LƯƠNG THỰC TRONG NGAY

Thảo luận trong 'Nghệ thuật sống là Lợi mình = Lợi người: Luôn đúng' bắt đầu bởi Toc'Ma^y, 26 Tháng chín 2006.

  1. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    13 Tháng Tư
    Emmaus

    Nói đến những người không nhà không cửa, người ta thường nhắc đến cha Henri Groués quen được gọi tắt là cha Pierre, người đã sáng lập cộng đồng Emmaus nhằm giúp những người bần cùng tự tay xây dựng cuộc sống của họ.
    Phong trào cộng đồng Emmaus khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở vòng đai của thành phố Paris vào hồi đệ nhị thế chiến. Những người khách đầu tiên của tổ ấm này là các thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa được phóng thích.
    Câu nói đầu tiên của cha Pierre với những người mới đặt chân đến cộng đồng là : "Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những người khác...". Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng muốn trở thành hữu ích cho người khác. Ðó là niềm tin mà cha Pierre luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng.
    Cha Pierre đặt tên Emmaus cho cộng đồng của Ngài là để nhớ lại câu chuyện của hai người môn đệ Chúa Giêsu trong buổi chiều Phục Sinh. Cũng như hai người môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin cho họ. Cũng thế, cha Pierre và những người bạn đầu tiên của Ngài đã tìm gặp được hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống.
    Tạo lại niềm hy vọng vào cuộc sống đó là khẩu lệnh của cha Pierre, và xây dựng lại niềm hy vọng đó từ những đổ nát, mất mát. Chính vì thế mà cộng đồng Emmaus chủ trương đi thu nhặt lại các đồ phế thải, các vật dụng cũ kỹ để chế biến và bán lại, như một sản phẩm cho chính tay mình làm nên.
    Hiện nay phong trào đã có mặt tại 50 quốc gia trên thế giới với khoảng 290 cộng đồng. Tất cả mọi người trong cộng đồng đều sống với niềm hy vọng từ những đổ nát và mất mát trong cuộc sống.
    Tin Mừng của Thánh Luca thuật lại rằng, buổi chiều hôm đó, có hai người môn đệ của Chúa Giêsu lên đường đi Emmaus, trở về làng cũ của họ.
    Cái chết của Chúa Giêsu là một chấm hết đối với họ: hết mộng công hầu khanh tướng, hết giấc mơ của một nước Israel thịnh vượng, hết mọi hy vọng. Trở về làng cũ tức là trở về với thất vọng ê chề. Nhưng cũng chính lúc đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với họ, cái chết mang một ý nghĩa mới, mất mát đã trở thành khởi đầu của lợi lộc, thất bại trở thành khởi điểm của thành công, buồn phiền đã biến thành vui mừng hân hoan... Ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu đã mặc cho mọi biến cố của cuộc sống một ý nghĩa mới. Tin tưởng lạc quan đã trở thành nhân đức cơ bản của đời Kitô.
    Ở bất cứ nơi đâu và ở bất cứ thời đại nào, sau một lần đổ nát, người ta thường hát lên điệp khúc: Hãy xây dựng lại từ đổ nát!
    Ðó là niềm tin mà hơn bất cứ lúc nào chúng ta cần phải bám lấy... Bạn đang sầu khổ vì những mất mát ê chề trong cuộc sống ư? Bạn đang quằn quại trong đau khổ của thể xác và tinh thần ư? Bạn đang cảm thấy mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi ư?
    Chúa Giêsu của thành Emmaus đang nói với bạn: đừng thất vọng, Ngài đang đồng hành với bạn, và với Ngài, bạn có thể xây dựng được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
     
  2. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    16 Tháng Tư
    Không Quyền Lực Nào

    "Ðức Tin không thể nào bị bóp nghẹt bởi bất cứ quyền klực nào!". Ðó là lời tuyên bố của tổng thống Hoa Kỳ George Bush trong buôi tiễn biệt Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II (19/9/1987) nhân dịp Ngài viếng thăm Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn từ giã Ðức Thánh Cha, phó tổng thống Hoa Kỳ nói rằng Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc tại Liên Xô sau hơn 60 năm tuyên truyền cho chủ thuyết vô thần.
    Ông George Bush kể lại cho Ðức Thánh Cha như sau: "Trong nghi lễ an táng tổng bí thư Breznev tại Mascơva, một lễ nghi với nhiều lính tráng và hoa tím, nhưng không có Ðức Tin và Lời Chúa, tôi theo dõi bà quả phụ đang tiến đến quan tài để nói lời từ biệt... Kìa, có Chúa làm chứng cho tôi, giữa sự lạnh cóng của một chế độ độc tài, bà Breznev chăm chú nhìn người chồng, rồi cúi nhẹ xuống và làm dấu thánh giá trên ngực của người chết...".
    Ông Bush cũng kể lại rằng ông đã gặp Mao Trạch Ðông trước khi ông này qua đời. Chủ tịch họ Mao đã tâm sự với ông như sau: "Tôi sắp sửa về Trời, tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa".
     
  3. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    18 Tháng Tư
    Ðôi Tay Cầu Nguyện

    Albrecht Durer là một họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng của nước Ðức vào thế kỷ thứ 16. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đó là bức tranh "Ðôi tay cầu nguyện".
    Sự tích của họa phẩm này như sau: Thuở hàn vi, Durer kết nghĩa với một người bạn chí thân. Cả hai đã thề thốt là sẽ giúp nhau trở thành họa sĩ. Ðể thực hiện ước nguyện đó, người bạn của Durer đã chấp nhận làm thuê làm mướn đủ cách để kiếm tiền cho Durer ăn học thành tài. Theo thỏa thuận, sau khi đã thành công, Durer cũng sẽ dùng tiền bạc của mình để giúp cho người bạn ăn học cho đến khi thành đạt.
    Thế nhưng khi Durer đã thành tài, danh tiếng của anh bắt đầu lên, thì đôi tay của người bạn cũng đã ra chai cứng vì lam lũ vất vả, khiến anh không thể nào cầm cọ để học vẽ nữa.
    Một ngày nọ, tình cờ bắt gặp đôi tay của người bạn đang chắp lại trong tư thế cầu nguyện, Durer nghĩ thầm: "Ta sẽ không bao giờ hồi phục lại được năng khiếu cho đôi bàn tay này nữa, nhưng ít ra ta có thể chứng minh tình yêu và lòng biết ơn của ta bằng cách họa lại đôi bàn tay đang cầu nguyện này. Ta muốn ca tụng đôi bàn tay thanh cao và tấm lòng quảng đại vị tha của một người bạn".
    Thế là kể từ hôm đó, Durer đã để hết tâm trí vào việc thực hiện bức tranh đó. Ðó không phải chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, nhưng là tất cả tình yêu và lòng biết ơn mà ông muốn nói lên với một người bạn. Bức tranh đã trở thành bất hủ, nhưng càng bất hủ hơn nữa đó là tấm lòng vàng của người bạn và tâm tình tri ân của nhà họa sĩ.
     
  4. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    20 Tháng Tư
    Hãy Thắp Lên Một Que Diêm

    Một bữa nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại vận động trường Los Angeles bên Hoa Kỳ. Ðang diễn thuyết ông bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này".
    Ðèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: Ðã thấy!". Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên những tiếng kêu: "Ðã thấy!".
    Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".
    Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
    Ông John Keller kết luận: "Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, cóthể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta".
    Hòa bình không chỉ là môi trường sống vắng bóng chiến tranh. Hòa bình không chỉ là cuộc sống chung im tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, đàn áp và bóc lột nhau mà không cần chiến tranh.
    Ngoài ra, hòa bình không chỉ được xây dựng trong những văn phòng của các nhà lãnh đạo. Hòa bình không chỉ được xây dựng qua những cuộc họp, qua những buổi thảo luận, mặc cả của các nhà chính trị. Mọi người chúng ta phải trở thành những người thợ xây dựng hòa bình. Bởi lẽ nguồn gốc của hòa bình xuất phát từ phẩm chất của các mối liên lạc giữa người với người.
    Người biết yêu mến là người thợ xây dựng hòa bình. Kẻ biết giúp đỡ là kẻ xây đắp hòa bình. Những ai biết tha thứ, những ai biết phục vụ tha nhân, những ai biết luôn khước từ hận thù, bạo lực là những người thợ xây dựng hòa bình. Những ai biết chia sớt của cải mình cho người túng thiếu hơn, những ai có lòng nhân từ, có lòng khoan dung và thông cảm đều là những kẻ giúp cho hòa bình nảy nở giữa loài người.
    Tóm lại, cách thức tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm cho thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm đối với đồng loại. Những hành động yêu thương xuất phát từ lòng nhân hậu sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có đủ sức mạnh để xua đuổi bóng tối của những đau khổ và sự dữ.
     
