, rồi khi mất chỗ dựa xuống dốc.
    Phá Quân đi với Xương Khúc dù là Tử Phá hay Liêm Phá dễ vướng hận tình. Có câu phú: “Phá Quân xung phá văn tinh tam canh bảo vân song chi hận”. (Phá Quân xung phá Xương Khúc, đêm đêm ôm hận tình, đa tình và đam mê rồi thất bại trên tình trường mà thành hận. Bị vợ bỏ, người yêu cho rơi hoặc vợ cho mọc sừng).
    Ba hung tinh Thất Sát, Tham Lang, Phá Quân có chung một tính chất là biến hoá thì Phá Quân là biến hóa hơn hết, biến hóa trên gặp gỡ tế ngộ, biến hóa trên hoàn cảnh (hôn nhân, giáo dục, công tác, sự nghiệp, tài sản). Biến hóa không chỉ do hoàn cảnh mà ngay cả trong tâm ý, tư tưởng và quan niệm.

    Người thủ Mệnh Phá Quân có thể do lúc nhỏ không chịu học mà càng lớn tuổi cái chí càng mãnh liệt, có thể lúc nhỏ u tối mà lớn lên thông tuệ lạ thường.
    Trên tình trường lúc say mê muốn chết vì tình, lúc lạnh lùng dửng dưng như băng tuyết. Bỏ nhau rồi gương vỡ lại lành, thắm thiết với nhau chỉ một sớm một chiều rồi chia tay. Bữa nay bôn ba chìm nổi, ngày mai ngồi tĩnh tọa đốt đít chẳng thò cổ ra. Lúc này tiền của vào như nước, lúc khác trơ trỏng như bèo trong ao cạn.
    Cổ nhân đưa ra câu phú: “Phá Quân nhất diệu tính nan minh” (Phá Quân thật khó hiểu) khó hiểu là do những biến đổi đột ngột.
    Nói riêng về tâm lý Phá Quân, đôi lúc ngoài mặt rất mực cứng rắn mà trong thâm tâm lại mềm yếu, bên ngoài bên trong hai cực đoan đi ngược chiều. Đây cũng là lý do khác để Phá Quân khó hiểu.
    “Phá Quân tính khốc bất nhân, bất an Thân Mệnh” (Người Phá Quân ác liệt bất nhân không nên an ở Thân Mệnh) Những thay đổi tạo ra tình trạng bất nhân chứ không phải sinh ra vốn bất nhân.
    Phá Quân tâm thái, lý trí xung động dữ dội theo ngay và phản liền như lời Trotski đã nhận định loài người: “Trong khi cách mạng đang ở thời kì dầu sôi lửa bỏng thật cần hắn, nhưng cách mạng đã thành công rồi thì nên đem hắn ra mà bắn đi”
    Phá Quân thích chuyện xung phong hãm trận, nhưng lại mau chán cái điều mình định chết vì nó. Phá Quân cư Thìn Tuất cung đối chiếu là Tử Vi Thiên Tướng cổ nhân luận rằng: “Tướng tại ngoại, quân mệnh hữu sở bất thụ” (Tướng ngoài trận có thể làm trái lệnh vua. Ví như ông tướng được vua sai đi, nhưng vì nhu cầu thực tế do nhận định riêng khả dĩ làm ngược lại mệnh lệnh của vua)
    Tại sao Tử Vi Đẩu Số toàn thư lại viết hai câu:
    a) Cần được Tử Vi để có uy quyền (Hỉ Tử Vi hữu uy quyền)
    b) Gặp Tử Vi mất uy quyền (Phùng Tử Vi thất uy quyền)
    Sự khác biệt trên là khác biệt giữa Tử Phá Sửu Mùi và Tử Phá một ở Thìn, một ở Tuất
    Trai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất
    Gái bạc tình Tham Sát Dần Thân
    Không tuân lệnh vua nếu bị quan niệm là tạo phản thì phải chịu mang tiếng bất nhân. Phá Quân Dần Thân khác với Phá Quân ở Thìn Tuất ở chỗ không thể bao giờ thành công, kể như hoàn toàn hãm địa, sách đề là bình địa. Chữ bình ở đây đối với Phá Quân mang ý nghĩa khá quan trọng, như con cọp vào ruộng chờ người đến bắt giết thôi.
    Phá Quân Dần Thân trí tuệ không sáng suốt mà lại ưa làm ẩu làm bừa, thất bại là điều đương nhiên. Phá Quân Dần Thân bị Hỏa Linh công phá càng nhiều, Hỏa với Linh đứng cùng Phá Quân tất gặp Tham Lang hiệp, nhưng không thể gọi như thế là Tham Hỏa Tham Linh được. Trường hợp Phá Quân Linh Hỏa Kình Dương nếu biết an thân thủ phận phục vụ người thì yên.
    Phá Quân đắc địa hay hãm địa mà gặp Hỏa Tinh thì xấu dễ gặp nạn, tai nạn gây thương tích hay hoạn nạn với cái lo bị bắt giữ tù tội. Đã gặp Hỏa rồi mà còn thêm Linh Tinh nữa càng đáng ngại hơn, có thể đưa đến tàn tật hay hình đồ.
    Về câu phú: “Phá Quân Thìn Tuất nhi ngộ Tuần Khoa cải ách vi lương ư Mậu Quí nhân đa hoạch danh tài” (Phá Quân ở Thìn Tuất mà gặp Tuần Không, Hóa Khoa thì tính tình lại thuần hòa, người tuổi Mậu Quí công danh hiển đạt, làm ăn giàu có). Chỉ có tuổi Mậu mới có thể gặp Tuần và Hóa Khoa thôi, tuổi Quí Phá Quân gặp Hóa Lộc và Tuần, không thể thấy Khoa. Tuần với Khoa hai sao chung sức kềm hãm bớt tính rông rỡ của Phá Quân để gạn lọc trí tuệ Phá Quân nên được việc.
    Phá Quân thuộc âm thủy trong hệ Bắc đẩu, hóa khí là hao. Thủy chủ trí tuệ, nếu được đất tất phi thường thông minh, nếu rơi vào thế hãm thì làm càn và ưa nịnh hót, gặp các hung sát tinh khác tính phá hoại tăng cao. Với Tuần Khoa thì Phá Quân trở nên mưu trí thuần hòa tiến thoái có kế hoạch.
    Trong Thái Vi phú viết: “Phá Quân ám diệu đồng hương thủy trong tác tủng” nghĩa là Phá Quân đứng cùng ám diệu sẽ chết vì sông nước và trên phần khác đồng bản in lầm: “Phá Quân ám Cự đồng hương thủy trung tác tủng”
    Phá Quân không bao giờ đứng với Cự Môn, dù đứng theo thế hiệp. Sau này Trung Châu phái (bên Trung Quốc) đưa ra một luận cứ khá hợp lý rằng: ám diệu là Văn Khúc với Hóa Kị vì rải rác trên các sách khác Trần Đoàn tiên sinh có nói đến Văn Khúc Hóa Kị là ám diệu.
    Phía trên còn cắt câu ấy thành hai đoạn cho rõ nghĩa như sau: “Phá Quân ám diệu công hương, thủy trung tác tủng” và cho rằng Phá Quân đứng với Văn Khúc Hóa Kị ở các cung Hợi Tí Sửu (ba cung Thủy - Sửu là thủy khố) và “tác tủng” đây ý chỉ là tối tăm như ngôi cổ mộ chứ không phải chết đuối. Nói tóm lại Phá Quân đứng cùng Văn Khúc Hóa Kị tại Sửu Tí Hợi thì cuộc đời phiêu bạt tối tăm, không bao giờ gặp cơ hội thi thố khí dương mi với đời, có thể là những trang hảo hán anh hùng không gặp thời.
    Cách Vũ Khúc Phá Quân đóng Tỵ Hợi xin xem đoạn luận về sao Văn Khúc.
    Những câu phú cần biết liên quan đến Phá Quân:
    - Phá tại Khảm Ly tam thiếu tam công quyền đắc trọng
    (Phá Quân Tí Ngọ quyền cao chức trọng)