  5. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    23 Tháng Tư
    Bữa Ăn Thiên Ðàng Và Hỏa Ngục

    Một ký giả kia được phép xuống hỏa ngục và lên thiên đàng để làm một bản phóng sự về đời sống của nhân dân tại đó.
    Sau một cuộc hành trình gay go, ký giả trên lọt được vào địa ngục đúng vào giờ ăn. Nhìn vào bàn ăn, anh ta không khỏi lấy làm lạ khi thấy trưng bày toàn sơn hào hải vị đang bốc khói hương ngào ngạt làm anh ta không khỏi nuốt nước bọt.
    Nhưng lúc các kiều dân địa ngục tiến vào phòng ăn, chàng ta lại càng ngạc nhiên hơn khi thấy họ ốm o gầy mòn, chỉ còn da bọc xương, vài người đi không muốn nổi. Sự kinh ngạc tan biến khi chàng phóng viên chứng kiến cảnh họ dùng bữa. Vì muỗng nĩa rất dài buộc dính vào đôi tay không cho phép họ đưa thức ăn vào miệng, nên dù họ có cố gắng thế nào đi nữa, thức ăn chỉ đổ tháo ra đầy bàn hay rơi tung tóe xuống mặt đất. Tệ hại hơn là cảnh họ tranh giành nhau: vài người dùng muỗng nĩa để thay vì đưa thức ăn vào miệng, lại biến chúng thành những khí giới đập đánh nhau. Thật là một bãi chiến trường. Khi chuông báo giờ ăn đã mãn, họ buồn phiền rời phòng ăn, dạ dày vẫn trống rỗng.
    Quá sợ hãi, chàng ký giả lập tức từ giã địa ngục để tiếp tục lên phóng sự trên thiên đàng. Ðến nơi cũng đúng vào giờ cơm. Bàn ăn cũng trưng bày những thức ăn ngon miệng. Quan sát nhân dân, chàng ta thấy ai nấy đều phương phi, khỏe mạnh, tuy đôi tay họ cũng được gắn chặt những muỗng nĩa rất dài. Có khác là thay vì họ cố gắng đưa thức ăn vào miệng mình, họ lại dùng muỗng nĩa để đút thức ăn cho nhau. Phòng ăn vang lên những giọng nói cười vui, thỏa mãn.
    Kết thúc bài phóng sự tường trình về những điều mắt thấy tai nghe, chàng ký giả viết: Ích kỷ và vị tha là hai điểm khác biệt giữa địa ngục và thiên đàng.
     
  6. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    27 Tháng Tư
    Kẻ Không Biết Sám Hối

    Ngày 03/4/1990, người tử tù Robert Alton Harris 37 tuổi đã bị đưa vào phòng hơi ngạt tại nhà tù San Quentin thuộc tiểu bang California bên Hoa Kỳ. Ðây là lần đầu tiên kể từ 23 năm nay, tiểu bang California tái lập bản án tử hình. Hiện nay, kể từ năm 1976, sau khi tối cao pháp viện Hoa Kỳ phán quyết án tử hình là hợp hiến, tiểu bang California là một trong năm tiểu bang tại Hoa Kỳ vẫn còn giữ bản án tử hình. Người ta tính có khoảng 2,200 người trên khắp nước Mỹ đang chờ sẽ được đưa lên ghế điện hoặc vào phòng hơi ngạt.
    Robert Harris là một kẻ giết người không biết gớm tay. Ngày 05/7/1978, sau khi đã mãn hạn tù hai năm vì đã đánh đập một người đến chết, Harris đã cùng với người em của mình định đến cướp một nhà băng tại San Diego. Ðể có phương tiện di chuyển, Harris đã chiếm chiếc xe của hai người thanh niên đang đậu trước một quán ăn. Anh ra lệnh cho hai người thanh niên lái xe đến một nơi vắng vẻ vàtại đây, anh đã rút súng sát hại họ một cách dã man. Sau khi đã hạ sát hai người thanh niên, Harris vẫn còn đủ ung dung và bình tĩnh để ăn cho hết cái bánh mà hai người thanh niên đang ăn dở... Bị bắt giữ sau đó, Harris đã không để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của ăn năn sám hối...
    Theo thủ tục hiện hành của Hoa Kỳ, từ lúc tuyên án cho đến lúc thi hành bản án, người tử tội thường được bảy năm để kháng cáo hoặc xin ân xá. Robert Alton Harris vẫn chưa để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của sợ sệt hoặc hối cải... Anh đã được dẫn vào phòng đầy hơi ngạt Cyanide. Chỉ trong vài phút đồng hồ, anh đã chết bằng đúng cái chết mà dường như anh đã tự chọn và chuẩn bị cho mình.
    Công lý và luật pháp của con người được xây dựng trên nguyên tắc: mắt đền mắt răng thế răng, hoặc tôi cho anh để tôi cho lại... Kẻ có tội luôn luôn phải bị trừng trị, nặng hay nhẹ tùy theo tội ác của người đó đã gây ra...
     
  7. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    Dân chúng Hoa Kỳ tuốn đến xem tượng Đức Mẹ Sầu Bi khóc tại Orlando Florida

    (VietCatholicNews 25/04/2007)
    http://www.vietcatholic.net/News/Html/43345.htm



    Orlando (CBS Broadcasting Inc) -
    [​IMG]Đức Mẹ khóc tại Orlando, FloridaMột tượng Đức Mẹ Sầu Bi to bằng người thật tại cửa hiệu Castle Designs ở Orlando, bang Florida đang thu hút mỗi ngày càng đông dân chúng Hoa Kỳ tuốn đến xem. Các hãng thông tấn, truyền hình tại Hoa Kỳ cũng đến đây thu thập hình ảnh và phỏng vấn các nhân chứng.

    Theo giám đốc điều hành cửa hiệu Castle Designs ở Orlando cho biết thì tượng này đã được chở từ Châu Âu sang từ 5 tuần lễ trước đây. Bức tượng phỏng theo tác phẩm Pieta do Michelangelo tạc vào năm 1499 đã được bày bán với giá 15,000 Mỹ Kim. Các nhân viên làm việc trong tiệm cho biết khi họ khui tượng từ trong thùng ra thì thấy bình thường. Tuy nhiên, cách đây vài ngày một người khách cho biết tượng đang khóc.

    Một dòng nước mắt chảy ra từ khoé mắt và lăn trên má Đức Mẹ có thể thấy thường xuyên. Dân chúng tuốn đến xem và nhiều người cầu nguyện trước bức tượng. Ông Les Roberts cho biết ông quyết định không bán bức tượng này nữa nhưng dâng tặng cho giáo phận Orlando.

    Cửa hiệu Castle Designs đã chăng giây thừng làm thành một khu vực dành cho những người đến chiêm ngắm và các chuyên gia đến khảo sát lý do tại sao có hiện tượng này.

    Trong khi đó phát ngôn viên giáo phận Orlando cho biết giáo phận chưa biết nên phản ứng ra sao, cũng chưa có kế hoạch điều tra hay chấp nhận sự dâng tặng của Castle Designs. Đức Cha Thomas Gerard Wenski, Giám Mục Orlando, Florida sẽ triệu tập một cuộc họp vào ngày mai để bàn bạc về vấn đề này. Thúy Dung
     
  8. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    30 Tháng Tư
    Tôi Xin Chấp Nhận

    Tại một bệnh viện trong thành phố Hiroshima bên Nhật Bản, một người đàn bà bị phóng xạ nguyên tử từ 30 năm qua đang lên cơn hấp hối.
    Bác sĩ chữa trị cho biết bà chỉ còn nhiều lắm là một hay vài giờ nữa là cùng. Theo thói quen tại Nhật Bản, người ta thông báo để người sắp chết cho biết ý muốn trong những giây phút cuối cùng.
    Bác sĩ vào phòng bệnh nhân và nói nhỏ với bà: "Akiramé".
    Người đàn bà ngước nhìn vị bác sĩ và dùng ngón tay trỏ viết vào trong lòng bàn trái của bà câu: "Akiramé", nghĩa là "Tôi xin chấp nhận".
    Với tất cả bình thản, người đàn bà đã biến những giờ phút hãi hùng nhất trong cuộc sống thành một biến cố tự nhiên và thanh thản.
    Cuộc sống của chúng ta dường như được cấu tạo bằng nhiều vị khác nhau: đắng cay, chua xót, ngọt bùi... Gia vị là một điều cần thiết cho thức ăn. Người không thích cay đắng thì sẽ xem trái ớt, hạt tiêu là kẻ thù của khẩu vị. Người thích cay đắng thì lại tìm ra mùi vị thơm ngon của nó.
    Hoa nào cũng có mật đắng. Nhưng loài ong khéo léo để chỉ hút mật ngọt.
    Thiên Chúa ban cho chúng ta một cuộc sống với muôn màu sắc và hương vị khác nhau. Chúng ta phải là loài ong đi tìm mật ngọt trong vườn hoa cuộc sống ấy. Nếu chỉ nhìn thấy mật đắng, chúng ta sẽ bỏ cuộc đầu hàng trong chán nản. Nếu biết biến báo, chúng ta có thể tìm được mật ngọt và biến những đắng cay chua xót thành mật ngọt và hương thơm.
    Sau khi đã đánh bại Ðức Quốc Xã và giải phóng Âu Châu, Churchill thủ tướng nước Anh đãtuyên bố: "Không gì buồn thảm cho bằng một chiến thắng". Cảnh thu dọn chiến trường, cảnh kẻ khóc người cười, cảnh vợ mất chồng, cảnh cha mẹ mất con cái... Chiến thắng ngự trị trên tro tàn, đổ nát.
    Dù vui với chiến thắng đến đâu, có ai mà không ngậm ngùi xót xa.
    Hôm nay 30 tháng tư, đánh dấu một trong những biến cố đau thương nhất của lịch sử dân tộc. Mỗi năm chúng ta có dịp ôn lại ngày lịch sử ấy.
     
  9. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    Hãy Gọi Tôi Là Sơ Nuôi Heo!
    Ở cái tuổi ngoài bảy mươi, có lẽ, trên đời này hiếm ai chọn cho mình "cách sống" bằng việc ngày ngày lặng lẽ chăm sóc, nuôi dưỡng những người nhiễm HIV ở giai đoạn cuối như bà…

    Sống là cho
    Mười năm trước, khi còn đang tu ở nhà dòng, bà gặp lại người chị gái sau bao năm lưu lạc. Niềm vui chưa trọn thì nỗi buồn đã ập đến, khi bà biết chị mình đã nhiễm căn bệnh thế kỷ ở giai đoạn cuối. Bà mang chị gái về chăm sóc, trong lúc cuộc sống của chị chỉ còn được tính bằng ngày. Đang lúc khổ nhất thì bà được người quen cho mượn mảnh đất với ba căn nhà lá lợp tạm để trú thân.
    Hàng ngày nhìn chị gái người ngợm lở loét, đau đớn, thương chị nên từ đó cái tâm của bà nhen nhóm ý định sẽ nhận chăm sóc những người nhiễm HIV. Đến khi tận mắt chứng kiến cái chết đớn đau, lặng lẽ của chị mình, thì cái dự định ban đầu ấy càng bùng lên mãnh liệt. Và bà quyết định xin ra khỏi nhà dòng. Người bạn trước kia cho chị em bà mượn nhà, nay cũng đồng ý cho bà tiếp tục mượn để làm chỗ nuôi người bệnh.
    Bà "nhặt" được bệnh nhân đầu tiên ngoài vỉa hè. Anh thanh niên ấy mới ngoài 20 tuổi, nhiễm HIV giai đoạn cuối. Về với bà chưa đầy ba bữa thì anh qua đời. Đêm hôm ấy, một mình trong căn nhà lá, dưới ánh nến lập lòe, cứ ngủ được nửa giấc, bà lại lần ra phía bờ tường thắp nhang cho anh.
    Bà tâm sự: "Chị (bà vẫn có thói quen xưng chị – PV) chẳng thấy sợ, chỉ thấy có gì đó bồn chồn. Cứ nghĩ đến cảnh cậu ấy chết lạnh một mình ở nhà ngoài, chị không yên được. Và thế là lại lọ mọ trở dậy thắp nhang, lòng mong trời mau sáng". Sáng hôm sau, một mình bà chạy vạy lo tang ma, chôn cất cho người thanh niên phận mỏng.
    Sau ngày ấy, tiếng lành đồn xa, có rất nhiều người đã tìm đến với bà. Người vô gia cư cũng có, người có gia đình nhưng bị ruồng bỏ cũng có. Nhiều người vì hoàn cảnh khó khăn, không đủ tiền nằm viện cũng đến. Có đợt cao điểm, bà nhận nuôi hơn 10 người. Và bà đã làm công việc đó, suốt 5 năm nay. Khó mà hình dung được sức quán xuyến của một phụ nữ ngoài bảy mươi khi hàng ngày, trên chiếc cúp 50 đã quá cũ, bà bươn bả khắp nơi mua cơm khô, nước gạo, thức ăn thừa về nuôi heo, nuôi gà – nguồn thu nhập chính của cả "đại gia đình".
    Cũng trên chiếc xe ấy, bà đèo tất tật những người bệnh, từ người già yếu đuối cho tới thanh niên sức rộng vai dài đến các bệnh viện, trung tâm phát thuốc miễn phí để xin thuốc hoặc khám định kỳ. Chính những ngày tháng rong ruổi đến khắp các trung tâm cũng giúp bà "lượm lặt" được không ít bệnh nhân đem về. Cô N.T.H. người quê Long An hiện đang ở nhờ nhà bà để chăm sóc cậu con trai mới ngoài 20 tuổi bị nhiễm HIV nói: "Không có sơ (soeur) giúp, chẳng biết mẹ con chị sẽ thế nào. Nhà chị nghèo lắm, lấy đâu ra tiền cho nó vào bệnh viện". Hai lần trong tuần, sơ lại chở hai mẹ con họ đến trung tâm khám bệnh, lấy thuốc.
    Người đàn bà đáng bị ném đá hay xứng được vinh danh ?
    "Nhà bà ấy thuộc phường 13, chứ nếu ở phường 11, tôi đã cho bà ấy "lên đường" từ lâu rồi !". Câu trả lời dứt khoát của ông Phạm Văn Hồng, trưởng ban điều hành khu phố 6, phường 11 quận Bình Thạnh – làm lòng tôi nhói lại. Ông cho biết căn nhà bà dùng để chăm sóc người bệnh vốn là một khoảnh đất nằm trong xóm lao động nghèo.
    Với những người dân lao động, phải ngày ngày đầu tắt mặt tối lo toan cơm áo, gạo, tiền, mà cuộc sống cũng chẳng hề dễ thở thì việc nhìn thấy bà cứ hết đưa người (chết) cửa trước, rước người (bệnh) cửa sau, khiến cho cuộc sống của họ "đã khó khăn lại càng thêm bất an, sợ hãi". Họ nhăn mặt mỗi khi thấy bà đem một người bệnh mới về, bịt mũi quay lưng khi bà đem một xác chết trở ra. Người ta đồn thổi bà đang "kiếm tiền" trên những xác chết. Người ta còn dọa ném đá vào bà !
    Tuy nhiên, theo bác sĩ Nguyễn Thanh Liêm, làm việc tại Trung tâm Tham vấn và xét nghiệm miễn phí số 53 Vũ Tùng quận Bình Thạnh – thì hiện nay có quá nhiều bệnh nhân cần được giúp đỡ nhưng chẳng phải ai cũng đủ điều kiện để đến các trung tâm nuôi người nhiễm HIV. Mặc dù biết sơ quá nghèo, không đủ điều kiện vật chất để chăm sóc người bệnh nhưng trung tâm vẫn giới thiệu họ đến với sơ. Và ông thực sự thấy "rất cảm kích trước một mạnh thường quân ít tiền nhưng giàu lòng thương người như bà ấy !".
    Khi tôi rụt rè mang những thắc mắc đó chêm vào giữa câu chuyện đang nói với bà, bà cười buồn: "Bây giờ, mỗi khi có bệnh nhân qua đời, chị phải lén lút gọi nhà hòm đến chuyển đi trong đêm. Hồi trong Tết, dồn dập trong vài ngày mà có đến 4 người "đi" khiến chị rối bời bời. Dạo này, chị không dám nhận nhiều bệnh. Chỉ những người cùng khổ, chị mới đem về. Người nào yếu quá, liệu bề không qua, chị phải chở tới nhà thương để nhỡ họ có chết cũng chết ngoài nhà, hàng xóm đỡ sợ khi thấy xác…".
    Tôi dừng lại, không dám hỏi thêm, sợ mình quá toan tính khi nghĩ về những điều nhân ái. Cuối cùng, thì bà cũng đã có "chiêu thức" để đối phó với những điều tiếng chung quanh mình (lòng tốt cũng phải ngụy trang – bài học mới thật là xót xa). Máu, mủ, lở loét của người bệnh, những xác chết chuyển âm thầm trong đêm, những chuyến xe chở nước cơm dư, một cái quần ống thấp ống cao, một buồng ngủ tuềnh toàng khai nồng mùi phân lợn (do đặt cạnh chuồng lợn) và sự tận hiến với đức tin. Đó là tất cả những gì mà bà có, cho mình. Nó cho phép tôi chữa lại ít nhiều lời đồn thổi về bà: không phải bà đang "kiếm sống" mà là "kiếm tìm lẽ sống" – một lẽ sống tốt đạo đẹp đời, đáng được nâng niu, trân trọng.
    ... Xuôi đường Phan Văn Trị, quận Bình Thạnh, rẽ vào ngõ chùa Giác Quan, hỏi thăm sơ nuôi heo, sẽ gặp một căn nhà không số, một ngõ phố không tên, một người đàn bà lặng lẽ không thích xưng danh mà chỉ nói: "Hãy gọi tôi là sơ nuôi heo !". Chúng tôi tôn trọng ý nguyện của bà. Đó là lý do trong cả bài viết, bà không hề được nêu tên.
    Thanh Dung - Mai Hương
    http://memaria.org/
     