    - Phá Quân Tí Ngọ cung vô sát, quan tư thanh hiển chí tam công
    (cùng một nghĩa như câu trên)

    - Phá toạ Khảm Ly cô thân độc ảnh
    Bật Kình tọa cùng dự thủ danh gia
    (Phá Quân Tí Ngọ gặp Hữu Bật Kình Dương làm nên thành công, nhưng dễ cô độc thường phải lìa bỏ quê hương, người thân)

    - Phá Liêm hãm cư Mão Dậu bằng Nguyệt Đức dĩ từ nhân
    (Phá Quân thủ Mệnh tại Mão Dậu có Nguyệt Đức thì lại thành người tốt bụng)

    - Phá Quân Mão Dậu mặc ngộ Kiếp Kình tu phòng hình ngục
    (Phá Quân ở Mão Dậu nếu gặp Kình Dương Địa Kiếp phải lo họa ngục hình)

    - Phá Kình Mão Dậu nhi phùng Khoa Bật khởi ngụy Hoàng Sào
    (Phá Quân Mão Dậu gặp Hữu Bật Hóa Khoa sẽ như Hoàng Sào làm phản loạn)

    - Phá cư Mộ cương quả chi nhân, phùng thời loạn thế ngộ Hình Lộc chấn động uy danh
    (Phá Quân thủ Mệnh tại Sửu Mùi hay Thìn Tuất lúc đắc thế trong thời loạn mà gặp Thiên Hình Hóa Lộc uy quyền lớn)

    - Phá Liêm ngộ Hỏa tử nghiệp vô nghi
    (Mệnh Phá Liêm Hỏa Tinh hay vận thấy Phá Liêm Hỏa sinh nghề tử nghiệp)

    - Phá Hao Dương Linh Quan Lộc vị, đác sứ khất cầu
    (Phá Quân Song Hao Kình Dương Linh Tinh vào cung Quan Lộc có lúc không có bát mà ăn, thất bại xuống đến đất đen)

    - Phá Quân Hỏa Tinh bôn ba lao bác
    (thủ Mệnh Phá Quân đứng cùng Hỏa Tinh cuộc đời thường bôn ba chìm nổi)

    - Tề tửu kiến Kim phu giai do Phá Quân phùng Thiên Mã
    (Phá Quân thủ Mệnh hội Thiên Mã tính ưa ganh ghét thù hận)

    - Lã Bất Vi thương phú chi nhân, hạn phùng Phá Tướng Tử Tham Quyền Ấn Hồng Hình Phụ Bật quyền nhiếp tân triều chi tiếm đế
    (Lã Bất Vi chỉ là tay buôn bán đến vận hạn gặp Phá Quân Thiên Tướng, Tử Vi Tham Lang thêm Hóa Quyền, Quốc Ấn, Hồng Loan, Thiên Hình, Tả Phù, Hữu Bật bỗng nhiên mà quyền khuynh thiên hạ. Hạn này chỉ có thể đến Hợi hay Tỵ mới gặp đủ các sao kể trên)

    - Phá ngộ Kị Tang cư Nô Bộc đa chiêu oán nộ
    (Phá Quân với Hóa Kị Tang Hổ ở cung Nô Bộc dễ bị người oán giận. Phá Quân hãm ở cung Nô Bộc cũng vậy)

    - Tật cung hạnh phùng Phá Sát, nhi ngộ Song Hao, Mộc Kị sang độc ung thư
    (Cung Tật Ách có Phá Quân Thất Sát thì tốt, nhưng nếu thấy luôn cả Hóa Kị Mộc Song Hao lại bị ung thư mụn độc)

    - Dần Thân Phá Hỏa Việt lâm ư Tân Đinh tuế, cơ sảo tài hành hạn lưu Mã, Tuyệt sát tinh tứ chi nan bảo (Phá Quân đóng Dần Thân gặp Thiên Việt có tay nghề giỏi, nhưng với tuổi Đinh Tân gặp vận lưu Thiên Mã, Tuyệt và các sát tinh thì có tai nạn gẫy tay gẫy chân)


    - Dần cung Phúc tọa, tối hiềm Phá Liêm Dương Việt Linh lục bại dị sinh đức tổn tài suy
    (Cung Phúc Đức thấy Phá Quân Liêm Trinh Kình Dương Thiên Việt Linh Tinh thì gia đình không yên, tiền bạc mất mát)

    - Phá Quân ngộ Hỏa Linh Đà Nhẫn; Lâm Tuất Thìn nết hẳn gian phi
    (Nhẫn là sao Kình Dương)

    - Phá phùng Hình Kị huynh hương
    Anh em bất thuận hững đường tụng tranh

    - Phá sao ấy tán tài
    Cư điền bán hết lưu lai tổ truyền
    (tệ hại nhất là Phá ở hãm địa đóng Điền Trạch)

    - Tứ mộ Phá gặp Lộc Hình
    Uy quyền chắc hẳn rạng danh đó mà
    Thìn Tuất Phá ngộ Tuần Khoa
    Tuổi sanh Quí Mậu thật là hiển vinh

    - Phá Kình Tả Hữu chớ ngờ
    Ở cung Mão Dậu chắc là loạn quân

    - Phá Quân nữ mệnh khá xem
    Đắc địa cát diệu hòa hiến hiển vang
    Hãm cung ác độc lăng loàn
    Chỉ làm kế thiếp khỏi đàng sinh ly
    Phá Quân Riêu Mã hợp vào
    Ấy hạng du đãng ai nào muốn thân
     