  10. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    2 Tháng Năm
    Ðức Mẹ Guadalupe

    Dạo tháng 5/1990, Ðức Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho một người thổ dân Mehico tên là Juan Diego, người được Ðức mẹ hiện ra tại Guadalupe...
    Juan Diego là một người thổ dân nghèo sống với người cậu tại làng Telpetlao thuộc ngoại ô thủ đô Mehico vào khoảng thế kỷ 16. Một buổi sáng thứ bảy nọ, trên đường đi đến thánh đường để dự thánh lễ, Juan Diego bỗng nghe có tiếng hát du dương từ trên một ngọn đồi. Anh tiến lại gần và thấy một thiếu nữ xinh đẹp tự xưng là Trinh Nữ Maria. Ðức Mẹ nói với người thổ dân nghèo như sau: "Ta muốn có một đền thờ được dựng lên tại đây để Ta dùng tình thương, niềm cảm thông, sự giúp đỡ và bảo vệ của Ta mà bày tỏ Thiên Chúa cho loài người. Con hãy đi gặp vị giám mục Mehico và nói với Ngài rằng Ta sai con đến gặp Ngài để bày tỏ ý muốn của Ta. Con hãy tin tưởng rằng Ta sẽ biết ơn con và ân thưởng cho con. Ta sẽ làm cho con được giàu có và tôn vinh con".
    Juan đến gặp vị giám mục, nhưng anh ta buồn bã trở về làng, vì giám mục không tin lời của anh. Ðức mẹ lại hiện ra cho anh một lần nữa và cũng sai anh mang một sứ điệp như thế đến cho vị giám mục. Nhưng lần thứ hai, dù cho anh có van nài khóc lóc, vị giám mục vẫn một mực không tin. Vị giám mục nói với người thổ dân nghèo rằng: "Nếu Ðức Mẹ thực sự muốn điều đó thì xin Ngài hãybày tỏ một dấu lạ". Và ngài bí mật cho người theo dõi. Lần thứ ba, Ðức Mẹ lại hiện ra cho Juan Diego, nhưng Ngài bảo anh: "Hãy trở lại vào ngày mai và Ngài sẽ cho vị giám mục một dấu lạ".
    Ngày hôm sau, Juan Diego không thể đến điểm hẹn với Ðức Mẹ được vì anh còn phải đi tìm thầy thuốc cho người cậu đang mắc bệnh. Nhưng khi đi qua ngọn đồi, Juan vẫn được Ðức Mẹ hiện ra. Ngài bảo đảm với anh rằng người cậu của anh sẽ được lành bệnh và thay vì để Juan tiếp tục lên đường đi Mehico để tìm thầy thuốc, Ðức Mẹ đã sai anh đến nơi Ngài hiện ra cho anh lần đầu tiên. Tại đây, Ngài sẽ cho anh những cánh hoa thật đẹp và dấu lạ để mang đến cho vị giám mục... Lúc bấy giờ đang là mùa đông và ngọn đồi nơi Juan được Ðức Mẹ hiện ra thường chỉ có những cây cỏ của sa mạc như các loại gai và xương rồng. Thế nhưng, hôm đó, hoa bỗng nở rộ trong sa mạc. Juan hái lấy dâng cho Ðức Mẹ, Ðức Mẹ sờ đến những cánh hoa và bảo anh lấy chiếc áo choàng để đựng hoa mang đến cho vị giám mục...
    Khi Juan vừa mở chiếc áo choàng ra để lấy hoa cho vị giám mục xem thì lạ lùng thay, hình ảnh Ðức Mẹ đã được in trên chiếc áo của anh... Tin ở lời Ðức Mẹ, vị giám mục đã tức tốc lên đường đến làng Ðức Mẹ đã hiện ra cho anh Juan. Ngài nhận thấy người cậu của anh đã được lành bệnh. Các cuộc lành bệnh lạ lùng đã diễn ra từ đó... Một đền thánh dâng kính Ðức Mẹ đã được xây cất để rồi cuối cùng trở thành Vương cung thánh đường Guadalupe như chúng ta vẫn quen gọi.
    Trong thánh lễ tôn phong chân phước cho Juan Diego tại đền thánh Guadalupe ngay buổi chiều chủ nhật khi vừa đến Mehico, Ðức Gioan Phaolô II đã kêu gọi người dân Mehico hâm nóng lại tinh thần truyền giáo. Truyền giáo theo đúng nghĩa là được sai đi để mang sứ điệp đến cho người khác. Cũng giống như tất cả những ai được diễm phúc gặp Ðức Mẹ, chân phước Juan Diego đã được sai đi... Phải vất vả nhiều lần và dĩ nhiên, với sự giúp đỡ của Ðức mẹ, Juan Diego mới có thể thuyết phục được vị giám mục...
     
  11. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    3 Tháng Năm
    Ði Về Ðâu?

    Tiền tài danh vọng không làm cho con người hạnh phúc... Ðó là điều mà người ta thường nói khi bàn về cái chết của cô đào Marilin Monroe cách đây hơn hai chục năm... Nay, người ta cũng lặp lại điều đó với nữ danh ca Dalida, người Pháp gốc Ai Cập... Dalida đã tự vận vào hôm 03/5/1987 tại nhà riêng của cô ở Montmartre, Paris, lúc cô được 54 tuổi.
    Sinh năm 1933 tai Le Caire với tên thật là Yolande Gigliotti, đã trở nên một ca sĩ nổi tiếng và được hâm mộ trên khắp thế giới, kể cả ở Việt Nam, nhờ giọng ca đầy truyền cảm của cô. Những người thuộc thế hệ 50 và 60 không thể quên những bài "Bambino", "Gigi l'amorose"... do cô trình diễn. Danh vọng đã không đủ để thỏa mãn cô. Ngày 27/02/1967, cô đã thử một lần tự tử, rồi được cứu sống.
    Tự tử cũng là một thể hiện nỗi khao khát khôn cùng trong lòng người: đó là khao khát hạnh phúc. Khi cuộc đời này không còn là một đáp trả cho nõii khao khát ấy, nhiều người đã tự mình tìm đến cái chết như một giải thoát.
    Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội ngày nay phải chăng không là khủng hoảng về ý nghĩa của cuộc sống. Con người sinh ra để làm gì? Con người sẽ đi về đâu? Sau cái chết những gì đang thực sự chờ đợi con người... Ðó là những câu hỏi lớn mà con người ngày nay, khi đứng trước những mâu thuẫn trong cuộc sống, không ngừng đặt ra cho mình.
    Con người bởi đâu mà ra, con người sẽ đi về đâu? Ðó là ý nghĩa và giá trị của cuộc sống? Ðó là những câu hỏi mà chúng ta không ngừng tự đặt ra cho mình.
     
  12. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    4 Tháng Năm
    Xin Chúa Tha Thứ Cho Tôi