  17. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ SAO VĂN XƯƠNG

    Văn Xương chủ về khoa giáp (đỗ đạt) hãm địa là ba cung Dần, Ngọ, Tuất thuộc âm kim, còn có tên là Văn Quí liên hệ đến thanh danh con người Thái Âm. Ở các cung khác thì thông minh, ít nhiều dính líu tới “văn”
    Nếu có đủ cả Văn Xương, Văn Khúc vào Mệnh cung mà sao Thiên Tài thủ Mệnh tất trí tuệ vượt thiên hạ, gặp luôn Tấu Thư, Bác Sĩ rất thuận lợi trên thi cử. Nếu như Mệnh cung chỉ có Văn Xương, không Văn Khúc cũng không có Hóa Khoa thì chỉ thông minh thôi, không nhất định dễ dàng với khoa danh thi cử.
    Xương Khúc hội Long Trì Phượng Các tay nghề khéo, kỹ năng giỏi. Xương Khúc tại Mệnh cung thường dễ được người khác phái mến chuộng do duyên dáng, tinh anh, tán hay. Nếu Xương Khúc đi với Thiên Đồng, Thiên Cơ, Tử Vi càng gần cận nữ phái.
    Văn Xương khởi từ Tuất vì Tuất là hỏa khố, kim được hỏa luyện mà nên thép tốt khiến cho lời nói lập luận sắc bén hay dùng ẩn ý. Văn Xương đóng Sửu Mùi (hai cung mộ khố) thì tài hoa với khả năng tổ chức chu đáo, phản ứng và quyền biến. Nhưng Văn Xương cũng mang cái bệnh ảo tưởng hoặc quá lý tưởng, vì ảo tưởng quá lý tưởng mà đôi khi tâm tình lãnh đạm trong việc đối xử giữa người với người. Văn Xương đi cùng với Hóa Kị lại chuyển ra ngôn quá kỳ thực mặc dầu trước sau vẫn là có tài cán.
    Văn Xương đi cặp với Thái Dương Thiên Lương Hóa Lộc Lộc Tồn tức cách Dương Lương Xương Lộc rất lợi với việc thi cử khoa danh. Trường hợp thiếu Lộc lại gọi bằng Thái Dương Ấm Phúc, Thiên Lương là Ấm còn Thiên Đồng là Phúc thì vấn đề đỗ đạt cũng dễ dàng.
    Cách Dương Lương Xương Lộc chỉ ở hai cung Mão Dậu mới là chính, nếu ở Thìn Tuất không kể là chính chỉ là thiên cách vì Văn Xương Tuất Thìn lạc hãm, thiên cách không bằng chính cách. Nhỡ mà gặp luôn cả Hóa Kị thì thành phá cách, có tài mà không có phận, cuộc đời lưu ly vất vả và sinh bất phùng thời.
    Về sao Văn Xương có một cách cục thật xấu ấy là: “Linh Xương Đà Vũ”. Sách Đẩu Số Toàn Thư viết: “Linh Xương Đà Vũ hạn chí đầu hà” (Vận gặp Linh Tinh, Văn Xương, Đà La, Vũ Khúc đâm đầu xuống sông mà chết). Cách này thường hiện lên ở hai cung Thìn Tuất ý chỉ sự thất bại dữ dội, mấy chữ đâm đầu xuống sông mà chết chỉ cốt vẽ nên hình tượng đáng ngại của thất bại ấy vậy. Nếu không Đà thì bị Hóa Kị, nếu không phải Vũ Khúc mà bị Liêm Trinh cũng ảnh hưởng tai hại như nhau.
    Như trên đã nói, Văn Xương khả dĩ biến thành đào hoa, bởi vậy cổ nhân mới nói nữ mạng kị gặp Xương Khúc. Văn Xương không hợp với Liêm Trinh hay Tham Lang. Cốt Tủy phú ghi: “Xương Tham cư Mệnh phấn cốt toái thi” (Mệnh thấy Tham Lang Văn Xương thịt nát xương tan) ý nói về tâm ý quá đam mê tình ái mà vướng lụy tình. Không hiểu tại sao câu phấn cốt toái thi qua Việt Nam lại biến thành “phấn cốt túy thi” theo cái nghĩa mặt lang beng? Về lang beng sách chỉ ghi rằng: “Văn Xương tại vượng cung đa dị chí hãm địa đa ban ngân, nghĩa là ở vượng cung thì có nốt ruồi lạ, đóng hãm địa da có vết loang, không hẳn là lang beng hay bạch tạng gì cả.
    Đàn bà Xương Khúc lãng mạn, đa tình hiếu sắc, cổ nhân nói: Dương phi hiếu sắc tam hợp Văn Khúc, Văn Xương (Dương Quí Phi đa dâm bởi vì tam hợp vào Mệnh có Xương Khúc)
    Còn một câu khác: “Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh táng mệnh yểu niên” nghĩa là Văn Xương Văn Khúc gặp Liêm Trinh không thọ. Không thọ vì mê đắm hoan trường mà khó tạo sự nghiệp rồi sức lực suy vi. Liêm Trinh ở câu này là Liêm Trinh ở Tỵ Hợi đứng cùng Tham Lang chứ không phải Liêm Trinh đứng với những sao khác hay đứng một mình. Văn Xương Văn Khúc gặp Liêm Phá không gây ảnh hưởng hoại mạnh như gặp Liêm Tham Tỵ Hợi.










    LUẬN VỀ SAO VĂN KHÚC

    Văn Khúc cũng là sao chủ về khoa danh nhưng khác biệt với Văn Xương. Văn Xương ưa theo đường chính để xuất thân. Văn Khúc có khuynh hướng dị lộ công danh. Văn Xương giỏi “nghệ”, Văn Khúc tinh thông “thuật”. Văn Xương sáng tác, Văn Khúc nghiên cứu. Văn Xương tinh thông văn tự từ chương, Văn Khúc nói giỏi thuyết giỏi. Văn Xương làm thơ làm văn hay, Văn Khúc phê bình sắc sảo.
    Văn Khúc nếu nghiên cứu thuật số hợp hơn Văn Xương. Căn cứ vào câu “Văn Khúc Thái Âm cửu lưu thuật sĩ” viết trong Đẩu Số Toàn Thư. Cả Văn Xương lẫn Văn Khúc đều sợ sao Hóa Kị, nhưng Văn Khúc gặp Hóa Kị đáng ngại hơn Văn Xương.
    Sách ghi: “Văn Khúc thuộc âm thủy, chủ khoa giáp thanh danh, và là tay ăn nói biện thuyết có tài. Vì Văn Khúc thuộc thủy nên cơ trí quyền biến hơn (thủy chủ trí) tài trí biến động lưu loát như dòng thác lũ. Bởi vậy nếu đóng ở Thìn, cái trí tuệ ấy sẽ bị câu thúc bất lợi với khả năng thi triển. An sao Văn Khúc khởi từ cung Thìn vì Thìn là thủy khố, Văn Khúc phải đi khỏi thủy khố thì mới vẫy vùng.
    Văn Khúc đi cùng Kình Dương khả năng phê phán càng bén nhạy trên bản chất vốn là đao, tên. Nữ mệnh kị Văn Khúc vì Văn Khúc thuộc thủy lại gặp thêm một sao thủy khác biến thành “thủy tính dương hoa” ướt át với tình, sống trong ảo tưởng dễ trở thành phong trần.
    Mệnh Tử Vi Tham Lang ở Mão mà gặp luôn cả Văn Khúc Hóa Kị thường là cách của con người ham cờ bạc mà dạc dài. Với cách Vũ Tham ở Sửu Mùi, gặp Văn Khúc Hóa Kị cổ nhân cho rằng đó là cách “nịch thủy chi ưu” (có nỗi lo chết sông nước).
    Văn Khúc Hóa Kị cũng biến thành ám diệu cho Phá Quân trong câu phú: “Phá Quân ám diệu cộng hương thủy trung tác tủng” đã nói ở trên.
    Văn Khúc như Văn Xương mang tính chất đào hoa mà lại gặp các đào hoa tinh càng làm tăng tính chất ấy. Nếu biết đi vào nghề nghiệp để tiếp xúc với nữ phái thì chất đào hoa sẽ tan biến vào nghề nghiệp nhờ vậy khả dĩ thành công. Nhưng khi Văn Khúc đứng với Thiên Đồng hay Cự Môn thì thường bị khổ vì tình, số nữ phiền lắm.
    Do cái tài ăn nói mà Văn Khúc gần cận người khác phái. Những sao hợp với Văn Khúc là Thiên Lương Tử Vi Thiên Phủ. Những sao này được Văn Khúc thì thông tuệ. Riêng Liêm Trinh đứng với Văn Khúc lại biến ra con người khẩu thiệt gian hoạt. Nữ mệnh Xương Khúc đi với Liêm Trinh dễ lưu lạc phong trần nếu gặp cả Linh Hỏa. Tại sao vậy?
    Vì Xương với Khúc đều là dịch mã tinh, ưa thay đổi, di động, tính tình không an định, mừng giận vô thường. Như thế là không chung tình. Thêm Linh Hỏa, những hung sát tinh ấy chuyển tình trạng không chung tình vào phong trần.
     
  18. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ XƯƠNG KHÚC

    Khi có cả Xương lẫn Khúc hoặc đồng cung hoặc do tam hợp chiếu hiệp lại thành ra cách cục riêng biệt. Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu Mùi rất cần được Thái Âm Thái Dương tức cách cục Âm Dương Xương Khúc. Cổ nhân có câu phú: “Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa”. (Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc cao sang) con người thông minh nhiều thiện cảm và may mắn với điều kiện là không bị Hóa Kị chen vào.
    Văn Khúc Hóa Kị tâm ý bi quan. Văn Khúc Hóa Kị quá nhậy cảm mà không thích ứng được với đời (người và hoàn cảnh)
    Xương Khúc ở Sửu Mùi gặp Thiên Lương rất tốt, chuyển Thiên Lương thành danh lợi giỏi giang. Xương Khúc Sửu Mùi đi với Vũ Khúc Tham Lang tạo nên khả năng lãnh đạo, chư cổ nhân nói: “Văn Vũ kiêm tư”
    Xương Khúc đứng cùng Tử Vi Phá Quân cho sáng tạo lực, thêm quyền biến. Xương Khúc Sửu Mùi mà gặp Cự Môn Thiên Đồng rất dở. Cự Đồng Xương Khúc hay vướng tình lụy, dễ thất vọng, chí phấn đấu cùn nhụt, hiếu sắc ham chơi, suy tư viển vông.
    Xương Khúc Sửu Mùi đi cùng Thiên Cơ nói hay, làm dở, đầu óc thiếu thực tế. Xương Khúc Sửu Mùi hội Liêm Trinh, Thất Sát thì khoa trương hão huyền. Xương Khúc hội hiệp với Thiên Tướng thông minh nhưng thiếu định kiến, vui đâu chầu đấy, dễ dao động trước sự việc. Xương Khúc hợp với Tử Vi Phá Quân khiến cho khí chất thuần hòa. Xương Khúc gặp Thiên Phủ thì ôn hậu, sáng suốt.
    Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư chương Đẩu số phát vi luận viết: “Xương Khúc tại hung hương, lâm tuyền lãnh đạm” nghĩa là Xương Khúc hãm gặp Không Kiếp thì chán nản việc đời muốn ở ẩn.
    Những câu phú cần tham khảo về Văn Xương, Văn Khúc:
    - Tam hợp Văn Khoa củng chiếu
    Giả Nghị thiếu niên đăng khoa
    (Xương Khúc tam hợp chiếu với Hóa Khoa Giả Nghị ngày xưa đỗ đạt sớm. Danh từ Văn Khoa chỉ vào Xương Khúc và Hóa Khoa)

    - Xương Khoa tịnh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần
    (Xương Khúc ở thế hãm danh phận lao đao, nên vào kinh thương hơn là theo đuổi chức vụ)

    - Nhị Khúc miếu viên phùng Tả Hữu, tướng tướng chi tài
    (Văn Vũ Khúc đóng miếu địa có tài lãnh đạo nếu có luôn cả Tả Phù Hữu Bật)

    - Nữ Mệnh Xương Khúc thông minh phú quí chỉ đa dâm
    (Mệnh nữ có Xương Khúc thông minh phú quí giàu sang nhưng đa dâm)

    - Vũ Khúc Kình Dương Hỏa Linh Kị, nhược bất vi sương tất yểu triết
    (Văn Xương gặp Hỏa Linh Kình Dương Hóa Kị, luân lạc hoặc khó thọ nhất là đối với nữ mạng)

    - Khôi Xương Tả Hữu tương hội hợp, phụ long phan phượng thượng cửu trùng
    (Mệnh có Thiên Khôi, Văn Xương, Tả Hữu thường gặp quí nhân mà nên danh phận. Số nữ lấy chồng quyền thế cao sang, giàu có)

    - Văn Hao cư Dậu Mão chúng thủy triều đông
    (Văn Khúc đứng với Phá Quân ở Mão Dậu lên voi xuống chó. Phá Quân thuộc thủy, Văn Khúc cũng thuộc thủy nên gọi bằng chúng thủy)

    - Xương Khúc cát tinh cư Phúc Đức, vị chi ngọc tụ thiên hương
    (Xương Khúc cùng với cát tinh đóng Phúc Đức là cách ngọc tụ thiên hương nên danh nên giá. Cách ngọc tụ thiên hương chỉ ở trường hợp Mệnh đóng ở Hợi hoặc ở Tỵ mà có Xương Khúc tại Sửu hay Mùi đi cùng với các sao tốt khác không bị hung sát tinh xung phá)

    - Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi tạo hình, bất thiện thả hư khoa
    (Xương Khúc đứng với Liêm Trinh ở Tỵ Hợi dễ tù tội, bản chất gian giảo, hay nói một tấc tới trời)

    - Xương Khúc Phá Quân lâm hổ thỏ Sát Dương xung phá bôn ba
    (Xương Khúc đứng với Phá Quân ở Dần Mão, bị Kình Hỏa hay Hóa Kị suốt đời bôn ba)



    - Xương Khúc nhập Mệnh thanh tú nhã chi lang
    (Xương Khúc hội hợp hay thủ Mệnh có duyên và phong nhã, đàn bà nhan sắc)

    - Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng
    (Văn Xương Văn Khúc thủ mệnh hiếu học và đa năng)

    - Xương Khúc Sửu Mùi Giáp nhân dương nữ kiêm phùng Hồng Lộc hiền phụ chi nhân
    (Mệnh đóng Sửu Mùi có Xương Khúc tọa thủ thêm Hồng Loan, Hóa Lộc đàn bà tuổi Giáp là bậc hiền phụ)

    - Xương Khúc phùng Tuế Dương thiện ác tụng sự
    (Xương Khúc thủ Mệnh hội Kình Dương Thái Tuế giỏi lý luận, có thể là nhà hùng biện hay, luật sư giỏi)

    - Văn Xương phùng Quả Tú Trương Đế Sư bộ bộ tầm tiên
    (Mệnh có Văn Xương Quả Tú, như người họ Trương sống ẩn dật)

    - Văn Khúc hí Nguyệt ư Hợi cung quốc sắc thiên hương
    (Văn Khúc đứng với Thái Âm tại Hợi đàn bà nhan sắc lộng lẫy)

    - Văn Khúc đồng Hóa Kị hạn phòng yểu tử chi ưu
    (hạn thấy Văn Khúc Hóa Kị đề phòng yểu tử)

    - Văn Xương cư Ngọ ký viết khốn, đắc thủy diệu chung thành đại khí
    (Văn Xương đóng Ngọ xấu, nhưng gặp được thủy diệu (sao thuộc thủy) lại nên hay)

    - Nữ Mệnh phùng Xương Riêu nhất sinh dâm đãng
    (Số nữ Văn Xương đứng với Thiên Riêu dâm đãng)

    - Xương Khúc Lộc Tồn do vi kỳ đặc
    (Mệnh Xương Khúc Lộc Tồn khả dĩ kể là kỳ cách)

    - Xương Khúc Cơ Lộc thanh tú sảo
    (Mệnh Xương Khúc Thiên Cơ Hóa Lộc tinh xảo nghề nghiệp nhất là những nghề có dính líu đến nghệ thuật)

    - Khúc Xương Nhật Nguyệt song Long mê sắc Dương Phi
    (Mệnh có Nhật Nguyệt Xương Khúc Long Trì Thanh Long thì đẹp mê hồn như Dương Quý Phi).