    Sau thời cách mạng Pháp, trước cửa một nhà thờ tại Balê, người ta thường thấy một người hành khất với một dáng vẻ lạ thường. Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng có thể nhìn thấy trên vòng cổ của người ăn xin một cây thánh giá nhỏ bằng vàng.
    Người khách quen thuộc nhất của người xấu số này là một vị linh mục trẻ. Vị linh mục thường đến dâng thánh lễ tại nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, ông không quên hỏi han và giúp đỡ người hành khất.
    Ngày nọ, vị linh mục trẻ không còn thấy người ăn xin lảng vảng trước cửa nhà thờ nữa. Lần mò hỏi thăm, vị linh mục đã tìm đến thăm người hành khất đang trong cơn rét run vì bệnh tật và đói ăn. Cảm động trước nghĩa cử của vị linh mục, ông ta đã kể lại cuộc đời của mình như sau: "Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồmg chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng tôi đã phản bội họ. Quân cách mạng tìm cách bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con của họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người con trai duy nhất là thoát khỏi".
    Nghe đến đây, vị linh mục như muốn té xỉu, nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để nghe tiếp câu chuyện của người hành khất: "Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái vật khát máu... Từ đó, tôi không thể nào có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu đi lang thang khắp các ngả đường để quên tội ác của mình. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh của gia đình họ trong túi áo này đây. Cây thánh giá tôi đang treo ở đầu giường là của người chồng, còn chiếc thánh giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của người vợ... Xin Chúa tha thứ cho tôi".
    Vừa nghe xong những dòng tâm sự và cũng là lời tự thú của người hành khất, vị linh mục trẻ đã quỳ gối xuống bên cạnh chiếc giường của người hấp hối và thay cho một công thức giải tội, ông đã nói như sau: "Tôi chính là người con trai còn sống sót trong gia đình. Ðại diện cho gia đình và với tư cách là một linh mục, tôi tha thứ cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần...".
    Câu chuyện tha thứ trên đây là một trong những mẩu chuyện đã và đang xảy ra ở mọi thời đại và mọi nơi. Giữa sa mạc cằn cỗi của lòng người, Thiên Chúa vẫn còn cho mọc lên những hoa trái của yêu thương, tha thứ. Tha thứ là vẻ đẹp thanh tú cao sang nhất của lòng người...
    Sự hiện diện của bà Muzeyen Agca tại Roma dạo tháng 02/1987 nhắc lại cho chúng ta một biến cố vô cùng đau thương, nhưng cũng gợi lại một nghĩa cử vô cùng cao quý của vị Cha chung. Ngày 13/5/1981, giữa lúc hàng ngàn người đang chen chúc tại công trường thánh Phêrô để chờ đón Ðức Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên từ đám đông đã làm cho mọi người như đứng tim. Ðức Thánh Cha đã gục ngã trên chiếc xe Jeep mui trần, máu me vọt lên tung téo. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị Giáo Hoàng bị mưu sát.
    Ali Agca, thủ phạm chính của vụ mưu sát, đã bị bắt giữ ngay sau đó. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này đã bị giam giữ tại nhà tù Rebibbia ở Roma. Biến cố đẫm máu trên đây đã ghi đậm sự thù hận đang sôi sục trong lòng người... Nhưng thế giới không chỉ được nung náu bằng lò lửa của hận thù. Thiên Chúa đã tạo dựng con người để yêu mến và tha thứ...
    Năm 1984, một biến cố khác đã làm chấn động dư luận thế giới: Ðức Gioan Phaolô II đã đích thân đến nhà giam Rebibbia để nói chuyện với Ali Agca và tha thứ cho anh. Không ai biết hai bên đã trao đổi những gì, nhưng ai cũng cảm động trước cảnh tượng kẻ sát nhân và người bị mưu sát đã bắt tay nhau và trao cho nhau ánh mắt của tha thứ, của hòa giải...
     
  13. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    Nước Mắt Mợ Tôi

    Nguyễn Duy-An

    Thời mới lớn, lúc còn học trung học ở Bình Giả, tôi nhìn tương đối cũng đẹp trai, học giỏi, chỉ phải cái tội con nhà nghèo! Ngược lại, mấy cô gái đẹp trong lớp chúng tôi toàn là con nhà giàu, học không khá nhưng lại rất kiêu kỳ, chẳng bao giờ thèm để mắt tới đám con trai cùng lớp chúng tôi vì lúc nào cũng có nhiều anh lớp lớn “trồng cây si” trước cổng trường và sẵn sàng đưa đón các nàng đi ăn chè hay ngoạn cảnh bằng xe Honda. Năm học lớp 10, trong dịp sinh hoạt ăn tất niên trước tết, tôi “mời mọc” đám con trai “xóm nhà lá” tổ chức thi hoa hậu để bình bầu thứ tự những người đẹp trong lớp, và kết quả là Thiên-Hương, một cô nàng “be bé xinh xinh với mái tóc thề buông nửa bờ vai” được chọn làm hoa khôi của lớp.

    Có lẽ vì cảm kích việc tôi đã tổ chức thi hoa hậu nên cả 5 cô đẹp nhất lớp bắt đầu chuyện trò thân mật với tôi từ sau tết năm đó, hoặc cũng có thể các nàng chỉ lợi dụng để xin quay cóp bài vở. Tuy nhiên, tôi chẳng quan tâm tìm hiểu xem lý do thực sự là gì, chỉ cần được trò chuyện với các hoa khôi mỗi ngày là tôi cũng mãn nguyện lắm rồi. Lúc bây giờ, mặc dầu đã lớn nhưng tôi chưa biết “ga lăng” như những anh chàng “hào hoa phong nhã” vẫn “trồng cây si” trước cổng trường nên lúc nào cũng gọi mấy người đẹp này theo kiểu “mày tao tôi tớ loạn xà ngầu” như vẫn gọi đám bạn trai cùng lớp.

    Sự việc các khoa khôi chuyện trò thường xuyên với tôi đã khiến một vài đứa bạn trai trong lớp khó chịu, và tình hình càng ngày càng rắc rối hơn khi tôi bị mấy “cây si” chặn đường đòi đánh. Khổ nhất là trong đám “cây si” đó lại có Tuấn, ông cậu họ của tôi nữa mới chết chứ! Ông ấy mang tiếng là cậu nhưng chỉ hơn tôi vài tuổi, người gầy gầy, da đen như củ súng, có thể nói là không đẹp trai và học hành cũng chỉ lằng nhằng đại khái vậy thôi. Tôi nghe đồn cậu Tuấn mê Thiên-Hương nhưng cũng chỉ dám đứng xa xa nhìn trộm chứ chưa được xơ múi gì. Phần vì sợ ông cậu về nhà mách mẹ, phần thì sợ “bị đòn hội chợ” nên cực chẳng đã tôi phải ép mình tránh xa những người đẹp trong lớp cho tới hết năm học.

    Mùa hè năm đó, một vị linh mục là bạn học cũ của bố tôi ghé thăm gia đình và nhận tôi làm con tinh thần. Ngài ngỏ ý muốn nuôi tôi ăn học để “chia bớt cảnh nghèo” với người bạn cũ. Không cần hỏi ý kiến của tôi và cũng chẳng cần thời gian để suy nghĩ, bố mẹ tôi đã đồng ý ngay lập tức vì “cho nó đi với cha, không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc!” Tôi đành âm thầm “ngậm đắng nuốt cay” giã từ trường xưa bạn cũ, theo ông cha đi ở trọ nhà thờ. Tôi vào trường mới, lớp mới, và quen thêm nhiều bạn mới nên dần dà cũng vơi bớt nỗi buồn xa quê.

    Vì đường sá xa xôi cách trở nên gần hai năm sau tôi mới về quê ăn tết với gia đình. Mấy ngày tết, bố mẹ sai tôi dẫn đứa em út đi “mừng tuổi” ông bà và anh em họ hàng vì tôi là con trưởng ở xa mới về. Lúc vào nhà ông Quân (em bà ngoại), tôi nhìn thấy Thiên-Hương đang nằm trên võng nên buột miệng hỏi:

    - Mi làm chi đây?

    Ông Quân ngồi bật dậy trên đi văng, quát lớn:

    [FONT=Times
    New Roman]- Cái thằng ni. Vô phép vô tắc. Mới đi xa vài năm đã quên hết tông ti họ hàng rồi à? Mợ mi đó.[/FONT]

    Tôi vòng tay lễ phép chào ông rồi quay sang nhìn Thiên-Hương đang uể oải níu giây võng đứng lên, sượng sùng đỏ mặt nhìn tôi mỉm cười nhưng hai bên khóe mắt hình như long lanh một vài giọt lệ. Tôi chỉ cúi đầu chào lại chứ không dám lên tiếng vì chưa biết phải xưng hô làm sao! Mợ cháu thì cả hai cùng ngượng nghịu, mi tau như thời còn học chung lớp thì ông lại nổi giận! Lợi dụng lúc ông Quân đang “lì xì” và hỏi chuyện đứa em gái, tôi liếc mắt trộm nhìn Thiên-Hương đang lệt bệt đi xuống bếp... Hình như nàng đang có bầu. Tôi hơi thất vọng vì hoa khôi của lớp tôi bây giờ chắc sẽ “dưới điểm trung bình” nếu phải thi lại!

    Mấy năm sau tôi trở về Bình Giả “hưởng thú điền viên” vì lý lịch không tốt nên thi mấy lần cũng không được nhận vào đại học và cũng chẳng kiếm được việc làm trên thành phố. Thỉnh thoảng tôi gặp mợ Hương trên đường và chúng tôi vẫn gọi nhau bằng tên hoặc có khi cũng “mi tau” như hồi còn học chung lớp.

    Rồi tôi xuống tầu vượt biển, tiếp tục học đại học, ra trường, đi làm và gầy dựng một gia đình mới nơi xứ lạ quê người. Đầu năm 1992 tôi nhận được tin gia đình cậu Tuấn mới qua định cư ở Denver, Colorado nhờ có ông anh vợ đi Mỹ từ năm 1975 bảo lãnh. Mặc dầu tôi và cậu Tuấn không mấy thân nhau, nhưng vì sống xa quê hương, anh em bà con chẳng được mấy người nên tôi vội vàng gọi điện thoại sang hỏi thăm và chúc mừng gia đình cậu mợ.

    Ông cậu tôi thuộc típ người “sáng, trưa, chiều, tối” mỗi buổi chỉ nói một hai câu nếu có ai hỏi chuyện, bằng không, ông ấy cứ “im như hến”, trừ khi đang ngồi trong bàn nhậu với anh em bạn bè. Do đó, vừa nghe tôi chào trong điện thoại, cậu Tuấn đã vội vàng bán cái: “Duy nói chuyện với mợ Hương nha. Cậu đang dở tay.

    Đúng là ông cậu cù lần không biết điều! Thiên-Hương và tôi là bạn học cùng lớp từ nhỏ, và từ ngày “cậu mợ” nên vợ thành chồng, tôi rất ngượng ngùng khi phải nói chuyện với nàng vì không biết xưng hô làm sao! Cũng may là chúng tôi ở xa nhau, chỉ nói chuyện qua điện thoại nên lại “mi tau” như thời còn học chung lớp. Sau khi kể chuyện anh em bà con bên nhà, ai còn ai mất, mợ tôi than vắn thở dài và sụt sùi khóc trong điện thoại vì cậu mợ phải bỏ bê 3 đứa nhỏ tự lo cho nhau, nhất là thằng út mới được 6 tuổi, để tìm kế mưu sinh, ban ngày theo người bà con đi cắt cỏ, chiều tối phụ việc trong nhà hàng.

    Sau lần đó tôi ít có dịp nói chuyện trực tiếp với cậu mợ Tuấn - Hương vì hầu như lần nào gọi điện thoại tôi cũng chỉ gặp mấy đứa nhỏ, kể cả ngày Chúa Nhật. Mấy đứa em họ càng ngày càng quên dần tiếng Việt và chúng nó cũng chẳng nhớ ra tôi là ai nên tôi càng thêm lơ là việc gọi điện thoại thăm hỏi. Rồi cậu mợ tôi dọn nhà, đổi số điện thoại…

    Cuối tháng 3 năm 2001, tôi nhận được điện thoại từ Việt Nam gọi qua báo tin đứa con trai đầu lòng của cậu Tuấn mới chết trong một tai nạn xe hơi chỉ vài tháng trước khi nó tốt nghiệp đại học. Tôi xin số điện thoại mới của cậu mợ để gọi qua chia buồn. Cậu Tuấn chỉ nói “cậu mợ buồn lắm Duy ơi” rồi sụt sùi trao điện thoại cho vợ. Khi nghe tiếng khóc nức nở của Thiên-Hương trên đường giây điện thoại, tôi đã phải cắn răng cắn lưỡi cố đè nén tiếng nấc, thỏ thẻ:

    - Mợ… Cháu xin lỗi!

    Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thực tâm gọi Thiên-Hương bằng “mợ” với tất cả tấm lòng và ân tình của một đứa cháu. Hơn một tiếng đồng hồ tôi lắng tai nghe mợ Hương dãi bày nỗi khổ tâm của một người mẹ khi mất đi đứa con trai đầu lòng. Tôi cảm nhận được thế nào là nỗi đau “đoạn trường” khi nghe mợ Hương than khóc, tiếc thương, và kể lể… Tôi nghe như lành lạnh ở vành tai vì bao nhiêu nước mắt của mợ Hương, lúc nức nở nghẹn nghào, lúc ào ạt tuôn trào, lúc dầm dề khắc khoải và hài hòa vào giọng nói đứt quãng của mợ vì nỗi đau khổ và tuyệt vọng khi mất đi “sợi giây nối kết tình yêu” của hai vợ chồng từ hơn 20 năm về trước.

    Từ đó, nhờ có điện thoại di động nên tôi có thể liên lạc với cậu mợ dễ dàng hơn. Tuy nhiên, ông cậu tôi vẫn như ngày trước, chỉ nói một hai câu rồi bảo “Duy gọi nói chuyện với mợ Hương đi. Mợ vẫn nhắc mi hoài đó…” Thỉnh thoảng tôi cũng gọi điện thoại cho mợ Hương nhưng không nói chuyện được lâu vì mợ ấy vẫn đi làm tối ngày sáng đêm, mỗi tuần bảy ngày vì mới khai trương tiệm phở. Thêm vào đó, lần nào mợ Hương cũng “than vắn thở dài” vì thằng lớn đã chết, hai đứa kia còn đi học; cậu mợ vẫn phải “đầu tắt mặt tối” vì công ăn việc làm, rồi lại sụt sùi vì “nuôi con khôn lớn, học sắp thành tài thì nó lại bỏ cha mẹ mà đi!” Mười lần như một, cú điện thoại nào cũng kết thúc bằng nước mắt của mợ nên tôi nản quá, càng ngày càng ít liên lạc.

    Gần cuối năm 2005, lúc qua Denver dự đám cưới một người quen, tôi đã đến ở nhà một người bạn thân chứ không ngủ nhà cậu mợ. Cậu tôi vẫn hành nghề cắt cỏ và lúc nào hết việc lại ra tiệm phở giúp vợ. Một buổi sáng, cậu Tuấn tới đón tôi về chơi “cho biết nhà cậu mợ”. Thật đúng là chỉ tới cho biết nhà vì mợ Hương đang ở ngoài tiệm phở, hai đứa em họ cũng không có nhà nên hai cậu cháu chúng tôi chỉ ngồi nhìn quanh phòng khách một lúc rồi ra tiệm phở chứ không biết nói chuyện gì. Lúc gặp nhau ở tiệm phở, Thiên-Hương vui vẻ khoe với mọi người rằng phải mất hơn 20 năm tôi mới gọi nàng bằng mợ xưng cháu một cách tự nhiên. Mợ Hương vui vẻ hạnh phúc hơn tôi tưởng, nhưng nét mặt của mợ vẫn làm sao ấy, hình như có một vài giọt lệ cứ “thập thò” hai bên khóe mắt và có thể trào ra bất cứ lúc nào.

    Vì công ăn việc làm tôi thường phải đi công tác xa nhà nên cũng không giữ liên lạc thường xuyên với cậu mợ. Đùng một cái, tôi nhận được hung tin đứa con trai út của cậu mợ chết vì băng đảng bắn nhau gì đó vào ngày 13 tháng 6 năm 2006. Tôi “tá hỏa tam tinh”, vội vàng gọi điện thoại cho cậu mợ. Mợ Hương khóc lóc năn nỉ tôi tìm cách trở về Denver cho kịp đám tang nhưng tôi không làm sao sắp xếp được chuyến bay vì đang đi công tác ở xa, và lúc tôi nhận được tin thì chỉ còn mười mấy tiếng đồng hồ nữa là tới giờ lễ an táng. Tôi biết cậu mợ tôi đau khổ nhiều lắm vì cả hai đứa con trai đều mất khi chúng nó mới chập chững bước vào đời!

    Cậu Tuấn càng ngày càng trở nên lầm lì ít nói. Mỗi khi tôi gọi điện thoại hỏi thăm, mợ Hương thường khóc nhiều hơn nói chuyện! Nhưng cũng có một lần mợ ấy bảo tôi: “Hồi mới sang Mỹ, mợ không tài nào hiểu được tại sao vợ cháu đang có công ăn việc làm ổn định lại bỏ ngang để ở nhà trông con, nhưng bây giờ thì mợ hiểu. Mợ thán phục sự can đảm của vợ cháu đã dám hy sinh ở nhà lo cho con cái; không như mợ, một người mẹ không nhận ra được điều con cái cần nhất là tình yêu thương và những giây phút gần gũi bên mẹ nên đã bỏ bê chúng nó. Mợ khổ tâm nhiều lắm Duy ơi!

    Rồi từ đó, thỉnh thoảng mợ Hương gọi điện thoại chia sẻ với tôi những tâm tình, những uẩn khúc trong lòng của một người mẹ đau khổ, và năn nỉ tôi viết lại chuyện cuộc đời của mợ để những người làm mẹ có thêm nghị lực mà hy sinh cho con cái trước khi mọi sự đã quá muộn màng! Mợ Hương muốn tôi dãi bày tất cả những tâm tình, những nỗi niềm uẩn khúc, những giờ phút lòng rối như tơ vò, đầu óc bưng bưng tưởng chừng như sắp vỡ tung ra từng mảnh, hay tim nhói lên từng hồi đau buốt và đêm từng đêm phải cắn răng nuốt từng tiếng nấc nhưng không làm sao ngăn chận được dòng lệ khóc thương vì đã không chu toàn bổn phận làm mẹ với hai người con trai đã mất như một lời thống hối ăn năn.