    - Xương Khúc giáp Quan Lộc định tác cao khoa
    (cung Quan Lộc giáp Xương giáp Khúc thì đỗ cao)

    - Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi phùng Hình Bật, thiện thả hư khoa
    (Xương Khúc gặp Liêm Trinh ở Tỵ Hợi mà được thêm Thiên Hình, Hữu Bật kể là người có tài năng, nhưng không nên công nên việc)

    - Khúc Xương nữ mệnh chẳng lành
    Vườn xuân ong bướm bẻ cành bán rao
    (Chỉ bẻ cành bán rao nếu thấy Thiên Riêu đi cùng Hóa Kị)

    - Văn Xương triều Nhật ư Ngọ vị phong trần địa bộ thế nan nhân
    (Thái Dương tại Ngọ thủ Mệnh đứng cùng Văn Xương xung chiếu là con người lịch duyệt phong trần ít ai bì kịp)

    - Xương Khúc giáp Nhật nam mệnh quí nhi thả hiển
    (Nam mạng Thái Dương đắc địa, có Xương Khúc giáp Mệnh thì sang trọng, hiển đạt)

    - Khúc Xương là đấng thanh nhàn
    Thật thà đứng đắn là làng Đồng Lương

    - Khúc Xương Thương Sứ hợp bài
    Phải phòng tai họa bên ngoài bên trong
    (Xương Khúc đóng ở Nô (gặp Thiên Thương) hay ở Tật Ách (gặp Thiên Sứ) hay có họa đến bất ngờ)

    - Xương Khúc Phá gặp Hình Kiếp Sát
    Chốn Mão Thìn Dậu Tuất lao đao

    - Mấy người hiếu sắc hoang tình
    Vì Xương Khúc đóng bên mình Riêu Y

    - Khúc Xương Sửu Mùi hợp thành
    Nếu không cát diệu hữu danh vô dùng
    (Xương Khúc Mùi Sửu mà không gặp những cát tinh khác thì chỉ có tiếng mà không có miếng)

    - Thói dâm dật xướng hòa kém phúc
    Ấy Văn Xương, Văn Khúc ai khen

    - Vũ không gặp đất miếu viên
    Khác chi Xương Khúc gối loan lạnh lùng

    - Phượng Long nhan sắc dịu dàng
    Khúc Xương Tả Hữu ấy làng tài hoa

    - Thê cung Nguyệt, Khúc trung tàng
    Ra tay bẻ quế đông sang thiềm cung

    - Thê cung Xương gặp tam Không
    Con nhà danh giá tổ tông kết nguyền

    - Khúc Xương Thái Tuế cùng ngồi
    Chưa ngoa miệng lưỡi con người đa ngôn
    (cung Mệnh số nữ có Xương Khúc Thái Tuế chua ngoa, nói nhiều nhưng có duyên, ở Thê cung thì bà vợ đa ngôn)

    - Vũ Tham tài phát phương ngoài
    Khúc Xương Tả Hữu gặp người quí nhân
    (Câu trên nói về Xương Khúc đóng cung Thiên di)

    - Khúc Xương Long Phượng phát văn
    Vũ Tham Sát Phá thì rằng võ công
    (câu này nói về Xương Khúc đóng Quan Lộc)

    - Tử cung mà gặp Khúc Xương
    Tuồng gì con gái những phường chơi hoang
    (cung Tử Tức này còn phải thêm Thiên Riêu hay Hóa Kị nữa mới như vậy)

    - Vũ Xương hoặc Khúc cùng ngồi
    Sinh con xinh đẹp hơn người chẳng ngoa

    - Khúc Xương Tả Hữu có dư
    Thiên Đồng bạch thủ cơ đồ lại nên
    (câu trên đây nói về Xương Khúc vào cung Tài Bạch)

    - Tấu Thư Xương Khúc rành rành
    Vào cung Điền Trạch ắt sanh tiền tài

    - Tấu Thư Xương Khúc tương phùng
    Tôn thân có kẻ thần đồng hiện ra
    (câu này nói về Xương Khúc đắc địa đóng cung Phúc Đức)

    - Khôi Khoa Xương Khúc Tấu Thư
    Phát đà văn học có dư anh tài
    (cũng ở cung Phúc Đức)

    - Văn Xương dữ Thất Sát Liêm Trinh Dương Đà đồng cư vi trá ngụy
    (Văn Xương đứng cùng Liêm Sát Dương Đà là con người trá ngụy)

    - Văn Khúc Cự Môn đồng cung táng trí
    (Văn Khúc đứng cùng Cự Môn ở một cung hay nản chí, có thể vì lý luận quá mức mà chùn bước trước hành động)

    - Văn Khúc đan cư Mệnh Thân cung, cánh phùng hung diệu vô danh thiệt biện chi đồ
    (Văn Khúc đóng ở Mệnh Thân gặp sao hung chỉ là anh lẻo mép, chẳng làm được chuyện gì)

    - Văn Khúc Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo
    (Văn Khúc đứng với Tham Lang tại Mệnh ưa dùng ngụy biện phá rối kỷ cương)
     
  19. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ TẢ PHỤ HỮU BẬT

    Tiền nhân khi luận mệnh bảo số trai cần Tả Phụ, số gái cần Hữu Bật. Điều này không đúng. Tả Hữu là hai sao đi cặp thường phải đủ cả hai thì mới hoàn hảo dù rằng mỗi sao có một đặc tính riêng biệt. Tả và Hữu đều an qua tháng sinh.
    Tả Phụ thuộc dương thổ, hóa khí là “hỉ”. Thổ của Tả Phụ là Thìn thổ hay đông phương thổ, đất màu mỡ, xốp cho nên tính tình đôn hậu, ẩn trọng, phân minh rộng rãi, nhưng cũng có mưu lược. Thìn cung là thủy khố nên thổ lúc nào cũng nhuận thuần, nên tài hoa mà không bừa bãi.
    Tả Phụ ẩn trọng không hợp với thương trường xông xáo. Khởi nghiệp không giỏi bằng giữ nghiệp. Tả Phụ giao thiệp dễ được lòng người bởi thái độ khoan dung, ăn nói trầm ấm. Bởi vậy Tả Phụ rất sợ bị sát tinh xung phá.
    Tả Phụ đứng với Liêm Trinh là phá cách thường gặp quan tụng bất chợt, thêm Kình Dương càng rắc rối. Tả Phụ không hợp với Cự Môn và Phá Quân, vì Cự Môn chủ thị phi còn Phá Quân chủ bạo loạn. Gặp Phá Quân Kình Dương sẽ theo con đường phản loạn như cổ nhân nói: “Phá Kình Tả Hữu chớ ngờ. Gặp thời biến động ắt là loạn quân”. Gặp Cự Môn thì thành nhiễu sự. Gặp Kình Dương trở nên xung động kém sáng suốt, dễ bị lợi dụng.
    Hữu Bật thuộc âm thủy giữ chế lệnh chủ về thiện. Hữu Bật khởi từ cung Tuất vì Tuất ở Tây Bắc phương vào buổi thu, thời tiết thâu liễm, Hữu Bật chấp hành trách nhiệm thâu liễm ấy nên mới nói là giữ thế lệnh. Khi đã bảo là chế lệnh tất phải ép buộc . Tuất là hỏa khố, Hữu Bật loại thuộc thủy, thủy hỏa giao chiến không dung hòa dễ dàng. Cho nên tính tình Hữu Bật nóng nảy, kiên cường, ưa can thiệp khác với Tả Phụ vốn ẩn trọng. Nhưng khi có cả Tả lẫn Hữu thì tùy theo sao chủ, Tả Hữu sẽ biến đổi bản chất để thi thố.
    Trên khả năng thì Tả với Hữu giống nhau. Ở điểm này Tả Phụ lực chủ động mạnh hơn Hữu Bật. Ẩn trọng tất nhiên chủ động hơn nóng nảy. Tả Hữu là hai sao phò tá cần phải dựa vào chủ tinh để hành động.
    Tiền nhân coi Tả Hữu là hai quan lộc tinh, Tả Phụ chính, Hữu Bật phó. Tả Phụ tiến thân theo đường chính, Hữu Bật theo dị lộ. Trung Châu phái bên Trung Quốc đưa ra lập luận: Tả Phụ chủ về sang quí, trong khi đó Hữu Bật chủ về giàu có.
    Đẩu Số Toàn Thư viết: “Tả Hữu đồng cung, phi la y tử” (Mệnh có Tả Hữu đứng cùng áo tía lọng vàng) câu trên rõ ràng về hình ảnh công danh. Vấn đề áo tía lọng vàng không phải chỉ Tả Hữu đồng cung mà thành, còn tùy thuộc vào đồng cung với sao chủ nào? Và có bị hung sát tinh đánh phá hay không? Các câu phú khác như: “Tả Hữu đồng cung thân vô hoạnh lự”. Tả Phụ Hữu Bật chung thân phúc hậu, cùng một qui luật cũng phải xem xét như trên.
    Sự phối trí của Tả Hữu đẹp nhất là vào các cung: Mệnh, Tài Bạch, Quan Lộc. Nếu các chủ tinh ưu tú thì cuộc đời hanh thông với địa vị, với phú quí. Hay nhất Tả Hữu đứng cùng hoặc hiệp hội với Tử Vi Phá Quân, nếu không bị xung hung sát phá thường là người sáng tạo sự nghiệp
    Trường hợp vừa Tả Hữu, vừa Xương Khúc hội tụ lại càng cần có chủ tinh của Mệnh cung hợp cách mới tốt. Chủ tinh xấu thì cuộc đời thăng trầm, mà số nữ biến ra thành hồng nhan mệnh bạc.
    Trường hợp Tả Hữu gặp Khôi Việt vẫn tiếp tục xem chủ tinh tại mệnh thế nào? Nếu hợp cách thì chỉ sang quí địa vị thôi, không giàu có. Ta thấy Tả Hữu hội hợp với Khôi Việt tốt hơn hội hợp với Xương Khúc.
    Tả Hữu hội hiệp một đứng ở Tài Bạch và một đứng ở Quan Lộc chiếu về Mệnh tốt hơn đồng cung tại Mệnh vì đồng cung vất vả hơn hội hiệp. Đồng cung phải tự mình, hội hiệp thì được người giúp và hoàn cảnh đỡ nâng.
    Tả Hữu từ cung Tài Bạch gặp Hóa Lộc giàu có. Tả Hữu từ cung Quan Lộc gặp Quyền Khoa sang quí. Vẫn tiếp tục theo qui luật tùy thuộc vào chủ tinh
    Trường hợp Mệnh không chính tinh chỉ có Tả Phụ Hữu Bật thủ mà nhìn sang cung Phụ Mẫu thấy Hỏa Linh qua kinh nghiệm thường là con nuôi hay con của dòng thứ nhất hoặc có cha kế, mẹ kế.
    Phu Thê cung mà chỉ thấy có một Tả Phụ hay một Hữu Bật thôi kể như xấu, hay đưa đến cuộc duyên tay ba. “Hữu Bật hội Phu cung, vi nhân hữu tiền tình chi phận” (Hữu Bật đóng cung Phu hoặc mình có chồng trước, hoặc chồng có vợ trước). Nếu cung Phu Thê có Cự Môn và Cự Môn Hóa Kị tình hình duyên phận càng nghiêm trọng cho sự băng hoại hơn nữa.
    Tả Hữu rất không ưa Linh Hỏa. Mệnh cung hoặc Phu cung mà thấy Tả Hữu Linh Hỏa dễ làm thứ, làm lẽ mọn. Tuy nhiên vẫn còn cần tham khảo chủ tinh trước đã.
    Trường hợp Tả Hữu một ở Mệnh, một ở Phu Thê cung thấy cả Sát Kị thì bất luận nam hay nữ đều vài bận kết hôn. Nếu có thêm Đào Hoa thì đưa tới ngoại tình. Có câu phú rằng: Sao Tả Hữu đồng cung, gặp gỡ Mệnh Đào Hoa trước dở sau hay, ý nói hai bận lấy chồng. Tuy nhiên nguyên nhân tan vỡ thường là một vụ ngoại tình do chồng hay vợ.
    Trường hợp Tả Hữu một vào Mệnh cung, một vào Phúc Đức cung, hôn nhân không suôn sẻ do bị ép uổng, hoặc vợ hay chồng đau ốm triền miên, ta vẫn thường gọi là “bạc phước” vậy. Trường hợp này tính hay hay dở của chủ tinh vẫn giữ vai trò quan trọng cho luận đoán.
    Với số nữ Tả Hữu không nên đứng cùng với Tham Lang Phá Quân Thất Sát dù ba sao này đắc địa, vì như thế tình cảm không chuyên nhất. Về câu phú: “Tả Hữu Xương Khúc ngộ Kình Dương Đà đương sinh dị chí” (Tả Hữu Xương Khúc gặp Dương Đà có nốt ruồi lạ). Điều này qua kinh nghiệm không mấy chính xác. Đôi khi “dị chí” là cái bớt chứ chẳng phải nốt ruồi
    Những câu phú cần biết về Tả Phụ Hữu Bật:
    - Hữu Bật phùng Quả Tú tất dã trường sinh
    Tả Phụ phùng cát tinh bất vi yểu chiết
    (Sao Hữu Bật hội Quả Tú ở Mệnh thì sống thọ)

    - Phụ Bật phùng Thiên Tướng đích thị lương y
    (Thiên Tướng gặp Tả Hữu làm nghề thầy thuốc giỏi)

    - Tả Hữu đơn thủ, chiếu Mệnh ly tông thứ xuất
    (Một sao Tả hay Hữu ở Mệnh hay chiếu Mệnh vô chính diệu thì là con bà thứ và phải xa rời quê quán)