    Tháng Năm về, ngày lễ “Mother’s Day” sắp đến… Tôi tự nhủ bằng bất cứ giá nào cũng phải hoàn tất bài viết này để khỏi phụ lòng mợ Hương. Tôi đã cố gắng viết một vài lần, nhưng lần nào tôi cũng phải bỏ cuộc nửa chừng vì quá thương cảm cho hoàn cảnh của một người mẹ đã mất đi cả hai đứa con trai nơi xứ lạ quê người. Thêm vào đó, tôi không biết phải viết làm sao để diễn tả được hình ảnh một người mẹ đêm từng đêm vẫn nghe được những tiếng “gào thét trong câm nín” của đứa con trai vì người mẹ đã đang tâm từ chối không cho nó được một lần đưa mẹ đi mừng lễ “Mother’s Day”, và mấy tuần sau nó đã bị bắn chết vì giao du với bạn bè không tốt! Làm sao tôi lột tả được hình ảnh của một người mẹ giật mình tỉnh giấc trong đêm tối vì ác mộng, thức giấc mà toát mồ hôi lạnh! Tôi biết chắc chắn rằng ngày lễ “Mother’s Day” năm nay mợ Hương sẽ khóc nhiều lắm!

    Dịp lễ “Mother’s Day” năm 2006, mợ Hương đã ngạc nhiên thật nhiều khi lần đầu tiên đứa con trai út của mợ đã mua hoa, viết thiệp mang lên tiệm phở chúc mừng mẹ và ngỏ ý muốn đưa mẹ đi ăn mừng… Nhưng mợ Hương đã thẳng thừng từ chối vì hôm đó tiệm phở rất đông khách nên mợ ấy bận tối tăm mặt mày. Mợ đã gắt gỏng và rất khó chịu vì đứa con út, mặc dầu đã hơn 20 tuổi, cứ lò dò theo hỏi những câu vô nghĩa như một đứa trẻ mới tập nói, gặp chuyện gì cũng hỏi. Đứa con trai cứ lẩm bẩm xin mẹ đừng làm việc nhiều quá, phải tìm giờ nghỉ ngơi, đừng ăn nhiều đồ mỡ không tốt cho sức khỏe, và nhất là phải đi nhà thờ vào ngày Chúa Nhật… Mợ Hương nghe tai này bỏ qua tai kia, chỉ chú tâm lo công việc. Đứa con trai ôm “hug” mẹ rồi lủi thủi ra về! “Duy ơi, giờ này mợ mới thực sự cảm nhận được tâm trạng cô đơn và buồn tủi của nó lúc bỏ đi, nhưng tất cả đã quá muộn màng! Có người mẹ nào lại đang tâm từ chối tấm lòng hiếu thảo của con trai mình vào ngày lễ “Mother’s Day” như mợ không Duy? Mợ chỉ biết lo cho công việc mà không biết dành thì giờ cho các con. Bây giờ mợ hối hận nhiều lắm Duy ạ!

    Tuần trước, khi nói chuyện điện thoại, mợ Hương đã tâm sự với tôi:

    Ngày từ giã làng quê yêu dấu Bình Giả để sang Mỹ, mợ đã vui thật nhiều vì mợ tin rằng tương lai con cái sẽ tốt đẹp chứ không phải lớn lên trong nghèo khổ ở miền quê như thời chúng mình. Ngày ra đi, thằng út mới được 6 tuổi, lứa tuổi mới bắt đầu cắp sách đến trường; nhưng rồi vì “lạ nước, lạ cái” ở xứ người, cậu mợ đã lao mình vào công việc để mưu sinh, bỏ mặc chúng nó tự lo cho nhau nên em nó đã gặp phải nhiều bạn bè xấu. Rồi ngày tháng qua nhanh, nó trưởng thành lúc nào mợ cũng không biết, nó chơi với ai mợ cũng không hay. Ôi! Chính sự vô tâm của mợ đã đưa con cái tới chỗ chết. Giờ đây, khi mắt mợ đong đầy nước mắt hối hận thì con không còn nữa!

    Duy có biết không, khi chuẩn bị sinh thằng út, mặc dầu nghèo khổ, mợ cũng đã tằn tiện để tự tay mua sắm tã lót cũng như chiếc áo trắng tinh tuyền cho ngày nó được Rửa Tội ở Nhà Thờ. Rồi cũng chính mợ, hơn 20 năm sau đã tự mình chọn mua áo trắng để tẩm liệm xác con vô quan tài. Lòng mợ quặn đau như đứt từng khúc ruột Duy ơi! Mợ đã vô tình đến nỗi không dám hy sinh công việc một vài tiếng đồng hồ để cho con được một lần đưa mẹ đi nhà hàng mừng ngày lễ “Mother’s Day” năm 2006. Mợ có biết đâu rằng đó là lần cuối cùng mợ để vuột mất món quà quý hóa nhất trong đời của một người mẹ: Mợ đã đánh mất chính đứa con trai của mình! Duy ơi, mợ thú thật là ngoài chín tháng cưu mang trong dạ, không biết mợ đã dành riêng cho đứa con út được mấy ngày trọn vẹn tình mẹ con...???!!!

    Mợ đã buồn khổ, đã khóc than hối hận nhiều đêm vì đã không dành thì giờ cho con cái. Giờ đây, khi mợ cảm nhận được ý nghĩa đích thực của vai trò làm mẹ thì hai đứa con trai đều không còn nữa! Mợ không dám biện hộ cho lầm lỗi của mình, nhưng chỉ muốn chia sẻ tất cả nỗi lòng của mợ để Duy hiểu và thay mợ gióng lên một tiếng chuông cảnh tỉnh, cho dù chỉ là một người mẹ dám hy sinh thì giờ để gần gũi con mình, mợ cũng mãn nguyện lắm rồi!

    * * * * *

    Tôi vừa viết vừa nguyện ước cho các bà mẹ khi đọc những tâm tình này sẽ cảm nhận được rằng nhà cao cửa rộng, xe cộ hay tiền bạc cũng không thể sánh bằng những giây phút các con được gần bên mẹ. Mợ Hương của tôi muốn dùng chính cái chết của hai đứa con trai và những giọt nước mắt khóc thương suốt đêm ngày để gióng lên một tiếng chuông cảnh tỉnh cho những người làm mẹ biết hy sinh thì giờ gần gũi với con cái để sau này không phải từng đêm than khóc như mợ ấy bây giờ!

    Xin mợ đừng khóc nữa.

    Nguyễn Duy-An
    Mother’s Day 2007
     
  14. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    14 Tháng Năm
    Hương Vị Của Khói

    Ðể đả phá tính ích kỷ, người Ả Rập thường kể câu chuyện như sau:
    Tai một khu phố nọ, có không biết bao nhiêu cửa hàng ăn uống mọc lên. Hương vị bốc lên từ các cửa hàng này thu hút những người giàu lẫn kẻ nghèo. Những người giàu đến đây để thưởng thức những của ngon vật lạ, còn những người nghèo thì chỉ mong ăn được chút cơm thừa canh cặn hay cùng lắm là chỉ để hít thở được hương vị thơm ngon bốc lên từ các nhà bếp...
    Một hôm, có một người nghèo mon men đến một cửa hàng. Trên tay anh cầm một ổ bánh mì. Anh người nghèo này có ý nghĩ độc đáo: thay vì chầu chực hưởng phần ăn thừa của thực khách, anh bèn leo lên mái nhà, rồi ngồi cạnh ống khói của nhà bếp. Anh vừa nhai bánh mì vừa hít thở làn khói bốc ra từ nhà bếp, anh nhai ngấu nghiến ổ bánh mì mà tưởng tượng như mình đang thưởng thức những của ngon được dọn trên bàn thượng khách.
    Nhưng không may cho anh, vì hôm đó người chủ nhà hàng gặp nhiều rắc rối trong công việc làm ăn cho nên không có được bộ mặt vui tươi cho mấy. Thế là ông sai những người hầu bàn lôi cổ người ăn xin xuống khỏi mái nhà và yêu cầu trả tiền. Ông lý luận với người ăn xin như sau: "Khói bốc ra từ nhà bếp của ta không phải là khói chùa, nhà ngươi đã thưởng thức làn khói đầy hương vị đó, yêu cầu nhà ngươi trả tiền cho ta".
    Người ăn xin không chịu trả tiền. Nội vụ đã được đem ra trước tòa án. Quan đầu tỉnh phải nhức đầu vì vụ án này. Ông cho triệu tất các bực thức giả trong toàn tỉnh để giúp ông giải quyết vụ án. Những người này đưa ra hai ý kiến xem ra đều có lý cả: một bên nói rằng khói bốc ra từ cửa hàng, do đó nó là chủ hữu của ông chủ cửa hàng. Những người khác thì cho rằng khói cũng như không khí là của mọi người, thành ra người ăn xin có quyền hưởng mà không phải trả đồng xu nào.
    Sau khi đã bàn bạc và cân nhắc, quan đầu tỉnh mới đưa ra phán quyết như sau: "Người nghèo đã hưởng khói mà không đụng đến thức ăn, cho nên anh ta hãy lấy một đồng bạc, ra giữa công viên, gõ đồng bạc vào ghế đá, âm thanh của đồng bạc sẽ lan ra. Người chủ cửa hàng muốn đòi tiền của khói, ông hãy lắng nghe âm thanh ấy".
    Người kể câu chuyện ngụ ngôn trên đây có lẽ muốn nói với chúng ta rằng sự ích kỷ không mang lại cho chúng ta một lợi lộc nào.
    Nhưng sự ích kỷ không bao giờ mang tính chất trung lập. Nghĩa là khi tôi khép kín tâm hồn, khi tôi chỉ biết nghĩ đến mình, không những tôi làm cho người khác bớt hạnh phúc, mà chính tôi cũng chết đi một phần trong tôi. Tình liên đới không phải là một thứ xa xỉ phẩm được thêm vào tương quan giữa người với người hoặc như một thứ tô điểm phụ thuộc cho nhân cách của tôi, mà là đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi làm ngưòi. Tôi càng nên người hơn khi tôi sống cho tha nhân. Tôi càng trở nên phong phú hơn khi tôi trao ban...
     
  15. uyenuyen

    uyenuyen Guest

    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    Maủice Maertelinck cảnh báo chúng ta bằng một hình ảnh khêu gợi:

    Hãy tránh hành động như người gác đèn pha kia, như truyền thuyết kể lại, anh ta phân phát "dầu thắp đèn" cho những người nghèo hàng xóm, mà lẽ ra, phải dùng để soi sáng đại dương. Mọi tâm hồn, từ chốn sâu xa của nó, đều là người gác một chiếc đèn pha ít hay nhiều cần thiết.

    Một người Mẹ nghèo khổ nhất, đáng lẽ phải toàn tâm làm những bổn phận của người Mẹ, lại để cho mình bị não lòng, bị hút hết tâm chí, tự xóa bỏ bổn phận làm Mẹ, đem "dầu thắp đèn" đi cho những người nghèo: những đứa con của bà sẽ đau khổ suốt đời, vì tâm hồn người Mẹ không sáng suốt như lẽ ra phải có.

    Sức mạnh phi vật chất tỏa sáng lên trong tim ta phải rực sáng lên với chính nó trước tiên. Chỉ có như vậy, nó mới rực sáng lên được đối với người khác.

    Ngọn đèn của bạn dù nhỏ, cũng đừng bao giờ đem cho dầu thắp đèn đi, mà chỉ nên đem cho vầng sáng xung quanh của nó.
     
  16. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    29 Tháng Năm
    Ðỉnh Cao

    Ðỉnh Everest cao nhất thế giới của dãy Hy Mã Lạp Sơn như có một ma lực hấp dẫn những người leo núi thiện nghệ. Ai đã vướng vào môn thể thao leo núi xem đó như là một giấc mơ, nếu ngày nào đó họ đặt được chân trên đỉnh núi cao 8,880 thước, quanh năm phủ tuyết này, nhưng chỉ có một số ít người thực hiện được giấc mộng ấy và rất nhiều người đã bỏ mình dọc theo con đường lên đỉnh.
    Trên những con đường ấy, người ta thấy hai bia mộ ghi những dòng chữ sau đây: bia thứ nhất đề "Họ thấy được lần cuối cùng trong lúc gắng sức leo lên". Và bia thứ hai tưởng niệm một huấn đạo viên chỉ viết vỏn vẹn một câu "Ông ta chết trong lúc đang leo".
     
  17. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    30 Tháng Năm
    Một Chỗ Khủng Khiếp

    Câu chuyện xảy ra tại một nhà giam bên Liên Xô. Một cựu tù nhân, bà Arsenjeff, thuật lại một kinh nghiệm mắt thấy tai nghe diễn ra tại đó, nơi bà gọi là "Một chỗ khủng khiếp" như sau: Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi kề miệng vào tai tôi khẽ nói: chị biết mai là ngày gì không? Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp: "Mai là ngày lễ Phục Sinh".
    Nghe thế, tôi tự hỏi: "Lễ Phục Sinh đã đến rồi sao, lễ của niềm vui và hy vọng? Nhưng trong tù, niềm vui của chúng tôi đã héo úa và khô cằn. Còn niềm hy vọng?...". Tôi đi lại trong phòng và không dám suy nghĩ tiếp.
    Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề: "Ðức Kitô đã sống lại thật".

    Quá sức sửng sốt, các nhân viên trở nên bất động như những tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí, họ giận dữ lên án một diễn tiến không bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến gần phòng giam của chúng tôi. Rồi cửa phòng được mở tung. Hai nhân viên giận dữ hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan và hùng hổ túm lấy cô gái, lôi cô ta sền sệt ra khỏi phòng.
    Một tuần lễ sau, cô ta được thả về phòng giam, mặt cô ta xanh xao, người gầy đi thấy rõ. Qua tuần lễ Phục Sinh, người ta đã biệt giam cô vào một phòng không có lò sưởi, để cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ thân thể một con người họ cho là cuồng tín. Sau khi nằm yên tại một góc phòng hồi lâu, cô ta vẫy tay gọi tôi lại thều thào: "Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục Sinh trong trại giam. Những cái khác không quan trọng gì cho lắm". Nói xong cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh mắt cô vẫn lóe sáng lên như dạo nào.
     
  18. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    31 Tháng Năm
    Lòng Tốt Của Mẹ
    Dạy Con Muốn Tiếp Tục Sống

    George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.
    Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.

    Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: "Tại sao con lại chịu khó mất hằng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?".
    Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau: "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống".
     
  19. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    04 Tháng Sáu
    Bóng Tối

    Raoul Follereau đã thuật lại một câu chuyện về một người phong cùi như sau: Từ nhiều năm qua, ông ta sống chui rúc trong căn lều tối tăm của ông. Xa tránh ánh sáng, đôi mắt ông đã trở thành mù lòa. Bóng tối trên đôi mắt đã đành, ông còn tự giam hãm bóng tối của tâm hồn. Người đàn ông như đang tự chôn vùi mình trong chính đáy mồ của ông... Mỗi ngày, có một nữ tu đến để tẩy rửa và băng bó các vết thương cho ông. Ông chấp nhận cho người nữ tu săn sóc, vì nghĩ rằng ít nhất người nữ tu cũng nở được nụ cười mãn nguyện.
    Ngày tôi đến thăm, người nữ tu cho tôi biết rằng người đàn ông đã không bao giờ muốn ra khỏi căn lều tối tăm của mình... Tôi tiến lại gần con người khốn khổ ấy và đưa cánh tay ra mời mọc. Tôi nắm lấy cánh tay của ông và dìu ông đứng dậy. Chúng tôi ra khỏi căn lều tăm tối.. Vừa đến bên cánh cửa nơi ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, người đàn ông dã có một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được. Ra khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, ông hô lên một tiếng kêu lớn: "Tôi thấy!"
    Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ụp phủ xuống trên cuộc đời, thì đây là lần đầu tiên, người bệnh mới cảm nhận thực sự có ánh sáng xung quanh mình. Lấy tất cả sức lực còn lại, người đàn ông thét lên với cây cỏ, với núi non, với trời cao, với tất cả mọi người: Tôi thấy! Tôi thấy!
    Có những người tự giam mình trong bóng tối. Có những người bị người khác đầy ải vào trong bóng tối...
    Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không biết bao nhiêu người vào trong bóng tối. Một cuộc sống thiếu chứng tá, một khước từ giúp đỡ: đó có thể là những hành động xô đẩy người khác rơi vào bóng tối, chúng ta cũng tự giam mình vào bóng tối hay giảm bớt cường độ ánh sáng trong chúng ta...
    Hãy chiếu ánh sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng, một lờ nói nâng đỡ ủi an, một nụ cười thông cảm, một bàn tay đưa ra để dìu dắt, để đồng hành: đó là bao nhiêu việc làm của ánh sáng mà bao nhiêu người đang chờ đợi nơi chúng ta. Và chúng ta cũng tin rằng, một ánh lửa càng được chia sẻ, thì càng sáng lên...
     
  20. Toc'Ma^y

    Toc'Ma^y New Member

    Tham gia ngày:
    10 Tháng chín 2006
    Bài viết:
    475
    Điểm thành tích:
    0
    Ðề: LU*O*NG THU*C. HANG` NGAY`(le~ so^ng')

    05 Tháng Sáu
    Hãy Cho Một Nụ Cười

    Một bệnh nhân nọ được đưa vào một bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều trị trong một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác trong một phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc. Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các bệnh nhân khác.
    Không chịu đựng nổi trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ trách. Anh trình như sau: "Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không đau yếu như tôi".
    Vị phụ trách mỉm cười đáp: "Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết, một bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không tin".
    Người đàn ông muốn biết bí quyết ấy. Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu. Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên... Ngài giải thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân ở đây. Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau. Hòn đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ thường sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp hối".
     

Chia sẻ trang này