    - Tả Hữu Trinh Dương tao hình lục
    (Liêm Trinh hội Tả Hữu Kình Dương hay vướng vào tù tội)

    - Hữu Bật Thiên Tướng phúc lai lâm
    (Thiên Tướng tại Mệnh được Hữu Bật thường gặp may mắn)

    - Phụ Bật ái nhập mộ cung, nhược phùng đế tượng, văn đoàn, võ cách hoạnh phát tài danh
    (Tả Hữu đóng Thìn Tuất Sửu Mùi gặp Tử Vi hay Cơ Nguyệt Đồng Lương hoặc Sát Phá Tham có cơ hoạnh phát công danh tài lộc)

    - Tả, Phủ đồng cung tôn cung vạn thừa
    (Tả Phụ đứng cùng Thiên Phủ là người có chức vị cao)

    - Tả Hữu Tài Quan kiêm hiệp củng, y lộc phong doanh
    (Tả Hữu hội hiệp ở Tài, Quan tiền tài sung túc)

    - Phụ Bật giáp Đế phúc lai lâm
    (Tả Hữu giáp Mệnh cung có Tử Vi thì vinh hiển)

    - Phụ Bật vị Phu cung vi nhân hữu tiền tình chi phận
    (Hữu Bật đóng Phu làm vợ bé)

    - Tả Hữu tại Phu cung, vô môi tự giá
    (Phu cung thấy Tả Hữu thì theo trai mà thành chồng vợ)

    - Phụ Bật Thiên Phúc đồng viên
    Ngôi danh chính viện danh truyền y quan

    - Phụ Bật gặp Thái Âm nhàn
    Số làm bà đỡ cứu phường sơ sinh

    - Mộ phùng Tả Hữu đồng lai
    Thăng quan tiến chức miếu đài rạng danh

    - Giáp Long giáp Phượng đôi nơi
    Tả Hữu Thai Tọa lâu đài thiếu niên

    - Tả Hữu đắc vị đồng sang
    Ấy là được cách thanh nhàn hiển vinh.

    - Cự Cơ hợp Khúc Xương Tả Hữu
    Ở Mão cung rạng rỡ công danh

    - Lộc Tồn ám tật miên trường
    Khúc Xương Tả Hữu tai ương phải phòng
    (Nói về Tả Hữu Khúc Xương ở Tật Ách)

    - Vũ Tướng Tả Hữu đồng lưu
    Nhất hô nhất nặc ai đâu dám bì.
    (Nô Bộc có Vũ Tướng Tả Hữu thì tay đàn em đắc lực)
     
  20. phanthaianh

    phanthaianh Hội Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    22 Tháng bảy 2006
    Bài viết:
    121
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: Tử Vi Tinh Điển

    LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

    Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp.
    Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận.
    Có câu phú rằng:
    Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công
    Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực
    Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn.
    Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ tử đi thi thường làm cỗ cúng Thiên Khôi tinh. Thi đỗ rồi con đường trước mắt là xuất sĩ.
    Phần Thiên Việt nếu đi cặp được với Thiên Khôi thì mới vào chánh đạo. Thiên Việt đứng một mình thường chỉ gặp những cơ hội nhỏ thôi.
    Thiên Khôi thuộc dương hỏa tốt hơn cho người sinh ban ngày vì Thiên Khôi là nhật quí. Thiên Khôi tạo khuôn mặt sáng sủa cho con người.
    Thiên Việt thuộc âm hỏa tốt hơn với người sinh ban đêm có phong thái đĩnh đạc. Thiên Việt mang thêm tính chất đào hoa, gặp Thiên Riêu Đào Hoa càng đa tình. Nhưng Thiên Việt gặp Hồng Loan cổ nhân gọi bằng “hồ đồ đào hoa” hay yêu sảng, nhất là phái nữ.
    Khôi Việt một đóng ở Mệnh, một đóng ở Thê mà Thân cư Thê gia hội các cát tinh khác thì đỗ đạt sớm, lấy vợ đẹp xinh. Nếu không hội hợp cát tinh tất khoa danh lận đận, nhưng chuyện vợ đẹp xinh vẫn không thay đổi.
    Sách có câu: “Tuy phú quí nhi bất miễn dâm dật” để nói về Khôi Việt đối với nữ mạng. Trên thực tế kinh nghiệm chỉ có gặp ác sát Không Kiếp thì mới dâm dật chứ không phải cứ Khôi Việt là dâm dật.
    Khôi Việt một ở Sửu, một ở Mùi, Mệnh với Thiên Di cách gọi bằng tọa quí hướng quí. Tốt hay xấu còn phải tùy thuộc vào chính tinh tại Mệnh cung. Nếu có các sao tốt thì bất luận trai hay gái đều giàu sang. Nhưng cách tọa hướng quí kể như là một cách đào hoa vậy.
    Khôi Việt còn có lưu Khôi lưu Việt theo vận hạn mỗi năm. Tỉ dụ người tuổi Giáp, Thiên Khôi đóng Sửu, Thiên Việt đóng Mùi gặp lưu niên vận hạn Giáp Mậu Canh tất nhiên được thêm lưu Khôi lưu Việt, hỉ khánh tăng lên tùy theo cung nào có chúng. Như ở Thê cung mà gặp năm lưu Khôi lưu Việt thì chuyện lấy vợ càng rõ ràng, nếu cung Tử Tức thì chuyện có con càng chắc chắn được Khôi Việt hiệp, cũng cần có lưu Khôi lưu Việt thì lực lượng mới phát huy.
    Tỉ dụ người tuổi Đinh Thiên Khôi đóng Hợi, Thiên Việt đóng Dậu Thìn Tuất là cung Khôi Việt hiệp, vận năm Bính Khôi lưu tới Hợi, Việt lưu đến Dậu gọi bằng lưỡng trùng Khôi Việt thì cơ hội tốt đẹp đến nhiều hơn.
    Khôi Việt cần đi đôi, đi đôi rồi lại cần trùng điệp mới hay. Khôi Việt hiệp Mệnh rất hợp với hai sao Tử Vi Thiên Tướng. Người Mệnh Tử Vi Thiên Tướng vốn đã mang sẵn lắm khuyết điểm. Nhưng nếu có Khôi Việt hiệp sẽ hóa giải những khuyết điểm ấy. Khôi Việt đứng đối nhau rất hợp với Thái Âm Thái Dương.
    Nhật Nguyệt tọa Mệnh cung có nhiều khuyết điểm, cuộc đời khó thuận buồm xuôi gió, gặp Khôi Việt đối nhau tất thi cử dễ dàng hơn, đồng thời gặp quí nhân đề bạt đẩy chức phận lên cao.
    Khôi Việt đóng Thân, Tí rất hợp với sao Vũ Khúc, Vũ Khúc đi cùng Hóa Lộc càng tốt nữa, ắt thành công trên mặt kinh doanh. Khôi Việt ở Dần Ngọ rất hợp với Cự Môn ở Tuất, sách gọi bằng “phản bối” cách, cách này thường gặp những kỳ ngộ về may mắn.
    Khôi Việt không bao giờ đóng ở Thìn và Tuất, cổ nhân viện lẽ rằng quí nhân không đi vào đất la võng. Tính chất tế nhị của Khôi Việt không chịu đựng nổi sức ép của lưới trời lưới đất.
    Một điều cần chú ý Khôi Việt ở Sửu Mùi. Hai cung chỉ kể làm vượng địa chứ không phải miếu địa cho quí nhân. Sách Đẩu Số Toàn Thư viết nếu ngoài bốn chục tuổi mà gặp hạn Khôi Việt Sửu Mùi thì gọi bằng “quí nhân nhập mộ” chẳng những không là cơ hội tốt mà biến ra những cái họa mai phục, ẩn dấu.
    Câu: “Khôi Việt trùng phùng kiêm sát tấu, cố tật vưu đa” (gặp trùng điệp Khôi Việt ở đây thêm sát tinh nữa ắt sẽ bị bệnh thành tật không khỏi). Như vậy ngoài bốn chục tuổi lưu niên và đại hạn đi vào Sửu Mùi có Khôi Việt rồi lại lưu Khôi Việt thêm Hỏa Linh Dương Đà thì bệnh tật triền miên.
    Đời xưa tuổi thọ trung bình so với đời nay ngắn hơn, bởi vậy cổ nhân mới lấy bốn chục tuổi làm chuẩn. Thời đại nay tuổi thọ trung bình cao hơn nên tính từ ngoài năm mươi mới đúng.
    Ngoài bốn chục gặp Khôi Việt trùng phùng đi cặp với những sao Đào Hoa thì Khôi Việt hoá thân thành đào hoa, nam hay nữ đều gặp những cuộc tình ngoại hôn, hoặc bấy giờ mới lấy chồng, lấy vợ. Khôi Việt chủ về đào hoa, nhưng chỉ vào cung Phúc Đức hay Phu Thê mới kể, còn vào Mệnh cung không phải.
    Tỉ dụ Phúc Đức ở Tí, Phu Thê ở Thân, người tuổi Ất tuổi Kỷ Khôi Việt đóng Tí Thân, nếu hai cung này xuất hiện Thiên Riêu, Mộc Dục, Đào Hoa, đương nhiên Khôi Việt chuyển thành đào hoa tinh.. Sau đó mới phối hợp chính diệu của các cung Phối với Phúc để mà đoán định. Giả như cung Phúc có Thiên Đồng, Thái Âm thì đoán rằng do ý chí mềm yếu mà gặp đau khổ duyên tình. Nếu có Vũ Khúc Thiên Phủ thì đoán rằng có quan hệ với một người đã có gia đình.
    Trường hợp chính tinh vững vàng lại có Lộc thì thành cách lấy vợ giàu. Tỉ dụ Phúc Đức là Tử Vi, Phố cung là Vũ Khúc Hóa Lộc, rồi Mệnh cung lại gặp Lộc Tồn. Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu, Khôi Việt đơn thủ mà gặp hung sát tinh ắt bị thương hoặc có tật.
    Khôi Việt gặp Hoả Linh lắm tai ương, Khôi Việt gặp Không Kiếp trở nên vô dụng.
    Những câu phú cần biết thêm về hai sao Thiên Khôi, Thiên Việt:
    - Khôi Việt Mệnh Thân vi trưởng tử
    (Mệnh Thiên Khôi, Thân Thiên Việt thường là con trưởng hoặc nắm quyền trưởng)

    - Khôi Việt nhập Thân ư gia quốc tất vi nhân trưởng
    (Khôi Việt đóng Thân thường ở địa vị đàn anh)

    - Khôi Việt Mệnh Thân đa triết quế
    (Có Khôi Việt ở Mệnh Thân thì đỗ đạt cao)

    - Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương
    (Khôi Việt vào Mệnh học hành uyên bác)

    - Khôi Việt Xương Khúc Lộc Tồn phù hình, sát vô xung đa phú quí
    (Mệnh phù trợ bởi Khôi Việt Xương Khúc Lộc Tồn, mà không bị sát tinh xung phá ắt giàu sang)

    - Khôi Việt đa văn ngộ Đà Kị thiên di dật sĩ
    (Khôi Việt gặp Kình Đà từ cung Thiên Di, tài giỏi nhưng ẩn dật)

    - Khôi Xương Tả Hữu tương hội hợp, phụ long phan phượng thượng cửu trùng
    (Thiên Khôi, Văn Xương, Tả Phụ, Hữu Bật hội tụ vào Mệnh, được người đề bạt mà hiển vinh)

    - Tả Hữu Khôi Việt vi phúc thọ
    (Mệnh có Tả Hữu, Khôi Việt vừa có phúc vừa thọ

    - Khôi Việt đan thủ tử hữu quí
    (Cung tử tức Khôi Việt đơn thủ sinh con tài giỏi)

    - Thiên Khôi Thiên Việt, phu phụ mỹ lệ
    (Phối cung có Khôi Việt lấy vợ đẹp hoặc chồng bảnh)

    - Khôi Việt đan thủ Tài Bạch thanh cao, nhất sinh toại ý
    (Cung Tài Bạch có Khôi Việt thì thanh cao sang trọng mà không giàu có)

    - Sao Quan Phúc cùng Khôi tinh
    Đóng vào Thân Mệnh đề danh bảng rồng
    (Quan Phúc đây là Thiên Quan Thiên Phúc)

    - Việt Khôi Quyền Lộc trong ngoài
    Trưởng nam trưởng nữ gái trai đồng bàn

    - Việt Khôi Long Phượng Khúc Xương
    Ngộ Khoa ắt hẳn bẻ cành quế hoa
    - Việt Khôi, Lương Tướng quí trung
    Ắt là con giống cháu dòng chẳng sai

    - Khôi ngộ Kị trên đầu có tật
    Vượng ngộ Khôi thật lắm nốt ruồi

    - Cung tử tức trong ngoài Khôi Việt
    Hẳn sinh người hào kiệt khoa danh

    - Lưỡng Quí phùng Tử Vi Đoài Chấn
    Ắt sinh con cầu tự chẳng sai
    (Khôi Việt gặp Tử Vi ở Mão với Dậu thì có con cầu tự)

    - Việt Khôi là cách văn chương
    Khôi là khôi ngộ, Việt thường da đen

    - Khôi Việt miếu vượng trưởng huynh
    Gia đình xã hội hẳn dành ngôi trên

    - Việt Linh Hình hội Cơ Lương
    Hoặc là Nhật Nguyệt ắt chờ lôi kinh
    (Lôi kinh là bị sét đánh hay điện giật)

    - Ân Quí Khôi Việt Đào HồNg
    Trai cận cửu trùng gái tất cung phi

    - Việt Khôi Quyền Lộc khá bàn
    Trong nhà bậc trưởng ra đàng bậc trên

    - Việt Khôi Quyền Tướng đáng yêu
    Lại gia Tử Phủ mọi chiều vinh quang
    (Những sao nói trên hội vào Phu Thê cung)

    - Cự Kị nên tránh đò sông
    Phục Binh Hình Việt mắc vòng gươm đao
    Hỏa Linh Hình Việt khác nào
    Không bị sét đánh búa dao có ngày

    - Việt Khôi là cách ung dung
    Việt thường nhờ bạn, Khôi thường gặp sang.
    (Câu trên nói về Khôi Việt đóng cung Thiên Di)

    - Khôi Khoa Xương Khúc Tấu Thư
    Phát đà văn học có dư anh tài
    (Khôi Việt Xương Khúc Tấu Thư ở cung Phúc Đức)

    - Cung giải mà ngộ Khôi Hình
    Số người phải mắc pháp hình đau thương
     

Chia sẻ trang này